Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

câu hỏi về các nguyên tắc đối xử tối huệ quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.65 KB, 17 trang )

LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

CÂU HỎI về các nguyên tắc đối xử tối huệ quốc
Câu 1: Mục tiêu cơ bản của nguyên tắc đối xử MFN tại Điều I: 1 của GATT 1994 là
gì ?
Theo Điều I: 1 Hiệp định GATT 1994, Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN - Most
favoured nation), là nguyên tắc pháp lí quan trọng nhất của WTO, được hiểu là nếu một
nước dành cho một nước thành viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ
phải dành sự ưu đãi đó cho tất cả các nước thành viên khác.
Với sự tồn tại của nguyên tắc này, các quốc gia sẽ được bảo đảm rằng quốc gia đối
tác thương mại của mình sẽ không dành cho quốc gia khác chế độ thương mại ưu đãi
hơn, đồng nghĩa với nguyên tăc bình đẳng và không phân biệt đối xử vì tất cả các nước sẽ
dành cho nhau sự "đối xử ưu đãi nhất".
Theo tinh thần không có sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa của các nước khác
nhau, nếu một nước thành viên dành cho sản phẩm từ bất kỳ nước thành viên nào mức
thuế quan hay bất kỳ một ưu đãi nào khác thì cũng phải dành mức thuế quan hoặc ưu đãi
đó cho sản phẩm tương tự của tất cả các quốc gia thành viên khác một cách ngay lập tức
và vô điều kiện. WTO cũng cho phép các nước thành viên được duy trì một số ngoại lệ
của nguyên tắc này. Đây là cơ sở đảm bảo cho quá trình tự do hóa thương mại được bền
vững và ổn định.
Nhìn chung trong khuôn khổ của WTO, các quy định liên quan đến quy chế MFN
nhằm hướng đến mục đích: Cấm phân biệt đối xử giữa các quốc gia đối tác và đảm bảo
sự bình đẳng giữa các đối tác khi nhập khẩu từ cũng như xuất xứ từ các thành viên của
WTO.
Câu 2: Để kết luận một biện pháp vi phạm quy định tại Điều I:1 của GATT 1994,
cần chứng minh những yếu tố nào? Giải thích ngắn gọn những yếu tố trên.
Để xác định một biện pháp có vi phạm nghĩa vụ đối xử tối hệ quốc hay không, ta
cần:
• Phải xác định có tồn tại hay không một ưu đãi thương mại dành cho sản phẩm đến từ
một quốc gia so với từ các nước khác. Chúng ta phải trả lời cho câu hỏi: Biện pháp này
có dành ưu đãi thương mại cho hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu từ một quốc gia và từ các


nước khác hay không? Theo Điều I:1 GATT 1994, ưu đãi thương mại được hiểu là bất kỳ
Trang 1


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
lợi thế nào và được hiểu rất rộng, có thể là thuế nhập khẩu xuất khẩu, thủ tục hải quan,
thuế nội địa, các quy định trong nước liên quan đến việc bán hàng, chào bán, vận tải,


phân phối hay sử dụng.
Sản phẩm đặc biệt từ một quốc gia có phải là sản phẩm tương tự với sản phẩm đến từ
quốc gia khác hay không? Tương tự không có nghĩa là giống hệt. Việc xác định các sản
phẩm liên quan có phải sản phẩm tương tự nhau sẽ được xác định qua các tiêu chí được
sử dụng bao gồm đặc tính vật lý của sản phẩm, thị hiếu tiêu dùng, công dụng sử dụng

cuối cùng và phân loại sản phẩm trong danh mục thuế quan.
• Ưu đãi về thuế quan dành cho quốc gia đó có ngay lập tức và vô điều kiện dành cho quốc
gia khác hay không? Ngay lập tức và vô điều kiện tức là việc một quốc gia dành ưu đãi
thương mại cho quốc gia khác là hoặc không là thành viên của WTO mà không áp đặt
thêm hoặc duy trì điều kiện bổ sung nào đối với việc dành ưu đãi đó và cũng không trì
hoãn việc dành ưu đãi đó.
Nếu các biện pháp đó có các sai phạm theo các yếu tố đã phân tích trên thì biện
pháp này đã vi phạm nghĩa vụ đối xử tối hệ quốc ở Điều I:1 GATT 1994.
Câu 3: Những loại biện pháp nào thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều I:1 ?
Theo Điều I:1 GATT 1994, biện pháp đối xử về thuế được áp dụng như tại Khoản
2, 4 Điều III GATT 1994. Theo đó, Hàng nhập khẩu từ lãnh thổ của bất cứ một bên ký
kết nào sẽ không phải chịu, dù trực tiếp hay gián tiếp, các khoản thuế hay các khoản thu
nội địa thuộc bất cứ loại nào vượt quá mức chúng được áp dụng, dù trực tiếp hay gián
tiếp, với sản phẩm nội tương tự. Sản phẩm nhập khẩu từ lãnh thổ của bất cứ một bên ký
kết nào vào lãnh thổ của bất cứ một bên ký kết khác sẽ được hưởng đãi ngộ không kém

phần thuận lợi hơn sự đãi ngộ dành cho sản phẩm tương tự có xuất xứ nội về mặt luật
pháp, quy tắc và các quy định tác động đến bán hàng, chào bán, mua, chuyên chở, phân
phối hoặc sử dụng hàng trên thị trường nội địa. Các quy định của khoản này sẽ không
ngăn cản việc áp dụng các khoản thu phí vận tải khác biệt chỉ hoàn toàn dựa vào yếu tố
kinh tế trong khai thác kinh doanh các phương tiện vận tải và không dưạ vào quốc tịch
của hàng hoá.
Đồng thời, không một bên ký kết nào sẽ áp dụng hay duy trì một quy tắc định
lượng nội địa nào với pha trộn, chế biến hay sử dụng sản phẩm tính theo khối lượng cụ
thể hay theo tỷ lệ, trực tiếp hay gián tiếp đòi hỏi một khối lượng hay tỷ lệ nhất định của
Trang 2


