Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Một số vấn đề về hậu quả pháp lý của lyhôn theo Luật hôn nhân và gia đình 2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.66 KB, 61 trang )

LỜI NÓI ĐẦU.
Cùng với quan điểm của Triết học, Chính trị học,… Luật học nghiên cứu
về vấn đề hôn nhân và gia đình như một thực thể của xã hội, là cơ sở nền tảng
cho sự phát triển của xã hội. Ở đó, có sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích của cá
nhân với lợi ích của toàn xã hội. Bởi gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi
nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình
thành nhân cách của mỗi các nhân, chuẩn bị hành trang để họ hòa nhập với
cuộc sống cộng đồng xã hội. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia
đình càng tốt.
Kết hôn là cơ sở, tiền đề để xác lập quan hệ vợ chồng và quan hệ gia
đình theo quy định của pháp luật nhằm xây dựng gia đình bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc & bền vững. Ngược lại, ly hôn làm chấm dứt quan hệ vợ chồng
trước pháp luật. Hậu quả pháp lý của ly hôn không chỉ làm chấm dứt quan hệ
nhân thân giữa vợ chồng trước pháp luật mà còn làm phát sinh hàng loạt các
vấn đề về thanh toán tài sản vợ chồng, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng,
chăm sóc và nuôi dưỡng con chung. Các vấn đề đó có tác động và ảnh hưởng
không nhỏ tới lợi ích của các bên, của gia đình và sự ổn định của xã hội. Vì
vậy, cần phải có sự điều chỉnh bằng pháp luật mà cụ thể là Luật hôn nhân và
gia đình nhằm hạn chế những tác động tiêu cực mà ly hôn mang lại.
Thực tế ở Việt Nam trong những năm gần đây tình trạng ly hôn ngày
càng gia tăng đã ảnh hưởng ít nhiều tới mục tiêu xây dựng gia đình dân chủ,
hòa thuận, hạnh phúc và bền vững. Theo báo cáo tổng kết của Toà án nhân
dân tối cao thì số vụ án ly hôn năm 2000 là 44.337 vụ đến năm 2003 là
51.998 vụ và đến năm 2008 con số này đã tăng lên tới 80.770 vụ. Mặc dù,
Luật hôn nhân và gia đình hiện hành đã quy định khá chi tiết về vấn đề ly hôn
để hạn chế thấp nhất những hậu quả đáng tiếc mà ly hôn để lại cho gia đình và
xã hội, đặc biệt là tình trạng thanh thiếu niên phạm tội do sinh ra và lớn lên
trong gia đình ly tán. Tuy nhiên, việc áp dụng các quy định này vào thực tiễn
xét xử còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Vì vậy, việc giải quyết các tranh
chấp liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp về chia tài



sản vợ chồng, giải quyết vấn đề cấp dưỡng và chăm sóc, nuôi dưỡng con
chung đang trở thành vấn đề mà cả xã hội phải quan tâm.
Hậu quả pháp lý của ly hôn đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau nhưng vẫn là vấn đề mang tính “thời sự” thu hút sự quan tâm của toàn
xã hội. Với mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình làm sáng tỏ thêm về
lý luận và thực tiễn việc áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết các
tranh chấp phát sinh khi vợ chồng ly hôn, góp phần ổn định các quan hệ xã
hội, tôi quyết định lựa chọn đề tài “Một số vấn đề về hậu quả pháp lý của ly
hôn theo Luật hôn nhân và gia đình 2000.”
Trong phạm vi đề tài khóa luận tốt nghiệp và với một đề tài tương đối
rộng, chúng tôi không có tham vọng tìm hiểu mọi vấn đề liên quan tới hậu
quả pháp lý của ly hôn mà chỉ tập trung đi sâu vào nghiên cứu một vài khía
cạnh pháp lý “nổi bật” về hậu quả pháp lý của ly hôn. Đề tài được nghiên cứu
trên cơ sở phương pháp luận của học thuyết Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, kết hợp với các phương pháp khác như: phương pháp phân tích, tổng
hợp, so sánh, thống kê,…
Cơ cấu đề tài bao gồm:

Phần I: Lời nói đầu

Phần II: Nội dung
- Chương 1: Khái quát chung về ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn.
- Chương 2: Hậu quả pháp lý của ly hôn theo quy định của Luật hôn nhân và
gia đình Việt Nam năm 2000.
- Chương 3: Thực tiễn áp dụng Luật hôn nhân và gia đình vào việc giải quyết
hậu quả pháp lý của ly hôn.
Phần III: Kết luận
Trong khuôn khổ đề tài khóa luận tốt nghiệp với thời lượng nghiên cứu
và trình độ còn hạn hẹp, chắc chắn bài viết của em không tránh khỏi những

thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý giá của thầy, cô
giáo và các bạn sinh viên để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!


CHƯƠNG I .
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LY HÔN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA LY HÔN.

1.1. Khái niệm ly hôn
Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, do đó mỗi hình thái kinh
tế xã hội trong lịch sử lại hình thành một hệ thống pháp luật dựa trên hệ tư
tưởng của giai cấp thống trị. Do vậy, tùy theo hệ thống pháp luật của mỗi nhà
nước mà khái niệm ly hôn, bản chất pháp lý của ly hôn lại được tiếp cận và
đánh giá dưới góc độ khác nhau.
1.1.1. Khái niệm.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, ly hôn là một mặt của
quan hệ hôn nhân, nó là mặt trái, mặt bất bình thường nhưng là mặt không thể
thiếu của quan hệ hôn nhân và gia đình (HN&GĐ). Khi đời sống tình cảm yêu
thương giữa vợ chồng đã hết, mâu thuẫn gia đình sâu sắc, mục đích hôn nhân
không đạt được thì vấn đề ly hôn được đặt ra nhằm giải phóng cho vợ chồng,
con cái và các thành viên trong gia đình thoát khỏi những xung đột, bế tắc
trong đời sống chung. Vì khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, thực
chất quan hệ vợ chồng đã hoàn toàn mất hết ý nghĩa thì: “Tự do ly hôn không
có nghĩa là làm tan rã những mối quan hệ gia đình mà ngược lại nó củng cố
những mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể
có và vững chắc trong xã hội văn minh” [2, tr.25].
Vấn đề ly hôn, được quy định trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc
gia là khác nhau. Một số nước cấm ly hôn như Anđôna, Manta, Paragoat,…
có nước lại đặt ra các quy định hết sức nghiêm ngặt như Achentina, Italia ...
Nhưng việc cấm hay hạn chế ly hôn đều trái với quyền tự do dân chủ của cá

nhân, V. I Lênin đã khẳng định: “người ta không thể là một người dân chủ và
xã hội chủ nghĩa nếu ngay từ bây giờ không đòi quyền hoàn toàn tự do ly
hôn, vì thiếu quyền tự do ấy là một sự ức hiếp lớn đối với giới bị áp bức, đối
với phụ nữ. Tuy hoàn toàn chẳng khó khăn gì mà không hiểu được rằng khi ta
thừa nhận cho phụ nữ tự do bỏ chồng không có nghĩa là ta khuyên tất cả họ
bỏ chồng.” [2, tr.30].


