Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm một số giải pháp giáo dục học sinh phát triển toàn diện trong công tác chủ nhiệm ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.05 KB, 29 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI

TRƯỜNG THCS XUÂN LA
-------------------------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH PHÁT
TRIỂN TOÀN DIỆN TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
Ở TRƯỜNG TRUNG HOC CƠ SỞ

Lĩnh vực: Công tác chủ nhiệm lớp
Tên tác giả: Hoàng Thị Thu
GV môn: Ngữ văn

NĂM HỌC 2011-2012

1


MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM Ở TRƯỜNG THCS HIỆN NAY
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp
2. Tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục
3. Giáo dục HS tính tự giác, thực hiện nội quy của trường, lớp


4. Phát huy khả năng tự quản của HS
5. Cụ thể hoá các đợt thi đua do Đoàn, Đội phát động
6. Giáo dục HS bằng sức mạnh tâm lí
7. Phối hợp các lực lượng giáo dục
8. Giáo dục đạo đức HS thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm
9. Chú trọng việc giáo dục kĩ năng sống cho HS
10. Mối quan hệ tình cảm thân thiện
11. Sự hợp tác thân thiện và tích cực
12. Tổ chức lớp
13. Phát động phong trào học tập, hoạt động của lớp
14. Những yếu tố của GVCN lớp
III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

KẾT LUẬN
I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
II. KHUYẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO

03
05
05
05
07
07
08
09
09
10
10
11

13
14
16
17
17
21
21
24
26
26
28
29

2


ĐẶT VẤN ĐỀ
"Nếu người kỹ sư vui mừng nhìn thấy cây cầu mà mình vừa mới xây
xong, người nông dân mỉm cười nhìn đồng lúa mình vừa mới trồng, thì người
giáo viên vui sướng khi nhìn thấy học sinh đang trưởng thành, lớn lên."
(Gôlôbôlin).
Khoa học giáo dục đã chứng minh, các em học sinh (HS) trong quá trình
hình thành nhân cách luôn luôn chịu tác động bởi ba yếu tố: Gia đình - Nhà
trường - Xã hội. Mỗi yếu tố có chức năng riêng nhưng lại có quan hệ chặt chẽ,
bổ sung hỗ trợ cho nhau. Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) nằm trong yếu tố nhà
trường. Ở gia đình, bố mẹ là người nuôi dưỡng con từ khi còn “trứng nước” nên
bố mẹ là người rất hiểu tính nết, sở thích, sức khỏe... của con mình. Nhưng
không phải bố mẹ nào cũng đủ thời gian, kinh nghiệm, tri thức, phương pháp
dạy con. Chẳng thế mà mà có câu “Dao sắc không gọt được chuôi”. Ở trường,
GVCN là người được giao nhiệm vụ theo dõi, quản lý HS của lớp mình. Do đó

GVCN cũng là người thứ hai sau cha mẹ HS hiểu HS mình nhất. Trong những
năm làm công tác chủ nhiệm, tôi nhận thấy GVCN nào chăm lo tới lớp và có
năng lực tổ chức quản lý lớp thì lớp đó bao giờ cũng ngoan hơn, nề nếp hơn,
chất lượng học tập cũng tốt hơn.
Nhà trường là cái nôi nuôi dưỡng, là một môi trường đào tạo HS thành
những con người có đủ tài năng, trí tuệ và phẩm chất đạo đức để sau này thực sự
là một công dân có ích cho xã hội. Để trực tiếp đào tạo những con người như thế
không ai khác là “kỹ sư tâm hồn” mà ở đây là giáo viên giảng dạy bộ môn và
nhất là GVCN lớp.
Giáo viên là những người không những được đào tạo về kiến thức, về
nghiệp vụ chuyên môn, mà còn được trang bị những kiến thức về công tác chủ
nhiệm nhằm giáo dục HS phát triển một cách toàn diện (đức, trí, thể, mỹ) để trở
thành công dân tốt cho xã hội. Đây là công tác mà bất kì người giáo viên nào có
tâm huyết cũng không thể xem nhẹ được. Tuy nhiên, công tác chủ nhiệm trong
nhà trường hiện nay gặp phải không ít khó khăn trong việc quản lý, giáo dục HS
do HS sa sút về đạo đức, thiếu ý thức trong việc học tập, đặc biệt là những HS
cá biệt, chậm tiến.
Đã là một GVCN, việc đưa lớp tiến lên vừa là trách nhiệm vừa là bổn
phận đối với HS, với nhà trường, đồng thời cũng là khẳng định mình về năng
lực và lương tâm nghề nghiệp. GVCN ai cũng hiểu rõ rằng mỗi tập thể lớp là
nền tảng vững chắc để xây dựng nhà trường vững mạnh, một tập thể tốt chắc
chắn sẽ có những HS tốt, những con người vừa có đủ cả “đức trí” lẫn “tài trí”.
Như vậy, nhiệm vụ của người GVCN có vai trò quan trọng, ảnh hưởng rất lớn
đến việc học tập cũng như rèn luyện nhân cách của HS.
Thực tiễn là như vậy, để đạt được kết quả tốt trong công tác chủ nhiệm,
đòi hỏi giáo viên phải thực sự yêu nghề mến trẻ. Có như thế mới dồn hết công
sức, tâm trí để tìm tòi, nghiên cứu và đưa ra các biện pháp giáo dục thích hợp
3



với HS lớp mình chủ nhiệm. Để từ đó có phương pháp chủ nhiệm có hiệu quả
nhất. Công tác chủ nhiệm của một giáo viên thành công đồng nghĩa với việc
giúp các em hoàn thiện mình hơn biết rèn đức luyện tài, xây dựng được tập thể
lớp vững mạnh, đưa nhà trường ngày càng tiến lên. Vì vậy, để góp phần cùng
với Nhà trường trong công tác giáo dục HS tốt hơn nữa, công tác chủ nhiệm ở
trường phổ thông nói chung và THCS nói riêng cần phải có những biện pháp
phù hợp.
Trong lĩnh vực giáo dục người thầy không chỉ có lòng “yêu nghề mến trẻ”
đem hết nhiệt tình để truyền đạt kiến thức cho HS mà quan trọng hơn nữa là
phải có một biện pháp, làm thế nào để HS có ý thức học tập và đi vào nề nếp
hơn. Muốn HS tiếp thu được tri thức mới, người GVCN phải có biện pháp giúp
các em có ý thức học tập chủ động tiếp thu kiến thức, hăng say thi đua trong học
tập, nhiệt tình trong hoạt động phong trào tập thể. Để làm được điều đó không
phải là việc đơn giản.
Như vậy, công tác chủ nhiệm đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc
giáo dục HS nói chung và HS THCS nói riêng phát triển toàn diện. Qua thực tế
làm công tác chủ nhiệm đã được nhiều năm, tôi xin trình bày “Một số giải pháp
giáo dục học sinh phát triển toàn diện trong công tác chủ nhiệm ở trường
THCS” để chia sẻ cùng các bạn đồng nghiệp.

