Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Tiểu luận môn sở hữu trí tuệ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI QUYỀN TÁC GIẢ VÀ QUYỀN LIÊN QUAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.62 KB, 43 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I 2
CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ QUYỀN LIÊN QUAN 2
THỰC TRẠNG THỰC THI QUYỀN TÁC GIẢ 29
VÀ QUYỀN LIÊN QUAN 29
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI QUYỀN TÁC GIẢ VÀ QUYỀN
LIÊN QUAN 41
1
PHẦN I
CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ QUYỀN LIÊN QUAN
I. QUYỀN TÁC GIẢ
1. Các quy định pháp luật hiện hành về thực thi quyền tác giả
- Các công ước và thỏa ước quốc tế:
+ Công ước Berne về bảo vệ các tác phẩm văn học nghệ thuật và khoa học.
+ Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả
+ Hiệp định TRIPs
- Pháp luật Việt Nam:
+ Luật Dân sự
+ Luật Sở hữu trí tuệ
+ Nghị định 100/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Bộ Luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan
+ Nghị định 85/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
100/2006/NĐ-CP
2. Khái niệm chung về quyền tác giả
2.1. Khái niệm quyền tác giả
Quyền tác giả ra đời cùng với sự ra đời của máy in và nhu cầu thông tin của
các trường đại học và đi từ quốc gia này đến quốc gia khác. Quyền tác giả là một
khái niệm xuất hiện sớm nhất trên thế giới, trong đó mỗi hệ thống pháp luật ghi
nhận các quyền của tác giả một cách khác nhau.
- Theo hệ thống Civil law của các nước: Quyền tác giả chính là các quyền
của tác giả chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm.


- Theo hệ thống luật Anh - Mỹ: Quyền tác giả chính là quyền sao chép tác
phẩm họ thiên về ghi nhận và bảo hộ các quyền kinh tế cho tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả, ghi nhật sự độc quyền sao chép đối với chủ sở hữu quyền tác giả.
=> Quyền tác giả là phạm vi các quyền (bao gồm cả quyền nhân than và quyền
tài sản) của chủ thể (bao gồm tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả) đối với tác
phẩm của họ được pháp luật ghi nhận và bảo hộ.
2
2.2. Đặc điểm và ý nghĩa của quyền tác giả
Quyền tác giả là một bộ phần của quyền sở hữu trí tuệ nên nó mang đầy đủ
các đặc điểm của quyền sở hữu trí tuệ. Ngoài ra quyền tác giả còn một số đặc
điểm riêng:
- Quyền tác giả được xác lập tự động
- Quyền tác giả chỉ bảo hộ về hình thức thể hiện tác phẩm, không bảo hộ ý
tưởng của tác phẩm
- Đối tượng của quyền tác giả là các sản phẩm của hoạt động sáng tạo.
- Đối tượng quyền tác giả không nhằm mục đích ứng dụng công nghiệp.
3. Chủ thể của quyền tác giả
3.1. Tác giả của tác phẩm
a. Tác giả
- Theo điều 736 bộ luật Dân sự 2005:
"Người sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học (sau đây gọi chung
là tác phẩm) là tác giả của tác phẩm đó. Trong trường hợp có hai hoặc nhiều người
cùng sáng tạo ra tác phẩm thì những người đó là các đồng tác giả.
Người sáng tạo ra tác phẩm phái sinh từ tác phẩm của người khác, bao gồm
tác phẩm được dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải
biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn là tác giả của tác phẩm phái sinh
đó."
- Theo Nghị định số 100/2006/NĐ-CP thì tác giả là người trực tiếp sáng tạo
ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học bao gồm: cá
nhân Việt Nam có tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả; cá nhân nước ngoài có tác

phẩm được sáng tạo và thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định tại Việt Nam;
cá nhân nước ngoài có tác phẩm được công bố lần đầu tiên tại Việt Nam; cá nhân
nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo Điều ước quốc tế về quyền
tác giả mà Việt Nam là thành viên của Điều ước quốc tế đó.
Một chủ thể chỉ có thể được công nhận là tác giả khi:
- Phải là người trực tiếp thực hiện các hoạt động sáng tạo để tạo ra tác
phẩm. (theo khoản 2, điều 8, nghị định số 100/2006/NĐ-CP)
- Phải là người ghi tên thật hoặc bút danh của mình trên tác phẩm được
công bố (theo khoản 2, điều 738, Bộ luật dân sự).
3
- Chỉ thừa nhận là tác giả nếu tác phẩm được tạo ra là kết quả của lao động
sáng tạo trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học (tác phẩm).
 Tác giả là người trực tiếp lao động sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ
thuật, khoa học để tạo ra toàn bộ hoặc một phần tác phẩm thuộc một
trong các lĩnh vực đó.
b. Phân loại tác giả
Theo điều 736 Bộ luật Dân sự năm 2005 có thể phân loại tác giả theo các
tiêu chí:
- Dựa vào số lượng người lao động sáng tạo để tạo ra tác phẩm:
• Tác giả đơn nhất: là một cá nhân, là người duy nhất tạo ra toàn bộ tác phẩm
và được hưởng toàn bộ các quyền nhân thân, quyền tài sản của tác giả đối
với tác phẩm.
• Đồng tác giả: là nhiều cá nhân hợp tác để cùng nhau bằng lao động sáng
tạo về cùng một lĩnh vực để tạo ra tác phẩm, mỗi người là tác phẩm của
từng phần tác phẩm. Những người này cùng nhau hưởng các quyền nhân
thân cũng như quyền tài sản của tác giả đối với tác phẩm.
+ Đồng tác giả hợp nhất: một tác phẩm không thể xác định được phần sáng
tạo của từng người vì vậy tất cả các đồng tác giả cùng hưởng quyền nhân thân,
quyền tài sản đối với tác phẩm là ngang nhau.
+ Đồng tác giả theo phần: là trường hợp tác phẩm được kết cấu theo từng