Ly hôn là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ hôn nhân mà chỉ có
vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu ly hôn. Tuy nhiên,
quyền ly hôn của vợ, chồng phải đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước
và pháp luật nhằm hạn chế, ngăn chặn những hiện tượng vợ chồng lạm dụng
quyền tự do ly hôn gây hậu quả xấu cho gia đình và xã hội. Đứng trên lập
trường quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin, khoản 8 Điều 8 Luật HN&GĐ
2000 quy định: “ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công
nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc của cả hai vợ
chồng”. Như vậy, ly hôn là kết quả của hành vi có ý chí của hai vợ chồng và
được công nhận bằng bản án, quyết định của Tòa án. Đảm bảo quyền tự do ly
hôn cho các bên vợ chồng chính là nội dung quan trọng của nguyên tắc hôn
nhân tiến bộ được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 [18, Điều 64] và được cụ
thể hóa tại Điều 2 Luật HN&GĐ 2000 [18]. Nhưng tự do ly hôn không có
nghĩa là ly hôn một cách tùy tiện, theo ý chí nguyện vọng của vợ chồng mà
phải dựa trên những căn cứ luật định và trên cơ sở đó Tòa án mới xử cho ly
hôn. Theo quy định tại khoản 1 Điều 89 Luật HN&GĐ 2000 thì căn cứ ly hôn
là khi quan hệ vợ chồng đã ở vào “tình trạng trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được” thì Tòa án sẽ xem xét
yêu cầu ly hôn. Ngoài ra, trong trường hợp đặc biệt“vợ hoặc chồng của người
bị Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn”
(khoản 2 Điều 89). Tuy nhiên, ly hôn trong trường hợp này chỉ là quyết định
của một bên vợ, chồng trong hoàn cảnh đặc biệt mà không phát sinh từ mâu

thuẫn của vợ chồng trong đời sống thực tế. Như vậy, căn cứ ly hôn theo quy
định của Luật HN&GĐ 2000 vừa đảm bảo quyền tự do ly hôn của công dân
vừa thể hiện tư tưởng phản đối việc ly hôn tùy tiện của các nhà làm luật.
1.1.2. Bản chất pháp lý của ly hôn.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, hôn nhân trong đó có ly
hôn là một hiện tượng xã hội mang tính giai cấp sâu sắc. Pháp luật thể hiện ý
chí của giai cấp thống trị, do đó với mỗi hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử
lại hình thành một hệ thống pháp luật dựa trên hệ tư tưởng của giai cấp thống


trị trong xã hội. Với tư cách là một trong những quan hệ chủ đạo trong xã hội,
quan hệ HN&GĐ cũng chịu sự chi phối sâu sắc của hệ tư tưởng đó.
Dưới chế độ phong kiến, do ảnh hưởng tư tưởng trọng nam khinh nữ,
bảo vệ quyền gia trưởng của người đàn ông, với quan niệm “nhất nam viết
hữu, thập nữ viết vô”. Theo đó, pháp luật và các tục lệ phong kiến ở Việt
Nam có nhiều quy phạm mang tính luân lý đặc biệt là các quy phạm về
HN&GĐ phản ánh những đặc quyền của người đàn ông còn người phụ nữ
phải sống theo thuyết “tam tòng tứ đức”. Chế độ đa thê và những quy định
nghiêm khắc về ly hôn đã bóp méo bản chất của một cuộc hôn nhân chân
chính, khiến nó trở thành thứ xiềng xích trói buộc người phụ nữ trong những
nghi lễ bất bình đẳng. Ở đó, cuộc đời họ gắn liền với công việc gia đình, với
chồng con và bị chi phối bởi nguyên tắc “phu xướng phụ tùy” nên họ không
có quyền quyết định bất kì việc gì, ngay cả việc bảo toàn hạnh phúc riêng tư
cũng không được đảm bảo.
Như vậy, pháp luật phong kiến, thừa nhận sự bất bình đẳng giữa nam và
nữ, bảo vệ quyền lợi tối cao của người gia trưởng nên quyền tự do ly hôn của
người phụ nữ không được đảm bảo. Nhưng pháp luật lại trao cho đàn ông
quyền được ly hôn khi vợ phạm vào điều “nghĩa tuyệt” và chỉ khi thuộc
trường hợp “tam bất khứ” thì quyền ly hôn người vợ của người chồng mới bị
hạn chế như vợ đã để tang nhà chồng ba năm, trước khi cưới nghèo sau giàu,

…( Luật Hồng Đức). Như vậy, những quy định đó đã không nói lên bản chất
thật sự của ly hôn mà nó chỉ là một thứ công cụ bảo vệ cho lợi ích của giai
cấp thống trị trong xã hội.
Đến thời kỳ tư bản chủ nghĩa, các quy định của pháp luật chịu ảnh
hưởng sâu sắc của tư tưởng cách mạng tư sản là tự do, bình đẳng. Các luật gia
tư sản cho rằng tự do ly hôn phải được thừa nhận như một quyền pháp định và
đưa ra các quy định nhằm đảm bảo quyền tự do ly hôn. Song, trên thực tế đó
chỉ là quy định mang tính hình thức, thực chất khi ly hôn họ vẫn bị ràng buộc
bởi các quy định ngăn cấm của nhà làm luật: “dưới chế độ tư bản chủ nghĩa
quyền ly hôn cũng như tất cả các quyền dân chủ khác, không loại trừ quyền


nào đều không thể thực hiện một cách dễ dàng, nó lệ thuộc vào nhiều điều
kiện, bị giới hạn, bị thu hẹp và có tính chất hình thức”. [2, tr. 30].
Quan hệ HN&GĐ trong xã hội tư sản thường được coi như là một khế
ước, một hợp đồng dân sự mà khi có bất kì hành vi nào vi phạm hợp đồng ấy
thì bên đối tác có thể đặt vấn đề chấm dứt hôn nhân. Theo đó, ly hôn thường
căn cứ vào lỗi của một bên đương sự nên không thể hiện được bản chất thực
sự của ly hôn. Vì vậy, bản chất pháp lý của ly hôn trong pháp luật HN&GĐ
phong kiến và tư sản không được xem xét, đánh giá một cách sâu sắc và toàn
diện.
Đối lập với pháp luật phong kiến và tư sản, dưới chế độ XHCN pháp
luật đã thể hiện tính ưu việt của nó ở mọi lĩnh vực trong đó có vấn đề ly hôn.
Đứng trên lập trường quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp luật XHCN
không coi hôn nhân là một hợp đồng dân sự hay một khế ước dân sự mà coi
hôn nhân là sự tự nguyện của hai bên nam - nữ, là sự liên kết suốt đời giữa vợ
và chồng. Bởi nó được xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính của hai bên
nam - nữ nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc và bền vững. Tuy nhiên, tính
chất suốt đời của hôn nhân cũng có trường hợp ngoại lệ. Nghĩa là sau khi kết
hôn, trong thời gian chung sống giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm

trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể tiếp tục duy trì cuộc
sống chung thì pháp luật cho phép họ chấm dứt hôn nhân bằng ly hôn. Như
vậy, bản chất của ly hôn là sự tan vỡ của cuộc hôn nhân, là chấm dứt quan hệ
vợ chồng trước pháp luật.
Pháp luật của nhà nước XHCN công nhận và tôn trọng quyền tự do ly
hôn chính đáng của vợ chồng, không thể cấm hoặc đặt ra những điều kiện
nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ
chồng, nó là kết quả của hành vi ý chí của vợ chồng khi thực hiện quyền tự do
ly hôn. Nhà nước bằng pháp luật không thể cưỡng ép nam nữ yêu nhau và kết
hôn với nhau thì cũng không thể bắt buộc vợ chồng sống phải duy trì quan hệ
hôn nhân khi tình cảm yêu thương gắn bó không còn, mục đích của cuộc hôn
nhân đã không đạt được. Khi ấy, ta không thể nhìn nhận ly hôn đơn thuần chỉ
là mặt tiêu cực, mà cần phải nhận thức được rằng nó là mặt trái nhưng là mặt


không thể thiếu được của quan hệ hôn nhân. Vì cho phép các bên ly hôn là
giải pháp mở ra lối thoát cuối cùng, giải phóng cho vợ chồng, các con cũng
như các thành viên trong gia đình thoát khỏi xung đột, mâu thuẫn, bế tắc
trong cuộc sống chung. Bởi thực chất “ly hôn chỉ là việc xác nhận một sự
kiện: cuộc hôn nhân này là cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề
ngoài và giả dối” [1, tr. 234]. Nếu như cuộc hôn nhân đã thực sự tan vỡ và ly
hôn đã trở thành mong muốn của vợ chồng thì việc ghi nhận quyền tự do ly
hôn là hoàn toàn chính đáng thể hiện tính chất dân chủ và nhân đạo của pháp
luật XHCN. Hơn nữa, cũng cần phải ghi nhận rằng, tự do ly hôn là một quyền
cơ bản và bình đẳng giữa vợ và chồng, bởi đây là quyền gắn liền với nhân
thân của vợ chồng.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, mục đích của việc xác lập quan
hệ hôn nhân là xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận, bền vững và hạnh phúc.
Nhưng vì lí do nào đó mà giữa vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn,
khiến cho tình nghĩa vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài

được nữa thì ly hôn là biện pháp cần thiết để giải phóng cho họ. Khi xây dựng
Luật HN&GĐ năm 1959, đồng chí Xuân Thủy đã phân tích: “ hôn nhân bao
gồm hai mặt: tự do kết hôn và tự do ly hôn. Tự do ly hôn không có nghĩa là ly
hôn bừa bãi, ly hôn là biện pháp giải phóng một tình trạng trầm trọng làm
cho đôi vợ chồng không thể sống chung được nữa” [7, tr11].
Như vậy, bản chất pháp lý của ly hôn là sự tan vỡ của cuộc hôn nhân, là
việc chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật, khi tình cảm yêu thương gắn
bó giữa họ đã hết, mục đích của hôn nhân không đạt được. Luật HN&GĐ
phong kiến và tư sản thường quy định việc ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ
chồng, vấn đề xét xử ly hôn của Tòa án là việc làm có tính thụ động, hoàn
toàn là do ý chí của các bên đương sự nên mới chỉ dừng lại ở mặt hiện tượng
mà chưa nhìn nhận và đánh giá đúng bản chất của vấn đề ly hôn. Chỉ dưới chế
độ XHCN, các nhà làm luật mới nhìn nhận ly hôn theo đúng thực trạng và bản
chất của cuộc hôn nhân để xem xét và quyết định hợp tình, hợp lý.


1.2.

Hậu quả pháp lý của ly hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam

qua các thời kỳ.
Là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng, pháp luật không chỉ chịu sự
ảnh hưởng bởi cơ sở hạ tầng sinh ra nó mà các yếu tố như tâm lý xã hội,
phong tục tập quán, bản sắc dân tộc, … đều ảnh hưởng sâu sắc tới pháp luật
và cũng chỉ đạt đến độ ấy pháp luật mới thực sự là những quy phạm có sức
sống. Luật HN&GĐ Việt Nam đặt dưới sự phát triển của xã hội, ở mỗi thời kì
lịch sử không những phản ánh đúng quy luật này mà nó còn mang đậm bản
sắc, truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam.
1.2.1 Hậu quả pháp lý của ly hôn theo quy định pháp luật Việt
Nam trước Cách mạng tháng Tám.

Cho đến giữa thế kỉ XIX Việt Nam vẫn là một nước phong kiến với nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, hệ tư tưởng
của giai cấp thống trị Việt Nam ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hóa phương
Bắc và được thể hiện rõ nét qua hai Bộ luật Hồng Đức( BLHĐ) và Bộ luật
Gia Long( BLGL). Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược nước ta và bắt đầu đặt
nền móng cho sự đô hộ bằng việc ban hành các bộ luật: Tập giản yếu 1883 áp
dụng ở Nam Kỳ, Dân luật Bắc kì 1931 (DLBK) áp dụng ở Bắc Kỳ, Dân luật
Trung kì 1936 (DLTK) áp dụng ở Trung kỳ. Như vậy, có thể chia pháp luật
HN&GĐ trước Cách mạng tháng Tám ra thành hai thời kì:
-

Thời kì phong kiến:
Dưới triều Lê, BLHĐ được coi như là thành tựu to lớn trong lịch sử lập

pháp Việt Nam, các quan hệ HN&GĐ được thiết lập trên nguyên tắc: Bảo
đảm tôn ti, trật tự, đẳng cấp trong mối quan hệ giữa các thành viên trong gia
đình, trọng nam khinh nữ, xác lập tối cao quyền của người gia trưởng. Đến
triều Nguyễn, do ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo nên BLGL ra đời được
coi là sự sao chép nguyên bản của bộ luật nhà Thanh, các quan hệ HN&GĐ
xây dựng theo mô hình gia đình phụ quyền Trung Quốc. Theo đó, vai trò của
người đàn ông trong gia đình được tôn vinh, hạ thấp vai trò và vị trí của người
phụ nữ. Hậu quả pháp lý của ly hôn theo quy định của pháp luật thời kỳ này,
bao gồm:


Về quan hệ nhân thân: Sau khi ly hôn, quan hệ vợ chồng hoàn toàn
chấm dứt, không bên nào có quyền và nghĩa vụ với bên nào, vợ chồng đã ly
hôn có thể tái hôn với người khác: “người chồng không được ngăn cản người
khác lấy vợ cũ của mình” [9, Điều 308].
Về quan hệ tài sản: Theo quy định tại Điều 401 BLHĐ thì “khi ly hôn

tài sản riêng của ai vẫn thuộc sở hữu của người đó và họ có quyền mang theo”
trừ trường hợp ly hôn do lỗi của người vợ hoặc khi người vợ có hành vi đánh
chồng, chồng thưa kiện lại muốn ly hôn thì vợ mất quyền về tài sản (BLGL)
hay điền sản của vợ để lại cho chồng [9, Điều 481]. Đối với tài sản chung,
trong trường hợp cần chia tài sản chung thì tài sản chung được chia đôi mỗi
người một nửa [9, Điều 374, 375]. Đây là điểm tiến bộ của pháp luật thời kỳ này.
Về con cái: Việc giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con sau khi ly
hôn không được pháp luật ghi nhận nên nếu có vướng mắc về vấn đề nuôi
dưỡng, chăm sóc con,… thì quan lại địa phương sẽ xem xét tùy từng trường
hợp cụ thể. Đối với con cái thì con mang họ cha nên sau khi ly hôn con sẽ
sống với cha nhưng nếu muốn giữ con thì người vợ có quyền yêu cầu chia
một nửa số con.
Mặc dù, pháp luật thời kỳ này có những điểm tiến bộ thể hiện quyền
bình đẳng trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Nhưng do ảnh hưởng của
tư tưởng triết học, nho giáo, phật giáo, phong tục tập quán,… Do vậy, về cơ
bản, các quy định của hai bộ luật này không thoát khỏi những hạn chế của
thời đại, với tư tưởng trọng nam khinh nữ, bảo vệ quyền gia trưởng của người
đàn ông nên quyền lợi của người phụ nữ và các con không được đảm bảo.
Như vậy, các quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn thời kỳ này mang
sắc thái Việt Nam thuần túy, thể hiện tính dân tộc và nhân văn sâu sắc, có sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa đạo luật hướng Nho và phong tục tập quán, đạo
đức đã đi sâu vào tiềm thức, trở thành thói quen ứng sử của người dân Việt
Nam lúc bấy giờ.
-

Thời kì Pháp thuộc:
Sang đến thời kì Pháp thuộc, chính quyền thực dân đã lần lượt ban hành

các văn bản pháp luật mới: DLBK 1931, DLTK 1936, Tập giản yếu 1883.



Nên các quan hệ HNGĐ thời kì này cũng có sự thay đổi đáng kể. Nhìn chung,
những quy định về HN&GĐ trong các bộ luật này vẫn duy trì sự bất bình
đẳng nam - nữ với việc thừa nhận quyền gia trưởng của người đàn ông, tước
đi nhiều quyền lợi cơ bản của người phụ nữ. Vì vậy, các quy định về hậu quả
pháp lý của ly hôn cũng tuân thủ triệt để nguyên tắc củng cố địa vị của người
gia trưởng, có sự phân biệt đối xử giữa các con, coi rẻ quyền lợi của con cái,
chú trọng tới việc giải quyết hậu quả về tài sản khi vợ chồng ly hôn, trong đó
người vợ được bảo đảm một phần về tài sản ngay cả khi ly hôn do lỗi của vợ, …
Về quan hệ nhân thân: Sau khi ly hôn, vợ chồng muốn đoàn tụ với nhau
thì “phải khai giá thú với hộ lại” [12, Điều 143] nhưng sau khi đoàn tụ rồi mà
lại xin ly hôn lần nữa thì Tòa án không giải quyết.
Về quan hệ tài sản: Khi ly hôn vấn đề thanh toán tài sản giữa vợ,
chồng được đặt ra nhưng lại thiên về lỗi của người vợ để xem xét và quyết
định phần dành cho người vợ [12, Điều 112], [13, Điều 110]. Trường hợp vợ
thứ ly hôn thì “không bao giờ được dự phần chung chỉ được lấy lại tài sản
riêng của mình” [12, Điều 148]. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 149 DLBK,
Điều 147 DLTK, nếu ly hôn do lỗi của người vợ thì người vợ phải bồi thường
lại những đồ vật, sính lễ trước kia nhà chồng đã làm lễ đính ước trừ khi đồ vật
đó đã tiêu dùng cho lễ cưới [12, Điều 149], [13, Điều 147].
Về cấp dưỡng giữa vợ, chồng khi ly hôn cũng được đặt ra “án xử ly
hôn sẽ xử cả về tiền cấp dưỡng cho người vợ về sự trông coi con cái và về
quyền lợi tài sản của người vợ” [13, Điều 144]. Việc cấp dưỡng giữa vợ
chồng sẽ chấm dứt nếu người vợ tái giá hoặc ăn ở tư tình với người khác hoặc
vô hạnh [12, Điều 145], [13, Điều 143].
Về con cái: Việc chăm sóc, nuôi dưỡng con khi cha mẹ ly hôn được
pháp luật ghi nhận nhưng “vấn đề nuôi nấng con cái được giao cho người
cha” trừ trường hợp vì lợi ích của đứa trẻ ấy mà Toà án giao cho người mẹ thì
người cha có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con [12, Điều 146], [13, Điều 143].
Như vậy, các quy định của pháp luật thời kì này chủ yếu dựa vào các