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
bất cứ một sản phẩm nào chịu sự điều chỉnh của quy tắc đó phải được cung cấp từ nguồn
nội địa. Thêm vào đó, không một bên ký kết nào sẽ áp dụng các quy tắc định lượng trong
nước theo cách nào khác trái với các nguyên tắc đã quy định.
Câu 4: Làm cách nào để xác định rằng hai sản phẩm là “tương tự” trong phạm vi
điều I:1 GATT 1994? Vì sao WTO lại không dùng thuật ngữ “giống hệt” mà lại
dùng “tương tự”?
Tại Điều I:1 Hiệp định GATT 1994 về Quy chế đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN), tồn
tại quy trình ba bước để kết luận một biện pháp bất kì có phân biệt đối xử hay không:

1.

Liệu biện pháp gây tranh cãi có tạo ra một “lợi thế, biệt đãi, đặc quyền hay

2.
3.

quyền miễn trừ” gì về mặt thương mại không?;

Liệu sản phẩm liên quan có phải là “sản phẩm tương tự” không?;
Liệu các lợi thế được tạo ra có được trao cho “tất cả các sản phẩm tương tự
ngay lập tức và vô điều kiện” không?.
Ta thấy rằng tồn tại thuật ngữ “sản phẩm tương tự” , và thuật ngữ này không chỉ

được nhắc đến riêng trong quy định của nguyên tắc MFN mà còn được sử dụng trong tất
cả các quy định liên quan tới chống phân biệt đối xử của WTO. Việc xác định sản phẩm
có “tương tự” hay không là một vấn đề cốt lõi để xem xét có tồn tại việc phân biệt đối xử
hay không. Bên cạnh đó, việc xác định tính “tương tự” giúp tránh trường hợp các thành
viên khẳng định tính khác biệt của một số sản phẩm nhằm giảm hoặc bóp méo phạm vi
của các cam kết thương mại của mình và từ đó làm giảm ảnh hưởng của quy chế MFN.
Tuy nhiên, GATT 1994 lại không có quy định chi tiết về sản phẩm “tương tự” là
gì, vậy nên xác định tính “tương tự” của sản phẩm vô cùng phức tạp và khó khăn. Trong
các Hiệp định chống bán phá giá, Hiệp định về trợ cấp và thuế đối kháng có đề cập tới
khái niệm “tương tự”, theo đó “…sản phẩm, hàng hóa tương tự là những sản phẩm hàng
hóa giống hệt, ví dụ như giống hệt sản phẩm đang được xem xét về mọi mặt hoặc nếu
không tồn tại một sản phẩm như vậy, một sản phẩm khác dù không tương đồng về mọi
mặt, nhưng có những đặc điểm, tính chất rất giống sản phẩm được xem xét”. Tuy nhiên
việc đưa ra khái niệm cũng như tiêu chí xác định sản phẩm tương tự khó hiểu và khá trừu
tượng nên trong thực tiễn đã dẫn đến những mâu thuẫn trong cách hiểu, giải thích và vận
dụng quy định về sản phẩm tương tự giữa các nước thành viên WTO. Chính điều đó đã
Trang 3


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
dẫn đến những tranh chấp như vụ kiện DS8, DS10, DS11 về sản phẩm đồ uống có cồn
giữa Nhật Bản với một số nước hay là vụ kiện số DS141 về sản phẩm khăn lạnh trải
giường loại coton. Bằng các phán quyết của mình, cơ quan giải quyết tranh chấp của
WTO (Panel hoặc AB – Appelate Body) bằng chức năng của mình trong quá trình giải
quyết tranh chấp là giải thích luật đã đưa ra những cách giải thích về "sản phẩm tương

tự". Điển hình là trong vụ việc DS8, DS10, DS 11 mà sau đây gọi chung là vụ kiện về đồ
uống. Trong vụ kiện đồ uống có cồn thì Hội đồng cho rằng việc giải thích nội hàm của
thuật ngữ "sản phẩm tương tự" cần theo nghĩa hẹp tùy thuộc vào từng Điều luật và từng
điều khoản nhất định. Và AB cũng đồng ý với quan điểm của Hồi đồng về vấn đề này.
Việc đánh giá tính tương tự của sản phẩm nhập khẩu và sản phẩm sản xuất trong nước
cần phải được xác định theo từng vụ kiện cụ thể. Đồng thời AB đã nhấn mạnh quan điểm
này bằng việc so sánh giữa khái niệm về sản phẩm tương tự và hình ảnh một cây đàn
acccocdeong. Nó tùy thuộc vào từng vụ việc cụ thể. Trong vụ án này thì Hội đồng cho
rằng sản phẩm vodka và shochu có nhiều đặc tính vật chất giống nhau, bởi vì chúng
thường được uống dưới dạng loãng và nồng độ cồn trong hai sản phẩm này không loại
trừ đặc tính giống nhau này.
Thế nhưng vụ kiện DS141 thì Hội đồng đã tiến hành kiểm tra xem khăn lanh trải
giường loại cotton mà EC sản xuất và bán trên thị trường EC có phải là sản phẩm tương
tự với khăn lanh trải giường loại cotton xuất xứ tại Ai Cập, Ấn Độ, Pakistan và xuất sang
thị trường EC hay không. Đại diện của một số bên liên quan đã cho rằng khăn lanh trải
giường tẩy trắng cần được loại khỏi phạm vi sản phẩm bị điều tra vì đây không thể xem
là sản phẩm tương tự. Họ lập luận rằng khăn lanh trải giường tẩy trắng khác loại khăn
lanh trải giường nhuộm hay in cả về kỹ thuật lẫn đối tượng sử dụng cuối cùng (khăn trải
giường nhuộm trắng chủ yếu sử dụng trong các bệnh viện và khách sạn). Hội đồng thấy
rằng EC có sản xuất sản phẩm khăn lanh trải giường tẩy trắng và một số sản phẩm loại
này không phải chỉ được sử dụng bởi một nhóm đối tượng riêng biệt. Do đó, Hội đồng đã
đi đến kết luận rằng mặc dù có sự khác biệt nhất định giữa nhóm sản phẩm sản xuất tại
EC và nhóm sản phẩm được xuất sang EC hoặc bán tại thị trường nội địa nước xuất khẩu
nhưng không có sự khác biệt về các đặc tính cơ bản và cách thức sử dụng giữa các sản
Trang 4


