CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
SƠ YẾU LÍ LỊCH
Họ và tên
: Vương Thị Ánh
Ngày, tháng, năm sinh: 11 – 05 – 1973
Năm vào ngành
: 1993
Chức vụ
: Giáo viên
Đơn vị công tác
: Trường Tiểu học Xuân La
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng sư phạm
Khen thưởng: - Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở.
- Giáo viên dạy giỏi cấp Thành phố năm học 2008 – 2009.
- SKKN đạt loại C cấp ngành năm học 2008 – 2009.
1
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Chúng ta đang sống trong thời đại bùng nổ thông tin. Yêu cầu đổi mới
đang từng ngày, từng giờ đặt ra đối với mỗi người. Vì vậy, nhiệm vụ của ngành
Giáo dục là cần phải tạo ra lớp người lao động mới, có tri thức, có sức khoẻ để
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Từ thực tiễn đã được ghi nhận, trong những năm gần đây, Ngành GD ĐT luôn coi trọng đổi mới Giáo dục nói chung và đổi mới phương pháp dạy học
nói riêng nhằm phát huy thế mạnh, khắc phục những tồn tại, hạn chế của
phương pháp dạy học cũ. Đổi mới phương pháp dạy học phải thực sự là một bộ
phận quan trọng của quá trình đổi mới Giáo dục. Đặc trưng chủ yếu của đổi mới
phương pháp dạy học là : “Coi học sinh là chủ thể của quá trình dạy học”.
Trong đó giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động để mọi học
sinh đều phát triển đúng khả năng của mình. Giáo viên không chỉ nắm thông tin
mà còn nắm chắc sự hình thành các thông tin, có năng lực xử lí thông tin từ học
sinh, biết cách tổ chức học sinh hoạt động để thu thập các thông tin cần thiết
giúp học sinh nắm chắc bài học một cách dễ dàng.
Trong các môn học ở tiểu học hiện nay thì môn Toán là một môn học giữ
vị trí hết sức quan trọng. Bởi nó không những góp phần to lớn vào việc phát
triển trí tuệ cho học sinh mà còn có vai trò hỗ trợ, giúp học tốt các môn học
khác. Ở lớp 2, dung lượng kiến thức toán không lớn, nhưng nó hoàn toàn mới
mẻ đối với học sinh. Kiến thức toán học được xây dựng theo 4 mạch kiến thức
chủ yếu: Số học, đại lượng và đo đại lượng, yếu tố hình học và giải toán. Trong
đó những kiến thức, kỹ năng về số học được lấy làm cơ sở, là trọng tâm của môn
học. Do đó, dạy tốt môn toán ở giai đoạn này sẽ tạo một nền tảng vững chắc,
giúp học sinh học tốt môn toán ở những giai đoạn tiếp theo. Vì vậy, người giáo
viên ngoài việc truyền thụ kiến thức, giúp học sinh khám phá tri thức mà còn
2
phải hình thành cho học sinh phương pháp học, phương pháp tự học và khả năng
vận dụng kiến thức toán học vào thực tế cuộc sống, phát triển ở học sinh những
kĩ năng, năng lực để các em trở thành con người có khả năng hành động và giải
quyết mọi vấn đề do cuộc sống đặt ra.
Xuất phát từ tình hình thực tế cũng như những nhận thức sâu sắc, tầm
quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học, tôi đã tiến hành nghiên cứu,
thực hiện đề tài:
“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học các phép tính ở lớp 2”
II. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.
- Xác định những nội dung kiến thức cơ bản khi dạy học các phép tính ở
lớp 2.
- Tìm các biện pháp giúp học sinh nắm chắc cách thực hiện các phép tính,
để tránh những sai lầm cơ bản khi thực hiện phép tính.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Tài liệu chương trình sách giáo khoa, sách giáo viên lớp 2.
- Phương pháp dạy học toán bậc tiểu học.
- Tiến hành điều tra xem xét: thông qua sự trao đổi với bạn bè, đồng
nghiệp, với tổ chuyên môn, với các em học sinh,...
- Thực nghiệm trên học sinh lớp 2 tại trường Tiểu học Xuân La để bước
đầu kiểm tra, đánh giá kết quả nghiên cứu của đề tài.
IV. PHẠM VI VÀ THỜI GIAN THỰC HIỆN.
Đề tài được thực hiện tại lớp 2A1 Trường Tiểu học Xuân La trong năm
học 2011- 2012. (từ tháng 9 năm 2011 – tháng 3 năm 2012)
3
PHẦN 2. NỘI DUNG
A. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN LÀM CƠ SỞ CHO ĐỀ TÀI.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN TOÁN Ở
TIỂU HỌC
1. Các phương pháp dạy học môn toán theo hướng đổi mới.
Đất nước ta đang trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì vậy yêu
cầu đặt ra cho ngành Giáo dục cần phải đào tạo những lớp người lao động mới
có đầy đủ phẩm chất cần thiết như : cần cù, cẩn thận, có ý thức vượt khó vươn
lên, làm việc có kế hoạch, có nề nếp với tác phong khoa học.
Đổi mới phương pháp dạy học Toán ở tiểu học là tổ chức cho học sinh
học tập theo kiểu mới (hoạt động cá nhân, theo nhóm) tạo điều kiện cho từng
học sinh tham gia giải quyết vấn đề, từ đó mà thu nhận tri thức mới và rèn luyện
kĩ năng mới.
Một số phương pháp dạy học môn Toán theo hướng đổi mới:
+ Dạy học đặt vấn đề và giải quyết vấn đề.
+ Phương pháp gợi mở - vấn đáp.
+ Sử dụng đồ dùng, trang thiết bị dạy học (phương pháp trực quan).
+ Sử dụng trò chơi học tập.
Trong một giờ học, giáo viên dạy học theo hình thức tổ chức các hoạt
động học toán cho từng học sinh thì phải phối hợp sử dụng các phương pháp dạy
học trên. Người giáo viên biết cách tổ chức hướng dẫn học sinh hoạt động sẽ tạo
ra không khí thoải mái, không căng thẳng trong giờ học. Học sinh tự chiếm lĩnh
kiến thức một cách tự nhiên nhờ chính hoạt động của các em. Học sinh nào cũng
được tham gia và có thể thực hiện được từ đó luôn tạo ra tính tự tin trong học
toán. Giáo viên có điều kiện để phát hiện, hướng dẫn cho từng đối tượng học
sinh, rèn luyện phương pháp tự học cho học sinh; hướng dẫn học tập cá thể phối
hợp với học tập hợp tác; rèn kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; rèn luyện
khả năng tự đánh giá của trò.
