Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

skkn sử DỤNG PHƯƠNG TIỆN TRỰC QUAN TRONG dạy học LỊCH sử để PHÁT HUY TÍNH TÍCH cực của học SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.92 KB, 14 trang )

SKKN

Phạm Thị Ngọc Hân

ĐỀ TÀI: SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN TRỰC QUAN TRONG DẠY HỌC
LỊCH SỬ ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH.
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1- Cơ sở lý luận:
- Lịch sử là một môn khoa học có vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục
phổ thông. Các giáo viên giảng dạy lịch sử cần có phương pháp giảng dạy hợp lí
nhằm giúp học sinh tiếp thu một cách tốt nhất các kiến thức lịch sử.
- Một trong những nội dung hết sức quan trọng trong đổi mới phương pháp
dạy- học lịch sử hiện nay là giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác kênh hình trong
SGK một cách có hiệu quả bởi vì hệ thống kênh hình trong SGK là phương tiện
trực quan có vai trò rất quan trọng, nó nhằm tái tạo, bổ sung, khắc sâu nội dung cho
kênh chữ, giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách trọn vẹn, ngoài ra còn là một
trong những phương tiện quan trọng nhằm tạo biểu tượng, phát huy tính tích cực
của học sinh trong học tập.
- Từ sự phân tích trên, tôi cho rằng vấn đề sử dụng phương tiện trực quan
nhằm phát huy tính tích cực của học sinh có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao
chất lượng dạy học Lịch sử.
2- Cơ sở thực tiễn:
- Trong tình hình đổi mới hiện nay, với việc triển khai thay SGK bậc THCS
đang được tiến hành thì việc đổi mới phương pháp dạy- học, sử dụng lược đồ,tranh
ảnh lịch sử để khai thác kiến thức là vấn đề không thể phủ nhận.
- Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy ở nhiều trường THCS, giáo viên vẫn
chưa sử dụng triệt để phương tiện trực quan trong đó có kênh hình trong SGK, vẫn
còn nặng về thuyết trình kiến thức, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh
khi sử dụng. Sở dĩ có điều đó là do nhiều nguyên nhân:
+ Bản đồ, lược đồ, tranh, ảnh lịch sử còn thiếu, chưa phục vụ đầy đủ bài dạy.


+Chưa có những tài liệu hướng dẫn sử dụng kênh hình SGK, giáo viên còn
phải tự nghiên cứu.
+ Giáo viên chưa hiểu hết tầm quan trọng của bản đồ, lược đồ,tranh, ảnh lịch
sử.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn nói trên, thấy rõ tầm quan trọng của hệ thống
kênh hình trong SGK, tôi thấy: Mỗi giáo viên cần phải xác định cho mình những
biện pháp để sử dụng phương tiện trực quan một cách hiệu quả nhất là kênh hình
trong SGK để phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Về lí luận và thực tiễn, việc phát huy tính tích cực của học sinh trong việc sử
dụng phương tiện trực quan trong học tập môn lịch sử ở THCS là điều cần thiết và
quan trọng để nâng cao hiệu quả giáo dục. Đó chính là mục đích để nghiên cứu đề
tài này.
1


SKKN

Phạm Thị Ngọc Hân

III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện bài viết này, tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ
yếu sau:
- Nghiên cứu lý thuyết.
- Quan sát sư phạm.
- Thực nghiệm sư phạm.
- Phương pháp thống kê.
IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
- Đối tượng nghiên cứu: Phương tiện trực quan chương trình Lịch sử lớp
6,7,8,9 .

- Phạm vi: do điều kiện thời gian và cơ sở vật chất có hạn, ở đề tài này tôi xin
trình bày một số biện pháp khai thác phương tiện trực quan môn lịch sử 6,7,8,9.
V. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
- Thực hiện trong năm học 2011-2012
- Khảo sát một tiết dạy có sử dụng phương tiện trực quan và một tiết không
sử dụng phương tiện trực quan, lấy kết quả chia tỉ lệ phần trăm.

B. PHẦN NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN
Nhận thấy rõ tầm quan trọng của hệ thống kênh hình trong dạy- học lịch sử,
bản thân tôi là một giáo viên bộ môn Lịch sử ở trường THCS, trực tiếp giảng dạy
chương trình Lịch sử ở THCS tôi luôn suy nghĩ và xác định cho mình phải làm thế
nào để khai thác có hiệu quả phương tiện trực quan trong đó có hệ thống kênh hình
trong SGK theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đối với học sinh THCS và mục tiêu giáo dục
đặt ra ở đây là các em phải nắm được những kiến thức cơ bản nhất lịch sử dân tộc
cũng như lịch sử thế giới được xuyên suốt từ lớp 6 đến lớp 9. Các em phải được rèn
luyện ở mức độ cao hơn khả năng tự học, tự nhận thức và hành động cũng như có
những tìm tòi trong tư duy,sáng taọ.
So sánh kiểu dạy học truyền thống và phương pháp dạy học nhằm phát huy
tính tích cực của học sinh thông qua việc tiếp cận, làm việc với phương tiện trực
quan chúng ta thấy rõ những điều khác biệt cơ bản trong quá trình dạy và học. Tuy
nhiên nó đòi hỏi giáo viên và học sinh phải được “Tích cực hoá’’ trong quá trình
dạy- học, phải chủ động sáng tạo. Muốn đạt được điều đó giáo viên cần áp dụng
nhiều phương pháp dạy - học trong đó có phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan.
Cần phải tiếp thu những điểm cơ bản có tính nguyên tắc của cách dạy truyền thống
song phải luôn luôn đổi mới, làm một cuộc cách mạng trong người dạy và người
học để khắc phục sự bảo thủ, thụ động như: giáo viên chỉ chuẩn bị giảng những
2



