Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.96 KB, 19 trang )

Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

MỤC LỤC
NỘI DUNG

GVHD: ThS. Phùng Thế Anh

Page 1


Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

LỜI NÓI ĐẦU
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng , bằng sự nỗ lực sáng tạo
của quần chúng , các nghành, các cấp, chúng ta đã vượt qua được khủng hoảng,
đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong hoạt động thực tiễn trên
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế tăng trưởng nhanh, chính trị ổn định,
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tận dụng
nguồn vốn và công nghệ, phát huy nội lực đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hoáhiện đại hoá, bộ mặt kinh tế-xã hội thay da đổi thịt từng ngày, đời sống đại bộ phận
nhân dân được cải thiện rõ nét.
Trong quá trình đổi mới, một trong những vấn đề tư duy lý luận cốt lõi thuộc về
đường lối là sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một
yếu tố tất yếu cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tế ở nước ta. Trong
những năm qua, nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và nhà nước,
nước ta đã thoát khỏi những khủng hoảng, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh,
đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, chính trị xã hội ổn định, an ninh
quốc phòng được giữ vững, từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp đã từng
bước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa
trên quy luật giá trị và tín hiệu cung cầu của thị trường.


Với mong muốn tìm hiểu các vấn đề khi xây dựng và phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như: vì sao chúng ta phải phát triển kinh
tế thị trường, mục đích phát triển kinh tế thị trường là gì, những đặc điểm và thực
trạng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta... Vì vậy em đã
chọn đề tài “Một số vấn đề kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam”

GVHD: ThS. Phùng Thế Anh

Page 2


Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

1.Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì?
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân
theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”.
2.Những điểm giống và khác nhau căn bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
và kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
2.1 Giống nhau:
Những vấn đề cơ bản của nền kinh tế do thị trường quyết định. Nói cách khác thì đều là
nền kinh tế hàng hóa chịu sự điều khiển của cơ chế thị trường.
2.2 Khác nhau

Khác biệt về

Kinh tế thị trường TBCN Kinh tế thị trường XHCN

Chế độ sở hữu


Tồn tại 2 hình thức sở hữu:
+ Sở hữu tư nhân: doanh
nghiệp cá thể có quy mô vừa
và nhỏ, doanh nghiệp tư
nhân có liên kết.
+ Sở hữu công: doanh nghiệp
do nhà nước quản lý.
Xem quyền tư hữu đối với
phương tiện sản xuất là
thiêng liêng được xã hội và
pháp luật bảo vệ.
Trong đó hình thức sở hữu tư
nhân đóng vài trò thống trị,
quyết định đến việc thực hiện
những nhiệm vụ chính của
nền kinh tế. Các thành quả
kinh tế chủ yếu do khu vực
tư nhân tạo nên chiếm từ
80% _ 85% GDP.
Thành phần kinh tế nhà nước
chủ yếu để giải quyết các vấn
đề xã hội đảm bảo công ăn
việc làm cho lực lượng lao
động.
=> Mục tiêu vì lợi nhuận

GVHD: ThS. Phùng Thế Anh

Page 3


Có 3 hình thức sở hữu:
+ Sở hữu toàn dân: Các nông
trường quốc doanh quy mô
lớn.
+ Sở hữu tập thể.
+ Sở hữu tư nhân
Trên cơ sở 3 chế độ sở hữu nêu
trên, hình thành nhiều hình
thức sở hữu và nhiều thành
phần kinh tế: kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân
( cá thể, tiểu chủ, tư bản tư
nhân), kinh tế tư bản nhà
nước , kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài.
Trong đó sở hữu nhà nước( sở
hữu toàn dân) đóng vai trò chủ
đạo và quyết định đến nền kinh
tế của đất nước. Về lâu dài,
kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân.
=> Mục tiêu không vì lợi
nhuận.


Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa


Hệ thống giá trị

Sự chi phối sản xuất và tiêu
dùng bởi giá cả thị trường.
Sản xuất và tiêu dùng điều
theo dấu hiệu của giá cả. Giá
cả là dấu hiệu để phân bố
nguồn lực và quyết định sản
xuất.
Cơ sở định giá: do thị trường
quyết định( qua quan hệ cung
cầu)
Các nhà sản xuất phải là nhà
chấp nhận giá.
Gía trị hàng hóa được phản
ánh đúng.

Hệ thống giá cả không theo thị
trường và được quyết định bởi
ý muốn chủ quan của nhà
nước.
Tồn tại 2 loại giá:
Giá trị sản xuất: được dùng để
cá nhân sản xuất trao đổi với
nhau, vào giữa các nhà sản
xuất vời các thương nghiệp.
Mức giá này được nhà nước
đặt ra dựa theo một tiêu ổn
định kinh tế, nên đôi khi không
phản ánh đúng giá trị của hàng

hóa.

Cơ sở điều tiết hoạt động Chủ nghĩa cá nhân và khách
kinh tế
hàng là thượng đế nên tự do
cạnh tranh
+ Chủ nghĩa cá nhân: là đặt
quyền lợi của cá nhân lên
trên hết, lên trên quyền lợi
cửa chính phủ.
+ Khách hàng là thượng đế:
việc khách hàng bỏ tiền ra
mua hàng đồng nghĩa với
việc họ bỏ phiếu cho sự tồn
tại và phát triển của nhà sản
xuất đó.

Quyền làm chủ tập thể, mình vì
mọi người và mọi người vì
mình nên cơ chế này sẽ dễ
dang làm xã hội tiến lên hoặc
lùi là phục thuộc và xã hội đó
có tốt hay không.

Chế độ quản lý

Có sự can thiệp một cách toàn
diện của chính phủ vào hoạt
động
kinh

tế
.
Nhà nước nằm trong lòng xã
hội chủ nghĩa .
Chính phủ là chủ sở hữu nguồn
lực.
Chính phủ là chủ quản các hoạt
động KTXH.
Chính phủ là chủ sở hữu các
lĩnh vực ngân hàng- tài chính

GVHD: ThS. Phùng Thế Anh

Sự can thiệp hạn chế của
chính phủ vào các hoạt động
kinh tế “nhà nước nằm trên
TBCN” nhà nước không
muốn can thiệp vào nên kinh
tế mà chỉ muốn can thiệp vào
những lĩnh vực mà cả người
sản xuất vào người tiêu dùng
diều không làm được( xây
dựng luật và chính sách bảo
vệ người sản xuất và tiêu
dùng).
Page 4


Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa


=>Sự khác biệt cơ bản của kinh tế thị trường định hướng XHCN so với nền kinh tế thị
trường TBCN là ở chỗ xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động.
Phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất của kinh tế thị trường định hướng XHCN,
nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. Vì thế phân phối theo lao
động được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
3. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là con đường phát triển tất yếu.
3.1 Tính tất yếu của kinh tế thị trường nhìn từ góc độ lý luận: Học thuyết kinh tế xã
hội của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Theo nhận thức truyền thống, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có quan hệ mật thiết và thống
nhất với nhau trong mỗi phương thức sản xuất. Lực lượng sản xuất là cơ sở vật chất, điều kiện vật chất
có vai trò quyết định quan hệ sản xuất - hình thức xã hội của sản xuất. Khi quan hệ sản xuất không còn
phù hợp với lực lượng sản xuất thì tất yếu phải được thay thế bằng phương thức sản xuất tiến bộ hơn.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã ra đời trên cơ sở của lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ
và phá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu. Với thành quả của cách mạng công nghiệp chuyển mạnh
từ lao động thủ công lên lao động với công cụ kỹ thuật cao, và diễn ra quá trình công nghiệp hóa.
Để phát triển lực lượng sản xuất, con đường tất yếu là phải diễn ra cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật,
công nghệ, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là quá trình phát triển không ngừng ở tất cả các
nước dưới những hình thức và mức độ khác nhau. Ở Liên Xô trước đây, trong chính sách kinh tế mới của
Lênin, đã coi trọng phát triển lực lượng sản xuất trong cách thức tổ chức, quản lý của kinh tế thị trường.