2. Một số hình thức dạy học theo hướng đổi mới phương pháp dạy học môn
Toán
4
a. Học cá nhân:
Trước mỗi hoạt động học (học bài mới, thực hành, luyện tập) giáo viên
có thể hướng dẫn bằng lời (nói ngắn gọn, rõ ràng) hoặc bằng viết (nêu trong
phiếu giao việc, phiếu học toán).
Học sinh tự học theo hướng dẫn của giáo viên với sự hỗ trợ của phiếu
học tập, đồ dùng học toán, sách giáo khoa để chiếm lĩnh tri thức thức mới, để
luyện tập, thực hành theo khả năng cá nhân, để tự kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập.
Trong quá trình học của cá nhân, học sinh có thể hỏi ý kiến, trao đổi riêng
ý kiến với giáo viên. Giáo viên có thể đến chỗ ngồi của mỗi học sinh để theo
dõi, hướng dẫn kiểm tra, trao đổi ý kiến. Khi cần thiết, giáo viên có thể cho một
nhóm học sinh hoặc cả lớp học sinh tạm ngừng hoạt động để trao đổi chung, để
báo cáo kết quả, để nhắc nhở hoặc hướng dẫn chung.
b. Học theo nhóm.
Cách chia nhóm : Có thể chia nhóm trong dạy học Toán tuỳ theo nội
dung và tính chất của bài học:
Nhóm hỗn hợp (bao gồm cả học sinh giỏi, học sinh khá, trung bình ). Loại
nhóm này thường gọi là nhóm học tập và thường hoạt động trong các tiết học
Toán để giúp đỡ lẫn nhau khi cần thiết.
Nhóm theo sở trường (Chỉ dành cho đối tượng đặc biệt trong các tiết hoạt
động ngoại khoá, tự chọn về Toán): Chẳng hạn nhóm học sinh tham gia các lớp
bồi dưỡng học sinh giỏi Toán hoặc nhóm học sinh có khả năng học toán tốt.
Hoạt động chủ yếu:
Theo hướng dẫn của giáo viên, các nhóm trưởng tổ chức các hoạt động
của nhóm: thực hành, luyện tập theo sự phân công của nhóm trưởng, thảo luận
nhóm để tìm cách giải quyết từng vấn đề của tiết học.
Nên phối hợp học nhóm với học cá nhân, đặc biệt khi cần giải quyết
những vấn đề của học sinh, đánh giá những vấn đề mới.
c. Học theo lớp:
Hoạt động chủ yếu: Thực hiện một số hoạt động của lớp như: nghe giáo viên
5
hướng dẫn cá nhân hoặc theo nhóm. Học sinh cùng làm bài vào vở hay sách
giáo khoa. Sau đó,trao đổi ý kiến đánh giá kết quả, chữa bài chung của toàn lớp.
d. Trò chơi học tập.
Trò chơi học tập bao gồm các trò chơi có mục đích học tập rõ rệt. Trong
dạy học Toán ở tiểu học, đặc biệt ở các lớp 1, 2, 3, các trò chơi học tập Toán có
nhiều tác dụng gây hứng thú học tập, góp phần làm cho tiết học trở nên sinh
động, kích thích trí tưởng tượng, trí nhớ của học sinh.
Hoạt động chủ yếu: tổ chức trò chơi theo từng nhóm, từng cá nhân hoặc
cả lớp. Khi chơi học sinh phải sử dụng cùng một lúc nhiều kiến thức đã học.
e. Hoạt động thực hành ở ngoài lớp học.
Hoạt động chủ yếu: Thực hành đo độ dài, tham quan một số cơ sở sản
xuất, một cửa hàng có sử dụng các dụng cụ đo khối lượng (các loại cân khác
nhau) đi thu thập số liệu phục vụ cho học tập Toán.
g. Hoạt động ngoại khoá về toán.
Hoạt động chủ yếu:
- Tổ chức các nhóm bồi dưỡng học sinh giỏi toán, giúp đỡ các học sinh học kém
toán.
- Tổ chức cuộc thi: giải toán, đố vui về toán, làm đồ dùng học toán, tìm hiểu về
khả năng ứng dụng toán vào đời sống địa phương.
II. MỤC TIÊU VÀ NỘI DUNG DẠY HỌC CÁC PHÉP TÍNH Ở LỚP 2.
1.Mục tiêu dạy học các phép tính ở lớp 2.
Dạy học các phép tính ở lớp 2 nhằm giúp học sinh:
a. Bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về: phép cộng,
phép trừ có nhớ trong phạm vi 100, phép nhân, phép chia và bảng nhân, chia 2,
3, 4, 5, tên gọi và mối quan hệ giữa các thành phần và kết quả của từng phép
tính, mối quan hệ giữa phép cộng và phép trừ, phép nhân, phép chia…các số đến
1000, phép cộng, phép trừ các số có 3 chữ số (không nhớ).
b. Hình thành và rèn luyện các kĩ năng thực hành về: cộng và trừ có nhớ trong
phạm vi 100, nhân và chia trong phạm vi các bảng tính, giải một phương trình
đơn giản dưới dạng bài “ Tìm x “, (tính giá trị biểu thức dạng đơn giản), bước
6
đầu biết diễn đạt bằng lời, bằng kí hiệu một số nội dung đơn giản của bài học và
bài thực hành, tập dượt so sánh, lựa chọn phân tích, tổng hợp, trìu tượng hoá,
khái quát hoá, phát triển trí tưởng tượng trong quá trình áp dụng các kiến thức
và kĩ năng trong học tập và trong đời sống.
c. Tập phát hiện, tìm tòi và tự chiếm lĩnh kiến thức mới theo mức độ của lớp 2,
chăm chỉ, tự tin, hứng thú trong học tập và thực hành Toán.
2. Nội dung dạy học các phép tính ở lớp 2
a. Dạy học phép cộng và phép trừ có nhớ trong phạm vi 100
Giới thiệu tên gọi thành phần và kết quả của phép cộng (số hạng, tổng ),
phép trừ (số bị trừ, số trừ, hiệu )
Bảng cộng và bảng trừ trong phạm vi 20
Phép cộng và phép trừ không nhớ hoặc có nhớ trong phạm vi 100. Tính
nhẩm và tính viết.
Tính giá trị biểu thức số có đến 2 dấu phép tính cộng, trừ.
