Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

SKKN MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG VIỆC GIÚP ĐỠ HỌC SINH YẾU LỚP 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.32 KB, 9 trang )

ỘT SỐ KINH NGHIỆM
TRONG VIỆC GIÚP ĐỠ HỌC SINH YẾU LỚP 5.


A/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
I. LÍ DO:
Một thực trạng là càng ngày tính đa dạng về trình độ học sinh trong các
lớp càng tăng. Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho học sinh khai thác tối
đa bài giảng của thầy, nhất là đối với học sinh yếu. Ở các em có sự khác biệt
về: khả năng tiếp thu bài, phong cách nhận thức, sức khoẻ… so với những
học sinh khác. Cần xem xét những học sinh này với những đặc điểm vốn có
của các em để tìm ra những biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến kết quả
tối đa, tránh cho các em bị rơi vào những khó khăn thường trực trong học tập.
Đó chính là điều mà tôi muốn trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ đồng
nghiệp để giúp đỡ đối tượng học sinh yếu.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1. Thuận lợi:
a. Giáo viên:
- Nhà trường luôn tạo điều kiện cho công tác thay sách đạt kết quả tốt, đội
ngũ giáo viên được học chương trình mới, phương pháp dạy học mới ngay từ
đợt đầu. Có tay nghề, có đầy đủ sách giáo khoa, sách hướng dẫn và được học
về sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại. Đội ngũ giáo viên yêu nghề, có
năng lực sư phạm.
- Đội ngũ giáo viên khối nhiệt tình, thân thiện luôn quan tâm đến từng đối
tượng học sinh đặc biệt là học sinh yếu. Sự quan tâm, phối hợp của Ban Giám
Hiệu và Đoàn thể nhà trường.
b. Học sinh:
- Học sinh đã quen với cách học mới từ lớp 1,2,3,4 nên các em đã biết
cách lĩnh hội và luyện tập thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Sự quan tâm của phụ huynh học sinh cũng góp phần nâng cao chất lượng
môn học nói riêng và môn Toán, Tiếng Việt nói chung.


- Đối với học sinh lớp 5 là lớp cuối cấp của bậc tiểu học nên ý thức, động
cơ học tập tương đối cao.
- Học sinh lớp 5 có thể tiếp nhận sự giúp đỡ trong học tập từ nhiều phía.
Trong đó, bạn học với vai trò “ Đôi bạn cùng tiến” đã giúp các học sinh yếu
giảm bớt phần nào khó khăn trong học tập.
2. khó khăn:
a. Giáo viên:
- Do đặc điểm của nhà trường có hai điểm trường nên việc thăm lớp dự
giờ học hỏi chuyên môn của mình, của đồng nghiệp còn hạn chế. Trình độ
giáo viên chưa đồng đều đôi lúc còn giảng dạy theo phương pháp cũ. Nên
việc phân chia thời lượng lên lớp ở mỗi môn dạy đôi lúc còn dàn trải, hoạt
động của thầy – trò có lúc thiếu nhịp nhàng.
b. Học sinh:
- Như đã nêu, đối tượng học sinh yếu có những khác biệt. Và hơn thế nữa,
trong từng cá nhân của đối tượng này cũng là sự khác biệt về phong cách
nhận thức.Vì vậy, mỗi dạng đối tượng cần có sự tác động khác nhau.
- Theo qui định về đánh giá xếp loại học sinh hiện nay, một môn học xếp
loại yếu khi điểm học lực môn đạt dưới 5. Nhưng trong thực tế, những học
sinh yếu môn Toán , Tiếng Việt thì những môn học khác cũng bị ảnh hưởng.
Điều này đòi hỏi sự nỗ lực kiên trì của thầy và trò rất cao.
- Đối tượng học sinh yếu thường là những em có hoàn cảnh khó khăn về
kinh tế, cha mẹ ly hôn, cuộc sống không ổn định.
- Mặt bằng nhận thức các em còn chênh lệch nên việc tiếp thu, cảm nhận
của các em còn nhiều hạn chế.
- Bên cạnh đó là học sinh với lối tư duy cụ thể, một số phụ huynh chưa
thật sự quan tâm đến con em mình, còn có quan điểm “trăm sự nhờ nhà
trường”, cũng làm ảnh hưởng đến chất lương học tập bộ môn.
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. NỘI DUNG NHỮNG BIỆN PHÁP:
Trong phạm vi của bài viết, tôi chỉ đề cập đến biện pháp giúp đỡ học sinh

