Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT TRONG CẤU TRÚC NGUỒN LUẬT CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ANH VÀ HỆ THỐNG PHÁPLUẬT MỸ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.98 KB, 4 trang )

Mặc dù cùng thuộc dòng họ Common Law nhưng cấu trúc nguồn
luật của hệ thống pháp luật của Anh và hệ thống pháp luật Mỹ ngoài những
điểm tương đồng thì cũng có những điểm khác biệt nhất định, biểu hiện như
sau:
I. NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG TRONG CẤU TRÚC NGUỒN
LUẬT CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ANH VÀ HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT MỸ
– Trong cấu trúc nguồn luật cùng có Án lệ, các văn bản pháp luật và
các tác phẩm của các học gia pháp lý có uy tín.
– Án lệ được thừa nhận là một nguồn chính thống, thậm chí về mặt
thực tế còn chiếm ưu thế hơn so với luật thành văn. Án lệ của Anh và Mĩ đều
có chung nguyên tắc “Stare decisis”, có nghĩa là tuân thủ các phán quyết
trước đó, có sự ràng buộc giữa các phán quyết của các tòa án với nhau, đều
được ghi chép, xuất bản để sử dụng (tuy rằng ở Mỹ có số lượng ít hơn).
– Cả Anh và Mỹ đều thừa nhận và sử dụng các tác phẩm của các học
giả pháp lí giống như là một nguồn luật. Các tác phẩm này là những cuốn
sách giành cho sinh viên gồm một tập hoặc một bộ nhiều tập sách giành cho
các chuyên gia luật. Các tác phẩm này thường được trích dẫn bởi các luật sư
và thẩm phán trong quá trình hành nghề luật.
– Luật thành văn ngày càng được coi trọng trong hệ thống nguồn luật
của cả hai quốc gia.
II. NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT TRONG CẤU TRÚC NGUỒN
LUẬT CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ANH VÀ HỆ THỐNG PHÁP
LUẬT MỸ
1. Điểm khác biệt mang tính chất chung
– Số lượng nguồn luật của hệ thống pháp luật Anh phong phú hơn:
Nếu như trong hệ thống pháp luật Mỹ chỉ có 3 loại nguồn là : Án lệ; Luật
thành văn và các tác phẩm của các học gia pháp lý thì ở Anh có 5 loại
nguồn: Án lệ; Luật thành văn; Luật của liên Minh Châu Âu; Tập quá pháp
địa phương (Particular Customs) và các tác phẩm có uy tín; Trong luật bất
thành văn của Mỹ chỉ có Án lệ thì ở Anh có ba loại: Tập quán phổ biến từ


thời thượng cổ (các phán quyết của Tòa gồm cả Án lệ của Tòa án hoàng gia


và luật công lý), tập quán hoặc luật lệ địa phương (particular customs or
laws) và luật cá biệt (peculiar laws); Trong luật thành văn của Anh chia ra
thành các văn bản do thượng nghị viện trực tiếp hoặc ủy quyền ban hành thì
ở Mỹ lại chia thành các văn bản với các tên gọi cụ thể: Hiến pháp, luật, các
văn bản dưới luật do cơ quan hành pháp ban hành.
2. Những điểm khác biệt trong một số loại nguồn cụ thể
2.1. Án lệ
Đối với Anh thì án lệ rất được coi trọng, còn ở Mỹ thì bị hạn chế phần
nào đó hơn so với ở Anh.
Án lệ của Mĩ được áp dụng với một vài giới hạn quan trọng như: tòa
tối cao của các bang của Mĩ không chịu sự ràng buộc bởi phán quyết trước
đó của chính mình. Trong khi đó, ở Anh, việc bám sát vào tiền lệ pháp trong
hoạt động xét xử là yêu cầu nghiêm ngặt.
Trong nhiều năm, Thượng nghị viện, tòa án cao nhất ở Anh đã tự cho
rằng mình phải tuyệt đối tuân thủ các phán quyết trong quá khứ của chính
mình. Ngày nay, quyết định của tòa án vẫn bị giới hạn nghiêm ngặt trong kết
quả của các phán quyết trong quá khứ (tiền lệ pháp), vì vậy phát triển chậm
chạp và chỉ trong những giới hạn quy định. Tuy nhiên, chỉ những bản án
được xuất bản mới trở thành án lệ và có giá trị ràng buộc.
Ở Mĩ, tiền lệ pháp của mỗi bang chỉ hoạt động trong phạm vi của bang
mình và phán quyết của các bang không chịu sự ràng buộc với nhau, tuy
nhiên các án lệ cũng vẫn được thừa nhận. Trong các bản án cũng dành rất
nhiều chỗ cho quan điểm của thẩm phán về chính sách chung, đặc biệt
những vụ việc mà tòa án coi là quan trọng.
So với các thẩm phán Anh, thẩm phán Mĩ rõ ràng đề cập nhiều hơn tới
hệ quả thực tiễn của một phán quyết và liệu những hệ quả này có phù hợp
với nhu cầu chính sách hơn là với sự kiên định của người thẩm phán trong

việc xét xử vụ việc hiện tại trong mối quan hệ với tiền lệ pháp.
2.2. Luật thành văn
Luật thành văn ở Mỹ luôn được chú trọng phát triển hơn ở Anh và nó
được thể hiện như sau:
2.2.1. Hiến pháp