Giải bài tập dạng “ Tìm x, biết: a + x = b, x – a = b, a – x = b với a, b là
các số có đến 2 chữ số” bằng sử dụng mối quan hệ giữa thành phần và kết quả
của phép tính.
b. Các số đến 1000. Phép cộng, phép trừ (không nhớ) trong phạm vi 1000
Đọc, viết, so sánh các số có 3 chữ số. Giới thiệu hàng đơn vị, hàng chục,
hàng trăm.
Phép cộng các số có đến 3 chữ số, tổng không quá 1000, không nhớ, tính
nhẩm và tính viết.
Phép trừ các số có đến 3 chữ số không nhớ. Tính nhẩm và tính viết.
Tính giá trị biểu thức số có đến 2 dấu phép tính cộng, trừ, không có dấu
ngoặc.
c. Phép nhân và phép chia.
Giới thiệu khái niệm ban đầu về phép nhân, lập phép nhân từ tổng các số
hạng bằng nhau. Giới thiệu thừa số và tích.
Giới thiệu khái niệm ban đầu về phép chia: lập phép chia từ phép nhân có
một thừa số chưa biết khi biết tích và thừa số kia.
7
Giới thiệu số bị chia, số chia thương.
Lập bảng nhân 2, 3, 4, 5 có tích không quá 50.
Lập bảng chia 2, 3, 4, 5 có số bị chia không quá 50.
Nhân với 1 và chia cho 1.
Nhân với 0, số bị chia là 0. Không thể chia cho 0.
Nhân chia nhẩm trong phạm vi các bảng tính. Nhân số có hai chữ số với
số có một chữ số không nhớ ( chỉ với số tròn chục ). Chia số có đến 2 chữ số,
quy về một bước chia trong phạm vi các bảng tính.
Tính giá trị biểu thức số có đến hai dấu phép tính công, trừ hoặc nhân,
chia.
Giới thiệu các phần bằng nhau của đơn vị.
Giải bài tập dạng: “ Tìm x biết: a x X = b, X : a = b (với a, b là một chữ số
khác 0, áp dụng phép nhân, chia trong bảng và sử dụng mối quan hệ giữa thành
phần và kết qủa của phép tính.)
III. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH.
Qua một số năm giảng dạy ở lớp 2 tại Trường Tiểu học Xuân La cũng
như tham khảo thông tin của các đồng nghiệp, tôi nhận thấy học sinh lớp 2 tiếp
thu kiến thức toán tương đối chậm, nắm kiến thức không chắc, nhanh quên kiến
thức, ngại học môn toán. Một số học sinh còn quên không nhớ khi làm phép
cộng trừ có nhớ trong phạm vi 100, có nhớ khi cộng trừ (không nhớ) trong phạm
vi 1000… Đi vào tìm hiểu vấn đề, tôi thấy nguyên nhân của tình trạng trên là do
các nguyên nhân khách quan như: Đặc điểm tâm, sinh lí của học sinh, điều kiện
học tập của các em chưa đầy đủ, phụ huynh chưa quan tâm đến việc học tập của
các em hoặc quan tâm chưa đúng cách,...
Bên cạnh đó còn có những nguyên nhân khác như: Giáo viên chưa thực sự
đầu tư thời gian công sức cho hoạt động giảng dạy, còn thiếu tài liệu, thiếu
những thông tin về dạy học theo phương pháp mới.
Từ thực tế trên, tôi nhận thấy việc hướng dẫn học sinh làm đúng các phép
tính ở lớp 2 là rất cần thiết. Làm thế nào để khắc phục những hạn chế trên? Tôi
xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp sau:
8
B. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
I. Đối với giáo viên:
1.Giáo viên lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp.
Trước đây, phương pháp giảng dạy: “Người thầy là trung tâm”. Vì vậy,
học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động. Hiện nay với việc đổi mới
phương pháp dạy học: “Dạy học trên cơ sở tổ chức và hướng dẫn các hoạt động
học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh” đã giúp cho mọi học sinh tự
phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ của bài, tự chiếm lĩnh kiến thức mới là chủ
yếu dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Tăng cường thiết lập mối quan hệ giữa
kiến thức mới và kiến thức cũ. Bám sát vào chuẩn kiến thức kĩ năng các môn
học và công văn điều chỉnh nội dung dạy học các môn học.
Nắm được phương pháp giảng dạy mới, trong mỗi giờ học, giáo viên cần
lựa chọn và vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học cho phù hợp với tâm lí
lứa tuổi và tình hình thực tế của lớp mình để tiết học diễn ra nhẹ nhàng, học sinh
hiểu bài tốt.
2. Gây hứng thú ở học sinh
Mỗi tiết học là sự kết hợp nhịp nhàng giữa hoạt động dạy của thầy và
hoạt động học của trò. Chính vì vậy không chỉ đổi mới phương pháp dạy của
giáo viên mà phải chú ý đến việc đổi mới phương pháp học của học sinh. điều
quan trọng là giáo viên phải dạy cho học sinh cách học. Vậy cách học của các
em là gì ? Đó là cách học tự giác, các em có ý thức tự giác thì chất lượng học tập
của các em sẽ cao hơn gấp nhiều lần so với các em không thích mà “phải học”.
Muốn các em tự giác học thì trước hết ta phải tạo hứng thú học cho học sinh.
Khi đã có hứng thú học tập thì các em sẽ say sưa với môn học hơn.
Để có hứng thú với môn Toán, trong mỗi tiết học cần khêu gợi tính tò
mò, trí tưởng tượng của mỗi học sinh, lôi cuốn các em vào hoạt động. Vì vậy
mỗi giáo viên cần luôn luôn quan tâm bồi dưỡng hứng thú cho học sinh. Theo
tôi, mỗi giáo viên hãy là một người thầy, một người mẹ, một người bạn để giảng
dạy, quan tâm, thông cảm, động viên, khích lệ các em. đó cũng là một cách để
tạo hứng thú cho học sinh.
9
3. Hướng dẫn học sinh sử dụng đồ dùng thực hành học Toán.
Mỗi giáo viên cần hiểu tác dụng to lớn của đồ dùng dạy học. Đồ dùng dạy
học không chỉ là “minh hoạ “ cho nội dung bài học mà còn là một phần của nội
dung bài học.
Ở lớp 2, mỗi giáo viên được trang bị một bộ đồ dùng dạy học Toán với
kích thước lớn và mỗi học sinh cũng có “ bộ đồ dùng thực hành học Toán 2 ”
với kích thước nhỏ hơn.