4


NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo Giáo viên chủ nhiệm lớp là
người thay mặt Hiệu trưởng quản lý và tổ chức học tập, rèn luyện đạt mục tiêu
đào tạo. GVCN vừa đóng vai trò quản lý hành chính Nhà nước, vừa đóng vai trò
người thầy giáo, đồng thời còn đóng vai trò người đại diện cho quyền lợi của tập
thể lớp. Không những thế, GVCN còn là cầu nối giữa lớp với các giáo viên bộ

môn, Ban giám hiệu, Tổ chuyên môn đồng thời là cán bộ mạng lưới tích cực của
các đoàn thể, tổ chức xã hội (Đội thiếu niên, Đoàn thanh niên, …) và Cha mẹ
học sinh. GVCN là người chủ chốt của nhà trường làm công tác giáo dục đạo
đức, lối sống cho HS lớp mình chủ nhiệm.
GVCN có chức năng nhiêm vụ phát hiện, bồi dưỡng và cử đội ngũ cán bộ
lớp và phân công nhiệm vụ nhằm giúp các em tổ chức thực hiện tốt mọi hoạt
động của lớp, của trường. Định hướng, tư vấn và giúp các em tổ chức thực hiện
các mặt hoạt động của lớp. Tổng hợp tình hình, đề xuất các giải pháp để tham
mưu cho Trường về công tác giáo dục, rèn luyện của HS. Nắm chắc tư tưởng,
tinh thần thái độ và kết quả học tập, rèn luyện của HS; phối hợp với gia đình và
đoàn thể để giúp đỡ, cảm hoá HS trong rèn luyện để trở thành người tốt cho xã
hội. Dựa vào tình hình thực tế, vạch kế hoạch giúp lớp tổ chức thực hiện chương
trình đào tạo (học tập, rèn luyện) trong từng tuần, từng tháng, học kỳ và năm
học. Cùng cán bộ lớp theo dõi, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của lớp chủ
nhiệm theo từng tháng, học kỳ và năm học; đồng thời báo cáo kết quả đó với
nhà trường vào cuối mỗi tháng. Ngoài ra, GVCN phải liên hệ với gia đình HS để
phối hợp giáo dục HS khi cần thiết.
GVCN có quyền mời dự họp hoặc là thành viên hội đồng giải quyết các
vấn đề về HS của lớp mình phụ trách. Liên hệ với các giáo viên bộ môn, Tổ
trưởng tổ chuyên môn, Ban giám hiệu nhà trường, Ban đại diện Cha mẹ HS để
phản ánh tình hình giảng dạy của giáo viên, tình hình học tập, rèn luyện của HS
và bảo vệ quyền lợi chính đáng của HS lớp mình phụ trách. Được gọi HS cá biệt
đến nơi làm việc để giáo dục HS và mời phụ huynh HS đến trường để phối hợp
giáo dục khi cần thiết. Giáo viên chủ nhiệm là người chủ chốt của nhà trường
làm công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho HS…
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM Ở TRƯỜNG THCS HIỆN NAY
Trong những năm gần đây, sự phát triển kinh tế - xã hội đã mang lại
không ít những thuận lợi cho công tác chủ nhiệm trong nhà trường:
- Sự quan tâm đầu tư của Đảng, nhà nước cùng với sự hỗ trợ tích cực từ
phía xã hội. Cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục của nhà trường ngày một

khang trang, đầy đủ, đảm bảo cho việc dạy và học.
- Mô hình ít con, kinh tế ngày càng được cải thiện đã tạo thuận lợi cho trẻ
em được quan tâm và chăm sóc tốt hơn.
5


- Bên cạnh đó, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt
là công nghệ thông tin đã hỗ trợ cho giáo viên và phụ huynh trong việc liên lạc,
trao đổi, nắm bắt nhanh những thông tin cần thiết trong việc phối hợp giáo dục
đồng thời hỗ trợ tích cực cho hoạt động dạy của giáo viên trong những giờ lên
lớp và trong những hoạt động tập thể khiến HS thấy hứng thú hơn. Sự phối kết
hợp giữa các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường ngày càng trở nên chặt
chẽ.
- Đại đa số các em ngoan, lễ phép kính trọng thầy cô giáo, đoàn kết với
bạn bè. Nhìn chung các em có tinh thần ham học, được gia đình quan tâm đúng
mức. Các tổ chức Đội trong nhà trường đã phối kết hợp tốt trong việc giáo dục
đạo đức cho HS, cán bộ Đội thật sự năng nổ, nhiệt tình, gương mẫu, có tinh thần
trách nhiệm cao trong công việc. Đôi ngũ cán bộ của lớp có ý thức, tinh thần
trách nhiệm, luôn gương mẫu trong mọi hoạt động, lớp có thức tự quản tốt, là
một tập thể đoàn kết và có hướng phấn đấu tốt.
- Được sự chỉ đạo sâu sắc của Ban giám hiệu nhà trường đã đề ra kế
hoạch cụ thể cho từng tháng trong suốt năm học.
- Sự cộng tác chặc chẽ của các giáo viên bộ môn cùng GVCN quản lý lớp.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi kể trên, công tác chủ nhiệm lớp còn
gặp không ít những khó khăn, thách thức:
- Học sinh lớp 6 thường có những bỡ ngỡ của buổi đầu làm quen của một
cấp học mới - cấp THCS. Các em có bạn bè mới, trường lớp mới và đặc biệt là
tiếp xúc với nhiều thầy cô giáo dạy ở lớp. Chính vì vậy, mọi nề nếp, hoạt động
đối với các em đều mới mẻ, lạ lẫm chưa quen với phương pháp học tập ở cấp II.
Do đó kết quả học tập trong lớp của một số em còn chưa cao, bên cạnh đó còn

có những em hạn chế về nhận thức ở một vài môn học, chấp hành nội quy của
trường chưa thật tốt.
- Hiện nay với sự phát triển kinh tế thị trường và sự bùng nổ của công
nghệ thông tin, mà trong đó phần lớn là vấn đề phổ cập giáo dục dẫn đến sự khó
khăn trong việc học tập tiếp thu kiến thức của chương trình sách giáo khoa.
- Do đặc thù số giờ chủ nhiệm lớp ít nên việc theo dõi hằng ngày để kịp
thời nhắc nhở đến các em còn khó khăn. Để xác định động cơ trong học tập,
người GVCN phải mất nhiều thời gian, công sức.
Mặt khác, nhiều gia đình do quá bận rộn với công việc nên thời gian dành
cho việc giáo dục con cái không nhiều, gần như phó mặc cho nhà trường và xã
hội, thậm chí cung cấp tiền bạc dư thừa không nghĩ đến hậu quả. Nhiều phụ
huynh chỉ gặp gỡ trao đổi với GVCN trong buổi họp phụ huynh còn chủ yếu là
trao đổi qua điện thoại trong những trường hợp cần thiết. Vì thế trẻ thiếu thốn
tình cảm, thiếu sự quan tâm của gia đình, dễ bị kẻ xấu lôi cuốn sa ngã. Một số
em do được chiều chuộng và chăm sóc quá chu đáo nên nảy sinh tính ích kỉ,
ương bướng, khó bảo.
6


Hơn nữa, công tác chủ nhiệm chủ yếu là kiêm nhiệm, thực tế hiện nay
chưa có một khoá đào tạo chính thức nào cho GVCN. Chính vì vậy, không
nhiều GVCN thực sự có năng lực làm chủ nhiệm mà chủ yếu bằng kinh nghiệm
của bản thân, cộng với trao đổi học hỏi trong nhà trường. Bên cạnh đó, số tiết
dành cho GVCN còn quá ít, chỉ bốn tiết trên tuần, chưa tương xứng công sức
giáo viên đầu tư vào công tác chủ nhiệm, dẫn đến nhiều giáo viên chưa hăng say
với công tác chủ nhiệm. Ngoài ra nội dung chương trình giảng dạy còn nặng về
kiến thức thuần tuý, số tiết giành cho giáo dục công dân, giáo dục đạo đức HS
còn quá ít, trong khi xã hội ngày càng phát triển. Hơn nữa ở lứa tuổi này, tâm
sinh lí của các em đang phát triển. Chính vì điều đó các em ngày càng có nhiều
nhu cầu hiểu biết, tìm tòi, bắt chước, thích giao lưu, đua đòi, thích sự khẳng