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
phẩm khăn lanh trải giường thuộc các loại và chất lượng khác nhau. Vì vậy các sản phẩm
sản xuất và xuất khẩu bởi các nước bị điều tra và sản phẩm sản xuất và bán tại EC được

xem là sản phẩm tương tự. Như vậy Hội đồng đã dựa vào quy định tại Điều 2.6 Hiệp định
ADA để giải quyết vấn đề sản phẩm tương tự.1
Ta thấy, đã có rất nhiều vụ kiện trong khuôn khổ WTO liên quan đến việc xác định
tính tương tự của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ, tuy kết quả
đưa ra không thống nhất nhưng qua mỗi vụ kiện Ban hội thẩm của WTO khi xem xét
“liệu các sản phẩm liên quan có là sản phẩm tương tự hay không” thường đúc kết từ
những tiêu chí cơ bản như:
- Thành phần, tính chất vật lý của sản phẩm: những yếu tố đặc trưng giúp xác
định tính chất có độc nhất hay không của sản phẩm như kích thước, màu sắc, thành phần
hóa học, tính bền… mang lại tính cạnh tranh trên thị trường cho sản phẩm;
- Tính năng sử dụng cuối cùng của sản phẩm: các khác nhau về tính chất vật lý có
thể không ảnh hưởng tới tính tương tự nếu những tính chất trên đủ gần nhau để một sản
phẩm có thể thay thế cho sản phẩm khác nhằm sử dụng vào mục đích cuối cùng của nó.
Tuy nhiên mọi tính năng sử dụng sản phẩm đều phải được xem xét, nếu chỉ có một phần
nhỏ tính năng sử dụng cuối cùng của sản phẩm trùng nhau thì tiêu chí trên kể như không
được đáp ứng;
- Thị hiếu và thói quen của người tiêu dùng: có những sản phẩm có nhiều tính
chất vật lý giống nhau và có cùng chức năng sử dụng nhưng không được coi là sản phẩm
tương tự nếu chúng không được xếp vào cùng thị phần và người tiêu dùng không cùng
thói quen sử dụng;
- Vị trí trên biểu thuế: đây chỉ được coi là tiêu chí tham khảo để xác định hàng hóa
mang tính “tương tự”, tính tương tự của sản phẩm có thể được xác định dựa trên mã số
phân loại hàng hóa được quy định tại Hệ thống hài hòa mô tả và mã hàng hóa của tổ chức
hải quan thế giới (HS Code). Tuy nhiên với mã phân loại này có thể khác với phân loại
được thể hiện trong các cam kết mở cửa thị trường của các thành viên. Chính vì vậy việc

1 Theo

/>Trang 5



LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
hai sản phẩm được phân loại vào cùng một vị trí không dẫn đến ngay là chúng “tương tự”
nhau.
Như vậy, có thể nhận định rằng "sản phẩm tương tự" là một thuật ngữ mà nội hàm của
nó tùy thuộc vào điều khoản, vụ việc mà được sẽ giải thích khác nhau. Tuy nhiên, với
những ưu điểm là sẽ dễ dàng, thuận tiện cho người giải quyết tranh chấp, đặt trách nhiệm
tối đa cho người giải quyết và phù hợp với tình hình thực tế nhưng lại đi kèm với việc áp
dụng tùy nghi và không thống nhất của các nước thành viên. Do đó, án lệ của cơ quan
giải quyết tranh chấp của WTO chỉ áp dụng cho vụ án có nội dung và sản phẩm "tương
tự" mà không được áp dụng nguyên tắc giải thích đó cho các vụ án có sản phẩm khác.
WTO không dùng thuật ngữ “giống hệt” mà lại dùng thuật ngữ “tương tự”
nhằm bảo vệ quyền lợi của bên sản xuất hàng hóa trong việc phát sinh tranh chấp.Việc
xác định một sản phẩm giống hệt tuy rất dễ dàng nhưng lại tạo ra những cơ hội cho việc
sao chép một cách tương tự sản phẩm đã sản xuất sao cho không “giống hệt” bản chính,
vì thế, nó sẽ không vi phạm các quy định của WTO.
Đồng thời việc xác định hàng hóa “giống hệt” tuy nói đơn giản nhưng một hàng
hóa được coi là giống hệt sẽ rất khó xảy ra trong thực tế: Nếu giống hệt thật sự thì sẽ vi
phạm những quy định về quyền sở hữu trí tuệ của hàng hóa. Còn lại sẽ không có trường
hợp nào xảy ra sự giống hệt nói trên. Như vậy quy định về MFN trở nên vô nghĩa trong
thực tế.
Câu 5: Khi nào một lợi thế được kết luận là đã được áp dụng một cách “ngay lập
tức” và “vô điều kiện” trong phạm vi Điều I:1 của GATT?
Đó là khi một thành viên đã có nghĩa vụ dành sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn
cả về hình thức lẫn thực tiễn cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ tương tự của tất cả các
thành viên ngay khi thành viên đã dành sự đãi ngộ đó cho bất kì thành viên nào mà
không đòi hỏi thêm bất kì điều kiện nào khác ngoài những điều kiện đã quy định và áp
dụng cho một thành viên nhằm đảm bảo cho dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ trong
cùng một phân ngành dịch vụ và cung phương thức cung cấp dịch vụ của tất cả thành
viên đều được hưởng điều kiện cạnh tranh tương tự tại một quốc gia thành viên.