SKKN

Phạm Thị Ngọc Hân

điều học sinh dễ nhớ, học sinh chỉ chú trọng ghi lời giảng của giáo viên và kiến
thức trong sách để trình bày lại khi kiểm tra.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Thực tiễn của việc dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong trường
THCS hiện nay: trong vài năm gần đây, bộ môn lịch sử trong trường THCS đã
được chú trọng hơn trước. Điều đó được thể hiện ở chỗ môn lịch sử được xếp
ngang hàng với các môn khác như Toán, Lí , Hoá… được tổ chức thi học kì cũng
được thi tập trung theo lịch và đề của phòng giáo dục, việc ra đề cũng được chú
trọng hơn, việc thi tuyển học sinh giỏi các cấp được tổ chức thường xuyên với quy
mô lớn. Cung cấp thêm các trang thiết bị và tài liệu tham khảo phục vụ cho việc
dạy và học nhưng chất lượng vẫn chưa cao.
Tuy nhiên qua nhiều năm giảng dạy bộ môn này tôi thấy rằng việc dạy học
môn lịch sử hiện nay vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, nhưng trở ngại nhất là việc
phát huy tính tích cực của học sinh trong việc quan sát, sử dụng đồ dùng trực quan,
tuy đã được tập huấn và dự chuyên đề thường xuyên nhưng chất lương thì chưa
cao, chưa đáp ứng được nhu cầu giáo dục và mục tiêu đào tạo đặt ra của môn học.
Thực trạng của vấn đề này có thể giải thích ở những nguyên nhân cơ bản sau
đây:
- Học sinh vẫn cho môn lịch sử là môn phụ.
-Về cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập tuy đã được đầu tư nhưng
vẫn còn thiếu so với yêu cầu giáo dục hiện nay về đồ dùng dạy học nhất là các
trường vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Tình trạng “dạy chay” vẫn còn
khá phổ biến. Trong suốt quá trình học bộ môn từ lớp 6 đến lớp 9 cả thầy và trò
chưa bao giờ có điều kiện đi về nguồn.
- Phượng tiện nghe nhìn chưa đáp ứng được yêu cầu: sử dụng bài giảng điện

tử trong tiết dạy còn ít.
- Việc phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong học tập bộ môn lịch
sử còn nhiều hạn chế một phần là do nhu cầu của xã hội nên học sinh ít thích học
môn lịch sử.
III. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG MÂU THUẪN
- Trước đây, đa số các trường đều thiếu thốn về cơ sở vật chất và các thiết bị
dạy học đối với bộ môn lịch sử , chỉ có một số loại đơn giản: lược đồ, bản đồ,
...v.v.
- Theo quan niệm giáo dục trước đây cho rằng phương tiện trực quan là
phương tiện cần thiết để giáo viên truyền thụ kiến thức mới, là dụng cụ để minh
hoạ cho các kiến thức đã truyền đạt, còn đối với học sinh chỉ có tác dụng chấp nhận
và ghi nhớ.
- Theo phương pháp sử dụng này thì phương tiện trực quan chưa phát huy
hết vai trò của mình, đôi khi chưa thể hiện được tính trực quan và tính khoa học của
nó, giờ dạy Lịch sử sẽ rơi vào những hạn chế sau:
+ Giáo viên chưa phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh trong
việc lĩnh hội kiến thức.
3


SKKN

Phạm Thị Ngọc Hân

+ Các kiến thức lịch sử do giáo viên cung cấp học sinh sẽ không hiểu sâu,
không nhớ kỹ bằng chính các em tự nhận thức.
+ Các nguồn trí thức từ dụng cụ trực quan chưa thực sự hấp dẫn đối với các
em. Do đó không gây hứng thú học tập, không có khả năng phát triển tư duy.
+ Chưa tạo cho học sinh các kỹ năng học lịch sử quan trọng như: Đọc, chỉ
bản đồ, phân tích các sự kiện ...