chương, từng phần và có thể xác định được mỗi phần, mỗi chương đó do tác giả
nào sáng tạo ra thì những người cùng tạo ra tác phẩm đó được gọi là đồng tác giả
theo phần.
Các văn bản pháp luật chỉ xác định chung chung theo Khoản 1, điều 736 Bộ
luật Dân sự năm 2005: Trong trường hợp có hai người hoặc nhiều người cùng
sáng tạo ra tác phẩm thì được gọi là đồng tác giả.
Trong thực tế có 2 cách hiểu:
Thứ nhất: các cá nhân bằng lao động sáng tạo để cùng tạo ra một tác phẩm
thì họ là đồng tác giả của tác phẩm đó.
- Đồng tác giả không định phần: Nếu tác phẩm được hình thành do nhiều
người cùng sáng tạo trong cùng một lĩnh vực mà tác phẩm đó không phân
4
biệt được phần nào do người nào sáng tạo nên thì các đồng tác giả có quyền
ngang nhau đối với tác phẩm.
- Đồng tác giả định phần theo chiều ngang tác phẩm: Nếu tác phẩm được
hình thành do nhiều người cùng sáng tạo cùng một lĩnh vực mà do kết cấu
nên tác phẩm đó có thể phân biệt được phần sáng tạo của mỗi người thì mỗi
đồng tác gải chỉ được hưởng quyền đối với phần tác phẩm do mình sáng tạo
nên.
- Đồng tác giả có định phần theo chiều dọc tác phẩm: Những người cùng
sáng tác ra một tác phẩm thống nhất mà phần sáng tác của mỗi người có thể
tách ra để sử dụng riêng. Vị trí của các đồng tác giả lúc này sẽ giống như vị
trí của những sở hữu chung theo phần.
Thứ 2: Các cá nhân cùng lao động sáng tạo để cùng tạo ra một tác phẩm chỉ
được coi là đồng tác giả nếu sự sáng tạo của họ là cùng một lĩnh vực.
- Đồng tác giả là khi nhiều người cùng sáng tạo ra một tác phẩm văn học
hoặc cùng sáng tạo ra một tác phẩm âm nhạc. Nếu một người dựa vào tác
phẩm văn học của người khác để tạo ra một tác phẩm ở một lĩnh vực hoàn toàn
khác nên họ là tác giả của hai tác phẩm khác nhau mà không thể coi là đồng tác
giả.

- Dựa vào nguồn gốc của tác phẩm.
• Tác giả là người tạo ra tác phẩm gốc.
• Tác giả phái sinh: bao gồm tác giả dịch thuật, tác giả phóng tác, tác giả cải
biên, tác giả chuyển thể, tác giả biên soạn, tác giả chú giải, tác giả tuyển
chọn.
- Dựa vào mối quan hệ lao động trong quá trình tạo ra tác phẩm.
• Tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm
• Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm.
3.2. Chủ sở hữu quyền tác giả
Theo điều 36 -> 42 luật sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định. Các tổ chức được
thừa nhật là chủ sở hữu quyền tác giả bao gồm:
- Tác giả của một tác phẩm sẽ đồng thời được thừa nhận là chủ sở hữu
quyền tác giả của tác phẩm đó nếu tác giả sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật
chất kỹ thuật của riêng mình để sáng tạo ra tác phẩm mà không phải theo nhiệm
5
vụ hoặc theo hợp đồng giao việc, toàn bộ quyền nhân thân cũng như quyền tài sản
có được từ tác phẩm sẽ thuộc về tác giả.
- Các đồng tác giả của một tác phẩm đồng thời là đồng sở chủ sở hữu đối
với tác phẩm đó, là chủ sở hữu hợp nhất, đồng chủ sở hữu tác phẩm có chung các
quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm.
- Cơ quan, tổ chức giao nhiệm vụ cho tác giả tạo ra tác phẩm, trong trường
hợp này người tạo ra tác phẩm (tác giả) chỉ được hưởng các quyền nhân thân đối
với tác phẩm, còn chủ sở hữu quyền về tài sản đối với tác phẩm lại thuộc về cơ
quan, tổ chức đã giao nhiệm vụ.
- Cá nhân, tổ chức giao kết hợp đồng
- Người được thừa kế quyền tác giả.
- Người được chuyển giao quyền
- Nhà nước
- Công chúng.
4. Đối tượng bảo hộ quyền tác giả: Tác phẩm

Đối tượng được bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam là các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học được sáng tạo, thể hiện dưới một hình thức nhất định và có tính
nguyên gốc, không phân biệt hình thức, ngôn ngữ thể hiện và chất lượng của tác
phẩm. Theo quy định của pháp luật về Sở hữu trí tuệ hiện hành, các loại hình tác
phẩm sau đây được bảo hộ quyền tác giả:
- Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được
thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác bao gồm tiểu thuyết, truyện vừa,
truyện ngắn, bút ký, ký sự, tùy bút, hồi ký, thơ, trường ca, kịch bản, bản nhạc,
công trình nghiên cứu vănhoá, văn học nghệ thuật, khoa học và các bài viết khác.
Ngoài ra loại hình tác phẩm này còn bao gồm các tác phẩm khác được thể hiện
bằng các ký tự khác thay cho chữ viết như chữ nổi cho người khiếm thị, ký hiệu
tốc ký và các ký hiệu tương tự khác mà đối tượng tiếp cận có thể sao chép được
bằng nhiều hình thức khác nhau.
6
- Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác: là các tác phẩm được thể hiện bằng
gnôn ngữ nói và phải được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định và các
tác phẩm khác như tài liệu giảng dạy, huấn luyện. Tuy nhiên, bài giảng, bài phát
biểu chỉ được coi là tác phẩm nếu được ghi âm lại hoặc/và được lưu thành văn
bản.
- Tác phẩm sân khấu: là các tác phẩm được thể hiện thông qua hình thức trình diễn
nghệ thuật trên sân khấu, bao gồm kịch nói, nhạc vũ kịch, ca kịch, kịch câm, xiếc,
múa, múa rối và cá loại hình tác phẩm sân khấu khác.
- Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự: Là
những tác phẩm được hợp thành bằng hàng loạt hình ảnh liên tiếp tạo nên hiệu
ứng chuyển động kèm theo hoặc không kèm theo âm thanh, được thể hiện trên
một chất liệu nhất định và có thể phân phối truyền đạt đến công chúng bằng các
thiết bị kỹ thuật, công nghệ bao gồm các loại hình phim truyện, phim tài liệu,
phim khoa học, phim hoạt hình và các loại hình tương tự khác như phim truyền
hình, video.
- Tác phẩm nhiếp ảnh: là tác phẩm thể hiện hình ảnh của thế giới khách quan trên