phong tục tập quán lạc hậu và BLDS Pháp 1804 với những quy định thuần túy
coi hôn nhân là chế định do dân luật điều chỉnh và là công cụ pháp lý bảo vệ


quyền lợi cho giai cấp thống trị. Chế định HN&GĐ trong các bộ luật này có
sự tiến bộ quan trọng, bước đầu chú ý tới việc bảo đảm quyền lợi của người
vợ và các con khi ly hôn như: việc chia tài sản vợ chồng, nghĩa vụ cấp dưỡng
của người chồng đối với người vợ, nuôi dưỡng con,... Nhưng vẫn duy trì sự
bất bình đẳng giữa vợ, chồng, củng cố quyền của người gia trưởng làm ảnh
hưởng không nhỏ tới đời sống của gia đình và xã hội. Dù chưa thật rõ ràng và
công bằng, song các quy định về hậu quả của ly hôn thời kì này ít nhiều có
những điểm tiến bộ mà khi xây dựng chế định ly hôn các đạo luật HN&GĐ ở
nước ta sau này đều ghi nhận và phát triển thêm như: vấn đề cấp dưỡng nuôi
con, sau khi ly hôn vợ chồng muốn quay trở về chung sống với nhau thì phải
đăng kí kết hôn, vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn,…
1.2.2 Hậu quả pháp lý của ly hôn theo quy định của pháp luật Việt
Nam từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc: kỷ nguyên độc lập, tự chủ. Nhà
nước mới ra đời đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật mới phù hợp với bản chất
của nhà nước và là công cụ để nhà nước thực hiện tốt chức năng kinh tế - xã
hội của mình. Vì vậy, ngay từ khi ra đời, Nhà nước ta đã chú trọng xây dựng
một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, trong đó có Luật HNGĐ. Có thể chia sự
phát triển của Luật HNGĐ sau cách mạng tháng Tám đến nay theo các thời kỳ sau:
- Thời kì từ 1945 đến 1954.
Năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập hiến ở nước ta.
Hiến pháp 1946 đã ghi nhận quyền bình đẳng giữa nam, nữ về mọi mặt [16,
Điều 9] tạo cơ sở pháp lý để nhà nước ta ban hành các sắc lệnh đầu tiên điều
chỉnh các quan hệ HNGĐ, từng bước xóa bỏ các hủ tục lạc hậu của chế độ cũ.

Sự ra đời của Sắc lệnh 97 (SL 97) và Sắc lệch 159 (SL 159) đánh dấu bước
khởi điểm của Luật HN&GĐ trong chế độ xã hội mới. SL 97 quy định thực
hiện nam nữ bình đẳng trong giai đoạn xã hội mới: “Chồng và vợ có địa vị
bình đẳng trong gia đình” [27, Điều 5], “Người đàn bà có chồng có toàn bộ
năng lực về mặt hộ” [27, Điều 6] và ghi nhận: “Người đàn bà ly dị chồng có


thể lấy chồng khác ngay sau khi có án tuyên ly dị nếu dẫn chứng rằng mình
không có thai hoặc đương có thai ” [27, Điều4]. Có thể nói, việc thừa nhận
quyền bình đẳng của người phụ nữ trong gia đình và xã hội là điểm tiến bộ
của Luật HN&GĐ Việt Nam.
Tuy nhiên, SL 97 mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận sự bình đẳng trong
quan hệ vợ chồng mà chưa đề cập tới vấn đề ly hôn và hậu quả pháp lý của ly
hôn. Những hạn chế này đã từng bước được khắc phục ở SL 159 với những
quy định cụ thể thừa nhận nguyên tắc tự do hôn nhân. Trong đó, có tự do giá
thú và tự do ly hôn, xóa bỏ sự bất bình đẳng về duyên cớ ly hôn, bảo vệ người
phụ nữ có thai và thai nhi khi ly hôn, cũng như quyền lợi của con chưa thành
niên khi cha mẹ ly hôn. Theo đó, vợ chồng có thể xin thuận tình ly hôn hoặc
có thể được Tòa án cho phép ly hôn nếu thuộc một trong các trường hợp:
ngoại tình, một bên can án phạt giam, một bên mắc bệnh điên hoặc một bệnh
khó chữa khỏi, một bên bỏ nhà đi quá hai năm không có duyên cớ chính đáng,
vợ chồng tính tình không hợp,… [28, Điều 2, Điều 3]; hay để bảo vệ quyền
lợi của con chưa thành niên: “Tòa án sẽ căn cứ vào quyền lợi của các con vị
thành niên để ấn định việc trông nom, nuôi nấng và dạy dỗ chúng” [28, Điều
6]. Các quy định này, đánh dấu thêm một điểm mới của Luật HN&GĐ đối với
vấn đề ly hôn và hậu quả của ly hôn. Qua đó, thể hiện sự quan tâm của nhà
làm luật về bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con chưa thành niên khi ly hôn
nhưng chưa có quy định về việc bảo vệ quyền lợi cho con đã thành niên
nhưng mất năng lực hành vi dân sự. Đó là điểm hạn chế của pháp luật thời kỳ này.
Có thể nói, các quy định về ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn giai

đoạn này đã góp phần xóa bỏ chế độ HN&GĐ đình phong kiến lạc hậu, giải
phóng phụ nữ thoát khỏi sự ràng buộc khắt khe, không tôn trọng quyền lợi
chính đáng của họ; bước đầu quyền bình đẳng nam nữ trong gia đình và ngoài
xã hội được thực hiện; quyền lợi của người phụ nữ và con chưa thành niên khi
cha mẹ ly hôn được bảo vệ. Nhưng do ra đời trong hoàn cảnh xã hội và điều
kiện lịch sử lúc bấy giờ nên SL 97 và SL 159 vẫn còn những hạn chế nhất
định như: chưa xóa bỏ tận gốc chế độ HNGĐ phong kiến, chưa ghi nhận chế


độ hôn nhân một vợ một chồng, duyên cớ ly hôn vẫn chưa dựa trên bản chất
quan hệ hôn nhân nên các quan hệ HN&GĐ phong kiến vẫn còn tồn tại.
- Thời kỳ từ 1954 đến 1975.
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, đất nước ta tạm
thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị khác biệt: miền Bắc
bước vào thời kỳ quá độ xây dựng CNXH và là hậu phương lớn chi viện cho
miền Nam, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, đầu tranh giải
phóng dân tộc thống nhất đất nước.
Ở miền Bắc: bước vào công cuộc xây dựng CNXH, xóa bỏ chế độ
HNGĐ phong kiến, SL 97 và SL 159 đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình. Mặc dù, có những đóng góp lớn nhưng hai sắc lệnh này đã không đáp
ứng được nhu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới. Vì vậy, “việc
ban hành một đạo luật mới về HNGĐ đã trở thành đòi hỏi cấp bách của toàn
xã hội. Đó là tất yếu khách quan thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội của nước ta về dự luật HNGĐ” – Công báo số 1 năm 1960.
Hiến pháp 1959 ra đời, ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ về mọi mặt:
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình [17, Điều 24) tạo cơ sở pháp lý
cho việc ban hành một đạo luật mới về HNGĐ. Luật HN&GĐ 1959 ban hành
ngày 29/12/1959 trên nguyên tắc hôn nhân tiến bộ, một vợ một chồng;
nguyên tắc nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong gia
đình và quyền lợi của con cái nhằm xây dựng chế độ HNGĐ mới theo tinh

thần Hiến pháp 1959 và yêu cầu của thực tiễn khách quan. Luật HN&GĐ
1959 dành một chương quy định về ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn với
những quy định khác hẳn với pháp luật trước kia.
Hậu quả pháp lý của ly hôn theo Luật HN&GĐ 1959 là giải quyết quan
hệ vợ chồng, thanh toán tài sản, vấn đề cấp dưỡng cho một bên túng thiếu và
mối quan hệ giữa cha mẹ và con khi ly hôn.
Về quan hệ nhân thân: Sau khi phán quyết ly hôn của Toà án có hiệu
lực pháp luật, quan hệ vợ chồng sẽ chấm dứt trước pháp luật [21, Điều 25,
Điều 26].