Câu 6: Các điều kiện nào cần có thể Thành viên WTO không thực hiện nghĩa vụ đãi
ngộ tối huệ quốc vì mục đích thành lập một liên minh thuế quan hay khu vực
thương mại tự do dưới quan điểm là hỗ trợ thương mại giữa các lãnh thổ thành
Trang 6


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
viên? Thế nào là liên minh thuế quan hay khu vực thương mại tự do định nghĩa theo
GATT 1994 ?

 Theo quy định của WTO, để hưởng quy chế ngoại lệ MFN đối với thiết chế thương mại
khu vực, các hiệp định thương mại khu vực và liên minh hải quan buộc phải thảo mãn hai
điều kiện: Điều kiện hình thức và điều kiện nội dung.
Điều kiện về hình thức: các thành viên phải thông báo và báo cáo thường xuyên
về sự thành lập cũng như thay đổi, chấm dứt hiệp định. Sau đó, các cơ quan có thẩm
quyền của WTO sẽ xem xét, theo dõi các hiệp định thương mại đó theo Điều XXIV
GATT và Điều V của GATS.
Về nội dung: các hiệp định thương mại khu vực phải thỏa mãn:

• Điều kiện nội biên: điều chỉnh quan hệ thương mại giữa các thành viên hiệp định.

Các rào cản trong quan hệ thương mại giữa các thành viên phải được triệt

tiêu (ít nhất là Điều XXIV(4,8) GATT, Điều V(1,3) GATS, khoản 2(c) Điều khoản khả
thi).
• Điều kiện ngoại biên: điều chỉnh quan hệ thương mại giữa thành viên hiệp định với bên
thứ ba (cũng là thành viên WTO).
Giảm thiểu thiệt hại mà việc thành lập các hiệp định thương mại khu vực có
thể gây ra cho hệ thống thương mại đa phương: trong khi thành lập hiệp định các thành
viên không được tạo ra rào cản thêm trong quan hệ thương mại với bên thứ ba (Điều

XXIV(4,5) GATT, Điều V(4) GATS, Khaonr 3(c) Điều khoản khả thi).
 Liên minh thuế quan được hiểu là sự tập hợp và thống nhất ý chí của một số Quốc gia về
vấn đề:
• Triệt tiêu về cơ bản thuế quan
• Chính sách thương mại đối với những nước không là thành viên. Điều đó có nghĩa là
Những nước bên ngoài liên minh này sẽ đương đầu với hàng rào thuế quan giống nhau
đối với việc xuất khẩu cho bất cứ thành viên nào trong nhóm.
Các thành viên của Liên minh phải áp dụng chính sách Ngoại thương chung của
Liên minh đối với các nước không là thành viên của hiệp định.
Điều XXIV.8.a

Trang 7


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Khu vực mậu dịch tự do là một nhóm gồm hai hay nhiều liên minh thuế quan mà
trong đó, các quy tắc hạn chế thương mại được triệt tiêu cơ bản giữa các quốc gia thành
viên.
Thành viên của Khu mậu dịch tự do vẫn có quyền quyết định chính sách Ngoại
thương riêng.
Điều XXIV.8.b
Câu 7: Vì sao WTO lại cho phép ngoại lệ này ? Việc cho phép một ngoại lệ như vậy
có làm xói mòn các nguyên tắc nền tảng của WTO (về không phân biệt đối xử) ?
Quan điểm của nhóm thể hiện rõ ràng rằng: thiết chế thương mại khu vực không
phù hợp với nguyên tắc tối huệ Quốc nhưng vẫn được WTO chấp nhận. Vậy tại sao WTO
lại chấp nhận ngoại lệ này?
Về mặt luật định, FTA trái với nguyên tắc của Tối huệ Quốc của WTO bởi lẽ sự
nhượng bộ thuế quan và các rào cản thương mại giữa các Quốc gia thành viên của một
FTA bất kì sẽ khác biệt so với sự đối xử của các nước đó đối với các nước không thuộc
FTA nói trên. Tinh thần trên vi phạm điều 1 khoản 1 của GATT 1994.


- Lý do WTO chấp nhận sự thiết chế thương mại khu vực:
Việc gia nhập các thiết chế này tăng cường khả năng hội nhập kinh tế của các
Quốc gia trên thế giới và củng cố tôn chỉ của WTO:
“…Thừa nhận rằng mối quan hệ của họ với nỗ lực trên trường kinh tế thương mại
cần được tiến hành nhằm nâng cao mức sống, đảm bảo đầy đủ việc làm và thu nhập thực
tế và thu nhập thực cao và tăng trưởng vững chắc, sử dụng đầy đủ và tốt hơn nguồn lực
của thế giới và mở mang sản xuất và trao đổi hàng hoá, mong muốn đóng góp vào các
mục tiêu nêu trên thông qua các thoả thuận tương hỗ và cùng có lợi theo hướng tới giảm
mạnh thuế quan và các trở ngại thương mại khác và hướng tới triệt tiêu sự phân biệt đối
xử trong thương mại quốc tế”2
Mỗi Quốc gia trong WTO mang một sắc thái về chính trị, kinh tế và xã hội riêng
biệt. Sẽ có một số nước có thể phù hợp với nhau về tiềm lực kinh tế và một số lợi ích
thương mại nhất định. Những Quốc gia này hoàn toàn có quyền dành những ưu đãi cho
nhau trên cơ sở quyền tự quyết dân tộc. Mặc dù liên minh thuế quan hay khu vực tự do
mậu dịch nêu bật sự đối xử ưu đãi hơn giữa các thành viêc của nó với nhau so với các
2

Đoạn mở đầu của GATT 94
Trang 8


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
quốc gia không phải là thành viên, nhưng tôn chỉ, mục đích hướng đến của WTO vẫn
được đảm bảo. Hơn nữa, khi đã tham gia vào các thiết chế thương mại khu vực, tốc độ
hội nhập kinh tế và sự loại bỏ những rào cản thương mại được thể hiện một cách chuyên
biệt và sâu sát hơn.