vật liệu bắt sáng hoặc trên phương tiện mà hình ảnh được tạo ra hay có thể được
tạo ra bằng bất cứ phương pháp kỹ thuật nào (thông qua phương pháp hoá học, kỹ
thuật số hoặc phương pháp khác).
- Tác phẩm báo chí: là các tác phẩm được thể hiện thông qua các loại: ghi nhanh,
phóng sự, tường thuật, phỏng vấn, phản ánh, điều tra, bình luận, xã luận, chuyên
luận, ký báo chí được truyền đến công chúng qua sóng điện từ hoặc các trang
báo, tạp chí bao gồm: báo hình, báo nói, báo in, báo điện tử hoặc các phương tiện
khác bằng các ngôn ngữ khác nhau.
- Tác phẩm âm nhạc: là các tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản
nhạc hoặc trong các ký tự âm nhạc khác có hoặc khong có lời không phụ thuộc
7
vào việc trình diễn hay không trình diễn. Tuy nhiên, thường phải thông qua giọng
hát, nhạc cụ thì mới có thẻ truyền đạt các tác phẩm này đến công chúng.
- Tác phẩm kiến trúc: là các bản vẽ thiết kế ngôi nhà, công trình xây dựng khác,
qui hoạch không gian đã hoặc chưa xây dựng. Tác phẩm kiến trúc bao gồm các
bản vẽ thiết kế mặt bằng, mặt đứng, mặt cắt, phối cảnh, thể hiện ý tưởng sáng tạo
về ngôi nhà, công trình, tôt hợp công trình kién trúc, tổ hợp không gian, kiên strúc
cảnh quan của một vùng, một đo thị, hệ thống đô thị, khu chức năng đô thị, khu
dân cư nông thôn, trong đó mô hình, sa bàn về ngôi nhà, công trình xây dựng hoặc
qui hoạch không gian được coi là tác phẩm kiến trúc độc lập.
- Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật, ứng dụng bao gồm hội hoạ, đồ hoạ, điêu khắc, mỹ
thuật ứng dụng hoặc các hình thức tương tự.
- Các bức hoạ đồ, bản vẽ, sơ đồ, bản đồ có liên quan đến địa hình, kiến trúc, công
trình khoa học.
- Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu được hiểu là một hoặc một nhóm chương
trình được biểu hiện dưới dạng chuỗi lệnh viết theo một ngôn ngữ lập trình nhất
định nào đó và các tệp dữ liệu có liên quan chỉ dẫn cho máy tính biết phài làm gì
để thực hiện được nhiệm vụ đề ra, có thể được cài đặt như phần mềm của máy tính
hoặc có thể sắp xếp dưới hình thức văn bản, đĩa mềm, đĩa CD-ROM.
- Tác phẩm phái sinh bao gồm: tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên chuyển thể, biên

soạn, chú giải, tuyển tập, hợp tuyển, là các tác phẩm được tạo ra từ các tác phẩm
đã có. Các tác phẩm này chỉ được bảo hộ nếu không gây phương hại đến quyền
tác gải đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.
Theo Công ước Bern thì tác phẩm bao gồm tất cả cá sản phẩm trong lĩnh
vực văn học, khoa học và nghệ thuật được biểu hiện theo bất kỳ phương thức hay
hình thức nào chẳng hạn: sách, tập in nhỏ và các văn bản viết khác, cá bài giảng,
bài phát biểu, bài thuyết giáo và các tác phẩm cùng loại; các tác phẩm kịch , hay
8
nhạc kịch, các tác phẩm hoạt cảnh và kịch câm, các bản nhạc có lời hay không lời,
các tác phẩm điện ảnh và các tác phẩm được diễn tả bằng một kỹ thuật tương tự
với điện ảnh, cá tác phẩm đồ hoạ, hội hoạ, kiến trúc, điêu khắc, chạm trổ, in bản
thạch, ác tác phẩm nhiếp ảnh và các tác phẩm được diễn tả bằng một kỹ thuật
tương tự như nhiếp ảnh, các tác phẩm nghệ thuật ứng dụng, minh hoạ, địa đồ, đồ
án, bản phác hoạ và các tác phẩm tạo hình liên quan đến địa hình, kiến trúc hay
khoa học.
5. Nội dung quyền tác giả
Trước hết cần phải xác định rằng quyền tác giả và nội dung quyền tác giả là
hai thuật ngữ hoàn toàn khác nhau. Nếu quyền átc giả là một khái niệm rộng xác
định tất cả các vấn đề liên quan đến tác phẩm thì nội dung quyền tác giả là một
khái niệm hẹ chỉ nhằm xác định các quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả,
của chủ sở hữu tác phẩm đối với tác phẩm do họ sáng tạo ra hoặc do họ là chủ sở
hữu quyền tác giả.
Ở nước ta, các quyền của tác giả đối với tác phẩm được Nhà nước xác định
trong Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Nghị định số
100/2006/NĐ-CP. Theo qui định của các văn bản pháp luật về quyền tác giả hiện
hành thì nội dung của quyền tác giả là tổng hợp các lợi ích tinh thần và lợi ích vật
chất mà một người được hưởng do việc sáng tạo ra tác phẩm hoặc là chủ sở hữu
đối với tác phẩm đó. Họ được hưởng các lợi íhc tren với một phạm vi và mức dộ
như thế nào là phụ thuộc vào vai trò, vị trí của họ. Vì vậy, nhìn chung, nội dung
quyền tác giả được cấu thành bởi hai yếu tố là quyền nhân thân và quyền tài sản