Về quan hệ tài sản: Xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ
nữ và trẻ em, Điều 29 ghi nhận: “khi ly hôn việc chia tài sản sẽ căn cứ vào
công sức đóng góp của mỗi bên, vào tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của
gia đình. Lao động trong gia đình được kể như lao động sản xuất. Khi chia
phải bảo vệ quyền lợi của người vợ, của con và lợi ích của việc sản xuất”.
Khác với quy định của DLBK 1931, DLTK 1936, đưa ra nguyên tắc chia mà
phần của người vợ sẽ ảnh hưởng nếu ly hôn do lỗi của người vợ.
Giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con: Ghi nhận nguyên tắc bảo
vệ quyền lợi của con cái sau khi cha mẹ ly hôn, như: vợ chồng khi ly hôn vẫn
có mọi nghĩa vụ và quyền lợi đối với con chung; việc giao con cho ai trông
nom, nuôi dưỡng và giáo dục con cái chưa thành niên phải căn cứ vào quyền
lợi mọi mặt của con hay việc đóng góp phí tổn nuôi con,… [21, Điều 31, 32, 33]
Về cấp dưỡng giữa vợ, chồng: Pháp luật ghi nhận nghĩa vụ cấp dưỡng
giữa vợ và chồng khi ly hôn “nếu một bên gặp khó khăn túng thiếu, yêu cầu
cấp dưỡng thì bên kia phải cấp dưỡng tuỳ theo khả năng của mình” [20, Điều 30].
Như vậy, so với SL 97 và SL 159 thì những quy định về hậu quả pháp
lý của ly hôn theo Luật HN&GĐ 1959 đầy đủ và cụ thể hơn, thể hiện bước
tiến rõ rệt nhưng còn mang tính khái quát, chưa quy định cụ thể việc bảo vệ
quyền lợi của con đã thành niên không có khả năng lao động, chưa có sự phân

biệt giữa tài sản chung và tài sản riêng vợ chồng. Có thể nói, đây là bước phát
triển của pháp luật HN&GĐ, là cơ sở để từng bước xây dựng và phát triển
ngành luật HN&GĐ trong hệ thống pháp luật XHCN của Nhà nước ta.
Ở miền Nam: sau năm 1954, đế quốc Mỹ thay chân Pháp nhảy vào
xâm lược, tiến hành chính sách thực dân kiểu mới. Chế độ HN&GĐ được áp
dụng ở miền Nam trong giai đoạn này thể hiện qua 3 văn bản: Bộ luật gia
đình (Luật số 1/59), Sắc luật 15/64, Bộ luật Dân sự Sài Gòn 1972. Mặc dù, ra
đời vào các thời điểm khác nhau, hình thức quy định cũng có nét riêng, song
nhìn chung các văn bản này đều quy định về vấn đề ly thân và ly hôn. Trong
đó, việc giải quyết hậu quả của ly hôn chủ yếu dựa trên yếu tố lỗi của các bên
vợ chồng như người có lỗi phải cấp dưỡng cho người kia hay người không có
lỗi đương nhiên được nuôi con dưới 16 tuổi,…


Dưới thời Ngô Đình Diệm, Luật số 1/59 có những quy định về quyền
bình đẳng của người phụ nữ, người vợ trong gia đình, bãi bỏ chế độ đa thê
nhưng đạo luật này chỉ quy định về ly thân còn vấn đề ly hôn: “Cấm chỉ vợ
chồng ruồng bỏ nhau và sự ly hôn” [20, Điều 55], trừ trường hợp đặc biệt do
tổng thống quyết định. Do đó, không đặt ra vấn đề hậu quả của ly hôn.
Sau khi chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Luật số 1/59
được thay thế bằng Sắc luật 15/64. Sắc luật 15/64 có quy định về vấn đề ly
hôn giữa vợ và chồng cũng như đường lối giải quyết ly hôn và hậu quả của
nó. Theo quy định của Sắc luật 15/64, quan hệ vợ chồng chấm dứt bằng ly
hôn, vấn đề cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn được đặt ra nhưng
người có lỗi phải cấp dưỡng cho người hôn phối không có lỗi; hay việc giải
quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con cũng căn cứ trên cơ sở lỗi của hai vợ
chồng nên người không có lỗi sẽ đương nhiên có quyền nuôi con dưới 16 tuổi,
quyền thăm nom cấp dưỡng cho con thuộc về người kia. Ngoài ra, việc giải
quyết tài sản của vợ chồng sau khi ly hôn căn cứ vào lỗi của các bên, nếu
người hôn phối có lỗi thì họ “mất hết quyền tài sản do hôn ước” ngược lại,

“người hôn phối vô tội sẽ được giữ những quyền lợi này đã được ưng thuận
với điều kiện hỗ tương” [29, Điều 92]. Nhìn chung, Sắc luật 15/64 đã xóa bỏ
những quy định không hợp lý của Luật số 1/59 nhưng cũng chưa quy định
một cách rõ ràng việc bảo vệ quyền và nghĩa vụ của các bên hôn phối và của
con cái.
Ngay sau khi lên cầm quyền, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã soạn
thảo, sửa đổi và ban hành các văn bản pháp luật sao cho phù hợp với nhu cầu
phát triển của xã hội nhằm phục vụ cho sự cầm quyền của mình. Bộ dân luật
1972 ra đời đã thay thế Sắc luật 15/64. Bộ luật dân sự 1972 coi ly hôn là một
chế định do dân luật điều chỉnh nhưng về cơ bản vẫn dựa trên các quy định
của Sắc luật 15/64. Theo đó, ly hôn là chấm dứt mối liên hệ nhân thân giữa vợ
chồng, chế độ hôn sản bị giải tán và được thanh toán, mỗi người hôn phối sẽ
lấy quyền quản trị và hưởng dụng đối với tài sản riêng của mình, tài sản
chung sẽ chia đôi, kỷ phần của người hôn phối có lỗi sẽ bị khấu trừ số tiền
cấp dưỡng…[11, Điều 201]; hay việc mất quyền lợi về tài sản của vợ chồng


khi ly hôn [11, Điều 200]. Vấn đề cấp dưỡng giữa vợ chồng cũng được đặt ra
nhưng có sự phân biệt giữa tiền cấp dưỡng mà người có lỗi phải trả cho người
vô tội với tiền cấp dưỡng được ấn định trong thời gian làm thủ tục ly hôn:“
tiền này là phần tiền cho người vợ hay người chồng biệt cư, không phân biệt
người này có lỗi hay không có lỗi” [11, Điều 178],còn “Tòa án có thể buộc
người hôn phối có lỗi trong việc ly hôn phải cấp dưỡng cho người kia tuy theo
tư lực của mình…” [11, Điều 197].
Tựu chung lại, pháp luật HN&GĐ áp dụng ở miền Nam thời kỳ này, ra
đời trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, các phong tục tập quán lạc hậu
vẫn còn tồn tại, lại là công cụ để bảo vệ của chính quyền phản động tay sai.
Vì vậy, các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ HN&GĐ do chính quyền
ngụy Sài Gòn ban hành thời kỳ này đều bảo vệ quyền lợi của người gia
trưởng, thực hiện nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ chồng, có sự phân biệt

giữa các con nhằm bảo vệ nhà nước phản động mị dân, đi ngược lại với lợi
ích của nhân dân ta.
-