- Ngoại lệ trên không làm xói mòn các nguyên tắc nền tảng của WTO:
Bản chất của thương mại là sự cạnh tranh. Tức là, có cạnh tranh thì động lực phát

triển kinh tế mới tồn tại. Sự công bằng còn thể hiện ở chỗ các thiết chế thương mại khu
vực chỉ tạo nên những ưu đãi hơn chứ không tạo thêm những rào cản cho các thành viên
WTO.
Câu 8: Tóm tắt án lệ Spain – Unroasted Coffee
SPAIN - TARIFF TREATMENT OF UNROASTED COFFEE
Report of the Panel adopted on 11 June 1981
(L/5135 - 28S/102)

1. Các dữ kiện chính của vụ việc (Facts)
Các bên tranh chấp:
Bên kiện: Brazil
Bên bị kiện: Tây Ban Nha
Vấn đề tranh chấp:
Tây Ban Nha ban hành Luật mới có những thay đổi nhất định đến việc áp dụng
thuế quan cho hàng Nhập khẩu, cụ thể là cà phê chưa rang, theo đó hàng hóa là cà phê
chưa rang không lọc hết cafein "chưa rửa Arabica " và Robusta cà phê (thuế số 09.01A)
nhập khẩu vào Tây Ban Nha bây giờ phải chịu một mức thuế quan ít hấp dẫn hơn sự đối
xử dành cho cà phê "mild".
Ban hội thẩm đồng ý lập Hội đồng để "Kiểm tra dựa trên những các quy định liên
quan của GATT, theo yêu cầu của Brazil là một Bên hợp đồng, liên quan đến việc xử lý
thuế nhập khẩu của cà phê chưa rang vào Tây Ban Nha (L/4974), và sẽ giúp các bên ký
kết trong việc đưa ra các khuyến nghị hoặc quyết định theo quy định tại Điều XXII.
Thành phần của Hội đồng:
Chủ tịch: H.E. Đại sứ H.V. Ewerlöf (Thụy Điển)
Thành viên: Ông R. Daniel (Ba Lan)
Ông U. Herrmann (Thụy Sĩ)
Hội đồng tổ chức các cuộc họp

Trang 9



LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Ngày 30 tháng 9 năm 1980, ngày 29 tháng 10 1980, 01 Tháng mười hai 1980, 19
Tháng 12 1980, ngày 16 tháng một năm 1981, ngày 28 tháng 1 năm 1981, ngày 04 tháng
hai 1981, 6 tháng 2 năm 1981, 13 Tháng 2 năm 1981, và 16 tháng 2 năm 1981.

2. Vấn đề đặt ra cho cơ quan xét xử để giải quyết (Issues)
Trước khi có luật mới này, không hề có sự khác biệt trong đối xử về thuế quan của
Tây Ban Nha áp dụng cho hàng nhập khẩu cà phê chưa rang. Là một nhà cung cấp chính
của cà phê vào Tây Ban Nha, Brazil bị ảnh hưởng bởi sự phân biệt đối xử về các mức
thuế mới này và vì thế đã đưa ra yêu cầu tham vấn Điều XXII:1 với Tây Ban Nha
(L/4832).
Ngày 26 tháng 3 năm 1980, các đại diện của Brazil thông báo đến Hội đồng các
yêu cầu tham vấn của Brazil về Điều XXIII:1 với Tây Ban Nha (L/4954).
Ngày 18 tháng 6 năm 1980, Hội đồng xác nhận rằng các cuộc tham vấn đã không
đưa ra kết quả thoả đáng giữa các bên và Brazil viện dẫn các thủ tục của Điều XXIII:2
yêu cầu xét vấn đề này bằng việc lập Hội đồng giải quyết (L/4974).

3. Cơ sở pháp lý để giải quyết (Law)
Điều XXII: 1 tham vấn với Tây Ban Nha (L/4832)
Điều XXIII: 1 tham vấn với Tây Ban Nha (L/4954)
Hội đồng lưu ý rằng tham vấn giữa các bên trong hợp đồng đã nhận được dưới
biện pháp (C/M /139)
Điều XXIII: 2 yêu cầu xét vấn đề này bằng Hội đồng giải quyết tranh chấp
(L/4974)

4. Kết luận của cơ quan giải quyết tranh chấp (Holdings)
Ban Hội thẩm kết luận rằng chưa rang, hạt cà phê không chứa caffein được liệt kê
trong Biểu thuế Hải quan Tây Ban Nha dưới CCCN 09.01 A.1a, được sửa đổi theo Nghị
định Hoàng gia 1764-1779, nên được coi là "sản phẩm tương tự" như trong ý nghĩa của

Điều I: 1.
Ban hội thẩm kết luận rằng:
Tây Ban Nha đã phân biệt đối xử thuế quan cà phê chưa rang có nguồn gốc Brazil.
Ban hội thẩm cũng cho rằng Nghị định Hoàng gia 1764-1779 không phù hợp với
các quy định của Điều I: 1,
Ban hội thẩm tiếp tục kết luận rằng điều này làm suy giảm lợi ích của Brazil trong
ý nghĩa của Điều XXIII
Trang 10


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Theo Ban hội thẩm, Bên ký kết – Brazil yêu cầu Tây Ban Nha đưa ra những biện
pháp cần thiết để Tây Ban Nha thực hiện chế độ thuế quan của nó đối với cà phê chưa
rang phù hợp với Điều I: 1.