đối với tác phẩm và được xác định như sau:
5.1. Quyền nhân thân đối với tác phẩm
Quyền nhân thân đối với tác phẩm là các quyền mang yếu tố tinh thần của
chủ thể đối với tác phẩm. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản là những
quyền gắn liền với các giá trị nhân thân của tác giả và không thể chuyển giao, bao
9
gồm ba quyền: quyền được đặt tên tác phẩm, đứng tên tác phẩm và bảo vệ sự toàn
vẹn của nội dung tác phẩm. Nếu chúng ta ví tác phẩm là đứa con tinh thần của tác
giả, thì các quyền nhân thân này cũng tương tự quyền của cha mẹ được đặt tên cho
con, nhận con và bảo vệ chăm sóc con cái. Vì là quyền nhân thân không được
chuyển giao nên nó chỉ được dành cho tác giả (cho dù đồng thời hay không đồng
thời là chủ sở hữu quyền tác giả). Các quyền này ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín
và danh dự của tác giả, tồn tại một cách độc lập đối với quyền tài sản, gắn liền với
tác giả kể cả khi quyền sử dụng, định đoạt tác phẩm đã được chuyển giao. Các
quyền nhân thân không gắn với tài sản được bảo hộ vô thời hạn, khác với những
quyền khác được bảo hộ có thời hạn.
Về quyền bảo vệ sự toàn vẹn nội dung của tác phẩm, xin lưu ý là quyền bảo
vệ sự toàn vẹn này chỉ liên quan đến "nội dung tác phẩm", chứ không nhắc đến
"phương thức thể hiện tác phẩm". Thí dụ một cộng tác viên gửi bài đăng lên báo
có thể bị ban biên tập chỉnh sửa một số câu chữ quá dài dòng hay không đúng
chính tả. Một luật sư là người lao động ở một văn phòng luật sư, có các bài tư
vấn, sau khi thôi không công tác trong văn phòng này nữa thì các luật sư khác
trong văn phòng có thể sử dụng lại các bài tư vấn này, chỉnh sửa câu chữ có liên
quan. Hành vi biên tập không phải là xâm phạm quyền tác giả. Tuy vậy nếu sự
chỉnh sửa làm thay đổi nội dung tác phẩm thì phải có sự đồng ý của tác giả. Một
số vụ kiện hiện nay về bản quyền cũng liên quan đến vấn đề bảo vệ sự toàn vẹn
của nội dung tác phẩm. Điển hình là vụ nhà văn Nguyễn Kim Ánh kiện Xưởng
Phim truyện 1 về bộ phim "Hôn nhân không giá thú". Bộ phim dựa trên truyện
ngắn cùng tên đã được giải thưởng của nhà văn Nguyễn Kim Ánh. Tác giả tác
phẩm văn học đã bất bình khi thấy nội dung tác phẩm của mình qua tay nhà viết

kịch bản và đạo diễn bộ phim đã bị thay đổi rất nhiều, đến nỗi "không còn nhận
ra đứa con tinh thần của mình nữa". Án dân sự sơ thẩm bác đơn kiện của nhà văn
Nguyễn Kim Ánh, vì theo cơ quan giám định - Cục Điện ảnh "việc sửa đổi nội
10
dung tác phẩm chỉ làm tác phẩm hay thêm." Song như chúng ta biết, việc đánh
giá quyền tác giả không phải ở chất lượng hay dở của tác phẩm.
Mặc dù quyền nhân thân không gắn với tài sản cũng là quyền quan trọng, nhưng
quyền quan trọng nhất trong tất cả các nội dung của quyền tác giả là các quyền
nhân thân gắn với tài sản. Đó là quyền cho hay không cho người khác sử dụng tác
phẩm (về khái niệm sử dụng, xin xem phần trình bày dưới đây). Chính từ này làm
phát sinh bản chất độc quyền của quyền tác giả. Nhiều người cho rằng, trước kia
khi chưa có quyền tác giả vẫn có nhà văn, nhạc sỹ, nhà khoa học. Họ có quyền
đặt tên, đứng tên, bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, sử dụng tác phẩm hay nhận
thù lao, giải thưởng. Nay có quyền tác giả, thì cũng chính những người đó có
những quyền này, chẳng có gì khác. Hay nói khác đi, các chế định về quyền tác
giả không mang lại cho các chủ thể nhiều quyền hơn cái bản thân họ từ trước đến
nay vẫn có. Nhận xét trên không sai nếu chúng ta quên mất một quyền của tác
giả/chủ sở hữu quyền tác giả, đó là quyền cho hay không cho người khác sử dụng
tác phẩm. Quyền này là quyền nhân thân có thể chuyển giao, gắn với các quyền
tài sản trong chế định quyền tác giả, vì thế nó chỉ giành cho chủ sở hữu quyền tác
giả và tác giả nếu như tác giả cũng đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả. Việc
quy định bảo hộ quyền nhân thân không gắn với tài sản trong luật về quyền tác
giả chỉ có ở các nước theo hệ thống luật lục địa, chứ không có ở các nước theo hệ
thống luật chung, một phần vì họ coi các quyền này là điều hiển nhiên. Đối với
quyền nhân thân gắn với tài sản, khái niệm này cũng chỉ tồn tại ở các nước theo hệ
thống luật xã hội chủ nghĩa trước đây (Nga, Ba Lan, v.v.) chứ không tồn tại ở các
nước theo hệ thống luật lục địa khác như Pháp, Đức. Tại các nước này các
quyền cho/không cho người khác sử dụng tác phẩm được coi là một quyền tài sản
(quyền định đoạt đối với tác phẩm của mình).
5.2. Quyền tài sản đối với tác phẩm