Bộ đồ dùng dạy học Toán 2 là công cụ đắc lực nhất để đổi mới phương
pháp dạy học môn Toán. Vậy việc sử dụng “ đồ dùng thực hành Toán 2” như
thế nào cho đúng mục tiêu và có hiệu quả. Trước kia đồ dùng học Toán được
làm chủ yếu dành cho giáo viên. Giáo viên “ biểu diễn” cho học sinh xem để
minh hoạ nội dung bài học là chính. Nay đã khác, đồ dùng học Toán được làm
chủ yếu dành cho học sinh, để học sinh thực hành luyện tập, qua đó các em được
tìm hiểu, lĩnh hội, tự chiếm lĩnh kiến thức. Bởi vậy, yêu cầu trước tiên khi sử
dụng đồ dùng học Toán là phải cho học sinh tự sử dụng để học Toán với sự
hướng dẫn đúng mức của giáo viên.
4. Giáo viên đưa ra các tình huống trong tiết học Toán.
Khi dạy các phép tính, việc làm đầu tiên là giáo viên đưa ra các tình
huống. Việc đưa ra các tình huống nhằm khơi gợi trí tò mò của học sinh. Hướng
dẫn các em vào nội dung bài học. Có nhiều cách để giáo viên đưa ra các tình
huống.
a. Đưa tình huống thông qua các bài toán:
Đây là cách làm phổ biến khi dạy các phép tính ở lớp 2.
Giáo viên đưa ra bài toán dẫn. Việc học sinh đi tìm lời giải cho bài toán là các
em tìm hiểu nội dung bài học.
Ví dụ:
Bài: 32 - 8
Khi dạy bài này giáo viên đưa ra bài toán: “ Cô có 32 que tính. Sau đó cô
bớt đi 8 que tính. Hỏi cô còn lại bao nhiêu que tính ?”
Giáo viên gợi mở cho học sinh bằng việc đưa ra các câu hỏi:
Ban đầu cô có bao nhiêu que tính ? (Học sinh nêu: Cô có 32 que tính )
10
Cô bớt đi mấy que tính ? (Học sinh nêu: Cô bớt đi 8 que tính .)
Để biết còn lại bao nhiêu que tính con phải làm gì ? (Học sinh nêu: Thực
hiện phép trừ: 32 - 8)
Vậy là từ bài toán dẫn, giáo viên đã hướng học sinh vào bài học là thực
hiện phép tính 32 – 8.
b. Đưa tình huống thông qua hình vẽ.
Đây là cách đưa tình huống trực quan và dễ hiểu nhất bởi các em được
quan sát trực tiếp. Từ đó giáo viên hình thành kiến thức dễ dàng hơn.
Ví dụ :
Bài: Một phần tư.
Giáo viên đưa hình vẽ
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát hình vẽ và trả lời câu hỏi:
Con thấy hình vuông được chia thành mấy phần bằng nhau ?
(Học sinh nêu: Hình vuông được chia thành bốn phần bằng nhau.)
Có mấy phần được tô màu? (Học sinh nêu: Có một phần được tô màu.)
Từ việc quan sát hình vẽ, giáo viên gợi ở học sinh trí tò mò. Vậy phần tô
màu chiếm mấy phần so với hình vuông ban đầu ? Từ đó giáo viên giới thiệu:
“Một phần tư”
c. Đưa tình huống qua các câu đố:
Cách đưa tình huống này giúp học sinh cảm thấy nhẹ nhàng, rất vui thích
khi học Toán.
Ví dụ:
Bài: Tìm số trừ
Với tiết học này, giáo viên cử một học sinh lên đố các bạn trong lớp:
- Học sinh đưa ra một tờ bìa:
11
- Học sinh đố các bạn:
+ Tờ bìa của mình có tất cả bao nhiêu ô vuông ?
(Học sinh nêu: Tờ bìa của bạn có 10 ô vuông.)
+ Sau đó học sinh cắt tờ bìa làm hai phần: một phần có 6 ô vuông, một
phần có 4 ô vuông. Học sinh đố tiếp các bạn: Từ tờ bìa này tôi chia thành hai
phần, phần con lại là 6 ô vuông. Vậy đố các bạn mình đã cắt bỏ đi mấy ô vuông?
Bằng câu đố của mình, bạn học sinh đã lôi cuốn cả lớp vào nội dung bài học.
Với việc tìm số ô vuông cắt đi chưa biết, giáo viên giúp học sinh đó chính là tìm
thành phần “Số trừ” trong phép trừ.
5. Ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin trong các giờ học Toán.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ cho việc đổi mới phương pháp
dạy học là một trong những hướng tích cực nhất, hiệu quả nhất. Do đặc điểm
tâm sinh lý của lứa tuổi tiểu học các em luôn thích những cái mới, cái lạ nên
bằng những hình vẽ sinh động, những hiệu ứng đơn giản sẽ thu hút sự chú ý vào
bài giảng của giáo viên từ đó tạo cho các em sự thích thú trong việc khám phá
kiến thức. Tùy vào từng bài mà giáo viên có những cách áp dụng CNTT khác
nhau.
Ví dụ : Bảng nhân 2
* Hướng dẫn học sinh lập bảng nhân 2 (lấy 2 nhân với một số)
Áp dụng CNTT, trình chiếu trên powerpoint:
- GV nêu bài toán và đưa hình ảnh và yêu cầu HS nêu phép tính. Cứ tiếp tục như
vậy với 2 phép tính tiếp theo. Các phép tính còn lại GV yêu cầu HS sử dụng
BĐD để tìm kết quả. Khi học sinh báo cáo kết quả GV đưa kết quả lên có đổi
màu kết quả phép tính.
- Hướng dẫn HS học thuộc bảng nhân 2: GV lần lượt thay đổi kết quả của phép
tính bằng các bông hoa. Yêu cầu HS nêu bảng nhân 2. Tiếp tục thay đổi một số
số ở thừa số thứ nhất và thừa số thứ hai để kiểm tra việc học thuộc bảng nhân 2
của học sinh. => Việc thay đổi màu và thay đổi các số bằng hình ảnh các bông
hoa tạo hứng thú cho HS kích thích trí tò mò và từ đó HS cố gắng thuộc bài tại
lớp.
12
* Luyện tập: GV lần lượt đưa từng bài, hướng dẫn HS cách làm và yêu cầu HS
làm bài, chữa bài và bật máy đối chiếu kết quả => giúp HS quan sát và nhận xét
chính xác.
* Củng cố: Giúp HS củng cố bảng nhân 2 vừa học.