yếu ở hai môn công cụ : Toán và Tiếng Việt.
1.1 Những biện pháp chung:
- Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu
quả cao.
* Ví dụ:
- Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi,
cảm giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học
tập, trong cuộc sống.
- Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh yếu đúng với những đặc
điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc điểm
chung và riêng của từng em.
* Ví dụ:
+ Sức khoẻ kém.
+ Khả năng tiếp thu bài của học sinh.
+ Lười học.
+ Thiếu tự tin, nhút nhát…
- Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy
phong cách nhận thức. Vì vậy hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu
sự đa dạng của các chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư
phạm thông qua đặc trưng này.
- Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề
ra nhằm tạo điều kiện cho các em được củng cố và luyện tập phù hợp.
* Ví dụ:
 Bài: Giải toán về tỉ số phần trăm ( Toán – lớp 5 ).
Mục tiêu:
+ Biết cách tìm tỉ số phần trăm của hai số.
+ Vận dụng giải các bài toán đơn giản có nội dung tìm tỉ số phần trăm của
hai số đó.
+ Củng cố phép chia, nhân nhẩm 100 ( đối với học sinh yếu )
- Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành

cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện
cho các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm
được vị trí đích thực của mình trong tập thể.
* Ví dụ:
+ Yêu cầu luyện tập của một tiết là 4 bài tập, các em này có thể hoàn thành
1, 2 hoặc 3 bài tuỳ theo khả năng của các em.
- Giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực.
* Ví dụ:
+ Thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm mà em hoàn
thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em.
+ Dùng các phiếu thưởng có in các lời khen phù hợp với từng việc làm của
các em như: “ Biết giúp đỡ người khác”, “ Thái độ nhiệt tình và tích cực”…
- Tổ chức phụ đạo cho những học sinh yếu khi các biện pháp giúp đỡ trên
lớp chưa mang lại hiệu quả cao.
* Ví dụ:
+ Tổ chức phụ đạo từ 1 đến 2 buổi trong một tuần.
+ Việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp với hình thức vui chơi nhằm lôi cuốn
các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải, nặng nề.
1.2 Những biện pháp cụ thể:
a. Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Tiếng Việt:
+ Tập đọc:
- Khả năng đọc trôi chảy, đọc hiểu và cảm thụ một tác phẩm, một văn bản
còn hạn chế.
+ Chính tả:
- Mắc nhiều lỗi do chưa hiểu nghĩa của từ, một số mắc lỗi do phát âm chưa
đúng.
+ Luyện từ và câu:
- Vốn từ vựng ít, thường mắc lỗi về ngữ pháp khi viết câu.
+ Tập làm văn:
- Khả năng đọc viết hạn chế ảnh hưởng nhiều khi diễn đạt bằng lời, diễn