11
Nếu quyền nhân thân đem đến cho tác giả các lợi ích tinh thần thì quyền tài
sản sẽ đem đến cho tác giả các lợi ích vật chất. Để có được một tác phẩm, tác giả
phải đầu tư công sức và các chi phí vật chất nhất định. Chi phí vật chất đó có thể
do chính tác giả bỏ ra nhưng cũng có thể là sự đầu tư của người khác. Vì vậy, khi
tác phẩm được sử dụng, tác giả và chủ sở hữu tác phẩm phải được hưởng các
quyền về tài sản để tái tạo sức lao động và bù đắp các kinh phí vật chất đã bỏ ra.
Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 và Nghị định số 100/2006/NĐ-CP xác định quyền sử
dụng tác phẩm bao gồm các quyền sau:
5.2.1. Làm tác phẩm phái sinh
Quyền này được hiểu ràng tác giả, chủ sở hữu tác phẩm được phép từ tác
phẩm của mình để tạo ra một tác phẩm phái sinh khác hoặc có quyền cho hay
không cho phép người khác sử dụng tác phẩm của mình để tạo ra một tác phẩm
phái sinh như dịch thuật, cỉa biên, chuyển thể Tuy nhiên, cần phải hiểu rằng,
người khác có quyền sử dụng tác phẩm đó để tạo ra tác phẩm phái sinh mà không
cần sự đồng ý của tác giả và chủ sử hữu tác phẩm khi tác phẩm đã được công bố
nhưng phải trả tiền thù lao cho tác giả hoặc cho chủ sở hữu quyền tác giả theo qui
định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.
5.2.2. Biểu diễn tác phẩm trước công chúng
Biểu diễn tác phẩm được hiểu là việc trình bày tác phẩm theo một hình
thức, phương tiện nhất định để chuyển tải tác phẩm cho coong chúng óc thể tiếp
cận được. Như vậy, quyền này thường được xác định đối cới các tác phẩm mang
tính nghệ thuật như một vở diễn, bài hát, bài thơ Việc biểu diễn tác phẩm có thể
được thực hiện một cách trực tiếp như thông qua diễn viên để biểu diễn một vở
diễn trên sân khấu, thông qua giọng hát của ca sĩ để biểu diễn một bài hát, thông
qua giọng ngâm của nghệ sĩ ngâm thơ để biểu diễn trực tiếp một bài thơ trước
công chúng để công chúng trực tiếp tiếp cận tác phẩm, nhưng cũng có thể được
12
thực hiện thông qua các chương trình ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ
thuật nào mà qua đó công chúng có thể tiếp cận được tác phẩm.

Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng là một độc quyền thuộc về chủ
sở hữu quyền tác giả, vì thế, chủ sở hữu quyền tác giả có thể tự mình biểu diễn tác
phẩm, có thể cho phép người khác thực hiện biểu diễn tác phẩm. Tuy nhiên, người
khác có quyền biểu diễn tác phẩm mà không cần sự đồng ý của chủ sở hữu quyền
tác giả nếu tác phẩm đã được công bố nhưng phải nêu tên tác giả và phải trả thù
lao cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm nếu việc biểu diễn mang mục đích
thương mại.
5.2.3. Sao chép tác phẩm
Sao chép tác phẩm là việc tạo ra bản sao tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện
hay hình thức nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường xuyên hoặc tạm thời tác phẩm
dưới hình thức điện tử.
Nếu tác phẩm chư được công bố thì sao chép tác phẩm là một độc quyền về
chủ sở hữu quyền tác giả. Vì vậy, trong những trường hợp này chỉ có chủ sở hữu
quyền tác giả hoặc người đã được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép mới được
sao chép tác phẩm. Nếu tác phẩm đã được công bố thì người khác có quyền sao
chép tác phẩm mà không phải xin phép và không phải trả tiền nhuận bút, thù lao
cho tác giả hoặc cho chủ sở hữu quyền tác giả trong hai trường hợp sau: tự sao
chép một bản để nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân không nhằm mục
đích thương mại; sao chép một bản tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục
đích nghiên cứu. Thư viện không được sao chép và phân phối bản sao tác phẩm
tới công chúng dưới bất kỳ hình thức nào kể cả có hay không mang mục đích
thương mại.
5.2.4. Phân phối tác phẩm
13
Phân phối tác phẩm là việc bán, cho thuê, cho mượn, chuyển nhượng bản
gốc hoặc bản sao tác phẩm bằng bất kỳ hình thức, phương tiện kỹ thuật nào mà
qua đó công chúng có thể tiếp cận được tác phẩm. Xét về mặt kinh tế thì đây là
một quyền tài sản hết sức quan trọng vì chỉ khi quyền này được thực hiện trong
thực tế thì chủ sở hữu quyền tác giả mới đạt được mục đích kinh tế đối với tác
phẩm của mình. Cũng chính vì vậy, quyền phân phối bản gốc hoặc bản sao tác