định mình..., trong khi kiến thức về xã hội, gia đình, sự hiểu biết về pháp luật
còn hạn chế, nên chiều hướng HS hư, lười học, hiện tượng bỏ giờ, trốn tiết, vi
phạm pháp luật, vi phạm đạo đức ngày càng có xu thế gia tăng.
Đó là khó khăn về mặt khách quan gây cản trở cho những người làm công
tác chủ nhiệm lớp. Tuy nhiên, về mặt chủ quan cũng phải nhìn nhận những thiếu
sót về phía đội ngũ GVCN. Một bộ phận giáo viên chưa thật nhiệt tình, một
phần do công việc giảng dạy chiếm nhiều thời gian, hiệu quả công tác chủ
nhiệm ít nhiều bị ảnh hưởng. Một thiếu sót khác là nhiều GVCN tiến hành công
việc khá cảm tính, chưa có phương pháp chủ nhiệm sáng tạo thích hợp. Có
người quá nghiêm khắc, có người quá dễ dãi. Người nghiêm khắc gò ép HS theo
khuôn khổ một cách máy móc. Và như thế, về mặt tâm lí, cả giáo viên và HS
đều như bị áp lực. Người dễ dãi thì lại buông lỏng công tác quản lí, thiếu quan
tâm sâu sát. Thực tế, nhiều khi giữa thầy, cô giáo chủ nhiệm và HS không phải
bao giờ cũng tìm được tiếng nói chung.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM Ở TRƯỜNG TRUNG HOC CƠ SỞ
Để làm tốt công tác tổ chức lớp học, ngoài việc thực hiện đầy đủ, có chất
lượng cao chức năng, nhiệm vụ của công tác chủ nhiệm lớp, GVCN còn phải có
“Nghệ thuật giáo dục” nhất là trong cách ứng xử với HS. Sau đây là một số biện
pháp mà tôi đã vận dụng trong quá trình làm công tác chủ nhiệm lớp và đã đạt
được những thành công nhất định:
1. Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp
Thông thường khi nhận chủ nhiệm một lớp nào đó, GVCN phải xây dựng
kế hoạch chủ nhiệm lớp ngay từ đầu năm học. GVCN cần có kế hoạch công tác
phong phú, toàn diện liên quan đến tất cả các mặt hoạt động của HS trong lớp.
Trên cơ sở nắm được mục tiêu, nhiệm vụ của nhà trường trong năm học, đặc
điểm tình hình lớp, địa phương, cơ sở vật chất của nhà trường,…Dựa vào đấy
GVCN tiến hành xây dựng kế hoạch giáo dục một cách cụ thể. Trong kế hoạch
giáo dục phải xác định rõ ràng mục đích, chỉ tiêu phấn đấu và các biện pháp
chính. Đặc biệt chú trọng chiến lược phối hợp giữa các lực lượng giáo dục để

7


đạt mục đích đề ra. Cần có phương hướng phát triển lớp thực hiện theo một
trình tự hợp lí nhằm đi đến mục đích đã định hướng. Kế hoạch phải phát huy
được mặt mạnh, khắc phục được hạn chế của lớp. Biện pháp thực hiện cần thể
hiện tính phong phú, đa dạng. Tuy nhiên các biện pháp đề ra trong kế hoạch chỉ
là “phần cứng” còn trong quá trình thực hiện cần phải vận dụng, điều chỉnh một
cách linh hoạt các biện pháp giáo dục sao cho phù hợp với tình hình thực tế để
công việc đạt hiệu quả cao.
2. Tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục
Nhà giáo dục Nga K.D Usinski từng nói: “Muốn giáo dục con người về
mọi mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt”. Hay "Đối với người giáo viên,
cần phải có kiến thức, có hiểu biết sư phạm về quy luật xã hội, có khả năng
dùng lời nói để tác động đến tâm hồn HS. Có kỹ năng đặc sắc nhìn nhận con
người và cảm thấy những rung động tinh tế nhất của trái tim con người."
(Xukhomlinxki). Để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, GVCN phải nắm vững tâm
sinh lí, nhu cầu, nguyện vọng, ước mong, khả năng trình độ của HS, nắm vững
hoàn cảnh sống, những tác động của gia đình, mối quan hệ xã hội, bạn bè của
HS,... Tôi đã cố gắng tìm hiểu HS thông qua nhiều biện pháp. Cụ thể như sau:
- Tìm hiểu HS qua các tài liệu liên quan: Xem học bạ, sơ yếu lí lịch, bản
tự nhận xét thông tin cá nhân của HS, nhận xét của GVCN cấp Tiểu học. Đây là
tài liệu đáng tin cậy ban đầu giúp tôi nhận biết và phân loại HS.
- Tìm hiểu HS thông qua quan sát trực tiếp: Quan sát trực tiếp HS hằng
ngày trong các hoạt động trên lớp, ngoài lớp để biết hành vi thái độ HS. Đây là
tài liệu sống, qua đó tôi cố gắng tìm ra những nét cá tính nhất của từng em. Tôi
quan sát lớp chủ nhiệm cả trong giờ ra chơi xem em nào nghịch thái quá, em
nào từ tốn, hiền lành,…Khi trên đường vào dạy lớp khác tôi cũng đi ngang qua
lớp chủ nhiệm để giám sát, nếu thấy những sai phạm của HS thì nhắc nhở kịp
thời.

- Tiến hành những thử nghiệm tìm hiểu HS: Đây là cách làm giúp cho
người GVCN có thể thu được thông tin về một hay nhiều vấn đề cần làm sáng
tỏ. Những thử nghiệm này là những bài tập tình huống đã được xây dựng về một
vấn đề nào đó để HS có dịp bộc lộ mình. Chẳng hạn có thể đưa ra tình huống
hoặc cho HS trả lời nhanh vào phiếu in sẵn một số câu hỏi về vấn đề định tìm
hiểu. Ví dụ: Tìm hiểu về thái độ của HS đối với gia đình, ước mơ, nguyện vọng
của cá nhân, mục đích học của các em, vv… bằng những câu hỏi đơn giản. Kết
quả thử nghiệm sẽ giúp GVCN lớp có thể nắm bắt được thêm những thông tin
mới, bổ sung cho những nhận định của mình về HS đồng thời giúp chúng ta
hiểu các em hơn, để từ đó giáo viên có thể sẻ chia, động viên hoặc điều chỉnh
kịp thời những suy nghĩ lệch lạc của các em.
3. Giáo dục học sinh tính tự giác, thực hiện nội quy của trường, lớp
8


Công việc này ban đầu khá vất vả, GVCN có thể phải thường xuyên đến
lớp vào đầu buổi học, giữa các tiết và cuối buổi học để uốn nắn kịp thời những
hành vi vi phạm nội quy đồng thời dần dần đưa các em vào nếp. Để rèn cho HS
tính tổ chức kỷ luật thì giáo viên phải giúp các em nhận thức đúng vấn đề, trên
cơ sở đó các em sẽ thực hiện một cách tự giác. Có những việc tưởng chừng như
rất nhỏ nhưng hiệu quả lại lớn, chẳng hạn như quy định HS thống nhất sử dụng
một loại giấy kiểm tra, một loại vở viết, vv… cũng tạo cho các em tác phong
học tập tốt hơn.
4. Phát huy khả năng tự quản của học sinh
Trong công tác tổ chức lớp có nhiều việc phải làm, nhưng theo tôi xây
dựng “Vai trò tự quản của HS” là rường cột của vấn đề. Tại sao tôi nói như
vậy? Vì: không có một GVCN suốt ngày ở lớp để quản lý HS. Chỉ có các em
HS với các em HS ở bên nhau thời gian dài nhất. Các em sẽ biết mọi chuyện xảy
ra ở lớp, ở trường... Nếu ta biết phát huy vai trò tự quản của từng HS của từng tổ
trong lớp thì mọi hoạt động của HS sẽ tốt hơn. Quá trình thực hiện vai trò tự

quản chính là quá thi đua tự hoàn thiện chính mình. Phong trào tự quản từ đâu
mà có? Nó được sinh ra từ giáo viên chủ lớp, do GVCN bồi dưỡng giáo dục
điều hành. Cái khó của phong trào tự quản là việc phát hiện nguồn xây dựng đội
ngũ cán bộ lớp, là việc xây dựng tổ chức thi đua, xây dựng nhân tố điển hình
tiên tiến ... Lớp nào có phong trào tự quản tốt thì GVCN của lớp đó bớt vất vả
hơn.
Khi lớp đã có nền nếp rồi, để duy trì được cần phải phát huy khả năng tự
quản của HS, việc này có thể dựa vào ban cán sự lớp và Ban chấp hành Chi đội.
Điều quan trọng là phải chọn được những HS nhiệt tình và có năng lực công tác
vào ban cán sự lớp và Ban chấp hành Chi đội. Song dù có năng lực tốt thế nào
thì các em vẫn đang ở lứa tuổi học trò, do đó GVCN phải giáo dục cho HS ý
thức được đầy đủ vai trò, nhiệm vụ của người cán bộ lớp để các em thực sự có
trách nhiệm và nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với công tác được giao.
Khi xây dựng đội ngũ tự quản cần xuất phát từ đặc điểm, nhiệm vụ từng
năm học và tính chất phát triển của tập thể HS. Nhiều GVCN chỉ căn cứ vào
một số tiêu chuẩn cán bộ lớp như học giỏi, đạo đức tốt, rất ít GVCN dựa vào đặc
điểm của quá trình phát triển của tập thể để xây dựng cấu trúc đội ngũ tự quản.
Nên căn cứ vào ba giai đoạn phát triển của tập thể lớp mà lựa chọn đội ngũ tự
quản. Ví dụ: ở giai đoạn đầu (tập thể mới hình thành) rất cần có một lớp trưởng,
lớp phó kỉ luật biết hi sinh, có uy tín, biết quan tâm đến người khác, gương mẫu,
biết cảm hoá các bạn..., không nhất thiết phải là HS học giỏi nhất lớp. Nhưng
sang giai đoạn hai và ba (khi tập thể đã phát triển) rất cần có “thủ lĩnh” năng
động, sáng tạo, luôn tìm tòi nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động
mọi mặt để cuốn hút các bạn. GVCN nên lấy hoạt động chiều sâu của nội dung
học tập, hoạt động ngoại khoá, văn hoá xã hội làm phương tiện giáo dục tập thể,
rèn luyện năng lực tự quản, thái độ, tình cảm và hành vi của HS (Như: Lớp phó
học tập, lớp phó văn thể mỹ, lớp phó đời sống). Để phát huy vai trò cố vấn,
9



