Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Những vấn đề cơ bản về thanh tranh nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.31 KB, 8 trang )

I. Cơ sở của việc phân hệ cơ quan thanh tra nhà nước:
Theo Điều 4 và Điều 10 Luật thanh tra 2004, thanh tra nhà nước là việc xem
xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm
quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này và các quy định khác của
pháp luật. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên
ngành.
Pháp lệnh Thanh tra ban hành ngày 29/03/1990, lúc đó nhà nước thực hiện
cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, bằng các biện pháp mang nặng tính hành
chính. Hoạt động sản xuất, kinh doanh chủ yếu được tiến hành trên cơ sở các kế
hoạch, mệnh lệnh hành chính. Mỗi đơn vị kinh tế được coi như đơn vị cơ sở của cơ
quan nhà nước chủ quản. Vì thế, mục đích, nội dung, phương pháp tiến hành một
cuộc thanh tra đối với cơ quan nhà nước cấp dưới hay đối với một doanh nghiệp về
cơ bản là giống nhau. ở cơ chế kế hoạch hoá tập trung thì mọi hoạt động thanh tra
khi đó đều mang tính hành chính. Hay nói cách khác, đó chính là thanh tra của cấp
trên đối với cấp dưới, chứ chưa có sự phân hệ rõ ràng thanh tra chuyên ngành. Việc
chuyển đổi cơ chế quản lý từ cơ chế kinh tế đã kéo theo một loạt những thay đổi.
Đối tượng chịu sự thanh tra, kiểm tra đa dạng hơn, phức tạp hơn với sự gia tăng về
số lượng các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế cũng như quá trình xã
hội hoá nhiều lĩnh vực, trong đó Nhà nước không còn can thiệp trực tiếp bằng biện
pháp hành chính, mà quản lý xã hội thông qua các công cụ quản lý vĩ mô, bằng
luật pháp cho mọi thành phần kinh tế hoạt động và phát triển cũng như thực hiện
chức năng thanh tra, kiểm tra, kiểm soát là chủ yếu. Trong cơ chế quản lý mới mục
đích nội dung thanh tra đối với các doanh nghiệp không thể mang tính hành chính
giống như thanh tra các cơ quan, đơn vị, cá nhân trong bộ máy nhà nước mà cần
phải có sự thay đổi. Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội đều thuộc
các cơ quan quản lý nhà nước. Vì thế, việc thanh tra, kiểm tra các đơn vị, cá nhân
trong việc chấp hành pháp luật về từng lĩnh vực phải được tiến hành chuyên sâu,
do các cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực thực hiện. Vì thế mà cơ
quan thanh tra được tổ chức thành hai phân hệ như trên.



Hơn nữa, sự phân loại của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước theo
phạm vi thẩm quyền thì có: cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung
(Chính phủ, Ủy ban nhân dân) và cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền
chuyên môn (Bộ, cơ quan ngang bộ). Mà các tổ chức thanh tra Nhà nước lại là một
bộ phận của bộ máy hành chính nhà nước, có nhiệm vụ giúp các cơ quan quản lý
nhà nước quản lý công tác thanh tra và thực hiện quyền thanh tra việc thực hiện
chính sách pháp luật, xem xét, giải quyết các khiếu nại, tố cáo, …như vậy đương
nhiên cơ quan thanh tra cũng phải có sự tổ chức thành hai phân hệ như trên để đạt
được sự thống nhất trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và đạt được hiệu
quả trong hoạt động thanh tra nói riêng. Đó là 2 lý do cơ bản, cũng nói lên rằng
việc tổ chức cơ quan thanh tra NN thành 2 phân hệ như trên là một tất yếu, một sự
cần thiết và hoàn toàn hợp lý.
II. SO SÁNH
A. Giống nhau:
– Đều hướng tới một mục đích chung là nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử
lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý,
chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện
pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. (Điều 3 Luật thanh tra 2004)
– Chúng đều gắn trực tiếp với thẩm quyền quản lý của cơ quan quản lý nhà
nước theo ngành hoặc theo lãnh thổ, “cơ quan TTNN chịu sự chỉ đạo trực tiếp của
thủ trưởng cơ quan quản lý NN cùng cấp, đồng thời chịu sư chỉ đạo, hướng dẫn vè
công tác tổ chức và nghiệp vụ của thanh tra Chính Phủ, chịu sự hướng dẫn về
công tác nghiệp vụ của cơ quan thanh tra cấp trên” (Khoản 2, Điều 10, luật thanh
tra 2004.).
– Cùng được tiến hành hoạt động thanh tra hành chính: tức là thanh tra việc
thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc
quyền quản lý trực tiếp.



