Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số vần đề lý luận cơ bản về quyền được chết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.14 KB, 21 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Cuộc sống đối với mỗi người có lẽ là tài sản quý giá nhất mà không ai
muốn rời bỏ. Tuyên ngôn về nhân quyền của nước Mỹ viết: “Người ta sinh ra ai
cũng có quyền được sống, được mưu cầu hạnh phúc”. Tuy nhiên, đối diện với
sự sống là cái chết. Sống là quyền, vậy đối với một con người, được chết có
phải là quyền hay không?
Ra đi trong cô đơn chỉ vài ngày sau khi Tòa án Dijon (Pháp) bác bỏ thỉnh
nguyện xin được “ra đi xứng đáng” bằng cách được chích thuốc độc chết (mà
người ta vẫn hay gọi là “cái chết êm ái” hay “an tử’), hôm 20/3/2008, người ta
đã phát hiện thi thể của bà Chanal Sebire, bị một chứng bệnh có tên
esthesioneuroblastoma - một loại khối u ác tính tấn công cơ thể từ khoang mũi
gây đau đớn, biến dạng hoàn toàn khuôn mặt tại một căn hộ ở miền Đông nước
Pháp. Cái chết của bà Sebire đã gây chấn động toàn thế giới bởi sau nhiều tháng
đấu tranh để “được chết” nhưng không thành công. Giữa tháng 3, bà Sebire làm
đơn gửi Tòa án xin được chết, sau khi đã thỉnh cầu Tổng thống Sarkozy can
thiệp để bác sĩ điều trị có thể kê toa độc dược “giúp” bà được chết trong tỉnh táo
và trong vòng tay thân quyến, bạn bè. Sau khi tòa Dijon bác bỏ thỉnh nguyện
của bà Sebire với lý do luật hiện hành không cho phép, thủ tướng Pháp đã chỉ
thị lập một ủy ban xem xét có thể điều chỉnh luật hay không. Thẩm phán Tòa án
nói: “Không!”. Còn bà Bộ trưởng bộ tư pháp - Rachida Dati thì phát biểu trên
truyền hình rằng: “Chúng ta đã xây dựng luật pháp dựa trên những thỏa thuận
chung của cả Châu Âu về quyền sống và được sống của con người. Y tế là cứu
lấy sự sống chứ không phải để tiêu diệt nó”. Tuy nhiên, trong khi cả nước Pháp
còn đang bàn cãi về “cái chết êm ái” dưới lăng kính đạo đức thì bà Sebire đã ra
đi trong sự cô đơn. Cùng lúc với cái chết của bà Sebire, tại Bỉ - một nước không
xa Pháp là bao, người ta cũng đưa tin cái chết của nhà văn Bỉ Hugo Claus, 78
tuổi. Bị mắc chứng alzheimer, ông đã sử dụng “quyền an tử” theo luật pháp Bỉ
và đã “được” chết tại Bệnh viện Middelheim bên cạnh người thân, hoàn toàn
thoát khỏi mọi đau đớn của bệnh tật.

1




Như vậy, cùng là bệnh nhân bị bệnh nan y, cùng là chết - nhưng một
người thì bị từ chối và đã ra phải ra đi trong đau đớn và cô đơn, còn một người
khác thì được chọn và ra đi trong trong êm ái giữa những người thân. Sự khác
biệt ở đây chính là pháp luật. Đó là vấn đề: Quyền được chết.
Trên thế giới hiện nay, quyền được chết là một vấn đề còn để mở, bao
hàm nhiều quan niệm khác nhau. Ở Việt Nam, vấn đề này còn xa lạ với nhiều
người và luật pháp nước ta cũng chưa hề có quy định nào về quyền được chết.
Có thể thấy, quyền được chết là một vấn đề lớn và đặc biệt gây nhiều
tranh cãi bởi tính phức tạp của nó trên nhiều lĩnh vực: Y học, chính trị, xã hội,
tôn giáo...
Về mặt pháp lý, nếu quyền được chết được pháp luật công nhận thì
những cuộc chiến pháp lý rắc rối kéo dài sẽ có lối thoát dễ dàng.
Về mặt xã hội, quyền được chết càng có ý nghĩa hơn nữa. Trong lời thỉnh
cầu xin “quyền được chết” bà Sebire (Pháp), có đoạn: “Ngay cả thú vật cũng
không để phải chịu đựng như tôi đang chịu đựng”. Việc từ chối cái chết nhẹ
nhàng, trong sự tỉnh táo giữa những người thân chính là sự tiếp tay dung dưỡng,
duy trì nỗi đau thể xác và có lẽ là cả tinh thần đối với người bệnh. Chính vì
cuộc sống là quý giá nhất, nên hơn ai hết, chính những người bị bệnh muốn chết
hẳn hiểu rõ vì sao mình lại muốn chết. Khi sự sống của bệnh nhân không còn
được đảm bảo nữa: Mắc bệnh vô phương cứu chữa, đang phải chịu đựng đau
đớn kéo dài... thì an tử theo yêu cầu là cách thức hợp lý nhất để chấm dứt đau
khổ. Người bệnh được ra đi tự nguyện, thanh thản. Gia đình bệnh nhân không
phải chịu những tốn kém không đáng có. Xã hội bớt những cực nhọc, lo toan
và được bình yên hơn. Đó là một kết thúc đẹp, một “cái chết nhân đạo”.
Với những ý nghĩa đặc biệt như trên, bài luận xin tập trung nghiên cứu về
quyền được chết với mong muốn hiểu rõ hơn về bản chất của “cái chết êm ả.
Bên cạnh đó, cũng đề cập đến một số vấn đề nhằm góp phần dung hòa mối
quan hệ giữa pháp luật và xã hội để quyền được chết dần được hiểu và tôn trọng

như một quyền cơ bản của con người. Từ đó, đề xuất một số ý kiến trong quá
trình xây dựng Luật An tử ở Việt Nam.
2