GVCN cần có năng lực dự báo chính xác khả năng của từng HS trong lớp, biết
khơi gợi tiềm năng sáng tạo của các em trong việc đề xuất các nội dung hoạt
động, xây dựng kế hoạch hoạt động toàn diện phù hợp với nhiệm vụ và điều
kiện của mỗi tháng, mỗi học kì của từng năm học. GVCN chỉ là người giúp HS
tự tổ chức các hoạt động đã được kế hoạch hoá. Điều đó không có nghĩa là
GVCN khoán trắng, đứng ngoài hoạt động của tập thể lớp học mà nên cùng hoạt
động, điều chỉnh hoạt động, kịp thời giúp các em tháo gỡ những khó khăn trong
quá trình hoạt động.
Ngoài ra, GVCN cần tạo hứng thú trong công việc, tạo sự đoàn kết nhất
trí cao trong Ban cán sự để làm sao các em cũng phải biết làm việc “hết mình”,
biết phấn đấu vì tập thể và biết tự giác, chủ động điều hành lớp ngay cả khi
không có GVCN. Sử dụng phiếu giao việc cũng là một hình thức tạo cho HS
phát huy tính tự giác, tự quản, tinh thần trách nhiệm trong công việc. Trên cơ sở
được giao việc HS phải tự lập kế hoạch và GVCN cần xét duyệt. Nhìn chung
khi được giao việc và nhất là được Thầy cô tin tưởng, phát huy tính dân chủ và
tự quản các em rất phấn khởi và tất nhiên GVCN phải rút kinh nghiệm, khen chê
kịp thời.
5. Cụ thể hoá các đợt thi đua do Đội phát động
Cụ thể hoá các đợt thi đua do Đội phát động cũng là một biện pháp tích
cực thúc đẩy phong trào đi lên của tập thể lớp. Phong trào thi đua học tập và các
hoạt động khác trong nhà trường được Đội phát động và duy trì thường xuyên
suốt năm học. Trên cơ sở đó, lớp lại đề ra các hình thức thi đua giữa các tổ,
nhóm và các cá nhân. Kết thúc mỗi đợt thi đua lại chọn ra những tập thể (tổ,
nhóm) và các cá nhân xuất sắc để biểu dương khen thưởng. Để tạo hứng thú cho
HS trong việc xây dựng bài học ở trên lớp, GVCN gợi ý các em tính điểm thi
đua cho mỗi lượt phát biểu. Kết quả là nhiều giờ học diễn ra sôi nổi và có chất
lượng, giáo viên dạy thì rất phấn khởi.
6. Giáo dục HS bằng sức mạnh tâm lí
Trong một lớp học bao giờ cũng có HS ngoan, HS nghịch ngợm. Do đó
tìm hiểu nắm vững từng đối tượng HS sẽ giúp GVCN sử dụng vũ khí tâm lí để

giáo dục HS có hiệu quả.
Đối với những HS ngoan, có ý thức thì chỉ cần nhắc nhở chung. Nhưng
đối với những HS có cá tính, có hoàn cảnh khó khăn thì lại phải vừa nghiêm
khắc khi xử lý những sai phạm của các em, vừa phải bằng tình cảm để động
viên, thậm chí phải dỗ dành. Giáo dục những HS chưa ngoan thì điều quan trọng
là phải tạo được mối quan hệ gần gũi, cảm thông giữa thầy và trò. Muốn vậy
GVCN không chỉ đứng ở cương vị người thầy mà phải biết nhập vai, biết lắng
nghe các em nói, tìm hiểu tâm tư của các em, tạo cho các em có cảm giác mình
được chia sẻ, cảm thông, được giúp đỡ thì các em sẽ tự giác sửa chữa khuyết
điểm, tự giác phấn đấu hơn. Có những HS khi mắc khuyết điểm đã nói với bạn
10


bè rằng: Không sợ bị kỷ luật, bị phạt mà chỉ sợ làm ảnh hưởng đến thành tích thi
đua của lớp, sợ làm cô giáo buồn,…
Có em HS đầu năm học hay đi học muộn, trong lớp thường xuyên lười
ghi chép bài, nói chuyện vô tổ chức khiến nhiều giáo viên có cảm giác khó chịu.
Tôi phát hiện HS ấy có vấn đề về tâm lý (mắc chứng bệnh tăng động) nên đã
gặp gỡ phụ huynh của HS trao đổi để gia đình điều trị tâm lý cho con. Được cô
giáo động viên, sẻ chia nên em tiến bộ rất nhanh, chấm dứt hiện tượng đi học
muộn và tham gia rất tích cực vào các hoạt động của lớp. Qua trường hợp cụ thể
vừa nêu, tôi thấy việc sắp xếp thời gian đến thăm gia đình HS (đặc biệt là những
HS chưa ngoan) cũng đem lại nhiều hiệu quả trong công tác chủ nhiệm.
Ngoài ra, để tạo không khí cởi mở trong tập thể lớp và cũng là để giúp
cho mình hiểu HS hơn, tôi thường động viên các em ghi nhật ký lớp. Đôi khi tôi
lại cho HS viết cảm nhận về lớp mình. Có những điều thường ngày có khi khó
nói ra nhưng khi viết cảm nhận hoặc ghi nhật kí các em lại có dịp để giãi bày.
Qua bài viết, những trang nhật ký cô, trò, bạn bè hiểu nhiều về nhau hơn và tập
thể lớp ngày càng thêm gắn bó.
7. Phối hợp các lực lượng giáo dục

- Phối hợp với Ban giám hiệu nhà trường: GVCN là cầu nối giữa hiệu
trưởng với HS, truyền đạt chủ trương chính sách của ngành, nội quy của nhà
trường đến HS không phải bằng mệnh lệnh mà bằng sự thuyết phục cảm hoá,
gương mẫu của bản thân mình. Bên cạnh đó GVCN phát hiện kịp thời các hành
vi xấu của HS, đề nghị nhà trường xét kỷ luật nghiêm khắc nhằm ngăn chặn
hành vi xấu khác có thể xảy ra tiếp.
- Phối hợp với giáo viên bộ môn: Biết lắng nghe những nhận xét của giáo
viên bộ môn, thậm chí là những phê phán cá nhân, tập thể lớp mình sau đó chọn
lọc, phân tích thông tin để phối hợp tác động giáo dục cùng chiều, khắc phục
khó khăn, vướng mắc của HS trong quá trình học tập, đề đạt nguyện vọng của
HS với giáo viên bộ môn để nâng cao chất lượng giáo dục.
- Tăng cường mối quan hệ giữa GVCN và phụ huynh HS: Việc giáo dục
HS trong nhà trường ta là sự kết hợp nhà trường với đoàn thể, địa phương, gia
đình…Trong đó, mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường nhất là đối với
GVCN là hết sức cần thiết. Chính vì vây, công tác chủ nhiệm của một giáo viên
thành công hay không đừng bao giờ quên gia đình HS là yếu tố quan trọng.
Theo tôi việc đến thăm gia đình HS là rất cần thiết. Trước khi đến thăm
phụ huynh HS, giáo viên cần phải phân loại đối tượng HS: Hạnh kiểm tốt, học
tập tốt - hạnh kiểm tốt, học tập trung bình, yếu - hạnh kiểm trung bình, yếu…để
có kế hoạch đi thăm. Tốt nhất là nên đi thăm gia đình những em có hạnh kiểm
chưa tốt trước.