đạt khi viết. Hơn nữa, hoàn cảnh sống làm hạn chế khả năng hiểu biết của các
em. Vì vậy, các em gặp khó khăn khi cần mở rộng hiểu biết về cuộc sống
theo các chủ điểm đã học thông qua các kỹ năng như: phân tích đề, tìm ý ,
quan sát, viết đoạn.
* Biện pháp:
+ Tập đọc:
- Tạo điều kiện cho học sinh được đọc nhiều trong giờ tập đọc như: luyện
phát âm đúng, luyện đọc câu dài, đọc trôi chảy, đọc trước lớp, đọc trong
nhóm.
- Giúp học sinh mở rộng vốn từ và hiểu nghĩa từ qua việc đọc chú giải và
nghe bạn trình bày nghĩa một số từ trong bài đọc, từ đó giúp các em hiểu nội
dung bài đọc.
+ Chính tả:
- Luyện viết từ khó nhiều lần, nhiều từ.
- Các em có thể chọn từ để luyện viết thêm.
- Đối với chính tả nhớ viết , các em này thường nhớ rất ít so với yêu cầu
nên có thể chấp nhận em viết đến hết phần nhớ được nhưng khuyến khích
viết đúng chính tả.
+ Luyện từ và câu:
- Sửa lỗi ngữ pháp trong câu cụ thể, trong giao tiếp hàng ngày.
- Hướng dẫn các em tra từ điển, tạo cơ hội cho các em được tra nhiều từ
nhằm giúp các em hiểu nghĩa gốc của từ, tạo sự ham thích tìm hiểu.
+ Tập làm văn:
- Nhận dạng thể loại, sửa phần tìm ý, viết đoạn.
- Giáo viên chỉ ra lỗi cụ thể trên bài làm của học sinh.
- Học sinh tự viết lại.
- Cần tạo điều kiện để các em nhận xét bài của bạn, ghi chép lại ý hay nếu
thích. Khuyến khích các em trình bày bài viết trước lớp.
- Gợi mở, tạo hứng thú cho các em bằng cách thay đổi những đề bài tập
làm văn thành những tình huống, nhằm tạo ra cho các em một hoàn cảnh giao

tiếp. Nhờ có hoàn cảnh giao tiếp, các em dễ bày tỏ suy nghĩ của mình hơn.
* Ví dụ:
Với đề bài : Tả cơn mưa ( Sách Tiếng Việt lớp 5 – tập 1 )
+ Giáo viên có thể chuyển thành tình huống: Trường em tổ chức “ Lễ hội
trăng rằm”,tất cả đã sẵn sàng nhưng cơn mưa chợt đến. Em hãy tả lại cơn
mưa đó.
+ Giáo viên có thể gợi mở thành nhiều tình huống khác nhau nhằm gây
hứng thú, cảm xúc, sự quan tâm ở các em để giúp các em hình dung ra điều
mình sẽ tả.
b. Tìm hiểu những hạn chế của học sinh trong bộ môn Toán:
- Khả năng tính nhẩm kém do cộng, trừ, nhân, chia trong bảng chưa thuần
thục dẫn đến tính toán chậm, thiếu chính xác khi thực hiện các phép tính
cộng, trừ có nhớ và nhân, chia ngoài bảng.
- Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, không biết tính, lười tính
và thường chọn kết quả theo cảm tính.
- Sợ các bài tập về giải toán, vì:
+ Ảnh hưởng bởi khả năng đọc hiểu.
+ Ảnh hưởng bởi tính toán chậm, thiếu chính xác.
* Biện pháp:
- Chú trọng vào việc giúp các em thành thạo 4 phép tính mức độ đơn giản .
- Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú khi làm đúng những bài toán
cơ bản.
- Động viên, giúp đỡ các em hoàn thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp.
- Nâng dần mức độ luyện tập theo khả năng từng em.
- Trên lớp, bạn học hoặc giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những khó
khăn thường trực, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn, thầy giúp
đỡ khi cần.
- Khuyến khích tự rèn ở nhà vào vở bài tập đối với các dạng bài thường sai,
xem trước bài mới.
- Giáo viên cần có sự kiểm tra việc rèn ở nhà qua vở bài tập để có hướng

khắc phục và động viên kịp thời.

*Tóm lại:
Ngoài những giải pháp nhằm cải thiện kết quả học tập của học sinh yếu,
biện pháp lâu dài là tạo ra sự hứng thú trong quá trình học tập. Thông qua
những phương pháp dạy học tích cực, người thầy phải chuyển yêu cầu học
tập thành nhu cầu vì nguồn gốc của tính tích cực, sự hứng thú là nhu cầu. Khi
học sinh có nhu cầu thì tự các em sẽ tìm kiếm tri thức. Đó chính là khả năng
tự học.
C. KẾT QUẢ ỨNG DỤNG PHỔ BIẾN:
1. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
- Qua quá trình vừa nghiên cứu chuyên đề này, vừa áp dụng vào thực tế
trong giảng dạy, tôi nhận thấy rằng, khi áp dụng những phương pháp dạy học
trên đã có những kết quả đáng mừng. Năm học 2010-2011, tôi được nhà
trường phân công và trực tiếp giảng dạy lớp 5D có 25 em học sinh, kết quả cụ
thể điểm môn Toán, Tiếng Việt qua từng thời kỳ như sau:
Môn Toán