B. Khác nhau:
Theo khoản 2 Điều 4 Luật thanh tra 2004: “Thanh tra hành chính là hoạt
động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo cấp hành chính đối với việc
thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc
quyền quản lý trực tiếp.”
Theo khoản 3 Điều 4 Luật thanh tra 2004: “Thanh tra chuyên ngành là hoạt
động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực đối với cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật, những quy định về chuyên
môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý của ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý.”
1.
Vị trí:
Cơ quan thanh tra
nhà nước

Cơ quan Thanh tra
hành chính

Thanh tra
Chính phủ

Thanh tra
Tỉnh

Cơ quan Thanh tra
chuyên ngành

Thanh tra
Huyện


Thanh tra Bộ,
cơ quan ngang
bộ

Thanh tra
Sở

Ở trung ương, cơ quan thanh tra hành chính là Thanh tra Chính phủ có vị trí
của một cơ quan hành chính nhà nước – cơ quan ngang bộ; còn cơ quan thanh tra
theo ngành, lĩnh vực ở trung ương là Thanh tra Bộ thì không phải là cơ quan quản
lý nhà nước mà là cơ quan của bộ.
Ở địa phương, các cơ quan thanh tra hành chính là thanh tra tỉnh, thanh tra
huyện đều là cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cùng cấp còn cơ quan
thanh tra theo ngành, lĩnh vực là thanh tra sở là cơ quan của sở, tức là một cơ quan
của cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân tỉnh.
1. Nhiệm vụ:
Đối với thanh tra hành chính, ngoài thanh tra việc thực hiện chính sách pháp
luật còn thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan tổ chức cá nhân thuộc


quyền quản lý trực tiếp của cơ quan quản lý nhà nước. Thể hiện sự kiểm tra giám
sát của cấp trên đối với cấp dưới trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước. Cho
nên việc theo dõi đánh giá đôn đốc cấp dưới thực hiện nhiệm vụ qua công tác
thanh tra là nội dung hết sức quan trọng.
Ví dụ: Thanh tra tỉnh Bắc Ninh có nhiệm vụ thanh tra vấn đề thực hiện chính
sách, pháp luật về cán bộ, công chức tại Ủy ban nhân dân thành phố Bắc Ninh.
Đối với thanh tra chuyên ngành, là việc chấp hành pháp luật, chấp hành
những quy định về chuyên môn kỹ thuật, quy tắc quản lý của ngành lĩnh vực. Điểm
khác biệt với thanh tra hành chính là: ngoài thanh tra việc chấp hành pháp luật,

thanh tra chuyên ngành còn hướng vào đánh giá sự chấp hành các quy tắc kỹ thuật
chuyên môn, quy tắc quản lý theo ngành, lĩnh vực như: quy tắc an toàn lao động,
quy tắc phòng chống cháy nổ. Đó là những hành vi xảy ra thường xuyên trong
cuộc sống, lao động và sản xuất hàng ngày.
Ví dụ: Thanh tra Bộ Tài nguyên môi trường có 2 nhiệm vụ chính: thứ nhất,
thanh tra vấn đề thực hiện chính sách, pháp luật đối với các vụ trực thuộc quyền
quản lý của Bộ Tài nguyên môi trường; thứ hai, có nhiệm vụ thanh tra các vấn đề,
chẳng hạn như: ô nhiễm môi trường, đất đai, ….
2. Hoạt động thanh tra:
a.
Mục đích:
Nếu như mục đích chung của thanh tra là “nhằm phòng ngừa, phát hiện và
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý,
chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện
pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân” thì sự phân hệ về mặt tổ chức của Bộ
máy Thanh tra nhà nước lại dẫn tới sự khác biệt về mục đích thanh tra:
Đối với thanh tra hành chính, mục đích là làm trong sạch bộ máy, bảo đảm
kỷ cương, kỷ luật trong quản lý, điều hành.
Ví dụ: Thanh tra Thành phố Hà Nội tiến hành hoạt động Thanh tra thường
kỳ đối với Quận Thanh Xuân trong việc thực hiện chính sách tiết kiệm chống lãng


phí trên địa bàn quận. Thông qua hoạt động này, Thanh tra Hà Nội sẽ phát hiện và
ngăn chặn kịp thời những cán bộ, công chức trên địa bàn quận Thanh Xuân sử
dụng lãng phí tài sản của nhà nước để phục vụ cho mục đích riêng; đồng thời kiến
nghị lên Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội xử lí theo thẩm quyền nhằm
làm trong sạch bộ máy, đảm bảo kỷ cương trong quản lý, điều hành trên địa bàn
thành phố Hà Nội.