A. Một số vần đề lý luận cơ bản về quyền được chết
I. Khái niệm “Quyền được chết”
Lịch sử của thuật ngữ euthanasia (Tiếng Anh) hay euthanasie (Tiếng
Pháp), an tử (Tiếng Trung) hay vẫn thường được gọi là “cái chết êm ả” bắt
nguồn từ một từ Hy Lạp là euthanatos. Trong đó, eu có nghĩa là tốt, thanatos là
cái chết. Nghĩa của từ này theo tiếng Hy Lạp là chấm dứt cuộc sống của ai đó
một cách ít đau đớn nhất hay không đau đớn để giúp họ khỏi kéo dài cuộc sống
trong những điều kiện không mong muốn.
Ra đời vào khoảng thế kỷ XVII, thuật ngữ này được hiểu là ám chỉ một
hành động đặc biệt của bác sỹ nhằm tạo ra cái chết của những bệnh nhân được
coi là “vô phương cứu chữa”. Từ khi xuất hiện đến nay, “cái chết êm ả” đã có
những thay đổi khác nhau gắn liền với những phát triển của nền y khoa và văn
minh nhân loại. Và dần dần, khái niệm quyền được chết ra đời, kéo theo nhiều
vấn đề liên quan một cách phức tạp. Thực ra, “cái chết êm ả” là kết quả sau
cùng của “quyền được chết” của một cá nhân nào đó. Cho nên, nếu nói đến
quyền được chết thì khái niệm cái chết êm ả cũng đi liền, gắn bó hữu cơ với
nhau.
Hiện nay chưa có định nghĩa cụ thể về quyền được chết. Tuy nhiên, nếu
dựa vào nội dung của quyền được chết hiện nay được đa số quan điểm đồng
tình và theo các đạo luật của các nước đã thông qua “cái chết êm ả” thì có thể
rút ra khái niệm quyền được chết như sau:
Quyền được chết là một quyền nhân thân của người đã thành niên
đang phải chịu sự đau đớn về thể chất hoặc tinh thần kéo dài và không thể
chịu đựng được sau một tai nạn hay một bệnh lý không thể cứu chữa, rơi
vào tình huống y tế không lối thoát.


II. Các tiêu chí cần thiết để thực hiện quyền được chết
1. Tiêu chí về y học
1.1. Về phạm vi bệnh nhân:
Giới y học hầu hết thống nhất có 2 dạng bệnh nhân thuộc loại không thể
cứu chữa được:
3


1.1.1. Những trường hợp chết não:
Khoản 9 Điều 3 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến,
lấy xác Việt Nam ngày 29/11/2006 quy định chết não là “tình trạng toàn não
bộ bị thương tổn nặng, chức năng của não đã ngừng hoạt động và người chết
não không thể sống lại được”.
Trường hợp này, bệnh nhân sống hoàn toàn nhờ vào các biện pháp hỗ trợ
như hô hấp, tuần hoàn và nuôi dưỡng nhân tạo... nếu rút máy thì coi như sự sống
chấm dứt.
Hoạt động não là điều kiện cần của sự tồn tại của một cá nhân về mặt
pháp lý, và có lẽ chỉ trừ các phôi thai, nó cũng đồng thời là điều kiện đủ. “Một
khi sự chết não đã được khẳng định, việc ngưng sử dụng các thiết bị hỗ trợ sự
sống không cấu thành một tội dân sự hay hình sự”. (Dority, tại tòa án tối cao
hạt San Bernardino, tr. 288, 291 (1983)).
1.1.2. Trường hợp người bệnh mất ý thức kéo dài và không có khả năng
hồi phục:
Trường hợp này bệnh nhân có sống cũng chỉ là gánh nặng của gia đình.
Đôi lúc người bệnh biểu lộ được ý chí của mình và hoàn toàn không sống nhờ
các biện pháp nhân tạo. Trường hợp này bao gồm cả bệnh nhân chịu nhiều đau
đớn kéo dài nhưng không mất ý thức thường xuyên. Nguyên nhân để dẫn đến
các tình trạng trên có thể là sau một tai nạn hay bị mắc bệnh hiểm nghèo, vô
phương cứu chữa.

Tại Hà Lan, nước này còn quy định cái chết êm ả đối với trẻ em nhưng
với những quy định này, luật quy định rất chặt chẽ và giới hạn hành vi. Nhìn
chung, đa số đều chống lại an tử đối với trẻ em nên chủ yếu vẫn là hai dạng
bệnh nhân ở trên.
1.2. Cách thức thực hiện:
1.2.1. Cái chết êm ả chủ động: Bác sĩ trực tiếp gây tử vong theo yêu cầu
của bệnh nhân.
Ở một bệnh viện trợ giúp an tử của Thụy Sỹ, người bệnh được uống
cooktail pha một hỗn hợp độc dược được chuẩn bị sẵn hoặc được tiêm thuốc.
4


Hay như cách thức mà người được mệnh danh là “Bác sỹ tử thần” – Jack
Kevorkian đã thực hiện: Dùng “chiếc máy giết người” (Mercitrion) do ông chế
tạo để truyền các độc tố vào máu người bệnh. Ông còn dùng biện pháp khác là
cho người bệnh đeo mặt nạ và để họ tự ngửi khí ga độc mà chết.
1.2.2. Cái chết êm ả thụ động: Không điều trị. Bác sỹ ngưng mọi biện
pháp kéo dài sự sống đối với bệnh nhân (rút ống dẫn...).
Ngoài ra còn một hành vi là tự tử dưới sự trợ giúp của bác sỹ. Hành vi
này về mặt hình thức có điểm khác với 2 hình thức trên như: có thể chỉ là sự tư
vấn, người bệnh tự rút ống dẫn... Bác sỹ không trực tiếp thực hiện hành vi mà
chỉ là trợ giúp.
2. Tiêu chí về luật pháp:
2.1. Tính hợp pháp của hành vi:
Trước hết, có thể thấy, hành vi của quyền được chết có sự tự nguyện của
những bệnh nhân đang ở trong những tình huống y tế không lối thoát và mong
muốn thoát khỏi những đau đớn về tinh thần và thể xác kéo dài. Bác sỹ thực
hiện quyền được chết hoàn toàn dựa trên yêu cầu của bệnh nhân và theo những
quy trình nghiêm ngặt do luật định. Bởi vậy, hành vi của quyền được chết là
hành vi hợp pháp (trừ khi luật pháp chưa công nhận hành vi của quyền được

chết là hợp pháp). Vì thế, cũng cần phân biệt hành vi này với các hành vi khác
có liên quan để tránh sai sót trong việc xét xử các vụ án.
2.2. Phân biệt hành vi thực hiện quyền được chết với các hành vi
khác:
Một trong những lý do để có nhiều tranh cãi về quyền được chết dẫn đến
việc hầu hết các quốc gia đều chưa cho phép và thông qua quyền được chết là
nhận thức sai về hành vi của bác sỹ trong việc thực hiện cái chết êm ả. Bởi vậy,
cần phân biệt rõ hành vi của quyền được chết với một số hành vi sau:
2.2.1. Hành vi tự sát:
Hành vi của quyền được chết có thể được thực hiện bởi chính bác sỹ và
chính bệnh nhân (dưới sự trợ giúp của bác sỹ). Với hình thức do bác sỹ thực
hiện thì rõ ràng nó hoàn toàn khác hành vi tự sát về chủ thể thực hiện. Với hình
5