Để cải tiến phương pháp giảng dạy phù hợp với chương trình giáo dục ở bộ
môn lịch sử , thiết bị các trường học đã trang bị khá đầy đủ các loại phương tiện
trực quan, chủ yếu là các loại sau:
- Hình vẽ, tranh, ảnh.
- Mô hình.
- Bản đồ, lược đồ.
- Băng video.
- Máy chiếu.
- Bài giảng điện tử.
Trong bài viết này, tôi xin đưa ra một số biện pháp khai thác, sử dụng kênh
hình và các phương tiện trực quan khác trong dạy học lịch sử nhằm phát huy tính
tích cực, nâng cao chất lượng môn học, phát triển năng lực tư duy và hứng thú học
lịch sử ở học sinh.
IV. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1- Phát huy tính tích cực của học sinh thông qua việc khai thác và sử dụng
hệ thống kênh hình trong SGK:
a.Tính tích cực của học sinh trong học tập:
- Học tập của học sinh là một quá trình nhận thức, song đó là quá trình nhận
thức đặc thù- Vì vậy, nói đến tính tích cực học tập, thực chất là nói đến tính tích
cực của sự nhận thức.
- Từ đó chúng ta có thể hiểu: tính tích cực nhận thức là trạng thái hoạt động
của học sinh thể hiện trong khát vọng học tập, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong
quá trình nắm vững kiến thức.
- Trong quá trình dạy- học, chúng ta có thể nhận biết tính tích cực của học
sinh ở những mặt sau:
+ Thứ nhất: học sinh tập trung chú ý, theo dõi vấn đề đang học; khao khát,
tự nguyện tham gia trả lời câu hỏi của giáo viên.
+ Thứ hai: là đào sâu suy nghĩ, hay nêu thắc mắc, đòi hỏi được giải thích
những vấn đề giáo viên trình bày chưa rõ.
+ Thứ ba: chủ động vận dụng những kiến thức đã học, vốn hiểu biết của bản

thân nhận thức những vấn đề mới.
+ Thứ tư: hào hứng, say mê tiếp thu bài giảng của thầy, cô, cố gắng hoàn
thành những vấn đề được giao.
Ngoài ra còn có thể nhận biết sự tích cực của học sinh qua ánh mắt, cử chỉ,
nét mặt khi theo dõi bài giảng.
4


SKKN

Phạm Thị Ngọc Hân

Bộ môn Lịch sử có đặc trưng riêng: Quá khứ là không trực tiếp quan sát. Vì
vậy việc sử dụng và khai thác kênh hình là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại chính
xác và gần nhất. Góp phần vào sự tích cực của học sinh trong học tập, qua đó nâng
cao chất lượng nhận thức, thể hiện ở các mặt sau:
+ Ý nghĩa giáo dục:Việc khai thác kênh hình có hiệu quả góp phần tích cực
vào việc giáo dục tư tưởng tình cảm, đặc biệt là những xúc cảm thẩm mĩ cho HS.
+ Ý nghĩa phát triển: Việc khai thác tốt kênh hình giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu
sâu những hình ảnh, kiến thức lịch sử. Kênh hình giúp học sinh phát triển khả năng
quan sát, tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học sinh. Học sinh có hứng thú
trong khai thác tranh, ảnh. Từ đó sẽ giúp cho các em tiếp thu kiến thức một cách có
hiệu quả.
- Như vậy, khai thác và sử dụng hiệu quả kênh hình trong SGK là một trong
những phương pháp nhằm phát huy tính tích cực trong học tập lịch sử của học sinh;
đồng thời giáo viên cũng có thể gây hứng thú nhận thức cho học sinh thông qua hệ
thống kênh hình. Có nghĩa là việc khai thác tốt kênh hình sẽ giúp học sinh đi từ
chưa biết đến biết và hiểu lịch sử.
Với tất cả những ý nghĩa nói trên việc khai thác và sử dụng kênh hình trong
SGK góp phần quan trọng nâng cao chất lượng dạy- học lịch sử, gây hứng thú và

phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập. Nó là chiếc “cầu nối” giữa quá
khứ và hiện tại.
b. Cách sử dụng và khai thác kênh hình trong SGK
* Đối với chân dung, hình vẽ:
Học sinh THCS cũng như các lớp khác rất thích xem tranh ảnh, chân dung
các nhà cách mạng, các anh hùng dân tộc, các vị lãnh tụ, các nhà phát minh khoa
học, các nhà hoạt động văn hoá nghệ thuật. Các em không chỉ chú ý miêu tả bề
ngoài mà còn chú ý phân tích nội dung, tính cách, hành vi thể hiện ở tranh ảnh .
Vì vậy giáo viên phải làm nổi bật tính cách nhân vật để gây hứng thú cho học
sinh, kích thích óc tò mò, phát triển năng lực nhận thức. Từ đó làm cho các em
khâm phục, học tập được đạo đức, tài năng của họ.
Tuy nhiên phải chọn thời gian phù hợp để đưa chân dung của nhân vật lịch
sử ra. Khi sử dụng, giáo viên phải phân tích, định hướng cho học sinh, tự mình
đánh giá vai trò, tính cách của nhân vật .
Ví dụ: Khi giảng bài “Cách mạng Việt Nam trước khi đảng cộng sản ra đời”
lịch sử lớp 9 khi dạy đến mục III. “Việt Nam Quốc dân đảng và cuộc khởi nghĩa
Yên Bái” giáo viên cho học sinh quan sát chân dung của Nguyễn Thái Học và giới
thiệu về tiẻu sử của vị lãnh tụ của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng sẽ gây được
hứng thú cho học sinh trong việc tìm hiểu về tổ chức cũng như giáo dục cho học
sinh tinh thần dũng cảm, sự hy sinh quên mình vì đất nước của những thế hệ cha
anh đi trước hoặc khi dạy bài “Đảng cộng sản Việt Nam ra đời’’ khi dạy đến mục
“Luận cương chính trị 10 – 1930’’ giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh Trần
Phú. Sau đó cho học sinh phát biểu nêu lên sự hiểu biết về nhân vật lịch sử này,
5


SKKN

Phạm Thị Ngọc Hân


giáo viên kể cho các em nghe về tiểu sử, quá trình hoạt động cách mạng và khí tiết
của người chiến sĩ cộng sản Trần Phú – Tổng bí thư đầu tiên của Đảng ta,
Có thể là hình vẽ được giáo viên chuẩn bị trước, (như hình vẽ minh hoạ các
sự kiện lịch sử , ...)
Đối với hình vẽ: Ta cần cho học sinh tiến hành theo các bước sau:
- Đọc tên và cho biết các sự kiện lịch sử trên hình vẽ .
- Tìm hiểu mốc thời gian diễn ra sự kiện lịch sử, địa phương diễn ra sự kiện
đó.
- Rút ra nguyên nhân ý nghĩa, bài học lịch sử từ sự kiện đó.
* Tranh ảnh Lịch sử :
- Đối với giáo viên: Tham khảo sưu tầm nhiều tranh ảnh, tư liệu lịch sử có
liên quan đến tiết dạy để minh hoạ trên lớp .
- Đối với học sinh: Ngoài việc làm bài tập và học ở nhà học sinh sưu tầm
trên sách báo, những tranh ảnh liên quan đến bài học .
Tranh ảnh trong sách giáo khoa là một phần đồ dùng trực quan trong quá
trình dạy học. Từ việc quan sát, học sinh sẽ đi tới công việc của tư duy trừu tượng.
Thông qua quan sát miêu tả, tranh ảnh học sinh được rèn luyện kỹ năng diễn đạt ,
lựa chọn ngôn ngữ. Từ việc quan sát thường xuyên các tranh ảnh lịch sử , giáo viên
luyện cho các em thói quen quan sát và khả năng quan sát vật thể một cách khoa
học, có xem xét, phân tích, giải thích để đi đến những nét khái quát rút ra những kết
luận lịch sử .
Ví dụ : Khi dạy bài “Hoạt động của Nguyễn ái Quốc ở nước ngoài (19191925)’’ giáo viên cho học sinh quan sát bức ảnh lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đang phát
biểu ý kiến tại đại hội Tua (12- 1920). Sau khi tường thuật giáo viên cho học sinh
cảm nhận được việc Nguyễn Ái Quốc bắt đầu tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê nin để
truyền bá vào Việt Nam từ đó có tình cảm tự hào về con người Nguyễn Ái Quốc
hoặc là bài 19 “Phong trào cách mạng trong những năm 1930 -1935” mục “II.
Phong trào cách mạng 1930 -1931 giáo viên cho các em quan sát bức ảnh Xô Viết
Nghệ Tĩnh các em sẽ hiểu sâu sắc hơn không khí cũng như tinh thần đấu tranh của
nhân dân Nghệ Tĩnh và từ đó các em rút ra ý nghĩa của phong trào...
Khi dạy về cách mạng tư sản Pháp (1789 – 1794) về tình cảnh xã hội Pháp

trước cách mạng ở mục I trước hết giáo viên cho học sinh quan sát bức tranh, kết
hợp với sách giáo khoa để hiểu về sự phân chia đẳng cấp ở Pháp. Sau đó giáo viên
tổ chức cho các em khai thác nội dung thông qua các câu hỏi gợi mở: nhìn vào bức
tranh các em có nhận xét gì ? tại sao người nông dân già phải cõng trên lưng hai tên
quý tộc – tăng lữ béo tốt ? Người nông dân chống tay lên cái cuốc nói lên điều gì ?
Hình ảnh các con chim, con thỏ, con chuột duới đất nói lên điều gì?...
Như vậy việc sử dụng tranh ảnh vừa khai thác được nội dung lịch sử thể hiện
trong tranh ảnh bổ sung cho bài giảng, vừa phát huy được năng lực tư duy cho học
sinh, kích thích trí tưởng tượng phong phú, tạo hứng thú học tập cho các em
+ Cách sử dụng có hiệu quả:
- Đọc tên bức tranh, xác định xem bức tranh đó thể hiện gì? Ở đâu?
6