3.2 Tính tất yếu của kinh tế thị trường nhìn từ góc độ thực tiễn VN.
Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy, mô hình
phát triển kinh tế theo hướng thị trường có sự điều tiết vĩ mô từ trung tâm, trong bối cảnh
của thời đại ngày nay, là mô hình hợp lý hơn cả. Mô hình này, về đại thể có thể đáp ứng
những thách thức của sự phát triển.
Ở nước ta, việc thực hiện mô hình này, trong thực tế, chẳng những là nội dung của
công cuộc đổi mới mà hơn thế nữa còn là công cụ, là phương thức để nước ta đi tới mục
tiêu xây dựng CNXH.
Nền kinh tế nước ta hiện nay chỉ có thể nói đang trong giai đoạn quá độ, chuyển
tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản

lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Do vậy những đặc điểm của giai đoạn quá độ
GVHD: ThS. Phùng Thế Anh

Page 5


Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

trong nền kinh tế nước ta, đương nhiên là một vấn đề rất có ý nghĩa, rất cần được nghiên
cứu, xem xét. Nhận thức được những đặc điểm phức tạp của giai đoạn quá độ, chi phối
những đặc điểm đó, chúng ta sẽ tránh đựơc những sai lầm chủ quan, nóng vội, duy ý chí
hoặc những khuynh hướng cực đoan, máy móc, sao chép, chấp nhận nguyên bản kinh tế
thị trường từ bên ngoài vào.
Kinh tế thị trường , như chúng ta đã biết, là một kiểu quan hệ kinh t ế - x ã hội mà
trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn liền với thị trường, tức là gắn chặt với quan
hệ hàng hoá - tiền tệ. Với quan hệ cung - cầu...
Trong nền kinh tế thị trường, nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sông xã hội
quan hệ hàng hoá.
Nếu như trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ có một kiểu sở hữu tương đối thuần
nhất với hai thành phần tập thể và quốc doanh, thì hiện nay, cùng với thành phần sở hữu
chủ đạo là sở hữu Nhà nước, còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác. Những hình thức
sở hữu đó, trong thực tế vận hành của nền kinh tế, không hẳn đã đồng bộ với nhau, đôi
khi chúng còn có mâu thuẫn với nhau. Song về tổng thể, chúng là những bộ phận khách
quan của nền kinh tế, có khả năng đáp ứng những đòi hỏi đa dạng và năng động của nền
kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường vừa là căn cứ,
vừa là đối tượng của công tác kế hoạch hoá. Việc điều tiết vĩ mô đối với thị trường, một
mặt làm cho nền kinh tế nước ta thực sự trở thành một thị trường thống nhất - thống nhất
trong cả nước và thống nhất với thị trường thế giới - mặt khác còn có tác dụng làm cho
mỗi đơn vị kinh tế phải tự khẳng định khả năng và vai trò của mình trong thị trường.

Tuy nhiên, nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, chúng ta lại cũng
hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đời sống xã hội. Sự tăng
trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêu của phát triển xã hội; nó có khả năng tạo ra
điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng tăng trưởng kinh tế không nhất thiết đi
liền với tiến bộ xã hội. Do vậy, những quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xã
hội CNXH với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, nền kinh tế thị
trường nhất thiết phải có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.2.1 Thời kỳ trước đổi mới (1954-1985)

GVHD: ThS. Phùng Thế Anh

Page 6


Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

Trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế nước ta là cơ chế kế hoạch hóa tập trung
với những đặc điểm chủ yếu là:
Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa
trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới.
Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý
đối với các quyết định của mình.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa - tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là
chủ yếu. Nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát - giao nộp”. Vì vậy rất
nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động, phát minh sáng chế, tư liệu sản xuất quan
trọng, không được coi là hàng hóa về mặt pháp lý.
Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động vừa
sinh ra đội ngũ kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu nhưng lại được hưởng
quyền lợi cao hơn người lao động.

Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau:
Bao cấp qua giá: nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa
thấp hơn giá trị chúng nhiều lần so với giá thị trường. Do đó, hạch toán kinh tế chỉ là
hình thức.
Bao cấp qua chế độ tem phiếu: nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm
tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ
tem phiếu với mức giá khác xa so với mức giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành
lương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân
phối theo lao động.
Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách nhưng không có chế tài ràng
buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh
nặng đối với ngân sách vừa làm cho sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “ xin cho”.
Trong Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng theo chiều rộng thì cơ chế này có tác dụng
nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu
trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo
hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.
+Hệ quả:
GVHD: ThS. Phùng Thế Anh

Page 7


Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

_Thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học - công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế
đối với người lao động, không kích thích năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất
kinh doanh.
_Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát
triển theo chiếu sâu dựa trên cơ sở áp dụng thành tựu cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ khuyết điểm của nó, làm cho kinh tế

các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có nước ta, lâm vào tình trạng trì trệ,
khủng hoảng.
3.2.2 Thời kỳ đổi mới (1986 đến nay)
3.2.2.1 Nguyên nhân thúc đẩy tiến trình đổi mới.
Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta xuất phát từ nhiều lý do trong
đó đáng chú ý nhất là ba cơ sở sau đây:
Một là, đòi hỏi bức xúc của cuộc sống (yêu cầu thoát khỏi khủng hoảng kinh tế).
Ở trong nước, sau 10 năm tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đạt
được một số thành tựu, song khó khăn còn nhiều và ngày càng găy gắt dẫn đến tình
trạng khủng hoảng về kinh tế - xã hội vào những năm 80 (các chỉ tiêu kinh tế không đạt,
lạm phát tăng, đời sống nhân dân gặp khó khăn nghiêm trọng…)
Từ sự khó khăn và ngày càng trầm trọng nên đã xuất hiện tình trạng “xé rào” ở
một số nơi để nhằm xoay chuyển tình hình cả trong nông nghiệp, công nghiệp và ngoại
thương.
Hai là, bản thân Đảng đã có những nhận thức mới về xây dựng chủ nghĩa xã hội
và phát triển nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy trong nhận
thức của Đảng đã có những bước đột phá về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nhưng chưa
triệt để.
3.2.2.2 Đại hội đại biểu lần thứ 6 của Đảng (từ ngày 15 đến 18/12/1986 tại Hà Nội)
-đại hội đánh dấu sự đổi mới.
Đại hội cho rằng, cơ chế quản lý kinh tế cũ mang nặng tính chất tập trung quan liêu.
Đặc trưng của cơ chế ấy là cơ quan quản lý hành chính có toàn quyền quyết định những
GVHD: ThS. Phùng Thế Anh

Page 8


Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

vấn đề kinh tế nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về các quyết định của mình: không

tính tới hiệu quả sử dụng tiền vốn, tài sản, vật tư, lao động; không gắn trách nhiệm với lợi
ích vật chất, tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng lao động; bộ máy
quản lý cồng kềnh, nhiều tầng lớp trung gian, cửa quyền, kém năng động, thiếu trách
nhiệm.
Đại hội VI đã khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cớ
chế quản lý kinh tế. Cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo
được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa,hạn chế việc sử dụng và
cải tạo các thành phần kinh tế khác , kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng,
hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong
xã hội”.
 Việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách.