5. Lập luận chính của cơ quan giải quyết tranh chấp để đưa ra kết luận (Reasoning)
Đại diện của Brazil cho rằng:
Thuế suất 7 phần trăm đối với mỗi hàng nhập khẩu chưa rang, cà phê không chứa
caffein-của "Arabica chưa rửa" và nhóm Robusta, trong khi miễn thuế cho cà phê của các
nhóm khác, chế độ thuế quan mới của Tây Ban Nha là phân biệt đối xử đối với hàng hóa
từ Brazil, vi phạm Điều I: 1 của Hiệp định chung.
Ông cho rằng, cà phê là một sản phẩm duy nhất đối với các mục đích của Điều I:
1 của GATT, phải được coi là một "sản phẩm tương tự". Và rằng trong trường hợp cụ thể
của "mild" và cà phê "chưa rửa Arabica", cả hai đến từ cùng loài thực vật, và thường là từ
cùng một giống cây. Ông cũng nói rằng, trong trường hợp như vậy, các sản phẩm có thể
được chiết xuất từ cùng thực vật, và việc phân loại là "Arabica chưa rửa" hay "mild" sẽ
phụ thuộc hoàn toàn vào việc xử lý các quả, không ảnh hưởng đến việc chúng là sản
phẩm tương tự của nhau.
Đại diện của Tây Ban Nha
Để xem xét có vi phạm Điều I:1 hay không thì cần thiết xác định hai khía cạnh cụ

thể: Thế nào là “ Sản phẩm tương tự” và có bất kỳ sự ưu tiên, biệt đãi, đặc quyền, lợi thế
nào hoặc miễn trừ nào đối với một quốc gia khi áp dụng quy định mới của nhóm số
09.01.A.1 của thuế quan Tây Ban Nha hay không. Đại diện Tây Ban Nha tiếp tục cho
rằng, Phán quyết của họ, các quy định của Nghị định Hoàng gia 1764-1779 là hoàn toàn
tương thích với các nghĩa vụ cam kết của Tây Ban Nha theo Hiệp định chung, và đặc biệt
là Điều I: 1
Một số trường hợp trong quá khứ GATT đã được đề xuất rằng "Sản phẩm tương
tự" là tất cả các sản phẩm thuộc nhóm thuế quan tương tự, Nhưng đại diện của Tây Ban
Nha đã không đồng ý với ý kiến đó.
Ông cho rằng, cách giải thích này có thể dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng, cho
rằng các sản phẩm thuộc tiêu đề thuế quan tương tự có thể không giống và khác biệt rõ
ràng, ví dụ như: (i) trong trường hợp tất cả các nhóm còn lại thuế quan ("các sản phẩm
Trang 11


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
khác "), bao gồm một số lượng lớn không đồng nhất sản phẩm, và (ii) các nhóm bao gồm
các sản phẩm đồng nhất nơi mà trong nhiều trường hợp, đây không phải là "tương tư"
(tức là CCCN nhóm số 15.07 bao gồm tất cả các loại dầu thực vật; CCCN hướng Số
22.05 bao gồm tất cả các loại rượu vang, vv).
Ông đã chỉ ra rằng sự khác biệt về chất lượng đã tồn tại giữa các loại khác nhau cà
phê tiêu chí xem xét cả hai kỹ thuật nông nghiệp, kinh tế và thương mại. Ông lập luận
rằng Đậu cà phê Robusta là hình thái khác nhau từ những hạt cà phê Arabica, có một
khác nhau thành phần hóa học và hương thơm và được đậm đà hơn so với đồ uống làm
từ cà phê Arabica. Mặc dù cả hai "mild" và "Arabica chưa rửa" cà phê thuộc nhóm của
Arabica,
Đại diện Tây Ban Nha tiếp tục lập luận rằng sự khác biệt về chất lượng cũng tồn
tại giữa họ, kết quả là điều kiện khí hậu và phát triển cũng như các phương pháp canh
tác, làm cho hương thơm và mùi vị, tạo nên nét đặc trưng để định vị thương mại và tiêu
thụ các sản phẩm này, là hoàn toàn khác nhau trong "rửa sạch" và "chưa rửa" cà phê

Arabica.
Nhận định của Cơ quan Giải quyết tranh chấp:
Hội thẩm kết luận rằng, GATT không có quy định cụ thể để phân loại hàng hóa, và
các bên ký kết có quyền thỏa thuận . Tuy nhiên, HĐXX xem xét Điều I: 1 yêu cầu rằng
chế độ thuế quan tương tự được áp dụng cho "sản phẩm tương tự"
HĐXX xem xét trong các thủ tục tố tụng đối với sự biện minh của một chế độ thuế
quan khác nhau cho các nhóm khác nhau và các loại cà phê chưa rang. Nó ghi nhận rằng,
các lập luận chủ yếu liên quan đến sự khác biệt bằng cảm quan do yếu tố địa lý, canh tác
phương pháp, việc xử lý các loại đậu, và các yếu tố di truyền. Ban Hội thẩm đã không
xem xét rằng như vậy sự khác nhau là đủ lý do để cho phép một chế độ thuế quan
khác nhau. Nó chỉ ra rằng đó là không phải bất thường trong trường hợp của các sản
phẩm nông nghiệp mà hương vị và mùi thơm của các sản phẩm cuối cùng sẽ khác nhau
bởi vì một hoặc một số trong những yếu tố nêu trên.