SKKN

Phạm Thị Ngọc Hân

- Tường thuật lại diễn biến của sự kiện lịch sử .
- Rút ra được nguyên nhân ý nghĩa và bài học lịch sử. Từ đó giáo dục lòng
yêu nước biết ơn các anh hùng của dân tộc.
* Mô hình:
Dùng những vật liệu đơn giản để tạo ra những hiện vật, những sự kiện lịch
sử đơn giản để minh hoạ cho tiết dạy sinh động hơn.
Giáo viên giới thiệu mô hình đang sử dụng, mô hình là vật tượng trưng cho
sự kiện lịch sử nào? .
Dùng câu hỏi hướng dẫn học sinh quan sát, trả lời tìm ra các sự kiện lịch sử
Ví dụ: khi dạy bài lịch sử lớp 6 về công cụ của người nguyên thuỷ giáo viên
cho học sinh quan sát mô hình về các lưỡi cày, liềm, rìu đá...các em sẽ cảm nhận
được rõ ràng hơn, nhớ lâu hơn và các em sẽ mô tả được chính xác hơn những công

cụ của thời tiền sử.
+ Từ các mô hình giáo viên giúp học sinh hiểu và nắm chắc các kiến thức
Lịch sử ...
+ Cách sử dụng có hiệu quả:
- Giáo viên cho học sinh quan sát nhận biết đó là mô hình gì?
- Mô hình đó gắn với sự kiện nào.
- Rút ra ý nghĩa, bài học từ mô hình.
* Bản đồ:
Bản đồ là phương tiện trực quan rất quan trọng và sinh động trong dạy học
lịch sử. Trên bản đồ lịch sử các sự kiện luôn được thể hiện một không gian, thời
gian, địa điểm cùng một số yếu tố địa lí nhất định
Ví dụ: Nếu chỉ dùng lời giáo viên khó có thể tạo cho học sinh biểu tượng về
tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mà thực dân Pháp và cố vấn Mĩ cho là “một pháo
đài bất khả xâm phạm”, “một cối xay thịt Việt Minh”. Nếu giáo viên biết kết hợp
sử dụng bản đồ chiến trường Đông dương 1953-1954, bản đồ chiến dịch Điện Biên
Phủ và một số hình ảnh khác thì học sinh có thể hiểu được khá rõ về vấn đề này:
Điện Biên Phủ có núi cao bao bọc, hiểm trở, là vị trí chiến lược có thể kiểm soát cả
chiến trường Lào và Bắc bộ .
Thông qua quan sát bản đồ, đọc kí hiệu, liên hệ với kiến thức địa lý đã học,
nội dung lịch sử được biểu diễn trên bản đồ sẽ được học sinh nhanh chóng nắm bắt,
việc sử dụng bản đồ lịch sử còn góp phần phát triển khả năng quan sát, trí tưởng
tượng, tư duy và ngôn ngữ, đặc biệt là kĩ năng đọc bản đồ, củng cố thêm kiến thức
về Địa lí .
Chú ý: Khi sử dụng bản đồ nhất thiết phải giới thiệu cụ thể cho các em kí
hiệu ghi trên bản đồ, đồng thời tập cho các em quan sát, đọc bản đồ và tìm hiểu nội
dung lịch sử được thể hiện trên bản đồ .
Việc học lịch sử nhất thiết phải có bản đồ: “Có bản đồ là có địa lý”. Vậy học
địa lý nhất thiết phải có bản đồ. Bản đồ vừa là phương tiện giúp các em khai thác
kiến thức và là nguồn tri thức địa lý phong phú, nội dung địa lý đã được mã hoá
trở thành một thứ ngôn ngữ đặc biệt đó là ngôn ngữ bản đồ.

