Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Gián án SKKN- Sử dụng phượng tiện trực quan trong dạy học sinh 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.1 KB, 3 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
Phần I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài.
Trong xu thế chung của dạy học hiện nay, người ta coi dấu hiệu cơ bản
của phương pháp là tính chất tổ chức chỉ đạo hoạt động nhận thức của giáo viên
và học sinh. Mỗi phương pháp đảm bảo một tính chất xác định hoạt động nhận
thức của học sinh, tiếp nhận một cách chủ động các tri thức do giáo viên truyền
đạt hay độc lập tìm tòi, nghiên cứu để lĩnh hội tri thức. Giáo viên chỉ giúp học
sinh định hướng vấn đề và chịu trách nhiệm cố vấn trong quá trình học tập của
các em. Qua phương tiện trực quan giúp các em nắm vấn đề một cách chắc chắn
và bền vững, bồi dưỡng phương pháp học tập và kỹ năng vận dụng tri thức và là
nhịp để học sinh rèn luyện ý chí và năng lực hoạt động sáng tạo. Rèn luyện được
kỹ năng quan sát, tìm tòi là phẩm chất cho sự phát triển và thành đạt lâu dài của
một con người, phương tiện trực quan còn có tác dụng giáo dục rèn luyện cho
học sinh một cách toàn diện đáp ứng được nhiệm vụ trí dục - đức dục tốt nhất.
Trong việc sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học các kiến thức
hình thái, giải phẩu đóng một vai trò rất quan trọng. Ở lứa tuổi học sinh lớp 8
kinh nghiệm sống còn ít, vốn hiểu biết còn nghèo nàn, các biểu tượng tích luỹ
còn hạn chế, các em còn nặng về tư duy hình tượng cụ thể, tư duy thực nghiệm
thì việc xây dựng các khái niệm đòi hỏi phải lấy "trực quan" làm điểm tựa. Vậy
làm thế nào giúp HS lĩnh hội sâu sắc, vững chắc các đặc điểm hình thái giải phẩu
và giúp HS hiểu rõ mối quan hệ nhân quả trong các hiện tượng, các quá trình
sinh lí.
Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh, nội dung bài học và
mục tiêu đào tạo là hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh, tạo
những tiền đề để các em trở thành “người lao động có tri thức và có tay nghề, có
năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo ...” cũng như qua thực tế tôi
đang giảng dạy tại trường với cơ sở vật chất trang thiết bị của bộ môn sinh trong
nhà trường khá đầy đủ và hiện đại. Trên cơ sở đó tôi mạnh dạn chọn đề tài "Sử
dụng phương tiện trực quan trong dạy học các kiến thức hình thái, giải phẩu của
môn sinh học lớp 8” đạt hiệu quả và chất lượng cao trong dạy học.


2. Thời gian - phạm vi- phương pháp và đối tượng nghiên cứu.
2.1. Thời gian nghiên cứu:
Từ ngày : 1/10/2009 - 30/5/2010.
2.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Nội dung chương trình, sách giáo khoa sinh học lớp 8
- Thực nghiệm trên 3 lớp 8 D, E, G Trường THCS Lao Bảo
2.3. Phương pháp nghiên cứu :
Tôi thực hiện đề tài này với các phương pháp chủ yếu sau:
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
2.3.2. Phương pháp thực nghiệm
Bằng việc trực tiếp giảng dạy và thực nghiệm trên 3 lớp
2.3.3. Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh.
- Trực quan - Kinh nghiệm giảng dạy
- Điều tra khảo sát ban đầu và kết quả vận dụng
Người thực hiện: Nguyễn Thị Phượng Trang 1
Sáng kiến kinh nghiệm
- Thống kê số liệu từ những con số.
- Đọc tài liệu, phân tích, tổng hợp tài liệu.
2.4. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 8 D, E, G Trường THCS Lao Bảo
Phần II. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ
1. Những vấn đề chung :
“Con ngưới” là đối tượng nghiên cứu của sinh học 8 ở trường phổ
thông, một đối tượng gần gủi với học sinh là bản thân các em, là bạn bè
xung quanh nên các em có thể có những hiểu biết thực tế liên quan đến đời
sống đến hoạt động hàng ngày của mình. Do đó, giáo viên có thể khai thác
những vốn hiểu biết đó trong quá trình dạy học bằng phương pháp hỏi -
đáp gợi mở, hoặc về phía học sinh có thể dùng những hiểu biết khoa học để
tìm hiểu, giải thích những hiện tượng thường gặp trong đời sống. Chẳng
hạn: Vì sao khi hoạt đông lao động hoặc chơi thể thao, nhịp hô hấp và nhịp