thức do chính tay bệnh nhân thực hiện có bác sỹ hỗ trợ thì điểm để phân biệt
với hành vi tự sát là: Điều kiện sống của bệnh nhân đó không còn được đảm
bảo, bệnh nhân đang ở giai đoạn cuối của bệnh vô phương cứu chữa, phải chịu
nhiều đau đớn thể xác và tinh thần. Với hành vi tự sát, người đó có thể do sự ức
chế quá sức về tinh thần hay sai lệch về ý chí dẫn đến hành vi, còn với hành vi
của quyền được chết, đó là sự tự nguyện đến với cái chết của bệnh nhân do
không mong muốn kéo dài cuộc sống trong điều kiện không còn được đảm bảo.
2.2.2. Tội giúp người khác tự sát:
Điều 101 Bộ Luật Hình Sự Việt Nam năm 1999 có quy định Tội xúi giục
hoặc giúp người khác tự sát. Về hành vi xúi giục người khác tự sát rõ ràng khác
hành vi trong quyền được chết bởi trong quyền được chết, bác sỹ chỉ làm theo
yêu cầu của bệnh nhân chứ không xúi giục bệnh nhân. Về hành vi giúp người
khác tự sát, xét về chủ thể thực hiện, đó có thể là bất cứ ai chứ không chỉ bó hẹp
là bác sỹ như trong chủ thể của quyền được chết. Cách thức thực hiện hành vi
giúp người khác tự sát cũng phong phú hơn nhiều so với quyền được chết. Đặc

biệt, ở trường hợp quyền được chết, bệnh nhân đang ở trong điều kiện sống quá
hiểm nghèo, không thể chịu đựng đau đớn kéo dài hơn được nữa, mong muốn
được bác sỹ giúp chấm dứt cuộc sống một cách nhẹ nhàng và nhanh chóng,
khác hẳn điều kiện của người muốn tự sát và giúp tự sát.
2.2.3. Tội giết người:
Đây là vấn đề được tranh cãi nhiều nhất tại hầu hết các nước chưa quy
định Luật An tử. Điển hình là trường hợp “bác sỹ tử thần” Jack Kevorkian
(bang Michigan – Mỹ) bị truy tố về tội giết người do đã "giúp" tới 130 bệnh
nhân được “ra đi”. Jack Kevorkian bị kết án tới 25 năm tù. Tuy nhiên, ông được
giảm án, trả tự do trước thời hạn sau 8 năm ngồi tù vì lý do sức khỏe và chấp
hành tốt nội quy nhà tù.
Có thể thấy, nếu trong tội giết người, nạn nhân hoàn toàn bị động về cái
chết của mình thì trong hành vi của bác sỹ khi thực hiện quyền được chết thì
hoàn toàn có sự chủ động đồng ý của bệnh nhân để “được chết”. Hành vi của
tội giết người cũng được thực hiện hoàn toàn khác so với hành vi thực hiện
6


quyền được chết, thậm chí, hành vi giết người nhiều trường hợp là hết sức dã
man. Mục đích của hành vi thực hiện quyền được chết là nhằm hướng tới một
sự “giải thoát” cho người bệnh khỏi đau đớn kéo dài, đưa tới một cái chết nhẹ
nhàng, khác với hành vi giết người nhằm mục đích tước đoạt mạng sống của
người khác. Như vậy, hành vi giết người và hành vi thực hiện quyền được chết
là hoàn toàn khác nhau.

B. Những quan điểm và Pháp luật quy định về quyền
được chết trên thế giới
I. Những quan điểm xung quanh vấn đề quyền được chết
1. Quan điểm phản đối:
Đây là quan điểm đang chiếm ưu thế trong cuộc tranh cãi kéo dài về quyền

được chết. Tổng hợp những quan điểm này, có thể thấy nổi bật lên là một số lý
do chống lại:
- Công nhận cái chết êm ả làm mất đi tính thống nhất luật pháp trong xã
hội. Quan điểm này là của Lucke Gormally – một nhà khoa học Hà Lan. Ông cho
rằng, công lý trong xã hội không nhận biết con người là đối tượng của nó một
cách tùy tiện và phân biệt đối xử. Cách thức duy nhất tránh sự tùy tiện đó là
phải cho rằng: Tất cả con người tồn tại, được cho quyền chữa bệnh và là đối
tượng của những quyền con người cơ bản. Cái chết êm ả không thể hòa hợp với
pháp luật trên cơ sở luôn tin tưởng rằng giá trị của con người đang tồn tại là
nguyên tắc cơ bản. Do đó, pháp luật trong xã hội không thể được thống nhất
một khi yêu cầu xin được chết, từ chối quyền sống của con người vẫn tiếp diễn.
- “Việc tạo ra quyền được chết sẽ xói mòn quyền cơ bản được sống,
thông qua việc hình thành danh sách những người coi cuộc sống không đáng
giá.” - Paul Tully, Tổng thư ký Hiệp hội Bảo vệ Thai nhi Anh Quốc.
- Nếu thông qua cái chết êm ả thì sẽ bị lạm dụng để thực hiện tội ác vô
nhân đạo. Tình trạng sẽ lớn hơn ở các nước có hệ thống pháp luật lỏng lẻo,
không kiểm soát được tình hình phạm tội. Tuy nhiên, cần thấy rằng, khi Luật đã
7


được xây dựng thì chắc chắn sẽ có dự liệu về những trường hợp xấu có thể xảy
ra và như vậy, việc Luật bị lạm dụng sẽ ít nhiều bị loại trừ.
- Nếu có Luật An tử, nhiều người bệnh sẽ giảm ý chí, mất niềm tin vào cuộc
sống vì cho rằng đã có Luật này thì không cần điều trị vô ích nữa.
- Cái chết êm ả làm suy yếu dần những thiên chức của bác sỹ và vì thế có
thể phá hỏng những truyền thống của y khoa. Đa số bác sỹ cho rằng, thực hiện
cái chết êm ả là giết người bởi chức năng của bác sỹ phải là cứu người. Tuy
nhiên, quan điểm này chỉ đúng khi quyền được chết chưa được pháp luật công
nhận bởi nếu đã có luật, bác sỹ không thể bị coi là có tội nếu giúp người bệnh
thực hiện cái chết êm ả. Bác sỹ khi được bệnh nhân yêu cầu cũng hoàn toàn có