* Trò chơi: GV phổ biến luật chơi và cách chơi sau đó cho HS tự chọn 1 bậc
thang và nêu kết quả => rất thu hút học sinh, giúp học sinh sôi nổi tham gia làm
giờ học diễn ra nhẹ nhàng hơn.
6. Giúp học sinh tránh một số sai lầm thường gặp khi thực hành làm tính.
Khi học sinh học về phép cộng hoặc phép trừ (có nhớ) trong phạm vi
100, một bộ phận học sinh nhận thức chậm thường mắc sai lầm về cách đặt tính,
cách thực hiện phép tính, Những sai lầm thường gặp là:
- Đặt tính sai.
- Tính sai kết quả.
- “Quên” không nhớ.
Để khắc phục tình trạng trên, tôi đã thực hiện một số giải pháp sau:
a/ Thiết kế hệ thống phiếu học tập với các bài tập trắc nghiệm:
Ví dụ:
Bài 1: Em hãy ghi chữ Đ vào ô trống bên cạnh phép tính đúng, chữ S vào ô
trống bên cạnh các phép tính sai.
+ 37
+ 48
+ 29
5
14
46
87
52
75
Bài 2: Khoanh tròn vào chữ cái trước kết quả đúng:
a. Phép cộng
+
Có kết quả là:
A. 51
+ 50
23
70
47
14
B. 61
C. 33
D. 21
C. 53
D. 73
b. Kết quả của phép cộng:
44 + 9 = …
là: A. 43
B. 33
b/ Tổ chức cho học sinh thực hành nhiều trước lớp:
Đối với những học sinh nhận thức chậm, hay mắc các sai lầm nói trên, tôi
13
thường xuyên cho các em làm bài tập vào bảng con, bảng lớp và phiếu học tập
khổ rộng. Qua đó tôi dễ dàng phát hiện những sai sót của học sinh để uốn nắn
kịp thời, bên cạnh đó, nếu học sinh nào có tiến bộ dù rất nhỏ, tôi luôn động viên
khen ngợi kịp thời trước tập thể lớp, tạo được không khí học tập sôi nối. Nhờ
vậy giúp các em tiếp thu bài học tích cực, mang lại hiệu quả ngày càng cao hơn.
c/ Giao nhiệm vụ học tập:
Để học sinh học tập có kết quả, tôi yêu cầu học sinh phải chú ý học thuộc
lòng tất cả các bảng công thức cộng hoặc trừ được xây dựng trong phần bài học,
tôi cho học sinh tự kiểm tra lẫn nhau ở lớp (trong giờ truy bài, giờ chơi, …) và ở
nhà. Tôi thường xuyên theo dõi những học sinh chậm hiểu để kịp thời động viên
giúp đỡ các em hoàn thành nhiệm vụ.
II. Đối với học sinh :
1. Học sinh phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ của bài học.
Với phương pháp dạy học theo hướng đổi mới, mỗi giáo viên cần lôi cuốn học
sinh vào từng hoạt động học tập. Để học sinh tự thao tác trên đồ dùng dạy học
để tự phát hiện ra kiến thức, tự chiếm lĩnh kiến thức.
Ví dụ:
Bài: 11 trừ đi một số 11- 5
Khi dạy bài này giáo viên nêu tính huống thông qua bài toán: “Cô có 11
que tính, cô bớt 5 que tính. Hỏi cô còn lại bao nhiêu que tính ? “
Từ bài toán trên, học sinh sẽ thao tác trên các bó que tính và những que
tính rời để tìm số que tính còn lại bằng nhiều cách khác nhau:
Cách 1:
Học sinh lấy 1 bó que tính và một que tính rời để có 11 que tính. Sau đó
các em tháo bó que tính ra để có 11 que tính rời. Các em thực hiện bớt lần lượt
từng que tính cho đến khi bớt được 5 que tính. Tiếp theo các em đếm số que tính
còn lại và tìm được còn lại là 6 que tính.
Cách 2:
Học sinh lấy 1 bó que tính và một que tính rời để có 11 que tính. Để bớt 5
que tính, học sinh lấy 1 que tính rời rồi tháo 1 bó một chục que tính lấy tiếp 4
que tính nữa . Học sinh đã tìm được số que tính còn lại là 6 que tính.
14
Sau khi học sinh được thao tác trên đồ dùng là các que tính. Giáo viên để
cho học sinh được mô tả bằng lời các thao tác và kết quả thu được. Giáo viên
tổng kết có nhiều cách làm, các cách làm của các em đều đúng và chọn cách làm
thông thường là cách thứ hai.
Qua thao tác trên que tính, các em biết: “Có 11 que tính bớt đi 5 que tính,
còn lại 6 que tính. Vậy 11 - 5 = 6.”
Tương tự như trên, học sinh tìm được kết quả của các phép trừ:
11 - 2 = 9
11 - 6 = 5
11 - 3 = 8
11 - 7 = 4
11 - 4 = 7
11 - 8 = 3
11 - 5 = 6
11 - 9 = 2
Sau khi học sinh tìm được kết quả của các phép trừ ở trên giáo viên giới
thiệu : Đây chính là bảng trừ 11 trừ đi một số.
2. Học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới.
Sau khi phát hiện và giải quyết nhiệm vụ của bài học cũng là lúc giáo viên
hướng dẫn các em nắm vững các kiến thức mới.
Ví dụ: Tiết 46
Bài: 11 trừ đi một số 11- 5
Khi học sinh đã lập được bảng trừ 11 trừ đi một số. Không dừng lại ở đây,
giáo viên tập cho học sinh tự tái hiện lại các công thức bằng cách vừa hướng
dẫn, vừa khích lệ học sinh thi đua học tập. Đó là cách che lấp hoặc xoá từng
thành phần rồi che hoặc xoá toàn bộ bảng trừ vừa lập. Học sinh thi đua lập lại
công thức đó.
Thuộc công thức đến mức có thể nói ngay, viết ngay được công thức đó
cũng chỉ là bước đầu của chiếm lĩnh kiến thức mới. Phải qua thực hành, vận
dụng kiến thức mới để giải quyết các vấn đề. Chính vì vậy mà tôi rất quan tâm
đến việc hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập.