Anh là nước không có hiến pháp thành văn. (hiến pháp được rút ra từ
những loại nguồn khác nhau), Các qui định có bản chất của hiến pháp Anh
có thể tìm thấy trong đặc quyền Hoàng gia, trong một số truyền thống và một
số án lệ cũng như văn bản pháp luật do Nghị viện ban hành và gần đây còn
nằm trong cả một số đạo luật của Liên minh Châu Âu. Magna Carta năm
1215 được coi là bản hiến pháp đầu tiên của Anh, thừa nhận quyền con
người. Ngày nay, một số đạo luật quan trọng làm thành Hiến pháp Anh phải
kể đến gồm: Luật quyền con người năm 1688, Luật kế vị ngai vàng năm
1701, Luật đình quyền giam giữ năm 1679, Luật hợp nhất với Scotland 1707
và gần đây nhất là Luật Cộng đồng châu Âu.
Trái với Anh, nước Mỹ có hiến pháp thành văn: Liên bang và các
bang đều có hiến pháp viết. Hiến pháp Mỹ được ban hành năm 1787 và được
coi là đạo luật cơ bản của quốc gia. Do đó, bất kể nguồn luật nào trên nước
Mỹ, kể cả luật của liên bang hay các bang đều không được trái với nội dung
Hiến pháp như đã được Tòa án tối cao Mỹ giải thích. Mỹ là một nước liên
bang, mỗi tiểu bang của Mỹ đều có hiến pháp riêng mà theo cách giải thích
của tòa án tối cao của tiểu bang, hiến pháp có hiệu lực cao hơn các đạo luật
khác của tiểu bang nhưng phải phù hợp với hiến pháp liên bang.
– Việc ghi nhận quyền con người
Nếu như ở Anh, ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1215 đã thừa
nhận quyền con người với 4 quyền năng chính: Quyền bình đẳng trước công
lí, Quyền được tòa án xét xử trước khi bị bỏ tù hoặc bị tước đoạt tài sản,
Quyền không bị phạt tiền đến mức phá sản và Quyền không bị tước đoạt kế

sinh nhai, thì khi mới ra đời, hiến pháp Mỹ không qui định về quyền con
người mà quyền này chỉ được đưa vào nội dung Hiến pháp sau lần sửa đổi
bản hiến pháp lần thứ mười. Những sửa đổi này được tiến hành giữa năm
1789 và 1791.
– Thừa nhận nguyên tắc giám sát bằng thủ tục tư pháp
Một điểm khác biệt cũng khá điển hình giữa Hiến pháp Anh và hiến
pháp Mỹ là việc thừa nhận nguyên tắc giám sát bằng thủ tục tư pháp đối với
tính hợp hiến của các văn bản pháp luật của Hiến pháp Mỹ thì không được
biết đến ở Anh trong quá khứ.
2.2.2. Luật


Nếu như ở Mỹ đã xác định được hệ thống các văn bản pháp luật điều
chỉnh các lĩnh vực quan hệ xã hội cụ thể, rất đồ sộ và khoa học, đặc biệt tốc
độ soạn thảo văn bản pháp luật là rất nhanh nhưng vẫn không kém phần
hiệu quả, thể hiện trình độ lập pháp và sự coi trọng luật thành văn của Mỹ rất
cao, nhanh chóng, kịp thời cho ra đời các loại văn bản điều chỉnh các quan
hệ mới phát sinh trong đời sống xã hội trong khi đó thì ở Anh chưa có các
văn bản pháp luật đó và chưa làm được những điều đó; Các văn bản pháp
luật ở Anh gồm các văn bản pháp luật do Nghị viện trực tiếp ban hành và các
văn bản pháp luật Nghị viện ủy quyền ban hành: Luật, luật thống nhất và luật
hệ thống hóa.
Luật do nghị viện ban hành có hiệu lực cao hơn án lệ do thẩm phán
làm ra. Luật thường được bổ sung hoặc thay thế án lệ.
Luật thống nhất được soạn thảo đề thay thế và trình bày lại tất cả
những đạo luật được ban hành trước đó về lĩnh vực cụ thể nào đó.
Luật hệ thống hóa là đạo luật chứa đựng một cách toàn diện tất cả
những luật điều chỉnh lĩnh vực nhất định.
Còn ở Mỹ có rất nhiều đạo luật cả ở cấp liên bang và cấp bang. Hiến
pháp Mỹ qui định luật Liên bang có giá trị pháp lí cao hơn luật của các bang.

Trừ Hiến pháp Mỹ, các đạo luật do quốc hội Mỹ thông qua có giá trị pháp lí
cao nhất, cao hơn cả phán quyết của tòa án cấp liên bang và cấp bang và cao
hơn các đạo luật tương ứng của các bang.
Nếu như ở Anh, chính quyền địa phương có thẩm quyền ban hành văn
bản pháp luật ở địa phương thì chính quyền mỗi bang của Mỹ cũng đều có
quyền ban hành luật riêng áp dụng trong bang. Phần lớn luật thành văn của
các bang vẫn luôn độc lập tuyệt đối với luật thành văn của các bang khác.
Như vậy, thông qua việc so sánh hai cấu trúc nguồn luật của hai hệ
thống pháp luật Anh và Mỹ có thể đi đến kết luận: Cấu trúc hệ thống nguồn
luật Anh đa dạng, phong phú hơn cấu trúc hệ thống nguồn luật Mỹ và vai trò
của các loại nguồn khác nhau trong cấu trúc nguồn của hai hệ thống pháp
luật này là cũng không giống nhau.



×