thể từ chối thực hiện an tử. Hành vi của bác sỹ là hành vi mang tính chất nhân
đạo chứ hoàn toàn không mưu toan lợi ích cá nhân hay phá hỏng truyền thống y
khoa bởi xét cho cùng, việc bác sỹ thực hiện một số biện pháp nhằm giúp bệnh
nhân chết được dễ dàng hơn cũng chính là để chấm dứt mọi đau đớn mà họ phải
chịu đựng, mang lại sự giải thoát thanh thản cho họ.
2. Quan điểm ủng hộ:
Một số lý do nên ủng hộ quyền được chết và an tử:
- Bản chất của an tử là hướng đến mục đích tốt đẹp, có tính nhân đạo là
giúp những bệnh nhân ở trong tình trạng đau đớn kéo dài, bệnh nan y vô
phương cứu chữa ở giai đoạn cuối được “ra đi” thanh thản. Chấm dứt nỗi đau
đớn cho bệnh nhân cũng đồng nghĩa với việc giảm bớt gánh nặng vật chất cũng
như tinh thần cho gia đình họ, từ đó, tạo sự ổn định cho xã hội.
- Luật An tử ra đời sẽ giải tỏa nỗi bức xúc của giới bác sỹ trong hoàn
cảnh: Bệnh nhân đang phải chịu đau đớn kéo dài xin được chết mà họ thì không
thể “giết người”. Nếu luật cho phép, họ sẽ có định hướng tốt và có thể yên tâm
giúp đỡ bệnh nhân được toại nguyện nếu muốn.
- Nếu không công nhận quyền được chết, ban hành Luật An tử thì quyền
được chết sẽ mãi nằm trong bế tắc, các vụ việc liên quan sẽ không có lối thoát,
thậm chí kéo dài và gây ra tranh cãi, chia rẽ trầm trọng bởi vấn đề này không
chỉ còn gói gọn trong lĩnh vực y học hay luật pháp mà đã lan sang cả nhiều lĩnh
8


vực khác như chính trị, xã hội, tôn giáo... Tiêu biểu là vụ Cuối năm 2006, ở Ý
có một sự kiện làm dấy lên sự tranh cãi và ồn ào trên cả nước liên quan đến một
cái chết được thực hiện theo kiểu “an tử” nhưng... trái pháp luật. Bệnh nhân 60
tuổi là nhà thơ Piergiorgio Welby, bị teo cơ làm liệt các ngón tay, đau đớn và
hạn chế nhiều trong giao tiếp. Ông đã gửi thư lên Tổng thống Giorgio
Napotalino xin được chết. Sau một thời gian dài tranh cãi, Tòa án không thể
đưa ra phán quyết mà chuyển lại hồ sơ về Quốc hội với lý do không tìm ra luật

nào giải quyết trường hợp này. Ngày 20/12/2006, bác sĩ điều trị của Welby là
Mario Riccio khẳng định nguyện vọng xin được chết của Welby không bị một
cản trở pháp lý nào. Và ông đã tắt máy trợ thở, “giúp” an tử. Tuy vậy, cái chết
của Welby không giải quyết được vấn đề đạo đức nói trên mà thậm chí còn gây
chia rẽ ngay trong nước Ý nhiều hơn. Trong khi một số người khẳng định cái
chết là sự giải thoát cho Welby, thì những người khác gọi bác sĩ Riccio là kẻ sát
nhân. Nhà thờ đã từ chối phục vụ các nghi thức tôn giáo cho lễ tang Welby.

II. Quy định về An tử ở một số nước trên thế giới
Trên thế giới hiện nay, đã có một số nước công nhận quyền được chết và ban
hành Luật An tử. Có nhiều nước không công nhận quyền được chết là quyền
nhân thân và tất nhiên không ban hành Luật An tử. Có nước công nhận nó là
quyền nhân thân nhưng chưa ban hành Luật vì chưa phù hợp hay chỉ chấp nhận
hành vi tự tử dưới sự trợ giúp của bác sỹ.
1. Các quốc gia đã hợp pháp hóa quyền được chết và Luật An tử:
Hà Lan là Quốc gia đầu tiên áp dụng đạo luật “cái chết êm ả”. Tháng 11
năm 2000, Hạ Viện Hà Lan đã thông qua dự Luật An tử. Đến ngày 10 tháng 04
năm 2001, với tỷ lệ áp đảo 46/28, Thượng viện Hà Lan đã bỏ phiếu thông qua
đạo luật. Điều tra toàn quốc cho thấy gần 90% người dân nước này ủng hộ Luật
An tử vì nó đảm bảo quyền cá nhân. Năm 2006, Hà Lan còn cho phép an tử đối
với trẻ em, trẻ sơ sinh mắc bệnh nặng không thể cứu chữa. Những bệnh nhân từ
12 đến 16 tuổi cũng có quyền được chết êm ả nếu có sự đồng ý của cha mẹ. Đối
với trẻ trên 16 tuổi, ý kiến gia đình là không cần thiết.

9


Quốc gia thứ hai hợp pháp hóa “cái chết êm ả” là Bỉ. Với 86 phiếu thuận,
51 phiếu chống và 10 phiếu trắng, tối 16/05/2002, Thượng viện Bỉ đã chấp
thuận đạo luật cho phép bệnh nhân bị bệnh rất nặng có quyền được chết dưới

những điều kiện nhất định. Điều tra tiến hành năm 2001 có tới 72% người dân
đồng tình với cái chết êm ả.
Tại Mỹ, Luật Liên bang cấm thực hiện cái chết êm ả. Bang Oregon là
bang đầu tiên từ năm 1994 cho phép bệnh nhân yêu cầu được chết nhưng tòa án
bang đã chống lại việc thực thi điều luật này và đến năm 1997 thì Tòa án tối cao
của bang đã chấp nhận. Năm 1999, Bang Texas cũng cho phép an tử. Và đến
hết năm 2006, ở cả 50 bang của Mỹ đã có đạo luật cho phép bệnh nhân ở trong
các điều kiện nhất định được xin chết.
2. Các quốc gia chưa hợp pháp hóa Luật An tử hoặc quy định một phần:
Cho đến hiện tại, một số quốc gia ở Châu Âu như Tây Ban Nha vẫn
ngầm chấp nhận việc tự tử có sự hỗ trợ nhưng phần lớn không hợp pháp hóa nó.
Tại Đan Mạch, pháp luật cho phép bệnh nhân mắc các bệnh nan y tự
quyết định dừng việc điều trị; từ ngày 01/10/1992, trong trường hợp bị bệnh
không thể cứu chữa khỏi hoặc bị tai nạn nặng, bệnh nhân có thể làm một bản
chúc thư y tế mà bác sỹ phải tôn trọng.
Tại Thụy Điển, “hỗ trợ tự tử” là một tội không bị xử phạt. Trong một số
trường hợp bác sỹ có thể rút máy thở của bệnh nhân.
Tại Anh, cái chết êm ả là bất hợp pháp. Tuy nhiên, vào các năm 1993 và
1994, luật pháp đã cho phép bác sỹ rút ngắn cuộc đời của những bệnh nhân
sống nhờ các phương pháp nhân tạo.
Tại Pháp, cái chết êm ả là bất hợp pháp. Tuy nhiên, theo kết quả một
cuộc thăm dò do Viện IFOP thực hiện thì có đến 88% dân Pháp tán thành việc
ban hành một đạo luật cho phép bác sỹ giúp những người mắc bệnh nan y “ra
đi” một cách nhẹ nhàng nhằm tránh đau đớn kéo dài nếu họ yêu cầu.
Tại Châu Mỹ La tinh, Tòa án Colombia đã chấp nhận áp dụng cái chết
êm ả vào tháng 05 năm 1997 với những bệnh nhân mắc bệnh nan y ở giai đoạn
cuối.
10