3. Học sinh được thực hành luyện tập.
Thời lượng dành cho học sinh thực hành luyện tập (ngay ở trên lớp) của
Toán lớp 2 chiếm khoảng 80 % tổng số thời lượng dạy học Toán 2. Nội dung
thực hành luyện tập không chỉ có trong các tiết luyện tập, luyện tập chung, thực
15
hành, ôn tập mà còn chiếm tỷ lệ khá lớn trong các tiết dạy học bài mới. Vì thế
việc dạy học thực hành, luyện tập là củng cố kiến thức và các kĩ năng cơ bản của
chương trình, rèn luyện các năng lực thục hành giúp học sinh nhận ra rằng: Học
không chỉ để “biết” mà học còn để “làm” để “vận dụng” . Khi hướng dẫn học
sinh luyện tập, thực hành giáo viên cần lưu ý:
a. Giúp mọi học sinh đều tham gia vào hoạt động thực hành, luyện tập theo
khả năng của mình.
Giáo viên tổ chức cho học sinh làm bài tập trong sách giáo khoa hay
trong vở , không chữa lướt hay bỏ qua một bài tập nào dù là dễ. Song nói như
vậy không có nghĩa là yêu cầu tất cả các học sinh đều phải làm hết các bài tập.
Nếu bài tập nào các em chưa làm xong, các em sẽ tiếp tục làm trong các tiết
hướng dẫn học.
Đa số các bài tập của Toán lớp 2 là không khó, không phức tạp nhưng
chứa đựng nhiều nội dung ở các mức độ khác nhau. Tuỳ trình độ của học sinh
mà giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác.
Ví dụ:
Bài: 9 cộng cvới một số 9 + 5
Bài 1: Tính nhẩm:
9+3=
9 + 6=
9 + 8=
9 + 7=
9 + 4=
3+9=
6 + 9=
8 + 9=
7 + 9=
4 + 9=
Với bài tập này, đối với học sinh trung bình giáo viên chỉ yêu cầu các em
dựa vào bảng cộng để tính đúng.
Còn đối với học sinh khá, giỏi, khi chữa bài giáo viên giúp học sinh pháp
hiện ra một tính chất của phép công ( chưa nêu tên tính chất ) bằng cách nhận
xét các cặp phép tính để thấy:
9 + 3 = 3 + 9 = 12
9 + 6 = 6 + 9 = 15
Từ đó các em rút ra được nhận xét : “ Trong phép cộng, nếu ta đổi chỗ
các số hạng thì tổng không tay đổi”. Với nhận xét này ở trong các bài tập ở các
tiết học sau học sinh có thể áp dụng để tính nhanh hơn.
Bài: 11 trừ đi một số
16
Khi hướng dẫn HS làm bài tập 1b, trang 48, giáo viên cho HS tính nhẩm
các phép tính:
11 - 1 - 5 = 5 ; 11 - 6 = 5 , sau đó đặt câu hỏi:
- So sánh kết quả hai phép tính này? ( Hai kết quả bằng nhau)
- Vậy muốn tính 11 trừ 6, em có thể tính như thế nào? ( Em lấy 11 trừ 1
rồi trừ tiếp 5).
Tôi viết lên bảng phép tính 11 - 7. Hỏi tiếp:
- Dựa vào cách làm trên, em hãy tính nhẩm kết quả phép tính này? ( HS
nêu: Em lấy 11 trừ 1 rồi trừ tiếp 6, được kết quả bằng 4.
- Em hãy nêu một phép tính tương tự với 2 phép tính trên? ( HS nêu
phép tính và cách thực hiện).
Thực hiện như trên, HS vừa được nêu ý kiến cá nhân, tự tin vào bản thân
khi được nói trước tập thể, vừa có tác dụng củng cố, khắc sâu kiến thức về bảng
công thức : “ 11 trừ đi một số”.
Một hoạt động nữa mà tôi thường xuyên thực hiện trên lớp là tổ chức cho
HS thi đua học tập bằng các hình thức: thi đua giữa cá nhân với cá nhân, thi đua
giữa các tổ, nhóm với nhau. Các bài tập được thiết kế cho HS thi chủ yếu là các
bài tập trắc nghiệm:
+ Thi điền Đ - S vào ô trống bên cạnh phép tính,
+ Thi điền nhanh kết quả phép tính vào chỗ chấm,...
Ngoài ra sau mỗi bài học lý thuyết, tôi đều cho HS thi nhẩm nhanh, thi
đọc thuộc lòng bảng trừ vừa học tại lớp. Sau mỗi lần thi tôi đều có phần thưởng
cho HS. Phần thưởng giành cho mỗi cuộc thi có thể chỉ là một tràng pháo tay,
một chiếc bút chì hoặc một bông hoa,.. nhưng nó đã tạo nên một không khí học
tập vô cùng sôi nổi trong lớp học.
b. Tạo sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh.
Trong tiết học, giáo viên có thể cho học sinh trao đổi ý kiến trong nhóm
hay toàn lớp về cách giải quyết một phép tính hay mỗi bài tập, khuyến khích các
em mạnh dạn nêu ý kiến suy nghĩ của mình, nhận xét bài làm của bạn. Từ đó,
các em rút ra kinh nghiệm trong quá trình thảo luận.
17
Ví dụ:
Bài: Bảng nhân 3
Bài 3: Viết số thích hợp vào ô trống
3
9 12 15
24
Với bài tập này, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận theo nhóm để
tìm ra cách điền số. Sau khi thảo luận các em tìm ra cách điền.
Cách 1:
Học sinh nhận thấy: Số đứng sau hơn số đứng liền trước 3 đơn vị.
Các em thực hiện phép tính cộng và điền được:
3
6
9
12 15 18 21 24 27 30
Cách 2:
Học sinh nhận thấy: Số ở mỗi ô chính là tích của 3 và số thứ tự của ô đó.
Ví dụ: Ô thứ hai sẽ điền là 6 vì: 3 x 2 = 6
Ô thứ sáu sẽ điền là 18 vì: 3 x 6 = 18
Và các em đã điền được:
3
6
9
12 15 18 21 24 27 30
Được tham gia thảo luận nhóm, các em mạnh dạn hơn, tự tin vào ý kiến,
khả năng của mình.
c. Khuyến khích học sinh tự đánh giá kết quả thực hành luyện tập của mình.
Để làm được điều này, giáo viên cho học sinh tập sau mỗi phép tính, sau
mỗi bài kiểm tra, bài tập phải tự kiểm tra xem mình làm đã làm đúng chưa bằng
cách thử lại.