Giai đoạn từ 1975 đến nay:
Cuộc kháng chiến chống Mỹ giành thắng lợi, giải phóng miền Nam

thống nhất đất nước, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới - giai
đoạn cả nước giành độc lập, thống nhất và tiến lên CNXH. Việc xây dựng
CNXH trên phạm vi cả nước đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật áp dụng
thống nhất trong cả nước. Trước yêu cầu đó, Hiến pháp 1980 được ban hành
ghi nhận các nguyên tắc về chế độ HN&GĐ [18, Điều 38, 47, 63 và Điều 64],
trên cơ sở đó Nhà nước ta ban hành Luật NH&GĐ 1986.
Các quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn của Luật NH&GĐ 1986 về
cơ bản vẫn dựa trên những quy định của Luật NH&GĐ 1959 như bảo vệ
quyền lợi của phụ nữ và con chưa thành niên, cấp dưỡng giữa vợ chồng …
nhưng có bổ sung thêm nhiều quy định mới như: “việc chia tài sản khi ly hôn
do các bên thỏa thuận và phải được Tòa án công nhận… nhưng có xem xét
một cách hợp lý tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của gia đình, công sức
đóng góp của mỗi bên” [22, Điều 42), về cấp dưỡng giữa vợ chồng “ khi
hoàn cảnh thay đổi người được cấp dưỡng hoặc người phải cấp dưỡng có thể


yêu cầu sửa đổi mức cấp dưỡng, thời gian cấp dưỡng” [22, Điều 43] và lần
đầu tiên đưa ra quy định bảo vệ quyền lợi của con đã thành niên nhưng không
có khả năng lao động [22, Điều 20],…
Với những quy định này, Luật HN&GĐ năm 1986 đã góp phần vào việc
xây dựng và củng cố quan hệ gia đình xã hội chủ nghĩa, giữ gìn và phát huy
các phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp về HN&GĐ của dân tộc nhưng
còn mang tính định hướng, khái quát. Do vậy, việc áp dụng các quy định này

vào giải quyết các tranh chấp phát sinh trên thực tế gặp nhiều khó khăn,
vướng mắc đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung. Trước những thay đổi về điều kiện
kinh tế - xã hội, sau hơn 10 năm thực hiện Luật HN&GĐ năm 1986, kì họp
thứ VII Quốc hội khóa X đã thông qua Luật HN&GĐ năm 2000. Kế thừa các
quy định, nguyên tắc dân chủ, tiến bộ về NH&GĐ trong lịch sử, Luật
HN&GĐ 2000 đã khắc phục những hạn chế của luật HN&GĐ 1986. Các quy
định về hậu quả pháp lý của ly hôn trong Luật này đã thể hiện một bước phát
triển cả về kỹ thuật lập pháp và nội dung tư tưởng góp phần vào việc xây
dựng, củng cố chế độ HNGĐ XHCN, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, nâng cao nhận thức của nhân dân, tạo cơ sở pháp lý cần thiết
cho công tác xét xử của Tòa án.
1.3.

Ý nghĩa của việc quy định bằng pháp luật về hậu quả pháp lý của

ly hôn.
Ly hôn là hiện tượng xã hội phức tạp, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi
ích của vợ chồng, lợi ích của gia đình và xã hội. Hiện nay, tình trạng ly hôn ở
nước ta ngày càng gia tăng với những nguyên nhân và lý do rất đa dạng, phức
tạp. Việc quy định bằng pháp luật về hậu quả pháp lý của ly hôn góp phần
giải quyết ly hôn một cách chính xác, đảm bảo quyền tự do ly hôn chính đáng
của vợ chồng cũng như lợi ích của gia đình và xã hội.
Quyết định ly hôn của vợ chồng được pháp luật thừa nhận là một quyền
tự do của công dân. Theo đó, quan hệ nhân thân giữa vợ chồng chấm dứt
nhưng việc giải quyết mối quan hệ giữa cha mẹ và con, các tranh chấp liên
quan đến tài sản, cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn là vấn đề vô cùng phức
tạp cần phải được pháp luật quy định cụ thể để hạn chế một cách thấp nhất


các tranh chấp xảy ra, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các bên, lợi

ích của gia đình và xã hội. Hơn nữa, trách nhiệm chăm sóc, nuôi dạy con cái
không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ luật định của cha mẹ để ổn định cuộc
sống của con sau khi cha mẹ ly hôn. Các quy định về hậu quả pháp lý cuả ly
hôn trong Luật HN&GĐ thể hiện sự quan tâm của Nhà nước tới quyền lợi trẻ
em khi cha mẹ ly hôn. Bởi “trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của
đất nước, là người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc”. Khi gia
đình tan vỡ, hạnh phúc riêng tư của cha mẹ không còn nhưng sợi dây tình
cảm giữa cha mẹ và con cũng không vì thế mất đi mà cha mẹ vẫn phải có
nghĩa vụ, quyền nuôi dạy con cái. Ngược lại, con cái cũng trở thành niềm
động viên an ủi của cha mẹ và có bổn phận yêu thương, kính trọng, chăm sóc,
cấp dưỡng khi cha mẹ ốm đau già yếu.
Việc ghi nhận bằng pháp luật đối với hậu quả pháp lý của ly hôn là sự cụ
thể hóa nguyên tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em, đảm bảo sự bình giữa vợ và
chồng ngay cả khi ly hôn. Đồng thời, thể hiện tính chất công bằng, dân chủ và
nhân đạo của pháp luật XHCN. Có thể nói, kể từ khi pháp luật quy định giải
quyết việc ly hôn phải dựa vào bản chất, thực trạng của quan hệ hôn nhân cho
đến việc chú trọng giải quyết hậu quả của ly hôn. Pháp luật XHCN đã thật sự
quan tâm tới vấn đề ly hôn và hạn chế tới mức tối đa những ảnh hưởng tiêu
cực của nó đối với gia đình đặc biệt là con cái.
Xuất phát từ lợi ích của gia đình, quyền và lợi ích chính đáng của vợ
chồng, các con cũng như các thành viên khác, sự ổn định của các quan hệ
HN&GĐ.Việc quy định bằng pháp luật về hậu quả pháp lý của ly hôn giúp
Toà án nhân dân các cấp có đủ cơ sở pháp lý để điều tra, tìm hiểu kĩ nguyên
nhân dẫn tới những mâu thuẫn vợ chồng, tâm tư tình cảm của người trong
cuộc, để có thể giải quyết ly hôn chính xác đảm bảo quyền lợi của các bên,
của gia đình và xã hội. Qua đó thể hiện sự quan tâm của các nhà làm luật tới
việc giải quyết các mối quan hệ liên quan tới vợ chồng và các thành viên khác
trong gia đình khi hôn nhân thực sự tan vỡ.



CHƯƠNG II
HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC LY HÔN THEO QUY ĐỊNH
CỦA LUẬT HN&GĐ VIỆT NAM 2000.
Ly hôn ảnh hưởng trực tiếp đến hạnh phúc gia đình, đến lợi ích của vợ
chồng, của các con và lợi ích của xã hội. Vì vậy, khi giải quyết yêu cầu ly hôn
của vợ chồng, Toà án đồng thời phải giải quyết những hậu quả mà ly hôn để
lại như: giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng, nghĩa vụ
cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn, việc chăm sóc, giáo dục con chung.
2.1.