Như vậy, đa phần các nước đều xem hành vi của cái chết êm ả là một tội,
có nước không xử phạt nó nhưng lại không thông qua hay ngấm ngầm chấp
nhận mà không hợp pháp hóa hay chỉ cho phép cái chết êm ả chủ động.

III. Quy định của Việt Nam về an tử
Là một quốc gia Châu Á luôn bị chi phối bởi những phong tục, tập quán,
tôn giáo phương Đông tồn tại tự ngàn đời với nội dung trân trọng và đề cao
quyền sống của con người hơn bất cứ gì, quyền được chết còn rất xa lạ ở Việt
Nam. Bốn bản Hiến pháp của việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992) đều không
quy định cá nhân có quyền được chết. Bộ Luật Dân sự Việt Nam các năm 1995
và 2005 cũng không quy định quyền được chết là quyền nhân thân của con
người. Tại kỳ họp thứ 6 và 7 Quốc hội Khóa XI (2004, 2005), Hội nghị đại biểu
Quốc hội chuyên trách năm 2005, vấn đề quyền được chết đã được đưa vào dự
thảo sửa đổi Bộ Luật Dân sự, được các Đại biểu Quốc hội bàn luận rất sôi nổi.
Tuy hiểu nó là một việc làm nhân đạo nhưng đa số đại biểu cho rằng, đây là
một vấn đề nhạy cảm, không phù hợp với đạo lý người Á Đông hiện nay và
không thông qua quyền được chết trong luật. Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật - Vũ
Đức Khiển khẳng định: “Theo phong tục của Việt Nam, nếu quy định vấn đề
này trong điều kiện hiện nay, thì không phù hợp”.
Như vậy, các nhà lập pháp Việt Nam đã quan tâm đến vấn đề mới – vấn
đề quyền được chết, đồng thời đã hiểu được bản chất quyền được chết và xác
định nó là quyền nhân thân. Tuy nhiên, quan điểm chung hiện nay ở Việt Nam
là: Việc hợp pháp hóa quyền được chết là vấn đề quá sớm. Lý giải cho quan
điểm này, có một số lý do chủ yếu:
Thứ nhất, việc chấp thuận quyền được chết và ban hành Luật An tử sẽ đi
ngược lại quan niệm truyền thống Phương Đông: Coi trọng sự sống. Ở phương
Tây, nơi mà truyền thống, đạo lý không quá nặng nề thì vấn đề công nhận
quyền được chết không quá khó khăn về mặt thời gian. Còn ở các nước phương
Đông, vấn đề coi trọng sự sống còn ảnh hưởng sâu sắc thì khó mà chấp nhận
quyền được chết.


11


Thứ hai, hệ thống pháp luật của Việt Nam còn lỏng lẻo, không đồng bộ
và chồng chéo. Trong khi đó, một trong những điều kiện để có thể ban hành
Luật an tử là hệ thống pháp luật của nước đó phải nghiêm minh, thống nhất,
chặt chẽ và đồng bộ. Sự lỏng lẻo, chồng chéo của hệ thống pháp luật sẽ là rất
nguy hiểm bởi nó không bảo vệ được Luật An tử khỏi bị lạm dụng.
Thứ ba, kỹ thuật lập pháp của Việt Nam còn thấp. Điều này thể hiện ở số
lượng khá lớn các văn bản luật được ban hành nhưng không áp dụng được. Luật
pháp xa rời thực tế, chồng chéo, ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật còn
chậm. Điều này là cản trở lớn cho việc xây dựng một vấn đề mới và khó như
Luật an tử trong hệ thống pháp luật.
Thứ tư, nền kinh tế Việt Nam còn chậm phát triển, kéo theo điều kiện
hoạt động của các cơ sở chăm sóc, khám chữa bệnh y tế còn thấp. Nếu Luật An
tử được ban hành ở Việt Nam vào thời điểm hiện tại – khi mà tình hình kinh tế xã hội còn thấp kém như vậy thì sẽ dẫn tới tình trạng lạm dụng Luật vào những
mục đích xấu.
Thứ năm, số lượng bệnh nhân xin được chết ở Việt Nam còn ít so với thế
giới và quyền được chết cũng chưa phổ biến nên Luật An tử chưa cần thiết phải
ban hành. Ở Việt Nam, do điều kiện kinh tế kém phát triển đã kéo theo vô số
những hậu quả về xã hội, y tế như dịch bệnh, đói nghèo, sự bất lực trước bệnh
tật... Vì thế, số lượng bệnh nhân rơi vào tình huống y tế không lối thoát là
không ít. Nhưng bởi chưa biết, chưa hiểu về quyền được chết nên những trường
hợp xin được chết chưa nhiều.
Qua những lý do trên, có thể nhận định rằng, Việt Nam hiện nay chưa có
đủ những điều kiện cần thiết để công nhận quyền được chết và ban hành Luật
An tử. Vấn đề này còn tùy thuộc vào nhưng biến chuyển về kinh tế, xã hội,
nhận thức, pháp luật... theo thời gian.