11


Đến với gia đình những em chăm ngoan là nhằm để biết thêm về hoàn
cảnh gia đình, phương pháp học tập, vv…của các em, tiện thể giáo viên báo cho
gia đình biết những ưu điểm về hạnh kiểm, học tập của các em. Thường thường
phụ huynh của đối tượng này sẽ quan tâm đến con cái nhiều hơn khi biết thêm
những thông tin về thành tích của con mình từ GVCN.

Đối với HS hay nghịch, lơ là việc học tập, việc GVCN đến nhà thăm gia
đình là hết sức cần thiết. Vì đa số gia đình của đối tượng HS này là thuộc diện
gia đình hoàn cảnh nên cha mẹ ít có thời gian quản lý, chỉ bảo chuyện học hành
của con cái, có thể nói là họ phó mặc con cái mình cho thầy, cô và nhà trường.
Đến khi được GVCN báo cho biết về tình hình học tập, rèn luyện đạo đức của
con họ mới vỡ lẽ. Có gia đình thực sự khổ tâm khi biết con cái hư hỏng, học tập
sa sút nhưng cũng nhiều gia đình thì “tỉnh bơ” xem như không có chuyện gì,
thậm chí không muốn nghe thông tin từ giáo viên. Nhưng không sao, GVCN
đừng bao giờ nản lòng, cứ đến gặp họ một lần, hai lần…để cùng nhau bàn bạc
về việc giáo dục HS cho đến khi nào có kết quả. Điều cần lưu ý là khi GVCN
trao đổi cùng phụ huynh HS phải có mặt các con.
Gặp phụ huynh HS cá biệt, tôi thấy muốn có tác dụng tốt có thể thực hiện
như sau:
Lần đầu đến thăm gia đình không nên bàn chuyện giáo dục HS mà chủ
yếu là xã giao và lấy thiện cảm từ phụ huynh HS, nếu muốn bàn chuyện giáo
dục các em phải thật bình tĩnh, trao đổi ôn hoà, đừng để phụ huynh có cảm nhận
là mình mắng khéo. Có cách nói làm sao để cho phụ huynh lắng nghe, tiếp thu
thay vì làm cho họ khó chịu.
Theo tôi, việc đến thăm gia đình của các em sẽ giúp cho phụ huynh biết
khá tường tận về con em mình. Từ đó họ chú ý hơn, quan tâm hơn đến việc dạy
bảo các em. Bản thân các em cũng sợ điều này nên cố gắng sửa chữa những sai
sót của mình để thầy cô không đến nhà mình.
Khi HS vi phạm khuyết điểm, việc mời phụ huynh HS đến trường gặp
GVCN để trao đổi là việc rất hy hữu vì làm như vậy mất thời gian của phụ
huynh HS mà chính bản thân giáo viên cũng không biết rõ HS mình có một gia
đình như thế nào. Hơn nữa, có một số phụ huynh khi nhận được lời mời đến
trường để nghe thầy cô trao đổi về con mình họ rất bực mình và thường là khi
về nhà họ trút hết tức giận vào con bằng những trận đòn nhừ tử. Như vậy chẳng
những không đạt kết quả mong muốn mà còn gây ra nhiều hậu quả đáng tiếc,
khó lường.


12


Đến thăm gia đình, cùng trao đổi việc giáo dục HS là việc nên làm thường
xuyên, tuy mất nhiều thời gian của GVCN nhưng sau mỗi lần được GVCN đến
thăm HS thường có tiến bộ.
- Phối hợp một cách hài hòa với cha mẹ HS: Tôi luôn ý thức rằng phụ
huynh HS là người cùng hội, cùng thuyền để cùng tôi chèo chống đưa các con
HS cập bến tương lai một cách bình yên, hạnh phúc. Ngoài ra, khi có chuyện
buồn, vui chúng tôi luôn cùng nhau sẻ chia. Chính vì điều đó mà các bậc cha mẹ
đó rất tin tưởng ở tôi trong công tác giảng dạy, việc chủ nhiệm lớp cũng như
nhiều vấn đề khác trong đời sống của con họ và ngay chính bản thân họ. Chính
vì việc làm dâu trăm họ đó nhiều khi khá mệt nhưng tôi cảm thấy hạnh phúc bởi
mang lại niềm vui cho nhiều người. Cô, trò chúng tôi tích cực tham gia các
phong trào mà trường, hội, đội,… phát động và đều đạt giải cao. Được giải
thưởng chúng tôi tiết kiệm và dồn tiền lại để chi tiêu vào các Ngày của Mẹ,
Ngày của Bố, Ngày sinh nhật của bố - mẹ, vv... Làm được điều đó phụ huynh rất
cảm động, cô - trò chúng tôi cũng khá phấn trấn. Trong các kỳ cuộc cha mẹ HS
cũng rất nhiệt tình tham gia, giúp đỡ. Mỗi buổi họp phụ huynh, tôi cùng cha mẹ
các em thảo luận rồi đưa ra những phương pháp dạy dỗ con - HS sao cho các
em phát triển một cách toàn diện nhất. Đồng thời chỉ ra và phân tích mặt mạnh,
mặt yếu của từng HS rồi trao đổi về vấn đề tâm sinh lý lứa tuổi cũng như những
suy nghĩ, ước mơ khát vọng của HS,… để từ đó phụ huynh hiểu con mình hơn
và có cách dạy bảo con cho phù hợp. Vì thế mỗi buổi họp phụ huynh các phụ
huynh đều đến tham dự đầy đủ (thậm chí có trường hợp cả bố và mẹ, ông của
HS đều đến dự).
Nhìn chung nếu biết kết hợp các lực lượng giáo dục, chắc chắn công tác
chủ nhiệm sẽ đạt hiệu quả cao.
8. Giáo dục đạo đức học sinh thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm.

Giờ sinh hoạt bắt đầu bằng những tóm tắt kết quả học tập và rèn luyện
của cả lớp trong tuần của ban cán sự lớp. Thông qua sổ đầu bài, sổ sao đỏ, các
giáo viên bộ môn,…Từ đó, tôi nhận xét, đánh giá từng HS. Tôi luôn luôn nhắc
nhở và động viên tinh thần các em, tạo động lực giúp cả lớp cố gắng hơn (dù lớp
tôi thường xuyên xếp thứ nhất).
Là HS lớp đầu cấp THCS nên phương pháp học như thế nào cho có hiệu
quả không phải là điều đơn giản vì vậy GVCN phải thật sự gắn bó, quan tâm tới
lớp mới nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý và tình hình học tập của từng em. Từ kết
quả học tập, năng khiếu, tính cách của mỗi HS mà GVCN góp ý với từng HS về
việc lựa chọn cách học cho mình phù hợp.
Tôi luôn dạy các em cách học làm người, cách sống, cách ứng xử với mọi
người. Có những tiết sinh hoạt lớp tôi không nhận xét, đánh giá gì cả mà chỉ kể
cho các em nghe một mẩu chuyện trong sách, báo, internet mà tôi sưu tầm được
để các em tự rút ra bài học cho mình.
13