Trang 12


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

BÀI TẬP TÌNH HUỐNG BÀI 4
Brightland đưa ra một số nhận định về việc nhập khẩu búp bê Carlie của
Richland như sau:

- Phân loại thuế quan của Carlie khi vào Brightland sẽ là Hàng sưu tầm chứ không phải
-

Mặt hàng đồ chơi
Xuất xứ hàng hoá của Carlie là Farawayland chứ không phải Richland
Búp bê Carlie phải chịu mức thuế quan 15% ad valorem và giá tính thuế sẽ là giá bán của
Carlie tại thị trường nội địa của Richland.

Richland, Brightland và Newland đều là thành viên của WTO, vì thế việc áp dụng
những quy định thuế quan của các nước này phải phù hợp những quy định của WTO về
thuế quan, cụ thể là phù hợp với GATT 1994, GRI, Hiệp định quy tắc xuất xứ.
Để xác định được việc Brightland áp thuế quan nhập khẩu đối với hàng hóa của
Richland như trên có phù hợp với quy định của WTO hay không, ta cần phân tích 3 vấn
đề chính:

- Xuất xứ hàng hóa của Carlie
- Phân loại thuế quan của Carlie
- Trị giá hải quan của Carlie
1.
Về xuất xứ của Carlie
Hiệp định về xuất xứ hàng hóa của WTO không có các quy định cụ thể để xác
định xuất xứ hàng hóa. Tuy nhiên, các cam kết về thuế quan, quy định về phân loại và
xuất xứ hàng hoá của Brightland giống hệt như của Việt Nam hiện tại nên ta áp dụng các
quy định của Việt Nam để xác định xuất xứ của búp bê Carlie.
Theo các quy định của pháp luật Việt Nam tại nghị định 19/2006/NĐ-CP và
thông tư 08/2006/TT-BTM về hướng dẫn cách xác định xuất xứ hàng hóa xuất khẩu,
nhập khẩu có xuất xứ không thuần túy theo nghị định 19/2006/NĐ-CP ngày 20 tháng 2
năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về xuất xứ hàng hóa, thì có 3
tiêu chí chung để xác định xuất xứ hàng hóa :

• Tiêu chí “Chuyển đổi mã số hàng hóa”
• Tiêu chí "Tỷ lệ phần trăm của giá trị"
• Tiêu chí "công đoạn gia công, chế biến hàng hoá".
Trang 13


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Bên cạnh đó, để có thể sử dụng các phương pháp trên, chúng ta cần tuân theo

nguyên tắc xác định xuất xứ hàng hóa quy định tại tiểu mục 4 mục 2 , TT 08/2006/TTBTM như sau:

a) Trường hợp hàng hóa sản xuất ra thuộc Danh mục hàng hóa tại Phụ lục ban
hành kèm theo Thông tư này thì căn cứ vào các tiêu chí nêu trong Phụ lục đó để
xác định xuất xứ;
b) Trường hợp hàng hóa sản xuất ra không thuộc Danh mục hàng hóa tại Phụ lục
ban hành kèm theo Thông tư này thì áp dụng duy nhất tiêu chí “Chuyển đổi mã
số hàng hoá” để xác định xuất xứ.
Đầu tiên, theo quy định tại khoản 1, điều 3 NĐ 19/2006/NĐ-CP thì xuất xứ hàng
hóa là nước hoặc vùng lãnh thổ nơi sản xuất ra toàn bộ hàng hóa hoặc nơi thực hiện công
đoạn chế biến cơ bản cuối cùng đối với hàng hóa trong trường hợp có nhiều nước hoặc
vùng lãnh thổ tham gia vào quá trình sản xuất ra hàng hóa đó. Do Carlie không được sản
xuất toàn bộ tại Richland nên ta sử dụng nguyên tắc của hàng hóa có xuất xứ không
thuần túy để xác định chính xác xuất xứ của búp bê Carlie.
Theo quy định về tiêu chí công đoạn gia công, chế biến hàng hoá thì “Công đoạn
gia công, chế biến hàng hoá" là quá trình sản xuất chính tạo ra những đặc điểm cơ bản
của hàng hoá.” Xét về tính chất hàng hóa của bộ sản phẩm Carlie, bộ phận hàng hóa làm
nên sự nổi bật, đặc trưng của hàng hóa là búp bê thân nhựa chứ không phải hàng hóa kèm
theo, đồng thời búp bê là bộ phận làm nên giá trị gia tăng của sản phẩm; do đó, xuất xứ
của Carlie phải là nước sản xuất ra thân nhựa của Carlie. Tuy nhiên, khi xem thêm về quy
trình sản xuất Carlie thì

• Thân nhựa và hộp sản xuất tại Newland,
• Bộ quần áo dành cho búp bê có trong bộ sản phẩm được sản xuất tại Farawayland.
• Richland chỉ là nơi đóng gói sản phẩm và xuất bán.
Do Richland chỉ là nơi đóng gói sản phẩm và xuất bán nên việc Richland đóng gói
sản phẩm không thuộc công đoạn gia công chế biến hàng hóa. Hơn nữa, theo quy định tại
khoản 3, điều 9 NĐ 19/2006 thì công việc đóng gói bao bì lại không được xem xét như
một công đoạn gia công chế biến sản phẩm khi xác định xuất xứ hàng hóa. Do đó,
Richland không phải là nơi xuất xứ của Carlie.