Hậu quả về quan hệ nhân thân giữa vợ chồng khi ly hôn
Quan hệ nhân thân giữa vợ chồng mang yếu tố tình cảm là nét đặc

trưng gắn liền với bản thân họ mà không thể chuyển giao cho người khác
được. Bởi các quan hệ này phát sinh từ lợi ích tinh thần của mỗi cá nhân, gắn
liền với một chủ thể nhất định và không mang nội dung kinh tế như quan hệ
tài sản. Nó chiếm vị trí quan trọng, quyết định sự tồn tại hay chấm dứt quan
hệ HN&GĐ.
Theo nguyên tắc chung, khi phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực
pháp luật, quan hệ hôn nhân chấm dứt trước pháp luật. Kể từ thời điểm này,
người vợ, người chồng đã ly hôn có quyền kết hôn với người khác mà không
chịu bất kỳ sự ràng buộc nào từ phía bên kia. Sau khi ly hôn, các quyền và
nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ và chồng sẽ đương nhiên chấm dứt mà không
phụ thuộc vào sự thoả thụân của các bên. Nghĩa là các quyền và nghĩa vụ
nhân thân giữa vợ chồng phát sinh từ khi kết hôn và gắn bó trong suốt thời kỳ
hôn nhân, như: nghĩa vụ yêu thương quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau tiến
bộ, nghĩa vụ chung thủy giữa vợ chồng… sẽ đương nhiên mất đi. Nhưng một
số quyền về nhân thân khác mà vợ chồng với tư cách là công dân thì vẫn
không thay đổi dù họ đã ly hôn, như: họ tên, quốc tịch, dân tộc, tôn giáo, nghề
nghiệp… sẽ do các bên tự quyết định. Như vậy, quan hệ nhân thân giữa vợ

chồng chỉ tồn tại và được pháp luật bảo vệ khi họ là vợ chồng hợp pháp của
nhau. Nên sau khi ly hôn, các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng sẽ
chấm dứt.


Sau khi phán quyết ly hôn của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng vì
lý do hay động cơ nào đó, mà vợ chồng quay trở về chung sống với nhau thì
họ vẫn phải đăng ký kết hôn theo luật định. Tuy nhiên, trên thực tế có không
ít trường hợp vợ chồng đã ly hôn sau đó trở về chung sống với nhau nhưng
không đăng ký kết hôn, giữa họ lại có con chung, tài sản chung và sau đó họ
lại yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn. Theo Điều 57 BLDS 2005, khoản 1 Điều
11 Luật HN&GĐ 2000: “vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng
phải đăng ký kết hôn”. Trong trường hợp này, nếu có yêu cầu ly hôn thì Tòa
án sẽ không giải quyết việc ly hôn nữa. Theo hướng dẫn tại NQ35/2000/QH
ngày 9/6/2000 và NQ 02/2000/NQ - HĐTP thì: “nếu có tranh chấp liên quan
đến việc sống chung này, Tòa án tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng,
nếu có tranh chấp liên quan đến tài sản và con thì giải quyết như trường hợp
hủy kết hôn trái pháp luật theo quy định tại Khoản 2,3 Điều 17 Luật
HN&GĐ”. Việc không thừa nhận quan hệ hôn nhân trong trường hợp này là
hợp lý, góp phần nâng cao ý thức pháp luật nói chung và pháp luật về
HN&GĐ nói riêng của người dân. Đồng thời, bảo vệ quyền và lợi ích của các
bên, bảo vệ lợi ích của gia đình và xã hội.
2.2.

Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Để duy trì cuộc sống gia đình, bên cạnh các quan hệ nhân thân thì quan

hệ tài sản có vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo đời sống vật chất
của gia đình. Khi các bên vợ chồng có yêu cầu chấm dứt quan hệ hôn nhân
trước pháp luật thì vấn đề thanh toán tài sản của vợ chồng cũng được đặt ra.

2.2.1. Nguyên tắc chia tài sản vợ chồng khi ly hôn.
Theo quy định tại Điều 95 Luật HN&GĐ 2000, việc chia tài sản vợ
chồng khi ly hôn trước hết “do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận
được thì yêu cầu Toà án giải quyết”. Như vậy, pháp luật tôn trọng và thừa
nhận sự thoả thuận của vợ chồng về việc giải quyết các tranh chấp về tài sản
khi ly hôn tạo cơ sở pháp lý đảm bảo quyền bình đẳng và quyền tự định đoạt
của vợ chồng về tài sản khi ly hôn. Quy định này thể hiện sự tôn trọng nguyên
tắc tự nguyện và quyền tự định đoạt của vợ chồng, đề cao ý chí của các bên
tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thi hành án cũng như việc ổn định đời


sống của các bên, phát huy sự đoàn kết trong nội bộ gia đình và nhân dân.
Khác với quy định tại Điều 42 Luật HN&GĐ 1986: “việc chia tài sản do hai
bên thoả thuận nhưng phải được Toà án nhân dân công nhận”. Nhưng sự
thoả thuận này chỉ có giá trị pháp lý khi các bên có sự tự nguyện, nội dung
thoả thuận không trái với các nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ và các quy
định khác của pháp luật, không trái với đạo đức xã hội, ví dụ: Toà án sẽ
không công nhận sự thoả thuận về tài sản của các bên nếu việc thoả thuận đạt
được do một bên bị cưỡng ép, lừa dối hoặc xâm phạm tới lợi ích của vợ và
các con hoặc thoả thuận đạt được nhằm tẩu tán tài sản,…Việc phân chia tài
sản vợ chồng khi ly hôn dựa trên nguyên tắc: “tài sản riêng của bên nào vẫn
thuộc quyền sở hữu riêng ở bên đó, tài sản chung được chia đôi nhưng có xét
đến công sức đóng góp và hoàn cảnh của mỗi bên ở đó lao động trong gia
đình được coi như lao động có thu nhập; trong khi phân chia tài sản chung
của vợ chồng phải đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa
thành niên, con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không
có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.”
Như vậy, về nguyên tắc khi ly hôn, tài sản riêng của bên nào vẫn thuộc
quyền sở hữu của bên đó, tài sản chung sẽ được chia đôi nhưng có xem xét
đến công sức đóng góp và hoàn cảnh của mỗi bên cũng như việc đảm bảo

quyền lợi của vợ và các con. Mặt khác, khi chia tài sản cũng phải chú ý tới
việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và
nghề nghiệp để họ có điều kiện để tiếp tục lao động tạo thu nhập, tránh tình
trạng làm mất hoặc giảm giá trị, công dụng của tài sản như phá hỏng tài sản,
nhà cửa, tư liệu sản xuất làm ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh của các bên.
Khi ly hôn tài sản của vợ chồng có thể được chia bằng hiện vật hoặc
theo giá trị, nếu có sự chênh lệch thì người nào được chia tài sản có giá trị lớn
hơn phải thanh toán cho bên kia khoản tiền tương ứng với phần chênh lệch.
Giá trị tài sản được xác định theo giá thị trường tại thời điểm chia. Trên thực
tế, Tòa án thường gặp rất nhiều vướng mắc khi giải quyết hậu quả pháp lý về
tài sản giữa vợ chồng. Để đảm bảo tài sản được chia công bằng, hợp lý, bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên, nâng cao hiệu quả việc giải quyết


các tranh chấp liên quan đến tài sản vợ chồng. Tòa án phải xác định rõ các
chứng cứ mà đương sự cung cấp, vận dụng đúng đắn, linh hoạt các nguyên
tắc cơ bản của Luật HN&GĐ, nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng khi ly
hôn. Qua đó, xác định rõ nguồn gốc, giá trị, số lượng tài sản, tình hình tài sản
khi ly hôn, tình trạng cụ thể của gia đình, công sức đóng góp của mỗi bên
trong quá trình vợ chồng chung sống như thế nào?… Có như thế mới có thể
giải quyết vấn đề tài sản một cách thấu tình đạt lý, bảo vệ được quyền lợi của
các bên, lợi ích của gia đình và xã hội.
2.2.2. Đối với tài sản riêng của vợ chồng khi ly hôn.
• Xác định tài sản riêng của vợ, chồng.
Vợ, chồng với tư cách là công dân, họ có toàn quyền sở hữu riêng đối
với những tài sản mà họ có được từ trước khi kết hôn, hoặc được thừa kế
riêng, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân. Như vậy, vợ chồng có quyền có
tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ chồng bao gồm: “Tài sản mà mỗi người có
trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kì hôn
nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều

29 và Điều 30 của luật này; đồ dung tư trang cá nhân.”
Do những tài sản này, không phải do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn
nhân, không chịu sự tác động của chế độ cộng đồng về tài sản của quan hệ
hôn nhân và lợi ích chung của gia đình. Do đó khi ly hôn những tài sản đó vẫn
thuộc sở hữu riêng của mỗi bên. Việc quy định quyền sở hữu riêng của vợ
chồng về tài sản là sự cụ thể hóa quy định quyền sở hữu riêng về tài sản của
công dân theo Hiến pháp 92 [19, Điều 58]. Quy định này, hoàn toàn phù hợp
với nguyên tắc tự định đoạt về tài sản của công dân góp phần ngăn chặn hiện
tượng kết hôn vì mục đích kinh tế và đảm bảo cho vợ chồng thực hiện các
nghĩa vụ về tài sản một cách độc lập.
Ngoài ra, pháp luật còn ghi nhận “vợ chồng có quyền nhập hoặc không
nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung” [23, Điều 32]. Như vậy, nếu vợ
chồng tự nguyện nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung thì pháp luật sẽ
thừa nhận sự tự nguyện đó. Khi nhập tài sản riêng vào tài sản chung thì tài sản
riêng đó sẽ thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng, theo đó họ có quyền


ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản đó. Nhưng khi
có tranh chấp về việc có hay không có việc nhập tài sản riêng vào tài sản
chung của vợ chồng xảy ra thì về nguyên tắc bên có yêu cầu có nghĩa vụ
chứng minh. Nghĩa là, nếu người có tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung
vợ chồng khi có tranh chấp xảy ra lại cho rằng mình chưa nhập tài sản riêng
vào tài sản chung thì họ phải chứng minh tài sản đó thuộc sở hữu riêng của
mình như đưa ra giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, di chúc,… Trong
trường hợp, họ không có đủ chứng cứ chứng minh đó là tài sản riêng thì tài
sản đó là tài sản chung của vợ chồng. Vì vậy, khi nhập tài sản riêng là quyền
sử dụng đất, nhà ở và những tài sản khác có giá trị lớn vào tài sản chung vợ
chồng thì phải lập thành văn bản, có chữ kí của cả hai bên vợ chồng, có công
chứng, chứng thực. Đó sẽ là chứng cứ để các bên chứng minh cho yêu cầu
của mình khi có tranh chấp xảy ra.



Phương thức thanh toán tài sản riêng của vợ chồng khi ly hôn.
Về nguyên tắc, khi vợ chồng ly hôn “Việc chia tài sản khi ly hôn do

các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải
quyết. Tài sản riêng của bên nào vẫn thuộc quyền sở hữu của bên đó” [23,
Điều 95]. Như vậy, khi ly hôn, tài sản riêng của bên nào vẫn thuộc quyền sở
hữu của bên đó và có quyền lấy về. Nhưng tài sản đó phải hiện còn, nếu đã
chi dùng cho gia đình thì người có tài sản không được đòi lại nữa. Tuy nhiên,
người có tài sản riêng phải chứng minh tài sản đó thuộc quyền sở hữu riêng
của mình dựa trên cơ sở các quy định về tài sản riêng tại Điều 32 Luật
HN&GĐ 2000 hoặc thông qua sự thừa nhận của bên kia, hoặc bằng các giấy
tờ xác nhận quyền sở hữu của vợ chồng như: Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà, di chúc, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền… Nếu người có tài sản riêng không chứng minh được đó là tài sản
riêng của mình thì xác định đó là tài sản chung của vợ chồng để chia [23,
Điều 27]. Trường hợp, vợ chồng đã tự nguyện nhập tài sản riêng vào tài sản
chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng đã chi dùng cho gia đình mà không còn
nữa thì người có tài sản riêng không có quyền đòi lại hoặc đền bù. Khi ly hôn,
những tài sản đó được xác định là tài sản thuộc khối tài sản chung của vợ


chồng để chia. Riêng đối với tài sản thuộc sở hữu riêng của một bên đã được
tu sửa bằng tài sản chung làm tăng giá trị tài sản lên nhiều lần thì khi ly hôn
Tòa án cần xác định phần giá trị tăng lên để nhập vào tài sản chung để chia.
Trường hợp con đã thành niên có công sức đóng góp đáng kể vào việc tạo lập
và phát triển tài sản của cha mẹ thì khi cha mẹ ly hôn, nếu có yêu cầu Tòa án
sẽ trích một phần tài sản của gia đình chia theo công sức đóng góp của người
con. Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự

mà có tài sản thì Tòa án không chia mà sẽ giao cho người nào trực tiếp nuôi
con sẽ quản lý tài sản của con.
Riêng đối với nghĩa vụ dân sự riêng mà người vợ hoặc người chồng đã
vay mượn tiền hoặc tài sản của người khác để chi dùng cho nhu cầu, mục đích
riêng của mình thì họ phải có nghĩa vụ thanh toán bằng tài sản riêng của mình
(khoản 3 Điều 33). Nếu tài sản riêng không có hoặc không đủ để thanh toán
thì phải thanh toán bằng phần tài sản của người đó trong khối tài sản chung
của vợ chồng hoặc vợ chồng có thể thỏa thuận với nhau để thanh toán bằng
tài sản chung của vợ chồng.
Thực tế hiện nay, khi ly hôn, vợ chồng thường có tranh chấp gay gắt về
tài sản. Việc xác định tài sản đang có tranh chấp là tài sản chung hay tài sản
riêng để chia gặp rất nhiều khó khăn và phức tạp vì tài sản đã được sử dụng
trong thời kỳ hôn nhân nhiều khi đã qua vài chục năm hoặc đã qua nhiều lần
luân chuyển, biến đổi hoặc có sự trộn lẫn, ẩn chứa các loại tài sản chung và tài
sản riêng, hoặc tài sản mua được từ thu nhập do lao động của mình nhưng họ
lại nói rằng tài sản đó họ mua được là do bố, mẹ, anh, chị, em tặng cho riêng
một khoản tiền, nhất là đối với những tài sản có giá trị như: quyền sử dụng
đất, nhà ở, ô tô, xe máy, … Vì thế, Tòa án gặp rất nhiều khó khăn khi giải
quyết các tranh chấp liên quan đến việc xác định đâu là tài sản riêng, tài sản
chung của vợ chồng. Để xác định một cách chính xác tài sản đó là tài sản
chung hay tài sản riêng của một bên, Tòa án phải tiến hành xác minh, thu
thập chứng cứ, căn cứ vào tình hình thực tế hoặc thu nhập thực tế của mỗi
bên. Có như vậy mới giải quyết thấu tình, đạt lý các tranh chấp phát sinh, bảo


vệ quyền và lợi ích chính đáng về tài sản của vợ chồng và các thành viên khác
trong gia đình.
2.2.3. Đối với tài sản chung của vợ chồng.
Khi cuộc sống gia đình hạnh phúc người ta không phân định rạch ròi tài
sản nào là tài sản riêng, tài sản nào là tài sản chung. Nhưng khi cuộc sống vợ

chồng bị rạn nứt, có nguy cơ tan vỡ thì những toan tính vật chất khiến họ trở
nên nhỏ nhen, ích kỉ, luôn đặt lợi ích cá nhân lên hàng đầu. Vì vậy, khi ly hôn
việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng, đặc biệt là
các tài sản có giá trị liên quan đến nhà ở, quyền sử dụng đất,… gặp rất nhiều
vướng mắc. Trong phần giải quyết tài sản chung vợ chồng khi ly hôn, chúng
tôi tập trung nghiên cứu các tranh chấp tài sản vợ chồng liên quan đến quyền
sử dụng đất ( QSDĐ) và nhà ở.


Xác định khối tài sản chung của vợ chồng

Để xác định chế độ tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân
phải căn cứ vào nguồn gốc phát sinh và thời điểm hình thành tài sản. Theo
quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ 2000 thì tài sản chung vợ chồng
bao gồm: “ Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kì
hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
QSDĐ mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ
chồng. QSDĐ mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế
riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận”, [23, Điều 27].
Ngoài ra, tài sản chung vợ chồng còn bao gồm các tài sản mà vợ chồng
mua sắm được bằng thu nhập nói trên, tiền tiết kiệm là tài sản chung vợ chồng
gửi ở ngân hàng, những khoản nợ mà vợ chồng đã vay trước đó sử dụng vào
đời sống chung cần phải trả, những khoản nợ mà vợ chồng cho người khác
vay có quyền đòi,…Các tài sản chung của vợ chồng phải là tài sản đó phải
hiện còn trong gia đình tại thời điểm Toà án giải quyết cho vợ chồng ly hôn.
Riêng đối với các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp
luật quy định phải đăng kí quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận phải ghi



×