Như vậy, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI đã tìm ra lối thoát cho cuộc khủng
hoảng kinh tế xã hội, thể hiện quan điểm đổi mới toàn diện đất nước, đặt nền tảng cho
việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những chủ trương,
chính sách mới đã gợi mở, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, giải phóng
năng lực sản xuất của xã hội để mở đường cho phát triển sản xuất.
3.2.2.3 Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kì đổi mới
Trong giai đoạn này, tư duy của Đảng về kinh tế thị trường được hình thành và
phát triển. Đã có sự thay đổi căn bản và sâu sắc trong nhận thức về kinh tế thị trường so
với thời kì trước đổi mới.
3.2.2.4 Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII
Từ Đại hội VI đến hết nhiệm kỳ Đại hội VIII (2001), là thời kỳ đổi mới toàn diện
cả về cấu trúc và cơ chế vận hành nền kinh tế với nội dung chính là từ bỏ cơ chế kế hoạch

GVHD: ThS. Phùng Thế Anh

Page 9



Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

hoá tập trung, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Qua 10 năm tiến hành đổi mới đất nước, nhất là những đổi mới toàn diện trên lĩnh
vực kinh tế, những nhận thức mới, những quan đểm mới về kinh tế thị trường của Đảng
từng bước được định hình rõ nét.
Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành
tựu phát triển chung của nhân loại.
Kinh tế hàng hóa là hình thức tổ chức kinh tế xã hội mà sản phẩm của quá trình
dùng để thoả mãn nhu cầu của con người thông qua trao đổi, mua bán. Kinh tế thị trường
là phương thức tổ chức,vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế
thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế và điều tiết mối quan hệ giữa
người với người
Kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hội nô lệ, hình thành trong xã hội
phong kiến và phát triển cao trong chủ nghĩa tư bản. Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị
trường giống nhau về bản chất (đều chịu sự điều tiết của cơ chế thị trường) và nguồn gốc
(xuất phát từ kinh tế tự nhiên và sự phân công lao động xã hội). Tuy nhiên, kinh tế hàng
hóa và kinh tế thị trường có sự khác nhau về trình độ phát triển. Kinh tế hàng hóa ra đời
từ kinh tế tự nhiên, kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa.
Kinh tế hàng hóa còn ở trình độ thấp, chủ yếu là sản xuất hàng hóa tư nhân, quy mô nhỏ
bé, kỹ thuật thủ công, năng suất thấp. Kinh tế thị trường lấy khoa học, công nghệ hiện đại
làm cơ sở và nền sản xuất xã hội hóa cao.
Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài, nhưng cho đến nay nó mới biểu
hiện rõ rệt nhất trong chủ nghĩa tư bản. Nếu trước chủ nghĩa tư bản, kinh tế thị trường
còn ở thời kì manh nha, trình độ thấp thì trong chủ nghĩa tư bản nó đạt trình độ cao đến
mức chi phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó. Điều đó khiến người ta
GVHD: ThS. Phùng Thế Anh

Page 10



Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

nghĩ rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó, kinh tế thị trường với tư
cách là kinh tế hàng hóa ở trình độ cao không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư
bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Chỉ có thể chế kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa hay cách thức sử dụng kinh tế thị trường theo lợi nhuận tối đa của chủ
nghĩa tư bản mới là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản.
Tóm lại, kinh tế thị trường tồn tại và phát triển là tất yếu khách quan, nó không
phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của nhân loại. Hiện
nay có nhiều mô hình kinh tế thị trường khác nhau (kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị
trường xã hội).
Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội.
Kinh tế thị trường dưới góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế” là phương thức tổ chức,
vận hành nền kinh tế là phương tiện điều tiết kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để
phân bổ các nguồn lực kinh tế và điều tiết mối quan hệ giữa người với người. Nó là thành
tựu chung của văn minh nhân loại, tồn tại và phát triển ở nhiều phương thức sản xuất
khác nhau. Nó vừa có thể liên hệ với chế độ tư hữu vừa có thể liên hệ với chế độ công
hữu và phục vụ cho công chúng. Vì vậy, kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời
kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
* Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) đã đưa ra kết luận quan trọng rằng sản xuất
hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn tại khách quan và cần thiết cho xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội cũng xác định cơ chế nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là “cơ chế thị trường có sự quản lí của
nhà nước” bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Trong cơ chế kinh
tế này:


GVHD: ThS. Phùng Thế Anh

Page 11


Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

+ Các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, quan hệ bình đẳng,
cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện.
+ Thị trường trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động
và phương án tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.
+ Nhà nước quản lý nền kinh tế để định hướng dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo
điều kiện và môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm
soát và xử lý các vi phạm trong hoạt động kinh tế, bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế
với phát triển xã hội.
* Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc đổi
mới toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì
vậy, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
Ở bất kỳ xã hội nào, khi lấy thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ
các nguồn lực kinh tế, thì kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm chủ yếu sau:
+ Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản xuất,
kinh doanh, lỗ lãi tự chịu.
+ Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và
hoàn hảo.
+ Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có của kinh tế thị

trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.
GVHD: ThS. Phùng Thế Anh

Page 12


Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

Quy luật giá trị :
Quy luật cung cầu:
Qua luật cạnh tranh:
+ Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của nhà nước
Với những đạc điểm trên, nền kinh tế thị trường có vai trò rất lớn đối với sự phát
triển kinh tế xã hội.
Trước đổi mới, thị trường chỉ được coi là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế
hoạch, do đó không cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nhĩa xã hội.
Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ có thể dùng cơ chế thị trường
làm cơ sở phân bổ các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiêt chủng loại và
số lượng hàng hóa, điều hòa quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế
cạnh tranh, thúc đẩy cái tiến bộ, đào thải cái lạc hậu, yếu kém.
3.2.2.5. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đai hội IX đến nay.
Đại hội IX của đảng (4/2001) đã xác định nền kinh tề thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nuớc ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội.
 Bước chuyển quan trong từ nhận thức kinh tế thị trường chỉ như một công cụ, một
cơ chế quản lý, đến nhận thức coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế
của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu khách quan
của sự phát triển kinh tế.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “ một kiểu tổ chức kinh tế vừa

tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dực trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối
GVHD: ThS. Phùng Thế Anh

Page 13


Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”. Kinh tế thị trường nước ta tuy chịu
tác động của quy luật giá trị là quy luật chung của kinh tế thị trường nhưng khác với kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa vận hành tuân theo quy luật kinh tế cơ bản là quy luật giá
trị thặng dư, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chịu tác động của quy luật
kinh tế cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa đó là quy luật quy định mục đích khách quan
của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là không ngừng phát triển sản xuất và nâng cao đời
sống của mọi thành viên trong xã hội.
 Đây là sự khác biệt về bản chất của kinh tế thị trường nước ta với kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của “thị trường” được sử dụng để “phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân”, còn tính “định hướng xã hội chủ nghĩa’ thể hiện trên 3
mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, quản lý và phân phối.
Đại hội X đã làm sáng tỏ nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong
phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện qua 4 tiêu chí:

 Mục đích phát triển: với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh” giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời
sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích làm giàu chính đáng, giúp
đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn đã thể hiện mục đích phát triển vì
con người, giải phóng lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống cho mọi người, mọi người
đều được hưởng thành quả của sự phát triển. Ở đây thể hiện sự khác biệt với mục đích tất

cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của các nhà tư bản, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư bản.

 Phương hướng phát triển: phát triển kinh tế với nhiều hình thức sở hưũ: toàn
dân, tập thể, tư nhân; nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá
GVHD: ThS. Phùng Thế Anh

Page 14


Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

nhân, mọi vùng miền…phát huy tối đa mọi nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế. Các
thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật, vừa hợp tác cùng có lợi, vừa cạnh tranh
phát triển trong một chỉnh thể, tạo thành những bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng
và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo điều kiện và
môi trường thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Để làm được như vậy,
kinh tế nhà nước phải nắm được các vị trí then chốt của nền kinh tế bắng trình độ khoa
học công nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Đại hội X đã khẳng định
“kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh
tế quốc dân; kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng, là một trong những động lực của
nền kinh tế”. Mặt khác tiến lên xã hội chủ nghĩa xã hội đặt ra yêu cầu nền kinh tế phải
dựa trên nền tảng sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất chủ yếu, khác với chế độ sở hữu lớn
của chủ nghĩa tư bản.