phẩm luôn là một độc quyền thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả trong suốt thời hạn
tác phẩm được bảo hộ mà không phân biệt tác phẩm đã được công bố hay chưa.
5.2.5. Nhập khẩu bản sao tác phẩm
Mặc dù quyền này được Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 xác đinh là một trong
các quyền tài sản trong nội dung quyền tác giả nhưng cần phải thấy rằng đây là
quyền của mọi chủ thể nói chng mà không phải là quyền của riêng tác giả hay của
riêng chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm của họ. Vì vậy, mọi cá nhân, tổ
chức đều có quyền nhập khẩu bản sao tác phẩm để sử dụng riêng theo nhu cầu của
mình. Tuy nhiên, theo qui định tại khoản 2 Điều 24 Nghị địng số 100/2006/NĐ-
CP thì việc nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác “chỉ áp dụng cho trường
hợp nhập khẩu không qua một bản”.
5.2.6. Truyền đạt tác phẩm đến công chúng
Truyền đạt tác phẩm đến công chúng là việc chuyển tải tác phẩm hoặc bản
sao tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông
tin điện tử hoặc bằng bất kỳ phương tiện nào khác mà công chúng có thể tiếp cận
được tác phẩm đó. Quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng là độc quyền của
chủ sở hữu quyền tác giả, vì vậy, việc thực hiện quyền này có thể do chính phủ sở
hữu quyền tác giả thực hiện hoặc có thể chủ sở hữu quyền tác giả cho phép người
khác thực hiện để đưa tác phẩm hoặc bản sao tác phẩm đến với công chúng thông
qua một phương tiện kỹ thuật nhất định.
14
5.2.7. Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy
tính
Đối với tác phẩm điện ảnh và chương trình máy tính, để khai thác tính năng
kinh tế đối với tác phẩm của mình, chủ sở hữu quyền tác giả của các tác phẩm này
có quyền cho người khác thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm trong một thời hạn
nhất định theo thỏa thuận giữa các bên. Theo đó, bên thuê sử dụng tác phẩm phải
trả tiền thuê cho chủ sở hữu tác phẩm theo thoả thuận. Quyền cho người khác thuê
bản gốc hoặc bản sao tác phẩm là một độc quyền thuộc về chủ sở hữu quyền tác
giả. Tuy nhiên, nếu tác phẩm là chương trình máy tính độc lập, nghĩa là bản thân

chương trình máy tính đó là đối tượng chủ yếu để cho thuê thì chủ sở hữu quyền
tác giả mới có quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm, ngược lại, nếu
chương trình máy tính gắn với việc vận hành bình thường của các phương tiện
giao thông cũng như của các máy móc, thiết bị kỹ thuật khác thì chủ sở hữu quyền
tác giả sẽ không có quyền cho thuê nói trên.
5.2.8. Quyền nhận giải thưởng đối với tác phẩm mà mình là tác giả, trừ
trường hợp tác phẩm không được Nhà nước bảo hộ
Ngoài các quyền nói trên, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (hoặc bằng các văn
bản hướng dẫn) phải xác định quyền này cho tác giả. Bởi vì, tuỳ theo thể lệ của
từng loại giải thưởng mà có thể có các cách bình chọn giải thưởng khác nhau,
nhưng giải thưởng bao giờ cũng là sự thừa nhận về chất lượng, tính sáng tạo của
người sáng tác ra tác phẩm. Vì vậy, quyền được nhận giải thưởng luôn thuộc về
tác giả.
6. Bảo hộ quyền tác giả
6.1. Khái niệm về bảo hộ quyền tác giả
Bảo hộ quyền tác giả là sự quy định của Nhà nước thông qua các văn bản
pháp luật để xác định cá nhân, tổ chức là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, xác
định các quyền của các chủ thể đó đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học,
15
xác định các hành vi bị coi là xâm phạm quyền tác giả và quy định các biện pháp
được thực hiện để bảo vệ quyền tác giả.
Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP quy định: Bảo hộ quyền tác
giả là bảo hộ các quyền của tác giả đối với các loại hình tác phẩm văn học, nghệ
thuật và khoa học được quy định tại Điều 738 của Bộ luật Dân sự và Điều 18, 19
và Điều 20 của Luật Sở hữu trí tuệ.
6.2. Điều kiện bảo hộ quyền tác giả
* Điều kiện đối với chủ thể được bảo hộ
Cá nhân chỉ được bảo hộ quyền tác giả khi được thừa nhận là tác giả hoặc
chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm. Cụ thể, tổ chức, cá nhân có tác phẩm
được bảo hộ quyền tác giả phải là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm hoặc chủ sở

hữu quyền tác giả quy định tại các điều từ Điều 37 - 41 của Luật Sở hữu trí tuệ,
gồm:
- Người sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất - kỹ thuật của mình để
sáng tạo ra tác phẩm
- Các đồng tác giả
- Tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng vơi tác
giả
- Người thừa kế quyền tác giả
- Người được chuyển giao quyền tác giả
- Nhà nước
* Điều kiện đối với tác phẩm được bảo hộ
- Theo Công uớc Berne:
+ Tính nguyên gốc:
• Tác phẩm phải có nguyên gốc từ bản thân tác giả, phải bắt nguồn từ sự lao
động của tác giả
• Ý tưởng được thể hiện trong tác phẩm không cần thiết phải mới song hình
thức thể hiện phải là sáng tạo riêng của tác giả.
16
• Việc bảo hộ không phụ thuộc vào chất lượng hoặc giá trị của tác phẩm, tác
phẩm sẽ được bảo hộ dù nó có bị đánh giá là hay hay dở và cả mục đích mà
nó hướng tới. Công ước Berne chỉ bảo hộ hình thức, không bảo hộ nội dung
tác phẩm
+ Tính định hình: Tác phẩm phải được định hình dưới dạng vật chất bất kỳ.
ví dụ, tác phẩm được viết trên giấy, lưu trong đĩa, vẽ bằng sơn dầu hoặc ghi vào
băng. Luật pháp quốc gia thành viên có thẩm quyền quyết định không bảo hộ các
tác phẩm nói chung hoặc một số loại cụ thể nào đó, trừ phi các tác phẩm ấy đã
được ấn định bằng một hình thái vật chất.
+ Đối với tác phẩm phái sinh: Không phương hại đến quyền tác giả của tác
phẩm gốc
- Luật Sở hữu trí tuệ:

Các tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt
Nam, phải là tác phẩm không sao chép từ tác phẩm của người khác và nội dung
không trái với quy định của pháp luật Việt nam đồng thời phải thuộc một trong
các trường hợp sau:
+ Tác phẩm của tổ chức, cá nhân nước ngoài được công bố lần đầu tiên tại
Việt Nam mà chưa được công bố ở bất kỳ nước nào hoặc được công bố đồng thời
tại Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày tác phẩm đó được công bố
lần đầu tiên ở nước khác
+ Tác phẩm của tổ chức, cá nhân nước ngoài được bảo hộ tại Việt Nam theo
điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên.
+ Điều kiện bảo hộ giống Công ước Berne về tính nguyên gốc, định hình
và không phương hại tác phẩm gốc.
6.3. Thời hạn bảo hộ quyên tác giả
- Theo Công ước Berne:
17
+ Thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời của tác giả và năm mươi năm sau khi tác
giả chết.
+ Đối với tác phẩm điện ảnh, thời hạn bảo hộ chấm dứt là 50 năm sau khi
tác phẩm được phổ cập đến công chúng một cách hợp pháp. Nếu không có sự phổ
cập như thế thì thời hạn bảo hộ chấm dứt 50 năm sau khi tác phẩm được thực hiện
+ Đối với tác phẩm khuyết danh hay bút danh, thời hạn bảo hộ do Công ước
này quy định chấm dứt là 50 năm sau khi tác phẩm được phổ cập đến công chúng
một cách hợp pháp. Nếu khi bút danh tác giả biểu lộ không chút hoài nghi về danh
tích của tác giả hay tác giả một tác phẩm khuyết danh hay bút danh tiết lộ danh
tính của mình trong thời gian đã nói ở trên, thời hạn bảo hộ là thời hạn được quy
định suốt cuộc đời của tác giả và năm mươi năm sau khi tác giả chết.
Các quốc gia thành viên Liên hiệp không bắt buộc phải bảo hộ những tác
phẩm khuyết danh hay bút danh khi có đủ lý do cho rằng tác giả của tác phẩm đó
đã chết được 50 năm.

+ Đối với tác phẩm nhiếp ảnh và mỹ thuật ứng dụng: Quốc gia thành viên
có thẩm quyền quy định thời hạn bảo hộ tuy nhiên thời hạn này kéo dài ít nhất 25
năm kể từ khi tác phẩm được thực hiện.
+ Đối với tác phẩm đồng tác giả: Thời hạn bảo hộ như trên nhưng thời hạn
bảo hộ tính đến sau 50 năm tác giả cuối cùng chết.
- Theo Luật Sở hữu trí tuệ:
+ Bảo hộ vô thời hạn: Các quyền được pháp luật bảo hộ vô thời hạn là các
quyền nhân thân gắn liền với tác giả không thể chuyển dịch, bao gồm: quyền đặt
tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên
thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền bảo vệ sự toàn vẹn
của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm
dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
18
+ Bảo hộ có thời hạn: Các quyền được pháp luật bảo hộ có thời hạn bao
gồm quyền nhân thân có thể chuyển dịch (quyền công bố hoặc cho người khác
công bố tác phẩm) và các quyền tài sản. Thời hạn bảo hộ được xác định như sau:
• Thời hạn chung: là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm
tác giả chết; trong trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ
chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết;
• Đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật ứng dụng, tác
phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm
được công bố lần đầu tiên. Trong thời hạn năm mươi năm, kể từ khi tác
phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu được định hình, nếu tác phẩm chưa được
công bố thì thời hạn được tính từ khi tác phẩm được định hình; đối với tác
phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả được xuất hiện thì thời hạn
bảo hộ được tính như thời hạn chung.
• Đối với tác phẩm sân khẩu còn thời hạn bảo hộ thì thời hạn bảo hộ là suốt
cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết.
• Đối với tác phẩm di cáo: Thời hạn bảo hộ là 50 năm kể từ khi tác phẩm
được công bố lần đầu tiên.

6.4. Hành vi xâm phạm quyền tác giả
Xâm phạm là các hành vi sử dụng tác phẩm hay cuộc biểu diễn nhằm mục
đích kinh doanh mà không có sự đồng ý của chủ thể quyền tác giả, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác. Các hành vi này còn gọi là hành vi ăn cắp bản quyền
hay sao chép lậu (piracy). Các hành vi xâm phạm theo Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ
được liệt kê như sau:
- Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
- Mạo danh tác giả
- Công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả.
- Công bố, phân phối tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác
giả đó.
19
- Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây
phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
- Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả,
trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm đ khoản 1 Điều 25 của Luật này.
- Làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác
giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh, trừ trường hợp quy
định tại điểm i khoản 1 Điều 25 của Luật này.
- Sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả, không trả
tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật, trừ
trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 25 của Luật này.
- Cho thuê tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất
khác cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả.
- Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến
công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không được
phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
- Xuất bản tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.
- Cố ý huỷ bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác
giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.

- Cố ý xoá, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong tác
phẩm.
- Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê
thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu các biện pháp kỹ
thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác
phẩm của mình.
- Làm và bán tác phẩm mà chữ ký của tác giả bị giả mạo.
- Xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao tác phẩm mà không được phép của chủ
sở hữu quyền tác giả.
6.5. Các hành vi sử dụng không bị coi là xâm phạm
20
* Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải
trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm:
- Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá
nhân;
- Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh
họa trong tác phẩm của mình;
- Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm
định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu;
- Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả,
không nhằm mục đích thương mại;
- Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu;
- Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi
sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;
- Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy;
- Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng
dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó;
- Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị;
- Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.
Điều kiện sử dụng: Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm không được làm

ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến
các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và
nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.
Việc sử dụng tác phẩm trong các trường hợp này không áp dụng đối với tác
phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính.
* Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải
trả tiền nhuận bút, thù lao
- Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để thực hiện chương trình phát
sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin
21
phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả theo quy
định của Chính phủ.
- Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm không được làm ảnh hưởng đến việc khai
thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ
sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác
phẩm.
- Việc sử dụng tác phẩm trong các trường hợp này không áp dụng đối với tác
phẩm điện ảnh.
II. CÁC QUYỀN LIÊN QUAN
1. Các quy định pháp luật hiện hành về thực thi quyền liên quan
1.1. Các công ước và thỏa ước quốc tế:
- TRIPS
- Công ước Rome về bảo vệ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, các chương
trình phát sóng (Rome Convention ) (1/3/2007)
- Công ước Geneve về bảo hộ người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm
(6/7/2005)
- Công ước Brussels liên quan đến việc phân phối tín hiệu mang chương trình
truyền qua vệ tinh (12/1/2006)
1.2. Pháp luật Việt Nam:
• Luật Dân sự