Giáo viên hướng dẫn học sinh tự đánh giá bài làm của mình hoặc bài bài
làm của bạn bằng cách tự chấm điểm rồi báo cáo lại cho giáo viên. Giáo viên
giúp các em kiểm tra lại kết quả rồi khen ngợi các em biết đánh giá bài chính
xác và động viên, khuyến khích các em chưa đánh giá đúng bài làm của mình để
lần sau các em làm bài tốt hơn. Qua đó, giáo viên giúp học sinh tự nhận thấy và
nêu ra những hạn chế, thiếu sót của mình để các em nhớ và lần sau không mắc
phải.
d. Tập cho học sinh thói quen không tự thoả mãn với bài làm của mình, với
cách giải đã có sẵn.
18
Sau mỗi tiết luyện tập, giáo viên nên tạo cho các em niềm vui, niềm tin vì
các em đã hoàn thành công việc được giao và đạt được những tiến bộ (dù ít)
trong học tập bằng cách cho điểm để khuyến khích, nêu gương, khen ngợi. Nếu
các em gặp khó khăn khi làm bài tôi thường gợi mở, giúp học sinh suy nghĩ, tìm
tòi để tìm ra nhiều cách giải cho một bài toán.
Ví dụ
Bài: Số 0 trong phép nhân và phép chia.
Bài 5: x, : ?
0
1
2 =0
Ở bài tập này sẽ có nhiều cách điền số khác nhau. Nếu học sinh điền:
0 x 1 x 2 =0
Giáo viên sẽ giúp học sinh các cách điền khác.
0 x 1 :
2 =0
0 : 1 :
2 =0
0 : 1 x
2 =0
4. Học Toán thông qua hoạt động ngoại khoá vui chơi.
Việc dạy học kết hợp với vui chơi mang tính tích cực sẽ giúp học sinh có
hứng thú và nhớ bài lâu. Hiểu được điều nay, trong các tiết học, tôi thường
xuyên tổ chức các trò chơi để củng cố bài học, chốt kiến thức vừa tạo hứng thú
cho các em.
Ví dụ:
Bài: Luyện tập
Với tiết học này ở phần củng cố của bài học tôi tổ chức cho học sinh chơi
trò chơi “Làm tính tiếp sức”.
Mục đích: Qua trò chơi để rèn luyện cho học sinh kĩ năng cộng có nhớ.
Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị hai bảng nhóm vẽ các hình sau:
Cách chơi:
+ Có 2 đội chơi, mỗi đội có 4 bạn tham gia chơi.
19
+ Các bạn ở dưới là trọng tài và cổ vũ hai đội chơi.
+ Khi giáo viên ra hiệu lệnh bắt đầu chơi thì bạn đầu tiên của mỗi đội lên
điền kết quả của phép tính đầu tiên vào hình vuông rồi nhanh chóng trao phấn
cho bạn thứ hai. Cứ tiếp tục như vậy, bạn thứ tư lên điền kết quả của phép tính
cuối cùng vào ngôi sao. Đội nào điền đúng và nhanh hơn sẽ thắng cuộc.
Trò chơi:” Làm tính tiếp sức” được các em rất yêu thích. Trò chơi này vừa
tạo hứng thú học tập vừa có tác dụng củng cố cách thực hiện tính
Trò chơi “lắp hình “ có sức hấp dẫn đối với học sinh. Trò chơi giúp các
em phát triển tư duy, óc sáng tạo. đồng thời củng cố các bảng cộng, trừ. Phát
huy tinh thần đoàn kết giữa các học sinh.
Trò chơi “ Thi nối nhanh”
Cách chơi: Hai đội chơi, mỗi đội có 6 bạn.
Khi có hiệu lệnh chơi, bạn thứ nhất của đội sẽ chọn phép tính và kết quả
phù hợp nối với nhau, sau đó trao bút cho bạn thứ hai. Cứ như thế tiếp tục cho
đến bạn cuối cùng.
Đội nào làm đúng và nhanh đội đó sẽ là đội thắng cuộc.
Tham gia vào trò chơi “thi nối nhanh” học sinh sẽ được củng cố và khắc
sâu bảng nhân 3. Đây chính là cách giáo viên ôn tập, hệ thống lại cho học sinh
các kiến thức đã học.
* Những trò chơi mà tôi đã trình bày ở trên đã được áp dụng vào lớp học
một cách hiệu quả. Ngoài ra, tôi còn linh hoạt vận dụng nhiều hình thức tổ chức
giờ học sao cho các em tiếp thu bài một cách hứng thú nhất, tạo tâm lý cho học
sinh thích học môn Toán, các em luôn chờ mong đến giờ học Toán, không còn
ngại hay thấy đây là giờ học “khó “ và “khô” nữa.
Để tạo ra những tình huống kích thích học sinh suy nghĩ, góp phần rèn
luyện tư duy sáng tạo và gây hứng thú trong học tập, tôi còn tổ chức cho học
sinh giải các câu đố vui Toán học. Ngoài ra, tôi còn sưu tầm các câu chuyện kể
về các nhà toán học ở trong nước và trên thế giới, các câu chuyện gắn với bài
toán hay các phát minh gắn với toán học để kể cho học sinh nghe. Kể chuyện
toán học làm thay đổi không khí lớp học như một hình thức nghỉ ngơi tích cực,
20
thư giãn đầu óc, chuẩn bị để tiếp tục học tập. Mặt khác kể chuyện Toán học còn
có tác dụng hỗ trợ cho việc dạy và học Toán thông qua việc đưa học sinh vào
những tình huống có vấn đề cần suy nghĩ để tìm cách giải quyết đồng thời góp
phần giáo dục ý thức sáng tạo, tinh thần ham học hỏi của mỗi học sinh. Một câu
chuyện kể trong một vài phút nhưng có thể để lại những ấn tượng sâu sắc, đậm
nét trong cuộc đời học sinh. Vì vậy, mỗi giáo viên hãy là một người thầy, người
mẹ để giảng dạy, quan tâm, thông cảm, động viên, khích các em đó cũng là
cách để giúp cho các em học tập môn Toán tốt hơn.
21
C. DẠY THỰC NGHIỆM
I. Mục đích của dạy thực nghiệm:
Thông qua thực nghiệm tôi muốn làm rõ một số vấn đề sau:
- Giáo viên cần đổi mới phương pháp dạy học: "Lấy học sinh làm trung tâm",
giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh tự tìm tòi, khám phá kiến thức
mới.
- Giáo viên có thể lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học cho từng bài phù
hợp với đối tượng học sinh lớp mình nhằm đạt được yêu cầu cơ bản của môn
Toán lớp 2.