C. Một số đề xuất, kiến nghị về việc xây dựng Luật
An tử ở Việt Nam
12


I. Trong tương lai, Việt Nam sẽ có đủ điều kiện cần thiết và
sẽ ban hành Luật An tử
Từ ngàn đời nay, quan niệm truyền thống Á Đông đã ăn sâu vào tâm hồn,
nếp nghĩ, nếp sống của mỗi người dân. Sự coi trọng, đề cao sự sống và giá trị
con người luôn là một chuẩn mực trong xử sự xã hội và pháp luật. Thay đổi
quan niệm này là không thể. Nhưng để truyền thống chấp nhận cái mới, chấp
nhận an tử thì hoàn toàn có thể.
Coi trọng sự sống là một quan niệm hết sức tốt đẹp. Nhưng cần phải thấy
rằng, chấp nhận quyền được chết không phải là không coi trọng sự sống. Bởi
những người bệnh, trong đau đớn, trong điều kiện sống không còn được đảm
bảo nữa, thấu hiểu hơn ai hết giá trị sự sống này. Nhưng họ tôn trọng cuộc sống
của người khác, muốn ra đi để không phải trở thành gánh nặng cho gia đình, xã
hội. Tôn trọng ý muốn của họ cũng chính là tôn trọng chính bản thân họ vậy.
Tuy nhiên, công nhận và hợp pháp hóa quyền được chết nhưng không có nghĩa
cứ muốn chết là có thể chết. Quy trình này phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt
các quy định chặt chẽ của pháp luật, đảm bảo không có sự lạm dụng gây nguy
hại cho cá nhân và xã hội.
Ở các nước phương Tây, mặc dù không mang nặng những tư tưởng,
những phong tục tập quán truyền thống nhưng cũng mới chỉ có một số ít nước
công nhận quyền được chết. Vì vậy, vấn đề công nhận quyền được chết và việc
ban hành Luật An tử ở Việt Nam không thể tùy tiện và nhanh chóng được. Ban
hành Luật An tử trong hoàn cảnh còn có nhiều ý kiến phản đối và người dân
chưa thực sự hiểu về quyền được chết sẽ rất dễ dẫn tới rạn nứt trong quan hệ
giữa chính quyền và nhân dân.
Cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của kinh tế, văn hóa, xã hội

và sự hội nhập không ngừng với thế giới, những tư tưởng mới từ phương Tây
đang xâm nhập vào hệ tư tưởng phương Đông. Bởi điều này là không thể tránh
khỏi nên muốn giữ vững và phát triển nền tảng văn hóa Á Đông của mình, Việt
Nam cần có sự tiếp thu, lĩnh hội một cách chọn lọc để không làm mất đi bản sắc
vốn có. Bởi vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để truyền thống Á Đông chấp
13


nhận an tử. Lúc đó, quan niệm coi trọng sự sống và quyền được chết cùng hòa
hợp trong một quốc gia, như thế vừa giữ gìn bản sắc và vừa tiếp thu cái mới.
Muốn thế, điều đầu tiên cần làm là phải để người dân hiểu, dần chấp nhận và
ủng hộ an tử. Ở đây, biện pháp quan trọng nhất cần phải thực hiện là hoàn thiện
pháp luật trên cơ sở kết hợp hài hòa với các điều kiện kinh tế - xã hội quốc gia.
Tại Quốc hội khóa XI (kỳ họp thứ 6 và 7), quyền được chết đã được đưa
vào dự thảo sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2005 và được đưa ra thảo luận công
khai tại hội trường. Tuy quyền được chết chưa được thông qua tại kỳ họp này
nhưng đây là sự kiện quan trọng, ghi dấu mốc đầu tiên cho hành trình xây dựng
Luật An tử ở Việt Nam. Luật An tử ra đời sẽ giúp gỡ nhiều “nút thắt” đang dần
xuất hiện khi đã có nhiều trường hợp bệnh nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh hay
Đà Nẵng... bắt đầu có đơn xin được chấp nhận “cái chết ê ả” để thoát khỏi đau
đớn bệnh tật. Thiết nghĩ, xây dựng Luật An tử là xu hướng chung của bất cứ
quốc gia nào trên thế giới, không ngoại trừ Việt Nam. Tất cả còn phụ thuộc chủ
yếu về mặt thời gian có thích hợp hay chưa và sự chấp nhận của truyền thống
đã đến mức độ nào mà thôi.

II. Điều kiện để quyền được chết được chấp nhận và Luật
An tử được ban hành ở Việt Nam
Như đã trình bày ở trên, Việt Nam còn khá nhiều lý do dẫn tới việc quyền
được chết còn quá xa lạ với người dân, chưa được công nhận là một quyền nhân
thân chính thức cũng như các nhà làm luật chưa thể xây dựng và ban hành Luật

An tử. Để giải quyết tất cả những vấn đề này cần một quá trình lâu dài, liên tục
và đòi hỏi sự kết hợp của nhiều yếu tố, bao gồm cả ý thức, chính trị, xã hội,
kinh tế, pháp luật...
1. Thông qua sách, báo chí, truyền thông..., làm cho quyền được chết
không còn là quá mới mẻ với người dân:
Nên đi sâu vào việc phản ánh thực trạng của quyền được chết hiện nay
trên thế giới; phân tích những mục đích tốt đẹp, bản chất của quyền được chết.
Bên cạnh đó, cần làm rõ những điều kiện để có thể ban hành Luật An tử, đặc
biệt là những quốc gia phương Đông như Việt Nam. Điều này sẽ giúp cho mọi
14


người tiếp cận dần với quyền được chết, họ sẽ tìm hiểu về nó nhiều hơn. Do đó,
quyền được chết sẽ không còn quá xa lạ .
2. Tiến hành thống kê tình hình số lượng bệnh nhân xin được chết
nhằm đưa ra cơ sở chính xác về nhu cầu xã hội để thực hiện quyền này.
3. Tổ chức các cuộc thăm dò lấy ý kiến nhân dân về việc chấp nhận
hay không chấp nhận việc ban hành Luật An tử. Biện pháp này vừa tạo điều
kiện để người dân biết thêm về an tử, đồng thời cũng để các nhà làm luật có
thêm cơ sở về quan điểm xã hội để xây dựng Luật.
4. Quyền được chết phải được ghi nhận là một quyền nhân thân
chính thức, quyền dân sự cơ bản trong Luật Dân sự. Sau khi được ghi
nhận trong đạo luật gốc thì quyền được chết phải được cụ thể hóa trong
một Luật chuyên ngành như Luật An tử. Bởi là một vấn đề khó nên việc quy
định cụ thể thành đạo luật riêng có ý nghĩa thực tiễn rất lớn đối với việc áp
dụng Luật An tử.
5. Chuẩn bị kỹ những điều kiện cần thiết để có thể xây dựng Luật An
tử: Nâng cao kỹ thuật lập pháp, mời các chuyên gia nước ngoài giúp đỡ...
6. Học hỏi kinh nghiệm nước ngoài, đặc biệt là ở các nước đã hợp pháp
hóa an tử để tìm ra những quy định phù hợp với điều kiện đất nước.