Thời
điểm
Số HS
kiểm tra
Điểm
9-10 7-8 6-5 Dưới trung bình
SL TL SL TL SL TL SL TL
GHKI 25 4 16,00 5 20,00 10 40,00 6 24,00
CHKI 25 5 20,00 7 28,00 9 36,00 4 16,00
GHKII 25 7 28,00 8 32,00 9 36,00 1 4,00
CHKII 25 8 32,00 9 36,00 8 32,00 0









Môn Tiếng Việt

Thời
điểm
Số HS kiểm
tra
Điểm
9-10 7-8 6-5 Dưới trung bình
SL TL SL TL SL TL SL TL
GHKI 25 3 12,00 6 24,00 11 44,00 5 20,00
CHKI 25 5 20,00 7 28,00 10 40,00 3 12,00
GHKII 25 7 28,00 9 36,00 9 36,00 0
CHKII 25 8 32,00 10 40,00 7 28,00 0








- Chúng tôi đã thảo luận trong tổ nhóm vào những buổi sinh hoạt chuyên
môn để tìm ra cách giảng dạy phù hợp với nhận thức của học sinh nhằm giúp

học sinh nắm bắt bài tốt hơn, nâng cao chất lượng hiệu quả bộ môn.
+ Kết quả khảo sát cho thấy chất lượng của học sinh đã được nâng lên rõ
rệt. Cụ thể, trong bài làm của học sinh các em đã hiểu được và phân biệt được
từ rõ rệt, các dạng toán và các dạng từ loại, biết sử dụng từ loại trong đặt câu
và viết văn.
+Kết quả trên đã chứng minh được chuyên đề của tôi đã có hiệu quả, đi
đúng theo sực chỉ đạo của nhà trường và của ngành đề ra. Cho đến nay chúng
tôi vẫn tiếp tục thực hiện và phát huy những mặt đã đạt được, khắc phục
những mặt còn tồn đọng để nâng cao chất lượng dạy học hơn nữa.
2. KẾT LUẬN:
- Giúp đỡ học sinh yếu là nghĩa vụ, trách nhiệm của người thầy. Hãy làm
hết trách nhiệm bằng cái tâm của người thầy và hãy nhận lấy trách nhiệm về
mình.
- Đối với người giáo viên tiểu học, vấn đề quan trọng là không chỉ truyền
thụ cho học sinh những tri thức Toán, Tiếng Việt mà còn phải tìm cách để học
sinh lĩnh hội tri thức một cách toàn diện, đó chính là phương pháp học. Nếu
không có phương pháp học đúng thì người học sẽ rơi vào tình trạng học vẹt
theo một cách máy móc, nhắc lại kiến thức bài học mà không hiểu hoặc hiểu
một các máy móc mơ hồ, nhanh quên.
Trong hoạt động dạy học, người giáo viên ngoài việc tìm tòi phương pháp
học đúng để lĩnh hội tri thức mới hình thành nên kỹ năng, kỹ xảo từ đó hoàn
thành nhiệm vụ dạy học cho những học sinh yếu kém.
Trong quá trình thực hiện kinh nghiệm: “ Vận dụng sự đổi mới công tác
dạy và học trong việc giúp đỡ học sinh yếu”. Tôi đã tham khảo các tài liệu dạy
học của môn học cũng như học hỏi bạn bè đồng nghiệp, kinh nghiệm này đã
hoàn chỉnh và đã dạy thực nghiệm. Trong khi thực hiện kinh nghiệm này cũng
không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của
các đồng chí lãnh đạo cũng như các bạn bè đồng nghiệp để sáng kiến kinh
nghiệm của tôi có tính khả thi hơn.


Năm Căn, ngày 10 tháng 12 năm
2011
Người viết


Lê Văn Huấn
<<= | <= | =>

×