II. Nội dung thực nghiệm
Tôi đã chọn 2 lớp : 2A1 (Lớp thực nghiệm)
2A6 (Lớp đối chứng)
+ Lớp 2A1 có sĩ số 53
+ Lớp 2A6 có sĩ số 49
Học lực môn Toán của 2 lớp tương đương nhau (căn cứ vào kết quả kiểm tra
định kỳ giữa kỳ I năm học : 2011 – 2012)
Lớp
Giỏi
Khá
Trung Bình
Sl
%
Sl
%
Sl
%
2A1
43
81,1%
8
15%
2
3,9%
2A6
38
77,5%
8
16,4%
3
6,1%
Tôi đã tiến hành soạn giáo án và dạy lớp 2A1 do tôi chủ nhiệm 2 tiết thực
nghiệm.
+ Bài: Bảng chia 4.
Tuần 24
Ngày dạy: Thứ ba ngày 28/2/2012
+ Bài: Tìm số bị chia. Tuần 26
Ngày dạy: Thứ ba ngày 13/3/2012
Mục đích: Đưa phương pháp mới dạy vào lớp 2A1 còn lớp 2A6 dạy theo
phương pháp thông thường do cô giáo chủ nhiệm Nguyễn Thị Quỳnh Dung
thực hiện.
22
Sau đây tôi xin trình bày hai giáo án dạy thực nghiệm tại lớp 2A1đã sử
dụng một trong số các biện pháp nêu trên trong các tiết học nhằm nâng cao
hiệu quả giờ học, giúp học sinh chủ động tích cực nắm chắc nội dung bài.
TRƯỜNG TIỂU HỌC XUÂN LA
Giáo viên: Vương Thị Ánh
Khối: 2
MÔN: TOÁN
TIẾT 117: BẢNG CHIA 4
Ngày dạy: Thứ ba, 28/02/2012
Tuần: 24
I - MỤC TIÊU:
Kiến thức: - Lập bảng chia 4
- Thực hành chia 4
Kĩ năng: Áp dụng bảng chia 4 để giải các bài toán có lời văn bằng một phép tính
chia
Thái độ: Giáo dục HS tính cẩn thận.
II - ĐỒ DÙNG: - Các tấm bìa có 4 chấm tròn.
III - CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC CHỦ YẾU:
Thời
Nội dung
Phương pháp, hình thức
gian
cỏc hoạt động dạy học chủ yếu
tổ chức các hoạt động dạy học tương ứng
Hoạt động của thầy Hoạt động của trũ
5’
2833’
I.Kiểm tra bài cũ: Tìm Y
Y x 3 = 21
2 x Y = 18
Y x 3 = 30
+ Muốn tím thừa số chưa biết ta
làm thế nào?
- GV nhận xét
- GV hỏi
- GV nhận xét
- 3 HS lên bảng
- Cả lớp làm nháp
- HS trả lời
II. Bài mới:
1. Giới thiệu bài: Giờ toán hôm
- GV nêu mục tiêu - HS lắng nghe và
nay các con sẽ dựa vào bảng nhân 4
của tiết học và ghi ghi vở
để thành lập bảng chia 4.
bảng
2. Giới thiệu phép chia 4:
1. Ôn tập phép nhân 4.
- Gắn lên bảng 3 tấm bìa, mỗi tấm
bìa có 4 chấm tròn (như SGK) rồi
hỏi HS.
+ Mỗi tấm bìa có 4 chấm tròn, 3
23
- Gv gắn các tấm
bìa lên bảng
- HS quan sát và
lần lượt trả lời các
câu hỏi của GV
Thời
Nội dung
Phương pháp, hình thức
gian
cỏc hoạt động dạy học chủ yếu
tổ chức các hoạt động dạy học tương ứng
Hoạt động của thầy Hoạt động của trũ
tấm bìa có mấy chấm tròn?
- 4 × 3 = 12 (4 được lấy 3 lần)
- Có 12 chấm tròn.
Viết phép nhân lên bảng. 3 × 4 =
12
2. Lập bảng chia 4:
Nêu bài toán
+ Trên các tấm bìa có 12 chấm
tròn, mỗi tấm bìa có 4 chấm tròn.
Hỏi có mấy tấm bìa? Hãy đọc phép
tính thích hợp để tìm số tấm bìa?
12 : 4 = 3 .
- GV hỏi
-HS viết phép nhân
- GV viết bảng
- HS quan sát và
lắng nghe
- GV nêu yêu cầu
GV viết phép chia
lên bảng dưới phép
nhân.
- GV chỉ vào hai
phép tính trên bảng
rồi kết luận.
Nhận xét: Từ phép nhân 4 là 4 × 1 =
- GV nêu yêu cầu
4,. Ta có phép chia 4 nào ?
- GV chốt cách làm
(4: 4 = 1)
- GV nêu yêu cầu
* Có thể lập bảng
Yêu cầu HS tự lập bảng chia 4
chia 4 bằng cách
cho phép nhân và
yêu cầu HS viết
phép chia dựa vào
phép nhân đã cho
có số chia là 4
3 . Luyện tập thực hành
Bài 1: Tính nhẩm:
- HS thực hiện theo
yêu cầu của GV
- HS viết phép chia
12 : 4 = 3
- GV nêu yêu cầu
- HS trả lời
- HS tự lập bảng
chia 4, rồi học
thuộc lòng( theo
nhóm, theo tổ, thi
đua giữa các nhóm)
- HS đọc yêu cầu
- HS tự làm bài
- Chữa bài
- GV nhận xét
Bài 2: Giải toán
- GV nêu yêu cầu
+ Bài toán cho biết gì? Hỏi gì?
- GV hỏi phân tích
bài
24
- 1 HS đọc yêu cầu
của bài
- HS lắng nghe và
Thời
Nội dung
Phương pháp, hình thức
gian
cỏc hoạt động dạy học chủ yếu
tổ chức các hoạt động dạy học tương ứng
Hoạt động của thầy Hoạt động của trũ
Bài giải
Mỗi hàng có số học sinh là :
32 : 4 = 8 (học sinh)
Đáp số : 8 học sinh
- GV nhận xét
2’
III. Củng cố, dặn dò:
- Đọc lại bảng chia 4.
- GV nêu yêu cầu
- Gọi tên các thành phần và kết
quả của phép chia.
- GV hỏi
- GV NX giờ học
thực hiện các yêu
cầu của GV
- HS làm bài
- HS chữa bài
- Bạn nhận xét
- HS đọc bảng chia
4
- HS trả lời
- HS lắng nghe
Rỳt kinh nghiệm sau tiết dạy :
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
.........................................................................................................................................
TRƯỜNG TIỂU HỌC XUÂN LA
Giáo viên: Vương Thị Ánh
Tuần: 26
25