Đối với thanh tra chuyên ngành,mục đích của nó không chỉ là làm trong
sạch bộ máy, bảo đảm ký cương, kỷ luật trong quản lí, điều hành mà còn bảo đảm
sự chấp hành pháp luật của mọi cơ quan, tổ chức cá nhân, bảo đảm trật tự, kỷ
cương trong hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như trong mọi lĩnh vực khác của
đời sống kinh tế-xã hội.
Ví dụ: Thanh tra Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội
- Tiến hành thanh tra hành chính đối với các phòng ban thuộc Sở trong việc
thực hiện pháp luật về tuyển dụng, sử dụng và quản lí cán bộ, công chức thuộc Sở
nhằm ngăn chặn những sai phạm đồng thời kiến nghị lên Sở những biện pháp xử lí
và khắc phục hậu quả. (quy định tại khoản 1 Điều 13 Nghị định số 85/2006/NĐ-CP
ngày 18/8/2006 của chính phủ về tổ chức và hạt động của thành tra giáo dục (văn
bản thay thế nghị định số 101/2002/NĐ-CP ngày 10-12-2002).
- Tiến hành thanh tra chất lượng chuyên môn giảng dạy tại các trường trung
học phổ thông kịp thời kiến nghị lên cơ quan có thẩm quyền đưa ra nhưng điều
chỉnh, quyết sách phù hợp. (quy định tại khoản 1 Điều 13 Nghị định số
85/2006/NĐ-CP ngày 18/8/2006 của chính phủ về tổ chức và hạt động của thành
tra giáo dục (văn bản thay thế nghị định số 101/2002/NĐ-CP ngày 10-12-2002).
Sự khác biệt về mục đích thanh tra giữa hai phân hệ này không hề xa rời
mục đích chung của Bộ máy Thanh tra nhà nước mà là nó trái lại nó đã tiến thêm
một bước trong việc đảm bảo hơn nữa mục đích của hoạt động thanh tra, thể hiện
sự nhận thức mới phù hợp với tình hình thực tế trước sự thay đổi của cơ chế quản
lí kinh tế nhằm tạo môi trường pháp lí cho sự phát triển nhưng vẫn đảm bảo kỷ
cương, kỷ luật công bằng.
a. Phạm vi, đối tượng:


Xuất phát từ đặc thù của hai loại hình hoạt động thanh tra hành chính và
thanh tra chuyên ngành, dẫn đến đối tượng chịu sự thanh tra của mỗi hình thức
hoạt động cũng có sự khác nhau.
Đối với thanh tra hành chính, đối tượng chịu sự thanh tra đó là những cơ

quan, tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý trực tiếp của cơ quan quản lý có
thẩm quyền quyết định việc thanh tra hành chính.
Đối với thanh tra chuyên ngành, do đặc thù của hoạt động thanh tra chuyên
ngành, một mặt phải thanh tra vấn đề chấp hành các chính sách, pháp luật, mặt
khác, phải thanh tra những vấn đề liên quan tới chuyên môn của ngành, lĩnh vực
đặc thù, vì thế đối tượng chịu sự thanh tra chuyên ngành đa dạng hơn. Với các đối
tượng chịu sự quản lý trực tiếp về mặt hành chính, thanh tra chuyên ngành sẽ thanh
tra việc chấp hành chính sách, pháp luật. Với bất kì cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá
nhân nào hoạt động trong ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi của cơ quan thanh tra
chuyên ngành cũng đều có thể bị thanh tra những vấn đề liên quan tới chuyên môn
Xét thấy Luật Thanh tra quy định về đối tượng chịu sự thanh tra của mỗi loại
hình hoạt động thanh tra trên đây đã thể hiện được sự hợp lý cần thiết. Hệ thống
các cơ quan có chức năng quản lý hành chính được phân bổ từ trung ương đến địa
phương dẫn đến việc ở mỗi cơ quan này chỉ cần có một cơ quan thanh tra hành
chính trực tiếp giúp việc cho cơ quan quản lý hành chính ấy, thanh tra việc chấp
hành chính sách, pháp luật của các cơ quan chịu sự quản lý trực tiếp
Bên cạnh đó, với các cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực như bộ
hay Sở, họ không chỉ quản lý những vấn đề liên quan đến ngành, lĩnh vực đặc thù,
mà còn quản lý những vấn đề mang tính hành chính nội bộ cơ quan mình. Vì vậy,
ở mỗi cơ quan có chức năng quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực cần thiết phải
có một cơ quan thanh tra trực tiếp dưới quyền, giúp cơ quan này thanh tra các cơ
quan chịu sự quản lý trực tiếp về các vấn đề chính sách, pháp luật, đồng thời cũng
lại phải thanh tra tốt cả những cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực
chuyên môn và trong phạm vi của cơ quan quản lý đó.
Ví dụ: Đối tượng chịu sự thanh tra của Thanh tra Chính phủ là các cơ quan
chịu sự quản lí trực tiếp của Chính phủ, đó là các Bộ, cơ quan ngang Bộ và các cơ
quan thuộc Chính phủ; UBND các Tỉnh (thành phố trực trung ương). Trong khi đó,