Cách thức tổ chức các giờ sinh hoạt lớp cũng nên linh hoạt. Giờ sinh hoạt
không nên chỉ kiểm điểm HS, hoặc có kiểm điểm thì cũng không nên máy móc.
Đôi khi có thể biến giờ sinh hoạt thành những cuộc hội thảo, tổ chức các
gameshow theo từng chủ đề của các môn học. Lúc này tôi trở thành ban giám
khảo và học sinh là người tham gia, điều khiển cuộc chơi. Qua gameshow đó
các em hiểu bài, hứng thú với các môn học hơn. Ngoài ra còn tổ chức các cuộc
thi với chủ đề: Chắp cánh ước mơ, Hội thi thơ, Hội thi văn nghệ, Làm thế nào
để sống đẹp mỗi ngày?, Văn minh trong cách tặng quà, Kể chuyện theo sách,
Thi hùng biện về Tuổi trẻ và ước mơ, Mục đích học tập của bạn, Nét đẹp của
người Hà Nội, Theo dòng lịch sử,...Từ các cuộc thi các em mạnh dạn, tự tin khi
đứng trước đám đông, biết đoàn kết sẻ chia, thương yêu bạn, kính trọng giáo
viên, có tinh thần trách nhiệm cao với tập thể và sống đẹp hơn. Cũng từ đó, tôi
đã huấn luyện được khá nhiều HS có khả năng dẫn chương trình tốt, biết sáng

tạo tổ chức các hoạt động hấp dẫn giàu tính nhân văn và có khả năng giao tiếp,
ứng xử tốt. Khi HS vi phạm kỷ luật tôi thay những lời phê bình gay gắt bằng
một câu chuyện ngụ ngôn nào đó có thể có trong sách vở hoặc tôi tự nghĩ ra.
Như vậy không kiểm điểm mà lại hoá ra kiểm điểm những giờ sinh hoạt bớt
căng thẳng mà lại có hiệu quả.
9. Chú trọng việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
- Kĩ năng sống của con người nói chung đó là sự tự ý thức vai trò trách
nhiệm của bản thân mình trong việc ứng xử với mọi người xung quanh và môi
trường tự nhiên trong đó con người đang tồn tại. Từ những ngày học đầu tiên ở
trường Trung học cơ sở, HS đã được bồi dưỡng cả hai mặt đức dục và trí dục.
Sự phát triển của mỗi người nói chung và HS nói riêng được hình thành thông
qua việc tiếp thu tri thức hằng ngày trong cuộc sống như kĩ năng làm việc hợp
tác, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thích nghi, kĩ năng xử lí tình huống, kĩ năng giữ
gìn bảo vệ môi trường,… Những kĩ năng này không chỉ đòi hỏi cho một giai
đoạn nào đó mà nó cần thiết cho cả đời người đặc biệt là chuỗi ngày đi học.
Khẩu hiệu Mỗi ngày đến trường là một ngày vui, Mái trường là ngôi nhà thứ
hai xuất hiện ở lớp tôi cũng vì lẽ đó. Kĩ năng sống được biểu hiện đa dạng tuỳ
từng người, từng sự việc và từng hoàn cảnh cụ thể. Nhưng dù trong trường hợp
nào, đối với ai thì kĩ năng sống nhất thiết phải vươn tới chân lý tốt đẹp: Nhân ái,
vị tha, bản lĩnh tự tin, khiêm tốn, văn minh lịch sự, dám nghĩ dám làm, hoà đồng
và tôn trọng người khác. Thực tiễn ngày nay cho thấy đôi khi kiến thức uyên
bác, học vị cao lại không làm nên sự thành đạt của con người bằng chính kĩ
năng sống của họ. Cuộc sống ngày càng phát triển, đất nước đang hội nhập với
thế giới, cơ hội có được vị trí trong xã hội và khẳng định bản thân của người lao
động đang rộng mở nhưng số lượng người thất nghiệp vẫn không ngừng gia
tăng. Một trong những nguyên nhân quan trọng là do họ chưa được trang bị
những kĩ năng sống cơ bản của một người lao động. Chính vì vậy, kĩ năng sống
cần được rèn luyện ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Trong bốn trụ cột
của giáo dục được Unesco nêu ra là “Học để biết, học để làm việc, học để làm
14



người, học để cùng chung sống” đã có ba nội dung hàm chứa các yêu cầu kĩ
năng sống. Điều này càng khẳng định hơn nữa tầm quan trọng và cần thiết của
nhà trường trong việc giáo dục kĩ năng sống cho HS. Đành rằng hình thành kĩ
năng sống phải qua cả trường học và trường đời nhưng trường học vẫn giữ vị trí
nền móng vì hầu hết mọi người đều được đi học, và nội dung học ở trường phổ
thông gồm nhiều lĩnh vực tự nhiên, xã hội cùng nhiều bài học về lối sống tốt đẹp
của những bậc tiền nhân mà HS cần học tập noi theo.
- Có thể tiến hành giáo dục kĩ năng sống cho HS lớp chủ nhiệm bằng các
hình thức như:
+ Tổ chức các hoạt động tập thể, ngoại khoá để các em được tham gia vào
hoạt động thực tiễn của cuộc sống, tạo cơ hội bộc lộ chân thật những suy nghĩ,
tình cảm, hành vi trong công việc, chia sẻ những khó khăn và niềm vui cũng
như hoàn thiện dần dần các kĩ năng thực hành một cách tự nhiên. Từ đây, tính
ích kỷ cá nhân, ngại khó, vụng về, rụt rè sợ sệt sẽ nhường chỗ cho lòng bao
dung, sự tự tin, dũng cảm, tháo vát, nhanh nhẹn, khéo léo, tinh tế, hoà đồng và
thân thiện. Nội dung hoạt động cũng khá đa dạng như: hội trại, thể thao, văn
nghệ, tham quan; chăm sóc di tích cách mạng, văn hoá lịch sử; trò chơi tập thể,
câu lạc bộ xanh; thi phòng tránh tai nạn giao thông, diễn thuyết tranh luận về
bảo vệ môi trường, quyền trẻ em, xử lý tình huống khẩn cấp,… Có thể tổ chức
theo lớp, khối, toàn trường hoặc từng nhóm nhỏ từ 8-10 em và chú ý xác định rõ
kĩ năng sống cần đạt được cho HS sau mỗi hoạt động. Nên để cho HS viết lại,
nói lại những điều mà các em cảm thấy thú vị và bổ ích nhất.
+ Một hình thức nữa để giáo dục kĩ năng sống cho HS đó là thông qua
hoạt động dạy học trên lớp. Trong mỗi tiết dạy, ngoài yêu cầu về kiến thức thì
yêu cầu về kĩ năng và thái độ luôn được đặt ra và đó cũng chính là yêu cầu về
giáo dục kĩ năng sống. Do vậy, trong các giờ lên lớp tôi đều có sự liên hệ với
thực tế cuộc sống của HS ở cả hai mặt tích cực và hạn chế. Tuỳ theo bài học mà
hình thành những kĩ năng thích hợp cho HS như kĩ năng đặt câu hỏi và trả lời, kĩ

năng trình bày, kĩ năng phân tích tổng hợp, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng xử lý
tình huống, kĩ năng tự học, kĩ năng làm việc hợp tác (còn gọi là hợp tác nhóm
hay hoạt động nhóm)… Trong đó, kĩ năng làm việc hợp tác cần được đặc biệt
quan tâm vì đây là kĩ năng sống mang tính thời đại, nó thể hiện cách làm việc
theo cơ chế phân công hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích của từng thành viên
và cùng nhau phát triển. Qua sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên, HS được chia
thành các nhóm. Mỗi em được phân công đảm trách một công việc của nhóm
(nhóm trưởng, trợ lý, thư ký, theo dõi thời gian, động viên phát biểu, trình bày
trước lớp). Tất cả thành viên trong nhóm được trình bày suy nghĩ của cá nhân
nhưng cũng phải tôn trọng ý kiến người khác và chấp nhận sự thống nhất chung
của nhóm. Mỗi nhóm sẽ cùng nhau thảo luận để giải quyết một nội dung khó
của bài học mà chỉ với mỗi cá nhân có thể không tìm được lời giải đáp.
+ Ở tiết sinh hoạt lớp, giáo viên cần tạo điều kiện để các em tự đánh giá
nhận xét về bản thân và lớp của mình. Các em có thể trình bày ý kiến về những
15


việc làm tốt và chưa tốt; cùng nhau xây dựng nội quy của lớp; thiết kế, đề xuất
các việc làm, hoạt động hằng tuần, hằng tháng và cả năm học.
+ Cả lớp làm cán bộ, chức vụ lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng, nên được
thay đổi theo tháng hoặc học kỳ để nhiều em được làm quen với kỹ năng điều
hành, quản lý công việc đồng thời ngăn ngừa cách sống tự kiêu, độc đoán có thể
xảy ra ngay từ tuổi học đường.
+ Xây dựng các quy tắc ứng xử với môi trường như giữ gìn vệ sinh
trường lớp, bảo vệ môi trường sống, rèn luyện và bảo vệ sức khoẻ, tiết kiệm
năng lượng, phòng chống tai nạn thương tích. Bên cạnh đó, cần chú ý xây dựng
cảnh quan trường lớp với những hình ảnh mang tính giáo dục và thẩm mỹ,
những lời hay ý đẹp như “Bảo vệ môi trường là bảo vệ chính cuộc sống của
chúng ta”, “Mỗi lần giao tiếp là mỗi lần bạn thể hiện mình”, “Thất bại là mẹ
thành công”, “Tuổi trẻ và tương lai đất nước”, ...