7. Quan tâm đến các phản hồi từ nhiều hướng khác nhau trong quá
trình xây dựng Luật An tử để điều chỉnh kịp thời và phù hợp như tiếp thu những
ý kiến của các nhà xã hội học trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho nhân dân
tham gia đóng góp ý kiến rộng rãi cho dự thảo Luật...
8. Ban hành Luật An tử cần phải có sự kết hợp sửa đổi, bổ sung các
luật khác cho phù hợp với quy định của An tử, đảm bảo cho sự đồng bộ và
thống nhất của hệ thống pháp luật. Ví dụ: Luật Hình sự cần quy định thêm các
tội danh cũng như chế tài đối với hành vi vi phạm Luật An tử...
9. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật An tử nên ban hành song
song với thời điểm Luật An tử có hiệu lực để tránh những hiểu lầm, áp dụng
sai không đáng có.

15


III. Phác thảo một số nội dung cơ bản của Luật An tử Việt
Nam
1. Giải thích rõ các khái niệm:
Giải thích khái niệm là một phần quan trọng của bất kỳ đạo luật nào. Với
Luật An tử, cần giải thích một số khái niệm cơ bản sau:
- Quyền được chết
- Người đã thành niên
- Bệnh nhân
- Bác sỹ
- Bệnh vô phương cứu chữa, tình huống y tế không lối thoát
- Tình trạng giai đoạn cuối của bệnh
- Chúc thư y tế (khi người bệnh bước vào giai đoạn cuối không chữa trị
được nữa thì có quyền được chết, chỉ định một người khác là đại diện nếu lúc đó
người bệnh không còn biểu lộ ý chí được và người đại diện sẽ quyết định việc
chăm sóc, chữa trị của bệnh nhân).

- Người giám hộ, người đại diện
- Người được ủy nhiệm bởi bệnh nhân
- Người được ủy quyền, bởi Tòa án, các cơ quan có thẩm quyền
- Người làm chứng cho chúc thư y tế
2. Điều kiện của chủ thể thực hiện quyền được chết:
Quyền được chết khi đã được công nhận là một quyền nhân thân thì nó
gắn với tất cả mọi cá nhân. Nhưng không phải ai cứ muốn chết là đều có thể
được chết. Theo quy định của Luật An tử một số nước, đối tượng của quyền
được chết bị hạn chế khá nhiều, đặc biệt là với trẻ em. Bởi vậy, cần đặt ra các
điều kiện cụ thể cho cá nhân được thực hiện quyền này nhằm đảm bảo Luật
không bị lạm dụng:
- Là người đã thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên).
- Đang chịu nhiều đau đớn về thể chất và tinh thần kéo dài sau một tai
nạn hoặc mắc một bệnh lý không thể cứu chữa.
- Các dạng bệnh nhân xin được chết:
16


+ Những trường hợp chết não
+ Trường hợp người bệnh mất ý thức kéo dài và không có khả năng hồi
phục
- Có ý chí cá nhân rõ ràng xin được chết. Yêu cầu được chết một cách tự
nguyện, không bị ép buộc hay chịu sự chi phối từ bên ngoài.
- Cá nhân xin được chết cần có chúc thư y tế thể hiện rõ ý chí của mình.
Khi lập chúc thư y tế, cá nhân phải hoàn toàn minh mẫn về trí óc.
- Nếu không thể lập chúc thư y tế khi bệnh nhân xin chết trong tình trạng
bệnh đã ở giai đoạn cuối thì quyết định phải được đưa ra khi bệnh nhân không
có vấn đề nào về tâm thần.
- Bệnh nhân có quyền thay đổi quyết định bất cứ lúc nào và có thể hủy
chúc thư y tế.

- Nếu Luật cho phép bệnh nhân từ đủ 12 đến dưới 16 tuổi (trường hợp
chưa đủ 18 tuổi) có quyền an tử như Luật của Hà Lan thì cần quy định chặt chẽ
sự đồng ý của gia đình trong trường hợp này bởi đây là đối tượng đặc biệt dễ bị
lạm dụng.
3. Những quy định đối với bác sỹ:
Những quy định này hết sức quan trọng và cần phải quy định chặt chẽ
bởi bác sỹ chính là những người sẽ giúp an tử cho người bệnh. Hành vi của họ
dễ gây hiểu nhầm cho nhiều người và dễ bị lạm dụng trong nhiều trường hợp.
- Bác sỹ có trách nhiệm áp dụng mọi phương pháp y học có thể để cứu
chữa cho bệnh nhân trước khi đưa ra kết luận tình trạng bệnh không thể cứu
chữa được nữa.
- Thấy rằng bệnh nhân sẽ không thể tránh khỏi cái chết và tình trạng đau
đớn kéo dài không thể giảm đi được.
- Thấy rằng quyết định xin được chết của bệnh nhân là hoàn toàn tự
nguyện, không bị áp chế về tinh thần.
- Trường hợp bệnh nhân xin chết khi bệnh chưa bước vào giai đoạn cuối
thì cần có một bác sỹ tâm thần khám và xác nhận bệnh nhân không có vấn đề về
tâm thần.
17


- Những hoạt động khám chữa trên đều phải được lập thành văn bản, có
người làm chứng, có chữ ký của bệnh nhân và có dấu của bệnh viện.
- Bác sỹ thực hiện an tử phải là người có chứng chỉ hành nghề, có thời
gian công tác nhất định trong các bệnh viên.
- Bác sỹ có quyền từ chối thực hiện an tử cho bệnh nhân.
- Tất cả những quyết định về tình trạng bệnh tật, tình trạng tâm thần của
bệnh nhân phải được nghiên cứu và thẩm định rõ bởi Hội đồng bác sỹ, trong đó
bao gồm cả những bác sỹ trực tiếp liên quan và những bác sỹ khác để đảm bảo
tính khách quan, chính xác.