hoạt động thanh tra của cơ quan thanh tra chuyên ngành ở Trung ương là thanh tra

Bộ, thì đối tượng chịu sự thanh tra chia làm hai nhánh. Nhánh thứ nhất, đối tượng
chịu sự thanh tra trong lĩnh vực chấp hành chính sách pháp luật, nhiệm vụ của Nhà
nước, đó là các cơ quan chịu sự quản lí trực tiếp của Bộ về mặt quản lí hành chính,
cụ thể đó là các cục, các tổng cục, các vụ. Nhánh thứ hai, đối tượng chịu sự thanh
tra trong lĩnh vực chuyên môn, đó là các cơ quan, tổ chức cá nhân hoạt động trong
lĩnh cực chuyên môn đó mà không nhất thiết phải chịu sự quản lí trực tiếp của Bộ,
thậm chí đó có thể là các doanh nghiệp kinh tế ngoài nhà nước, điều đó cho thấy
phạm vi về đối tượng chịu sự quản lí của thanh tra chuyên ngành là rộng hơn rất
nhiều so với thanh tra hành chính.
b. Thẩm quyền:
Đối với thanh tra hành chính: không được xử phạt hành chính
Đối với thanh tra chuyên ngành: thì lại được xử phạt vi phạm hành chính.
Theo ý kiến nhóm em, lý giải cho vấn đề này, đó là: với thanh tra hành
chính, đây là cơ quan thuộc quyền quản lý trực tiếp của cơ quan quản lý hành
chính cùng cấp, có nhiệm vụ thanh tra các cơ quan cũng cùng thuộc sự quản lý trực
tiếp của cơ quan hành chính cùng cấp đó, do vậy cơ quan thanh tra này chỉ có thể
kiểm tra việc các cơ quan ngang hàng với mình làm đúng hay làm sai, mà không
thể xử phạt vi phạm hành chính với các cơ quan đó. Trong khi đó, với thanh tra
chuyên nghành, đối tượng thanh tra trong lĩnh vực đó rộng hơn, mặt khác nó lại
chịu sự quản lý về mặt chuyên nghành, đa phần đối tượng ấy lại không cùng cấp
với cơ quan thanh tra (thanh tra Bộ tài nguyên môi trường có thể thanh tra lĩnh vực
quản lí đất đai của Sở tài nguyên môi trường Thành phố Hà nội), nên việc trao cho
cơ quan thanh tra này quyền hạn được xử phạt vi phạm hành chính là cần thiết, kịp
thời chấn chỉnh các hành vi sai phạm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Ví dụ: Thanh tra thành phố Hà Nội thanh tra chính sách thực hành tiết kiệm
chống lãng phí tại địa bàn quận Thanh Xuân, khi phát hiện ra những sai phạm thì
Đoàn Thanh tra phải kiến nghị lên cơ quan có thẩm quyền giải quyết mà cụ thể ở
đây là ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội tiến hành xử lí theo thẩm quyền.



Thanh tra Sở Xây dựng Hà Nội tiến hành thanh tra chất lượng công trinh,
đảm bảo an toàn lao động tại các công trình kỷ niệm đại lễ 1000 năm Thăng Long
Hà Nội, khi phát hiện sai phạm an toàn lao động trong thi công, chất lượng công
trình không đảm bảo thì đoàn Thanh tra Sở có quyền tiến hành xử phạt vi phạm
hành chính các đơn vị thi công.
Tóm lại, cơ quan thanh tra nhà nước với hoạt động của mình đã phòng ngừa,
phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ
chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Phân hệ như trên sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra, đảm bảo không
để lọt đối tượng thanh tra phát hiện để kiến nghị kịp thời và tiến hành xử lý vi
phạm pháp luật, tìm ra nguyên nhân dẫn tới sự vi phạm, xử lý ngay để khắc phục
hậu quả và hạn chế vi phạm sau này.
Tuy nhiên cũng có hạn chế là dễ chồng chéo, trùng lặp, cấp trên cần phải có
biện pháp hay kế hoặc cũng như tổ chức chỉ đạo như thế nào để hoạt động thanh
tra đạt kết quả cao nhất.



×