+ Ngoài ra, cần tạo cơ hội cho các em được bày tỏ ý kiến, bộc bạch tâm
sự của mình với thầy, cô giáo. Rèn luyện kĩ năng sống cho HS phải thông qua
việc làm cụ thể và sự chủ động cao của các em.
- Cách rèn luyện kỹ năng sống cho HS phải từ dễ đến khó. Chẳng hạn khi
HS mới vào lớp 6, trong mục cùng góp ý trong giờ sinh hoạt, tôi có yêu cầu HS
“Em hãy nói vài ý kiến của mình về những vi phạm của các bạn trong tuần vừa
qua”. Ban đầu, các em còn lo lắng, ái ngại. Nhưng sau vài lần, các em không
còn có những cái nhìn ái ngại mà trở nên dạn dĩ hơn, tự tin với ý kiến của
mình.Cộng thêm một môi trường giáo dục thân thiện hoà đồng, cho phép các em
tiến đến gần và hoà nhập với nhau, sau đó là những điều khác như đóng góp ý
kiến cho tập thể, ý tưởng độc đáo cho các hoạt động của lớp phong phú hơn,
hiệu quả hơn và đặc biệt kỹ năng làm việc nhóm, các em được trang bị lý thuyết
cụ thể, rồi thực hành để hiểu. Với kỹ năng làm việc nhóm, các em được tập làm
việc để biết cách hợp tác và chấp nhận lẫn nhau trong mọi hoàn cảnh. Mục đích
quan trọng nhất là giúp các em tự tin hơn, tự lập hơn trong cuộc sống, đây là
điều rất cần thiết trong cuộc sống của các em sau này.
10. Mối quan hệ tình cảm thân thiện
- Tình cảm yêu thương, tôn trọng, gắn bó, chia sẻ giữa các giáo viên, giữa
giáo viên với HS và giữa các HS với nhau. “Lớp học thân thiện” không chấp
nhận sự xúc phạm về nhân phẩm và danh dự, không chấp nhận sự xúc phạm về
thân thể.
- “Tình cảm thân thiện” luôn đảm bảo sự bình đẳng, dân chủ về mặt pháp
lí và đạo đức, không thể chấp nhận sự trù dập hay thiên vị, sự vu khống hay bao
che.
11. Sự hợp tác thân thiện và tích cực

16


- Hợp tác giữa GVCN với các giáo viên giảng dạy và giáo viên giám thị:

Muốn sự hợp tác có hiệu quả thì các giáo viên phải nắm vững phương pháp và
nghiệp vụ sư phạm, hiểu và thực hiện đúng quy chế, nội qui; trao đổi và thống
nhất cách dạy cách quản lí; thường xuyên nắm bắt thông tin.
- Hợp tác giữa giáo viên với HS: Được thể hiện qua hoạt động dạy và
học, hoạt động ngoài giờ.
+ Trong hoạt động dạy và học:
Giáo viên: Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy, hướng dẫn HS
phương pháp tự học, tạo bầu không khí thân thiện, khuyến khích sự chuyên cần
tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên của HS. Mỗi giáo viên phải là
một tấm gương về tinh thần tự học và sáng tạo, không ngừng trao dồi về năng
lực giảng dạy để luôn xứng đáng là người định hướng tri thức cho HS trong
từng tiết dạy.
HS: Xác định được động cơ và thái độ học tập, phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo trong học tập. Luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ học tập, có đề
xuất sáng kiến và cùng với thầy cô giáo thực hiện các giải pháp để việc dạy học có hiệu quả hơn.
+ Trong hoạt động ngoài giờ:
Thực hiện các chuyên đề, ngoại khóa, hoạt động thể dục thể thao, lao
động, vui chơi, giải trí. Trong đó chú trọng các trò chơi dân gian và việc tìm
hiểu, chăm sóc, phát huy giá trị các di tích lịch sử, văn hóa cách mạng ở địa
phương. Tất cả các hoạt động đều phải có sự tham gia tích cực của giáo viên và
HS theo phương châm: Thầy luôn là người định hướng, là điểm tựa tinh thần, là
trung tâm đoàn kết. Trò là người thực hiện ý tưởng, tham gia hoàn thiện ý tưởng
của thầy và biến ý tưởng của thầy trò thành hiện thực. Hoạt động ngoài giờ là
biện pháp tốt nhất để giáo viên rèn luyện các kĩ năng sống, giáo dục tư tưởng,
tình cảm, đạo đức lối sống cho HS.
- Hợp tác giữa HS với nhau: Cùng nhau học tập, cùng nhau sinh hoạt, vui
chơi, cùng nhau bàn bạc để tìm ra các giải pháp, các sáng kiến, cùng nhau sẻ
chia nỗi buồn, cùng nhau hưởng thụ niềm vui của sự thành công.
12. Tổ chức lớp
Tổ chức lớp có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát huy tính tích cực

của mỗi HS, giúp HS tự tin hơn và dễ hòa nhập hơn với tập thể lớp.
• Bầu ban cán sự lớp:
Việc tổ chức bầu ban cán sự lớp được tiến hành ngay sau lễ khai giảng,
lấy ý kiến từ phía tập thể lớp, sau đó biểu quyết. GVCN nên tổ chức cơ cấu cán
17


bộ lớp càng nhiều càng tốt để khích lệ tinh thần trách nhiệm của các em với tập
thể, đồng thời giúp HS thêm bạo dạn và tự tin trong mọi phương diện.
Ví dụ: Cơ cấu và kết quả bầu ban cán dự lớp 6E (lớp tôi chủ nhiệm) được
trình bày trong bảng 1.
Bảng 1. Danh sách HS và ban cán sự lớp 6E
STT

Họ và tên

Điện thoại

Chức vụ

Phân tổ

1

Ng. Hà Trường An

37581609

Quản lý ghế


Tổ 1

2

Trần Đức Anh

37531935

Lớp trưởng + Khóa cửa lớp

Tổ 1

3

Nguyễn Huy Anh

Tổ trưởng

Tổ 1

4

Vũ Tiến Đạt

37580389

Tổ phó + Quản lý nước

Tổ 2


5

Nguyễn Hương Giang

37537626

LP Văn thể mỹ + Thư ký

Tổ 2

6

Nguyễn Quỳnh Giang

37589294

Lớp phó Kỷ luật

Tổ 1

7

Bùi Hương Giang

0982310406

Trưởng ban TT liên lạc

Tổ 4


8

Dương Quốc Hải

37501315

Tổ phó

Tổ 4

9

Nguyễn Thu Hằng

37502368

Quản lý Cơ sở vật chất

Tổ 4

10

Trần Huy Hoàng

Quản lý điện

Tổ 3

11


Nguyễn Quang Huy

37533929

Trợ lý LP Kỷ luật

Tổ 3

12

Nguyễn Khánh Huyền

37533594

LP học tập 1+ LP đời sống

Tổ 2

13

Hoàng Vi Hường

37532471

Trưởng ban: Bảo vệ, chăm
sóc sức khỏe

Tổ 1

14


Ngô Thùy Linh

37534959

Phó ban Thông tin liên lạc

Tổ 1

15

Phương Nhật Linh

37539606

Theo dõi sĩ số lớp

Tổ 4

16

Đỗ Đức Long

37580400

Lớp phó Lao động

Tổ 2

17


Nguyễn Hoàng Mai

37533907

Tổ trưởng + LP học tập 2

Tổ 2

18

Nguyễn Tài Mạnh

0437583301

Quản lý ghế

Tổ 4

19

Phạm Trà My

366609790

Trợ lý Thư ký

Tổ 1

20


Phạm Dương Hải
Minh

0989145063

Trợ lý Lớp trưởng + QL
ghế.