7


SKKN

Phạm Thị Ngọc Hân

- Thông qua việc sử dụng bản đồ giáo viên hướng dẫn học sinh rèn luyện
được các kỹ năng bản đồ.
- Đọc tên bản đồ để biết đối tượng lịch sử được thể hiện trên bản đồ là gì.
- Hiểu bản đồ, đọc được bản chú giải để biết cái người ta thể hiện đối tượng
đó trên bản đồ như thế nào, bằng các ký hiệu gì ? Bằng màu sắc gì? ...
- Xác định vị trí, phương hướng của các địa điểm trên bản đồ.
- Cao hơn nữa giáo viên hướng dẫn học sinh biết dựa vào bản đồ, kết hợp với
các kiến thức lịch sử để phân tích, so sánh, giải thích các mối quan hệ của các sự
kiện giữa các đối tượng.
“ Mở đầu bằng bản đồ và kết thúc bằng bản đồ”
* Lược đồ:
Trong giảng dạy lịch sử giáo viên có thể sử dụng lược đồ câm học sinh nhớ
các sự kiện, địa danh diễn ra sự kiện và điền vào lược đồ với cách này học sinh sẽ
khắc sâu trí nhớ. Cũng có thể giáo viên dùng những kí hiệu, biểu tượng để đính các
địa danh, nơi diễn ra sự kiện nổi bật hoặc diễn biến của cuộc khởi nghĩa, chiến
dịch...
Giáo viên cũng có thể sử dụng lược đồ để trình bày diễn biến, sự kiện như sử
dụng bản đồ
- Thông qua lược đồ giúp học sinh hiểu và nhớ lâu hơn các sự kiện.
- Bước đầu tập cho học sinh thể hiện các sự kiện đơn giản sau đó thực hành
với các chiến dịch, các trận đánh có quy mô lớn hơn.
Qua các việc sử dụng lược đồ các em cũng có thể đánh giá được tác động
của các điều kiện tự nhiên liên quan đến sự kiện lịch sử và cũng qua đó giáo viên

cũng có thể đánh giá được khả năng lĩnh hội của các em và có hướng điều chỉnh,
sửa chữa kịp thời cho các em và đây cũng là phương pháp kích thích khả năng tìm
tòi, sáng tạo của các em.
2- Phát huy tính tích cực của học sinh thông qua việc khai thác và sử
dụng băng video:
Là loại phương tiện và thiết bị kỹ thuật hiện đại, tạo cho học sinh có những
phương pháp học tập mới, biết quan sát, nghe, nhìn; có khả năng lĩnh hội kiến thức
với chất lượng cao, tốc độ nhanh. Với loại phương tiện này người giáo viên đòi hỏi
phải có sự chuẩn bị công phu: Phòng tối, tivi, đầu video... và cơ bản là phải hướng
dẫn, chỉ đạo tốt học sinh mới lĩnh hội chắc kiến thức.
Ví dụ: Khi dạy bài Chiến cuộc đông xuân 1953-1954 giáo viên sử dụng băng
video học sinh rất dễ dàng hiểu được quá trình chuẩn bị của quân và dân ta cũng
như diễn biến của chiến dịch, HS tiếp thu bài nhanh, rất hứng thú với bài học hoặc
bài 30 “Hoàn thành giải phóng miền Nam thống nhất đất nước 1973 - 1975” giáo
viên sử dụng băng video thì học sinh dễ cảm nhận được hào khí của dân tộc, của 5
cánh quân cùng lúc vượt qua tuyến phòng thủ bên ngoài của địch tiến vào trung
tâm Sài Gòn..., Diễn biến của chiến dịch như thế học sinh sẽ tiếp thu bài rất nhanh
và sẽ nhớ lâu những hình ảnh mà mình đã được xem qua băng hình...
3-Phát huy tính tích cực của học sinh thông qua việc sử dụng đèn chiếu
8


SKKN

Phạm Thị Ngọc Hân

Sử dụng đèn chiếu là một phương pháp mới trong dạy học lịch sử. Một số
tranh ảnh, phần bài học quan trọng giáo viên có thể pho to hoặc viết vào giấy trong
sau đó đưa lên máy chiếu học sinh sẽ thấy thích thú hơn, nhớ lâu hơn khi được học
trên máy chiếu .

4-Phát huy tính tích cực của học sinh thông qua việc sử dụng bài giảng
điện tử.
Đây là một phương pháp dạy học hiện đại nhất hiện nay, nó có thể giúp học
sinh quan sát tất cả các đồ dùng như bản đồ, sơ đồ, lược đồ, tranh ảnh, mô hình và
cả video clip một cách sinh động. Việc sử dụng các thiết bị dạy học này cũng
không phải là điều dễ dàng, bản thân tôi cũng dạy rất nhiều tiết bằng bài giảng điện
tử nhưng để soạn một tiết để dạy thì tốn rất nhiều thời gian. Qua tìm hiểu và tham
khảo tài liệu và dự giờ tôi nhận thấy học sinh rất hứng thú với tiết học, học sinh thì
đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, hiệu quả thu được rất cao, học sinh có
thể quan sát các hình ảnh, thành tựu, các trận đánh, chiến dịch một cách rõ nét, sinh
động và chân thực. Song để dạy được một giờ như vậy phải có sự chuẩn bị rất công
phu, phải biết sử dụng các phương tiện hiện đại, phải sưu tầm nhiều loại tư liệu
khác nhau (GV tránh tình trạng sử dụng quá nhiều hình ảnh, nếu lạm dụng sẽ làm
cho tiết học kém hiệu quả vì chỉ giống như một tiết tham quan học sinh không nắm
được kiến thức trọng tâm của bài học và việc sử dụng các hiệu ứng không phù hợp
cũng dễ gây mất sự chú ý, tập của học sinh vào kiến thức cần đạt).
Mặt khác, ta có thể sử dụng máy chiếu như một đồ dùng trực quan để minh
họa các hình ảnh, trình bày bản đồ….phục vụ cho tiết dạy đạt hiệu quả cao hơn.
Như vậy việc sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học lịch sử ở trường
THCS là một việc làm rất quan trọng, rất phong phú và có ý nghĩa lớn cần được
mỗi thầy, cô giáo quán triệt một cách sâu sắc và vận dụng sáng tạo trong công tác
giảng dạy của mình, trong hoạt động nội khoá cũng như hoạt động ngoại khoá. Tuy
nhiên để làm tốt việc này cần có sự chuyển biến mạnh mẽ mang tính cách mạng
trong phương pháp dạy – học lịch sử và phải có thời gian kiểm nghiệm sự đúng đắn
của nó so với kiểu dạy truyền thống. Mỗi giáo viên sau khi vận dụng các phương
pháp dạy học này vào từng bài phải có sự nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm và
trao đổi, phổ biến với đồng nghiệp để khẳng định những biện pháp sư phạm trong
việc nâng cao chất lượng bộ môn. Cần trách khuynh hướng “tách lí thuyết với thực
tế”...đáp ứng được những yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong
thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá .

*CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRƯỚC KHI SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN
TRỰC QUAN:
Phương tiện trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của
nhiều giác quan, sẽ kết hợp chặt chẽ cho được hai hệ thống tín hiệu với nhau: tai
nghe, mắt thấy tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, phát triển năng lực chú
ý quan sát, hứng thú của học sinh. Tuy nhiên nếu không sử dụng tốt, đúng mức và
bị lạm dụng thì dễ làm học sinh phân tán sự chú ý, không tập trung vào các dấu
9


SKKN

Phạm Thị Ngọc Hân

hiệu cơ bản chủ yếu. Phương tiện trực quan có nhiều loại. Mỗi loại lại có cách sử
dụng riêng, nhưng phải chú ý các nguyên tắc cơ bản sau:
1/ Phải căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ, nội dung và hình thức của các loại bài
học để lựa chọn phương tiện trực quan cho thích hợp, không nên dùng quá nhiều
phương tiện trực quan cho một tiết dạy.
2/ Phải có phương pháp thích hợp đối với mỗi loại phương tiện trực quan.
3/ Trước khi sử dụng cần phải giải thích: phương tiện trực quan này nhằm mục
đích gì? Giải quyết vấn đề gì? Nội dung gì? trong bài học.
4/ Đảm bảo tính trực quan, rõ ràng, thẩm mỹ, cần chú ý tới quy luật nhận thức,
giáo dục thẩm mỹ cho học sinh. Không nên sử dụng phương tiện trực quan quá cũ,
các hình vẽ không chính xác...
5/ Biết vận dụng, sử dụng dụng phương tiện trực quan với các phương pháp
dạy học khác: như nêu vấn đề, mô tả, diễn giải...cho nhuần nhuyễn, đạt hiệu quả
cao.
V. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
Để rút ra nhận xét về một số biện pháp sử dụng hệ thống kênh hình ở 6,7,8, 9

tôi đã dạy một tiết có sử dụng phương tiện trực quan và một tiết không sử dụng
phương tiện trực quan:
*Kết quả tiết dạy không sử dụng đồ dùng trực quan như sau:
Khá
Trung bình
Lớp Số bài
Giỏi
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6
44
6
13.6
16
36.4
13
29.5
9
20.5
7
25
3
12

14
56
7
28
1
4
8
32
15 46.9
13
40.6
3
9.4
1
3.1
9
28
6
21.4
16
57.1
5
17.9
1
3.6
TC
129
30
23.3
59

45.7
28
21.7
12
9.3
* Kết quả tiết dạy sử dụng đồ dùng trực quan như sau:
Lớp Số bài
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6
44
8
18.2
17
38.6
17
38.6
2
4.6
8

25
5
20
15
60
5
20
0
8
32
15
46.9
14
43.8
3
9.3
0
9
28
9
32.2
16
57.1
3
10.7
0
TC
129
37
28.7

62
48.1
28
21.7
2
1.5
* Nhận xét sau khảo sát:
- Sau khi dạy đối chứng, kết quả kiểm tra nắm bắt kiến thức của học sinh ở
tiết dạy thực nghiệm có chất lượng cao hơn lớp dạy bình thường.
- Nhiều học sinh hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài, lớp học sôi nổi.
- Học sinh hứng thú học hơn, thể hiện sự chú ý theo dõi bài học, theo dõi nội
dung SGK.
10