tim lại tăng? Hoặc giải thích câu ” Trời nóng chống khát; trời mát chống
đói”...
Nội dung sinh học 8 có nhiều mối liên hệ với chương trình SH7. Do
đó quá trình dạy học cần quán triệt tính kế thừa của các kiến thức trong
việc xây dựng các khái niệm mới (kiến thức giải phẫu) và phát triển các
khái niệm có tính chất đại cương (cấu tạo tế bào của cơ thể, tính thống nhất
giữa cấu trúc và chức năng, giữa các hệ cơ quan trong cơ thể và giữa cơ thể
với môi trường ...)
2. Đặc điểm đối tượng ngiên cứu:
Về thuận lợi: Đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 8D, 8E, 8G đa số
nằm trong độ tuổi 13-14, là lớp có nhiều học sinh chăm ngoan học giỏi có
ý thức trong mọi hoạt động, có tinh thần tập thể và có trách nhiệm cao
trong học tập, quan tâm giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Về khó khăn: Bên cạnh đó lớp còn có một vài học sinh có khả năng
tiếp thu chậm, còn rụt rè và chậm chạp, chưa nhiệt tình trong mọi công
việc, chưa chịu khó trong phương pháp học tập tích cực.
3. Phương pháp dạy các kiến thức hình thái, giải phẫu:
3.1. Vai trò của các phương tiện trực quan trong dạy học các kiến
thức hình thái, giải phẩu.
Dạy các kiến thức hình thái, giải phẫu cần coi trọng nguyên tắc trực
quan. Vận dụng nguyên tắc này GV thường sử dụng các phương tiện trực
quan như:
- Các vật thật bao gồm các mẫu tươi, mẫu ngâm, các tiêu bản hiển vi.
- Các vật tượng hình như mô hình, tranh vẽ, các hình chụp, hình vẽ
trên bảng hoặc các sơ đồ cấu tạo, phim đèn chiếu ...
- Trong các loại phương tiện trên thì mẫu tươi có nhiều ưu điểm hơn
cả. Nó cho phép học sinh hiểu rõ hình dạng, màu sắc và kích thước thực
Người thực hiện: Nguyễn Thị Phượng Trang 2
Sáng kiến kinh nghiệm
của các đối tượng quan sát đôi khi còn cho các em thấy rõ qua cảm giác,

xúc giác (sờ, nắn) về tính chất của đối tượng nghiên cứu (độ cứng, mềm,
trơn, nhẵn hay gồ ghề…) nhằm gây hứng thú yêu thích môn học.
Chẳng hạn, qua nghiên cứu một mẫu tim lợn tươi, bằng sờ nắn các
thành cơ của các ngăn tim, các em có thể nhận biết thành cơ của các tâm
nhĩ mỏng hơn so với thành cơ các tâm thất, thành của tâm thất trái dày hơn
thành của tâm thất phải. Nếu không có được mẫu tươi, thì mẫu ngâm cũng
vẫn là vật thật, có tác dụng tốt trong giờ dạy, đảm bảo học sinh có được
biểu tượng khá chính xác về đối tượng nghiên cứu. Tất nhiên, mẫu ngâm
khó giữ được màu sắc tự nhiên nhưng lại có ưu điểm là được xử lí tốt về
mặt sư phạm, thể hiện được rõ những đặc điểm cấu tạo cần quan sát.
- Tuy nhiên, không phải mọi vật đều đáp ứng được những yêu cầu sư
phạm của một số đồ dùng học tập. Có những vật thật quá nhỏ khó quan sát.
Muốn cho học sinh có được một ý niệm về sự tinh vi, phức tạp của kích
thước thực của chúng như cấu tạo của cơ quan tai trong, màng lưới và điểm
mù của cầu mắt, cấu tạo của niêm mạc ruột với các tế bào lông ruột…thì
phải kết hợp với việc sử dụng mô hình.
Nhiều khi vật thật, mô hình không cho phép đi sâu vào cấu tạo chi
tiết, cấu trúc hiển vi của các cơ quan, lúc này tranh vẽ sẽ bổ sung tốt cho
những hạn chế trên. Đặc biệt là loại tranh “phân tích” và “tranh liên hoàn”
cho phép đi sâu vào các mức độ cấu trúc khác nhau của các cơ quan đó,
hoặc đi sâu vào cấu trúc chi tiết của các bộ phận quan trọng, tạo điều kiện
cho việc tìm hiểu chức năng được thuận lợi.
Song các vật thật, mô hình hoặc tranh vẽ, ảnh chụp phóng to thường
là phức tạp khiến học sinh khó hình dung được những nét cơ bản trong cấu
trúc, trong trường hợp đó sử dụng các sơ đồ câú trúc sẽ có tác dụng khắc
sâu những đặc điểm cấu trúc của đối tượng nghiên cứu, đồng thời làm phát
triển tư duy trừu tượng, tư duy khái quát của học sinh.
Ngoài ra hình vẽ trên bảng của giáo viên cũng là một phương tiện
trực quan có giá trị sư phạm cao, được sử dụng kết hợp với giảng giải, giúp
học sinh theo dõi một cách dễ dàng.

Đặc biệt, cơ thể người cũng là một phương tiện trực quan sống cần
được khai thác trong quá trình dạy các kiến thức hình thái, giải phẫu.
Chẳng hạn, mắt với màng giác, mống mắt, con ngươi; lưỡi với các gai vị
giác, da với các sản phẩm của da (lông, móng); tai ngoài… các chi, xương
đai, các loại khớp, các bắp cơ… có thể quan sát trực tiếp trên cơ thể mình
hoặc bạn.
3.2. Phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan trong dạy
học:
- Phương tiện trực quan sẽ đóng vai trò chủ yếu và tích cực trong quá
trình nhận thức khi chúng được sử dụng như một “nguồn” để dẫn tới kiến
thức. Ở đây học sinh độc lập quan sát dưới sự tổ chức và chỉ đạo của giáo
Người thực hiện: Nguyễn Thị Phượng Trang 3

×