 Định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước, từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng
bộ với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội

thông qua các chính sách lao động và việc làm, chính sách xóa đói giảm nghèo, chính
sách an sinh xã hội, chính sách phòng chống tệ nạn xã hội. Hạn chế tác động tiêu cực của
kinh tế thị trường như cạnh tranh không lành mạnh, chạy theo lợi nhuận, phân hoá giàu
nghèo.
Trong phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện qua chế độ phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội. Muốn cho nền kinh tế thị trường
không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội và thực hiện
công bằng xã hội, thì Nhà nước phải chủ động thực hiện và điều tiết các quan hệ phân
phối, cụ thể như:

GVHD: ThS. Phùng Thế Anh

Page 15


Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

- Kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích của sự kết hợp này là vừa bảo
đảm cho các chủ thể tham gia kinh tế thị trường có điều kiện đua tranh phát huy tài năng
và có lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị – xã hội bình thường cho sự phát
triển kinh tế.
- Nhà nước chủ động điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Một mặt, Nhà nước
phải có chính sách để giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người
nghèo, không để diễn ra sự chênh lệch quá mức giữa các vùng, miền, các dân tộc và các
tầng lớp dân cư, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Mặt khác, phải có chính sách,
biện pháp bảo vệ thu nhập chính đáng, hợp pháp cho người giàu, khuyến
- Đồng thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển chúng ta còn thực
hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác như theo lao động, theo tài
năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội… Thừa nhận sự tồn tại của các hình thức thuê
mướn lao động, các quan hệ thị trường sức lao động, nhưng không để chúng biến thành

quan hệ thống trị, dẫn đến tình trạng không kiểm soát được sự phân hóa xã hội thành hai
cực đối lập.

 Quản lý: phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân như thực hiện cơ chế để
công nhân tham gia quản lý và giám sát hoạt động của doanh nghiệp, cổ phần hoá các
doanh nghiệp nhà nước, đồng thời bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà
nước pháp quyền xã họi chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sực
khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Vai trò lãnh đạo của Đảng và
quản lý của Nhà nước là hai nhân tố chính trị căn bản bảo đảm sự thành công của đường
lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Hai nhân tố này thể hiện tính tự giác, khắc phục tính tự phát của
kinh tế thị trường và mặt trái của toàn cầu hóa kinh tế đang do chủ nghĩa tư bản chi phối,
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, ra sức nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh
và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động
GVHD: ThS. Phùng Thế Anh

Page 16


Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đề ra các chính sách kinh tế vĩ mô và thiết
lập cơ chế thị trường sao cho các thành phần kinh tế khác nhau vận động theo cùng một
hướng tạo thành một hợp lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh và bền vững, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, cụ thể như:
- Tạo môi trường pháp lý, kinh tế – xã hội ổn định, thuận lợi cho các chủ thể kinh tế
hoạt động theo cơ chế thị trường.
- Định hướng và hướng dẫn sự phát triển kinh tế – xã hội bằng việc soạn thảo, ban
hành các kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế – xã hội và các chính

sách.
- Sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị kinh tế, đặc biệt là sắp xếp, củng cố các doanh
nghiệp nhà nước; phân phối các khu công nghiệp tập trung, các vùng kinh tế nhằm tạo ra
cơ cấu kinh tế hợp lý, phù hợp với nền kinh tế thị trường; tổ chức lại hệ thống quản lý,
sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế. Đổi mới thể chế và thủ tục hành
chính. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước và quản lý
doanh nghiệp; thiết lập mối quan hệ kinh tế với các nước và các tổ chức kinh tế quốc tế.
- Điều tiết kinh tế, điều hành vĩ mô nền kinh tế, trong đó Nhà nước cần cân nhắc kỹ
lưỡng những mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường được diễn ra chủ yếu
theo sự hướng dẫn của các quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh; bảo đảm
nguyên tắc vận hành của nền kinh tế là nguyên tắc thị trường "tự điều chỉnh". Mặt khác,
do thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là thị
trường tự điều tiết hoàn toàn, mà còn phải phục vụ các mục tiêu kinh tế – xã hội của đất
nước trong từng thời kỳ, do đó nó còn phải chịu sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
- Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát nhằm thiết lập kỷ cương trong
hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn chặn các hiện tượng vi phạm pháp luật và làm sai
GVHD: ThS. Phùng Thế Anh