Trang 14


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Trong trường hợp này, vì búp bê Carlie là hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa tại
Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư 08/2006/TT-BTM nên ta căn cứ vào các tiêu
chí nêu trong Phụ lục đó để xác định xuất xứ của Carlie.
Chương 95 - Đồ chơi, dụng cụ dùng cho các trò chơi và

95..

thể thao; các bộ phận và phụ tùng của chúng

Tiêu chí chuyển đổi cơ bản
Chuyển đổi từ bất kỳ nhóm

9502.. Búp bê hình người

nào khác và phải trải qua

lắp ráp công nghiệp
Đồ chơi khác; mẫu thu nhỏ theo tỷ lệ ("scale") và các mẫu Chuyển đổi từ bất kỳ nhóm
9503.. đồ chơi giải trí tương tự có hoặc không vận hành; các loại nào khác và phải trải qua
đồ chơi đố trí

lắp ráp công nghiệp

Theo thông tin trong bảng trên thì tiêu chí chuyển đổi của búp bê Carlie là chuyển
đổi từ bất kỳ nhóm nào khác và phải trải qua lắp ráp công nghiệp. Theo thông tin được
cung cấp, chúng ta có thể nhận thấy rằng, công đoạn gia công, chế biến cơ bản để tạo ra

búp bê Carlie là việc tạo ra thân búp bê mà việc này được thực hiện ở Newland; do đó,
xuất xứ của búp bê Carlie phù hợp nhất là ở Newland.

2.

Phân loại thuế quan của hàng hóa
Vì WTO không quy định về cách phân loại thuế quan nên ta sử dụng quy định của
HS Convention để phân loại. Theo nguyên tắc này thì, hàng sưu tầm được quy định tại
chương 97
Mã hàng
9705

Mô tả hàng hóa
Bộ sưu tập và các vật phẩm của bộ sưu tập chủng loại động vật,
thực vật, khoáng vật, giải phẫu học, sử học, khảo cổ, cổ sinh vật học, dân

tộc học hoặc các loại tiền
9706 00 00
Đồ cổ có tuổi trên 100 năm

Và hàng đồ chơi được quy định tại chương 95
9503

Xe đạp ba bánh, xe đẩy, xe có bàn đạp và đồ chơi tương tự có bánh; xe của búp bê; búp bê; đồ chơi
khác; mẫu thu nhỏ theo tỷ lệ ("scale") và các mẫu đồ chơi giải trí tương tự, có hoặc không vận hành;
các loại đồ chơi đố trí (puzzles).

Trang 15



LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
95030010

- Xe đạp ba bánh, xe đẩy, xe có bàn đạp và đồ chơi tương tự có bánh; xe của búp bê
- Búp bê:
- - Búp bê, có hoặc không có trang phục

95030021

Đồng thời, theo nguyên tắc 2.a về các quy định về Giải thích HS (GRI), thì:
“Khi một hàng hoá có thể phân vào nhiều hơn một mục thì Mục có sự mô tả chi tiết nhất
về hàng hoá sẽ ưu tiên hơn”. Từ đó, ta có thể thấy rằng: mục 95030021 có quy định rõ
ràng, chi tiết hơn về sản phẩm búp bê, có hoặc không có trang phục nên nó hoàn toàn phù
hợp với mặt hàng búp bê Carlie. Trong khi đó, Chương 97 về Hàng sưu tầm không mô tả
một cách trực tiếp hay chi tiết về mặt hàng này. Do đó, việc hải quan Brightland phân
loại Carlie vào Hàng sưu tầm là không phù hợp với quy định về Giải thích HS.
Vì vậy, nếu việc phân loại này có ảnh hưởng làm mức thuế nhập khẩu tăng lên so
với việc phân loại Carlie vào Mặt hàng đồ chơi, thì Dolls R có thể viện dẫn quy tắc GRI
2.a yêu cầu hải quan Brightland xác định lại.

3.

Xác định giá trị hải quan

Điều VII: 2(a) GATT 1994 “Trị giá tính thuế quan với hàng nhập khẩu phải dựa
vào giá trị thực của hàng nhập khẩu làm cơ sở tính thuế quan, hoặc trị giá thực của
hàng tương tự, không được phép căn cứ vào trị giá của hàng có xuất xứ nội hay trị
giá mang tính áp đặt hoặc được đưa ra một cách vô căn cứ”
Theo Điều 1 Hiệp định về xác định trị giá tính thuế hải quan: “Trị giá thuế quan
của hàng nhập khẩu phải là giá trị giao dịch, tức là giá thực tế đó thanh toán hoặc phải

thanh toán cho hàng hóa được bán để xuất khẩu đến nước nhập khẩu có điều chỉnh phù
hợp với các quy định ở Điều 8”
Như vậy, cơ sở để xác định trị giá tính thuế là giá trị giao dịch của hàng nhập
khẩu. Do đó, Brightland xác định giá tính thuế sẽ là giá bán của Carlie tại thị trường nội
địa của Richland như vậy là không đúng. Như vậy, Richland chỉ cần đưa ra các tài liệu
như hóa đơn, hợp đồng, đơn đặt hàng,... để chứng minh được giá trị giao dịch cho hải
quan thì sẽ tính thuế theo giá trị giao dịch.
Tuy nhiên, nếu Richland không xác đinh được giá trị giao dịch này thì có những
cách khác để xác định:
- Giá trị giao dịch của những hàng hoá giống hệt (Điều 2, 3)
- Phương pháp định giá khấu trừ (Điều 5)
Trang 16


LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
- Phương pháp định giá tính toán (Điều 6)
- Phương pháp suy luận (Điều 7)
4. Về thuế suất
Theo quy định tại phụ lục I, Thông tư 163/2014/TT-BTC thì mức thuế suất áp
dụng đối với búp bê Carlie là 10%
Mã hàng hóa
9503.00.21

Mô tả hàng hóa
Búp bê, có hoặc không có
trang phục

Thuế suất (%)
10


Mức thuế suất cam kết trong biểu nhân nhượng thuế quan là mức thuế tối đa mà
quốc gia được phép áp dụng. Do đó, việc Brightland buộc Richland chịu thuế quan
15% ad valorem đối với búp bê Carlie là không đúng.

Trang 17



×