- Phải thực hiện thủ tục an tử theo một quy trình y khoa thích hợp, nghiêm
ngặt.
4. Quy định cách thức thực hiện an tử:
Hai cách thức: Chủ động và bị động cần được trình bày rõ như đã nêu ở
trên.
5. Quy định đối với chúc thư y tế:
Chúc thư tế được lập khi bệnh nhân còn minh mẫn, chưa bước vào giai
đoạn cuối của bệnh, không chịu sức ép nào từ bên ngoài. Chúc thư cần ghi rõ:
- Quyết định và yêu cầu xin được chết của bệnh nhân.
- Người mà bệnh nhân ủy nhiệm thay mình quyết định các vấn đề khi
không còn đủ năng lực ý chí.
- Người được ủy nhiệm phải ký tên thể hiện sự đồng ý vào chúc thư và
phải tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật cũng như yêu cầu của bệnh nhân.
- Phải có chữ ký của bệnh nhân và ít nhất 2 người làm chứng (những
người này cũng phải đạt độ tuổi thành niên, không bị mất năng lực chủ thể).
6. Quy định đối với người được ủy nhiệm, được ủy quyền:
- Người được ủy nhiệm là người đã thành niên có đầy đủ năng lực hành vi
dân sự, được bệnh nhân chỉ định trong chúc thư y tế, có quyền quyết định việc
chăm sóc, chữa trị, xem xét kết quả khám chữa của bệnh nhân khi bệnh nhân
không thể biểu hiện ý chí của mình. Người được ủy nhiệm chỉ có quyền quyết
định an tử cho bệnh nhân khi bệnh nhân đã bước vào giai đoạn cuối của bệnh,
18


đã thỏa mãn các yêu cầu nêu trong chúc thư y tế và không còn năng lực ý chí
nữa.
- Người được chỉ định, được ủy quyền là người đã thành niên, có đầy đủ
năng lực chủ thể, không được bệnh nhân chỉ định trong chúc thư y tế. Tòa án sẽ
chỉ định một hoặc một vài người làm nhiệm vụ như của người được ủy nhiệm
trong trường hợp người được ủy nhiệm trong chúc thư đến thời điểm đó bị mất

năng lực, ý chí hoặc trong chúc thư không chỉ định một ai làm người ủy nhiệm
và bệnh nhân không còn năng lực ý chí nữa. Người này có thể là bác sỹ điều trị,
người thân của bệnh nhân.
Người được ủy nhiệm, ủy quyền phải làm theo đúng yêu cầu của bệnh
nhân ghi trong chúc thư và phải tuân theo các quy định của pháp luật.
7. Quy định khi bệnh nhân không có chúc thư y tế:
7.1. Đến giai đoạn cuối, bệnh nhân mới xin được chết:
Khi bệnh nhân bước vào giai đoạn cuối, chịu nhiều đau đớn, kéo dài, mới
có ý định xin được chết, trước đó họ không có chúc thư y tế thì trong trường
hợp này, họ có thể ký vào đơn yêu cầu theo mẫu của bệnh viện dưới sự giám sát
của bác sỹ và người làm chứng để xin được chết.
7.2. Bệnh nhân bị chết não hay bị mất ý thức kéo dài, gia đình yêu cầu
thực hiện an tử đối với bệnh nhân:
Đây là trường hợp an tử không tự nguyện. An tử không tự nguyện gồm
các cách thức đưa bệnh nhân ra đi sớm hơn so với tự nhiên (rút ống dẫn dinh
dưỡng, ống dẫn oxy hay tiêm thuốc...).
Hiện nay, có nhiều trường hợp gia đình bệnh nhân không còn khả năng
kinh tế và bệnh nhân vô phương cứu chữa. Khi đó, bệnh nhân có thể được đưa
về nhà theo ý nguyện của gia đình hoặc quy trình an tử có thể được quy định
chặt chẽ như trên kèm theo một số điều kiện khác:
- Gia đình bệnh nhân cần xác định rõ tình trạng bệnh cũng như nguyện
vọng, mong muốn thực tế của người bệnh muốn thoát khỏi đau đớn và không
muốn trở thành gánh nặng cho gia đình, xã hội.

19


- Gia đình người bệnh xác định là không còn đủ điều kiện, khả năng kinh
tế để tiếp tục việc điều trị bệnh cho bệnh nhân.
8. Một số quy định khác:

- Xây dựng quy trình xin được chết và thực hiện an tử một cách nghiêm
ngặt, phù hợp với điều kiện kỹ thuật và các quy định của Luật.
- Có sự giám sát chặt chẽ quy trình an tử bởi những chuyên gia có kinh
nghiệm.
- Quy định thêm các biện pháp xử phạt hành chính đối với các tổ chức, các
cá nhân vi phạm các quy định của luật mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm
hình sự.

20


KẾT LUẬN
Chúng ta phải thừa nhận rằng trên thực tế, còn rất nhiều căn bệnh mà y
học bất lực, không thể chữa trị. Trong những trường hợp như vậy, tác dụng của
y học họa chăng chỉ là trì hoãn cái chết. Tuy nhiên, khi đã tới giai đoạn cuối của
những căn bệnh nan y mà việc phát hiện hoặc chữa trị quá trễ thì hầu như các
bác sỹ, dù giỏi nhất cũng đành bó tay bất lực. Tại Việt Nam, chúng ta vẫn luôn
chứng kiến hàng ngày, không ít những bệnh nhân bị bệnh viện trả về vì... không
thể giúp gì hơn. Đối với những trường hợp này, biết chắc là bệnh nhân sẽ chết,
người thân chỉ còn biết bất lực chứng kiến người bệnh nhiều khi phải lịm đi vì
sự đau đớn. Tuy nhiên, cũng tại Việt Nam có một thực tế vẫn luôn tồn tại từ lâu,
mà hầu như nhiều người biết mà... không nói ra. Đó là việc thân nhân của người
bệnh thường tạo ra “cái chết êm ái” cho họ khi họ quá đau đớn, quá già nua.
Khi đó, cái chết sẽ đến với người bệnh – do thân nhân của họ không cho uống
thêm sâm – vốn chỉ có tác dụng duy trì sự sống thêm trong vòng một vài giờ
hoặc chủ động không cho uống thêm thuốc nữa. Có người đã đặt ra câu hỏi:
Với cách tạo ra sự “an tử” như vậy, liệu có gì không hợp đạo đức chăng?
Cần phải thừa nhận rằng ở Việt Nam hiện nay, quyền được chết chưa có
đủ điều kiện để được hiểu theo đúng nghĩa và vì thế mà Luật An tử chưa đủ
điều kiện để được xây dựng và ban hành. Những cũng cần phải thừa nhận rằng,

ban hành Luật An tử sẽ là một xu hướng tất yếu của tất cả các quốc gia bởi nhu
cầu an tử đang ngày một rõ.
Hy vọng ở một đạo luật có tên Luật An tử trong tương lai của Việt Nam
để cuộc sống luôn có pháp luật đồng hành.

21



×