Page 17


Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

chính sách, bảo vệ tài sản quốc gia và lợi ích của nhân dân góp phần tăng trưởng kinh tế
và từng bước thực hiện công bằng xã hội.

 Kết quả: Qua gần 30 năm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa, từ Đại hội VI (năm 1986) đến nay, dưới sự lãnh đạo của

Đảng, đất nước ta đã chuyển đổi thành công từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa Việt Nam ra khỏi
tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập
trung bình, đồng thời hình thành được hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu
phục vụ đời sống kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Thể chế kinh tế, đặc biệt là hệ thống luật pháp và bộ máy quản lý
ngày càng được xây dựng, hoàn thiện theo hướng tiến bộ, phù hợp. Công
tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả. Dân
chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính trị - xã hội ổn định, quốc
phòng, an ninh được giữ vững.






Chế độ sở hữu và cơ cấu các thành phần kinh tế được đổi mới cơ bản từ sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể là chủ yếu sang
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phân kinh tế đan xen hỗn hợp, trong đó kinh
tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho khai thác
tiềm năng trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế- xã hội. Phân phối tính đến
hiều quả.
Các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất trong cả
nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước đã đi vào cuộc sống, doanh nghiệp và doanh nhân được tự chủ kinh
doanh, cạnh tranh lành mạnh để phát triển.
Minh chứng cho các thành quả đạt được một cách rõ nét nhất là tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Giai đoạn 1986-1990, giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, khủng hoảng
kéo dài nhưng đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. GDP tăng

4,4%/năm. Giai đoạn 1991-1995 GDP bình quân tăng 8,2%/năm. Giai đoạn 19962000 mặc dù cùng chịu tác động của khủng hoảng tài chính khu vực, thiên tai

GVHD: ThS. Phùng Thế Anh

Page 18


Kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa







nghiêm trọng xảy ra liên tiếp nhưng chúng ta vẫn duy trì được tốc độ tăng GDP
đạt 7%. Bình quân từ năm 1991-2000 GDP tăng 7,6%/năm.
Giai đoạn từ 2001-2010 GDP tăng bình quân 7,26%. Giai đoạn 2011-2015 dự kiến
đạt khoảng 6%/năm. Tính chung cho cả giai đoạn GDP tăng bình quân gần 7%,
trong đó có tới 20 năm liên tục GDP tăng bình quân 7,43%. Thành tích này nếu so
sánh thấp hơn Hàn Quốc, Singapore, nhưng cao hơn hầu hết các nước khu vực
ASEAN còn lại.
Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng nhanh, ổn định còn được minh chứng ở tiềm
lực và quy mô nền kinh tế ngày một lớn mạnh. Theo số liệu công bố tại Diễn đàn
Quan hệ đôi tác phát triển Việt Nam năm 2013 GDP Việt Nam đạt gần 176 tỷ
USD, thu nhập bình quân đầu người năm 2013 đã tăng hơn 20%, đạt khoảng 1.960
USD so với mức 1.600 USD năm 2012 và nhiều khả năng hoàn thành sớm mục
tiêu đạt 2.000 USD vào năm 2015 mà Đại hội Đảng lần thứ XI đề ra.
Theo WB, năm 2012, GDP tính theo PPP Việt Nam đạt 322 tỷ USD, so với khu
vực thế giới, Việt Nam đứng thứ 42.


GVHD: ThS. Phùng Thế Anh

Page 19



×