• Luật Sở hữu trí tuệ
• Nghị định 100/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Bộ Luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên
quan
• Nghị định 85/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
100/2006/NĐ-CP
2. Khái niệm và đặc điểm
2.1. Khái niệm quyền liên quan
Theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam (2005):
22
Quyền liên quan đến quyền tác giả (gọi tắt là quyền liên quan hay còn gọi là
quyền kề cận) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn bản ghi âm,
ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.
2.2. Đặc điểm của quyền liên quan
- Quyền liên quan được hình thành dựa trên việc sử dụng một tác phẩm gốc. Vì
thế chủ thể quyền liên quan có nghĩa vụ tôn trọng các quyền thân nhân và
quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả gốc. Việc công nhận và bảo
hộ quyền liên quan không được làm ảnh hưởng đến quyền tác giả đối với tác
phẩm.
- Cuộc biểu diễn, ghi âm, ghi hình, phát thanh truyền hình cũng phải có tính
nguyên gốc, nghĩa là do chính công sức của người biểu diễn đầu tư, sáng tạo
ra.
3. Chủ thể quyền liên quan
• Diễn viên, ca sỹ, nhạc công, vũ công và những ngưòi khác trình bày tác phẩm
văn học, nghệ thuật (gọi là người biểu diễn)
• Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu cuộc biểu diễn
• Tổ chức cá nhân định hình lần đầu âm thanh, hình ảnh của cuộc biểu diễn hoặc
các âm thanh, hình ảnh khác (gọi chung là nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình)
• Tổ chức khởi xướng và thực hiện việc phát sóng (gọi tắt là tổ chức phát sóng)
4. Đối tượng quyền liên quan được bảo hộ

4.1. Cuộc biểu diễn:
• Cuộc biểu diễn do công dân Việt Nam thực hiện tại Việt Nam hoặc tại nước
ngoài
• Cuộc biểu diễn do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam
• Cuộc biểu diễn được định hình trên bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ theo quy
định tại điều 30 Luật SHTT
• Cuộc biểu diễn chưa được định hình trên bản ghi âm, ghi hình mà đã được phát
sóng được bảo hộ theo quy định tại điều 31 Luật SHTT
• Cuộc biểu diễn được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
4.2. Bản ghi âm, ghi hình:
23
• Bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình có quốc tịch Việt
Nam
• Bản ghi âm, ghi hình của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ theo
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
4.3. Chương trình phát sóng
• Của tổ chức phát sóng có quốc tịch Việt Nam
• Được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia
Điều kiện được bảo hộ: Cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát
sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa chỉ được bảo hộ với điều
kiện không gây phương hại đến quyền tác giả.
5. Chủ sở hữu quyền liên quan
5.1. Người biểu diễn
Tổ chức cá nhân sử dụng thời gian, đầu tư tài chính và cơ sở vật chất kỹ
thuật của mình để thực hiện cuộc biểu diễn, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với
các bên liên quan.
5.2. Người sản xuất bản ghi âm, ghi hình
Tổ chức cá nhân sử dụng thời gian, đầu tư tài chính và cơ sở vật chất kỹ
thuật của mình để sản xuất bản ghi âm, ghi hình, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác với các bên liên quan.

5.3. Tổ chức phát sóng
Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu đối với chương trình phát sóng của mình,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác với các bên liên quan
6. Nội dung quyền liên quan
Việc bảo hộ những người giúp cho sản phẩm trí tuệ của các tác giả được truyền
bá và phổ biển tới đông đảo công chúng được thực hiện thông qua các quyền liên
quan. Đó là: quyền của nghệ sỹ biểu diễn đối với chương trình biểu diễn của mình,
quyền của nhà sản xuất chương trình ghi âm, ghi hình của mình, quyền của các tổ
chức phát sóng đối với các chương trình phát thanh và truyền hình của mình.
6.1. Quyền của người biểu diễn
6.1.1. Quyền nhân thân
- Được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình, phát
sóng cuộc biểu diễn
24
- Bảo vệ sự toàn vẹn hình tượng biểu diễn, không cho người khác sửa chữa, cắt
xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và
uy tín của người biểu diễn
6.1.2. Quyền tài sản
- Định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của mình trên bản ghi âm, ghi hình
- Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc biểu diễn của mình đã được định hình
trên bản ghi âm, ghi hình
- Phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn của mình
chưa được định hình mà công chúng có thể tiếp cận được, trừ trường hợp cuộc
biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng
- Phân phối đến công chúng bản gốc hoặc bản sao cuộc biểu diễn của mình
thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ
thuật nào
6.2. Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình:
Độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện
- Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình của mình

- Phân phối đến công chúng bản gốc hoặc bản sao bản ghi âm, ghi hình của
mình thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ hình thức
nào
Nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình được hưởng quyền lợi vật chất khi bản ghi âm,
ghi hình của mình được phân phối đến công chúng.
6.3. Quyền của tổ chức phát sóng
Tổ chức phát sóng có độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực
hiện:
- Phát sóng, tái phát sóng các chương trình phát sóng của mình
- Phân phối đến công chúng các chương trình phát sóng của mình
- Định hình chương trình phát sóng của mình
- Sao chép bản định hình chương trình phát sóng của mình
Tổ chức phát sóng được hưởng quyền lợi vật chất khi chương trình của mình
được ghi âm, ghi hình và phân phối đến công chúng
7. Thời hạn bảo hộ quyền liên quan
7.1. Đối với người biểu diễn:
25

×