SKKN

Phạm Thị Ngọc Hân

C. KẾT LUẬN
I. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC GIẢNG DẠY.
Phương tiện trực quan là phương tiện không thể thiếu được trong hoạt động
dạy học. Bằng những phương tiện trực quan sinh động, giáo viên sử dụng phương
pháp tốt nhất sẽ giúp học sinh tự khai thác, lĩnh hội kiến thức, phát huy được vai
trò chủ thể của học sinh trong quá trình học tập.
- Những phương tiện trực quan khi sử dụng trong giảng dạy cần phải có sự lựa
chọn cho phù hợp với nội dung bài dạy, phù hợp với trình độ nhận thức của học
sinh, đặc biệt là những phương tiện trực quan tạo ấn tượng, giúp học sinh khắc sâu,
nhớ kỹ, tái hiện lại những kiến thức đã học, nhất là trực quan trên power piont.
- Về phương pháp sử dụng: phải sử dụng tinh tế, khéo léo phải đảm bảo tính

trực quan, vừa đảm bảo tính khoa học. Điều đáng lưu ý là phương tiện trực quan dù
sinh động đến đâu cũng không thể giúp học học tốt nếu thiếu sự chỉ đạo tận tình
của giáo viên. Vậy với cương vị là người chỉ đạo, hướng dẫn, người giáo viên phải
luôn tác động ý thức học tập của các em, phải khơi dậy trong các em sự tìm tòi,sự
ham hiểu biết, sẵn sàng khám phá khoa học có như thế mới đem lại hiệu quả.
II. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CỦA ĐỀ TÀI.
- Đề tài này có thế áp dụng cho tất cá các lớp 6,7,8,9 ở bộ môn lịch sử.
- Có thể áp dụng cho lớp chuyên và lớp không chuyên.
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ HƯỚNG PHÁT TRIỂN
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy để nâng cao chất lượng sử dụng phương
tiện trực quan, cần lưu ý những điều sau:
- Giáo viên cần hiểu rõ nội dung kiến thức phản ánh trong kênh hình thấy
được vai trò của kênh hình đối với tiết dạy.
- Giáo viên cần phải xác định được thời điểm hợp lí để hướng dẫn học sinh
sử dụng, khai thác kênh hình và phương tiện trực quan.
- Giáo viên phải xây dựng được hệ thống câu hỏi hợp lý để khai thác phương
tiện trực quan theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh.
- Giáo viên phải biết sử dụng kết hợp giữa kênh hình với các tài liệu khác để
tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Để sử dung có hiệu quả phương tiện trực quan trong giảng dạy lịch sử, đòi hỏi
người giáo viên ngoài năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm thì phải có ý thức
trách nhiệm cao, phải có cái tâm mang đặc thù của nghề dạy học bởi vì phương
pháp dù hay đến mấy nhưng người thầy không có trách nhiệm cao, không yêu nghề
và thương yêu học sinh hết mực thì cũng không đem lại kết quả như mong muốn.
Có như vậy chúng ta mới góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những người lao động
làm chủ nước nhà: có trình độ văn hoá cơ bản, phẩm chất đạo đức tốt, có sức khoẻ,
thông minh sáng tạo… đáp ứng được những yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của
11



SKKN

Phạm Thị Ngọc Hân

đất nước trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá và góp phần thúc đẩy công
cuộc đổi mới phương pháp dạy học và thực hiện. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học và hưởng ứng phong trào xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực
IV. ĐỀ XUẤT- KIẾN NGHỊ
Từ những tồn tại và hạn chế nêu trên, tôi xin đề xuất một số ý kiến như sau:
ngay từ đầu năm học, căn cứ vào đề nghị của giáo viên, dựa trên chương trình dạy
học, nhà trường có kế hoạch cung cấp các tài liệu có liên quan, tạo điều kiện thuận
lợi giúp giáo viên có thể sử dụng hiệu quả phương tiện trực quan,nâng cao chất
lượng dạy- học.
Tóm lại, phương tiện trực quan theo hướng phát triển tính tích cực học tập
của học sinh là một khâu quan trọng nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn
lịch sử, chính vì vậy tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài này. Tuy nhiên, đề tài không
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp.
Gáo Giồng, ngày 4 tháng 3 năm 2012
Người viết

Phạm Thị Ngọc Hân

12


SKKN

Phạm Thị Ngọc Hân


Mục lục
A. Phần mở đầu
trang
I. Lý do chọn đề tài.........................................................................................1
1. Có lý luận.................................................................................................1
2. Có cơ sở thực tiển.....................................................................................1
II. Mục đích ....................................................................................................1
III. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................2
IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................2
V.Kế hoạch thực hiện......................................................................................2
B. Phần nội dung
I. Có cơ sở lý luận............................................................................................2
II. Có cơ sở thực tiển........................................................................................3
III. Thực trạng và những mâu thuẫn.................................................................3
IV. Các biện pháp thực hiện.............................................................................4
V. Hiệu quả áp dụng........................................................................................10
C. Kết luận
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác.............................................................11
II. Khả năng áp dụng.......................................................................................11
III. bài học kinh nghiệm, hướng phát triển.....................................................11
IV. Đề xuát, kiến nghị.....................................................................................12

13


SKKN

Phạm Thị Ngọc Hân

14




×