Tổ 2

21

Mai Đại Nghĩa

Quản lý: Nước, cốc.

Tổ 3

22

Phạm Việt Quân

0437534473

Tổ phó.

Tổ 1

23


Mai Thu Quỳnh

37580121

Trợ lý LP Văn thể mỹ

Tổ 1

24

Tạ Thu Tâm

37501247

Tổ phó + Ghi sổ đầu bài

Tổ 3

25

Đỗ Đức Thịnh

37580400

Tổ trưởng

Tổ 4

26


Nguyễn Mai Trang

QL dụng cụ dạy - học +
trang trí lớp

Tổ 3

27

Lê Minh Tuấn

37534916

Tổ trưởng + Lau bảng

Tổ 3

28

Lê Minh Tú

37534916

Trợ lý LP Lao động

Tổ 2

01282087516


0978684482

32212722

01684046826

18


• Chia tổ:
Việc chia tổ được thực thực hiện sao cho số HS ở mỗi tổ không quá nhiều
hoặc quá ít, các tổ có số HS tương đối giống nhau về số lượng và chất lượng: có
HS yếu, HS khá, HS trung bình và HS ở địa bàn xa, HS ở địa bàn gần, có HS
ngoan, có HS cá biệt…
VD: Lớp tổng số 28 HS, tôi chia làm 4 tổ (bảng 1)
• Bầu lớp trưởng, lớp phó học tập:
- Lấy ý kiến biểu quyết của tổ trên cơ sở gợi ý của GVCN.
- Giao nhiệm vụ cho lớp trưởng và lớp phó.
+ Lớp trưởng: Bao quát công việc chung của lớp, theo dõi tình hình
chung của lớp và tổng hợp các bảng theo dõi hoạt động học tập trong tuần từ các
tổ trưởng để tham mưu với GVCN kịp thời xử lý, giám sát việc thực hiện nhiệm
vụ của các cán sự lớp, kiểm tra cơ sở vật chất của lớp.
+ Lớp phó: Làm thay nhiệm vụ của lớp trưởng khi lớp trưởng vắng; Ghi
lại những bạn thuộc bài, không thuộc bài, không soạn bài, không làm bài tập;
hoặc làm việc riêng sau đó báo cáo cho GVCN vào từng buổi học để kịp thời xử
lí; Thống kê các bạn yếu kém của lớp báo cho GVCN vào đầu tháng; Tổ chức
truy bài 15 phút đầu giờ, học tổ, nhóm theo sự phân công của GVCN.
• Bầu tổ trưởng, tổ phó:
- Lấy ý kiến biểu quyết của tổ trên cơ sở gợi ý của GVCN.
- Giao nhiệm vụ cho tổ trưởng, tổ phó.

+ Tổ trưởng: Điều hành công việc chung, theo dõi, đôn đốc các hoạt động
hằng ngày của tổ về việc thực hiện nội quy, học tập, …
+ Tổ phó: Theo dõi, điều hành công việc thuộc về lao động, vệ sinh môi
trường…
Nhiệm vụ chung của tổ trưởng tổ phó là 15 phút đầu giờ kiểm tra tổ viên
của mình về việc học ở nhà, làm bài tập. Tôi đưa ra những quy định cụ thể để
các em tổ trưởng, tổ phó theo dõi chính xác và công bằng.
VD: Bắt buộc HS phải làm bài tập 100% thầy cô cho về nhà. Nếu làm còn
thiếu phải có lý do chính đáng. Không chấp nhận trường hợp bài khó mà không
chịu làm, HS cần phải suy nghĩ, nếu làm sai 15 phút đầu giờ lớp phó học tập tổ
chức giải đáp, nếu lớp không giải được kiến nghị lên giáo viên bộ môn.
VD: Nhiệm vụ tổ phó: Đến lược tổ mình vệ sinh lớp, tổ phó nhận bàn
giao từ tổ bạn rồi phân công tổ viên trực. Như vậy công việc giao cụ thể, bạn
nào làm chưa tốt cuối tuần lớp phó nắm tình hình, báo cáo GVCN để GVCN dễ
dàng xử lý (kể cả việc mất dụng cụ như chổi, đồ đựng rác, khăn lau bảng,…).
19


• Giáo viên hướng dẫn lớp trưởng, lớp phó và các tổ trưởng làm bảng
điểm xếp loại hạnh kiểm của tổ như sau (bảng 2):
Bảng 2. Biểu điểm theo dõi và tự xếp loại hạnh kiểm HS lớp 6E
T
T

Danh mục

Nội dung

Điểm trừ


Điểm

1

Học tập

Thiếu sách vở, thiếu đồ dùng học tập phải mượn
bạn gây mất trật tự, không chép bài, không làm
bài tập.

20 điểm

20

2

Kỷ luật
giờ học

Mất trật tự, nói leo, nói để làm việc riêng trong
giờ học

10 điểm
/lần

10

3
4
5

6
7

8

Trực nhật bẩn, không trực nhật cùng bạn trong tổ, 10 điểm
vứt rác bừa bãi, chỗ ngồi có rác
/lỗi
Đi muộn, nghỉ học không phép, bỏ tiết, vắng chào
5 điểm
Giờ giấc
cờ, không ôn bài trước khi vào học.
/tr.hợp
10 điểm
Tác phong
Không đeo khăn quàng đỏ
/lỗi
10 điểm
Trang phục
Ăn mặc không đúng đồng phục HS
/lỗi
Ngôn phong Nói tục, chửi thề, nói bậy, gây mất đoàn kết, quay
5 điểm /lỗi
và quy chế
cóp bài hoặc bị nhắc nhở trong giờ kiểm tra.
học tập
Bị đánh dấu bài, bị ghi vào sổ đầu bài vì ý thức
5 điểm/lỗi
kém.
Leo rào, vặt lá. Bẻ cành cây trong nhà trường,

Bảo vệ cơ
viết, vẽ bậy lên bàn ghế, tường, giẫm chân lên bàn 10điểm/lỗi
sở vật chất
ghế, ngồi lên bàn, làm hỏng CSVC.
Vệ sinh

10
20
10
10

10

Ghi chú: 1. Không trực nhật, không đi lao động, xả rác trong lớp học bị hạ 1
bậc HK.
2. Quay cóp và làm mất trật tự trong kiểm tra hạ 1 bậc HK.
Xếp loại: Loại tốt: 95 điểm trở lên;
Loại Khá: 70 điểm - 94 điểm;
Loại TB: 50 điểm - 69 điểm;
Dưới 50 điểm kỷ luật từ mức cảnh cáo trở lên xếp loại yếu.
13. Phát động phong trào học tập, hoạt động của lớp
- Phối hợp với phụ huynh của lớp chủ nhiệm, hỗ trợ khoản đóng góp để
khuyến khích tinh thần học tập của các em. Vào các ngày lễ lớn cha mẹ HS luôn
đồng hành cùng tôi chuẩn bị chu đáo cho các con tham gia.
- Sau đó chi hội phụ huynh HS của lớp, sử dụng khoản đóng góp đó mua
quà khen thưởng cho HS có ý thức vươn lên trong học tập cũng như việc tu
20


dưỡng đạo đức trong từng tháng học và từng học kì. Ngoài ra còn khuyến khích

những học sinh tích cực tham gia các hoạt động phong trào.
- Phát động phong trào Đôi bạn cùng tiến.
- Phát động phong trào Hoa điểm tốt.
- Phát động phong trào Khéo tay hay làm.
- Phát động phong trào Mỗi ngày đến trường là một ngày vui.

14. Những yếu tố của giáo viên chủ nhiệm lớp
"Nhân cách của người thầy là sức mạnh có ảnh hưởng to lớn đối với HS,
sức mạnh đó không thể thay thế bằng bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào, bất kỳ
câu chuyện châm ngôn đạo đức, bất kỳ một hệ thống khen thưởng hay trách phạt
nào khác." (Usinxki)
• Tố chất để làm nên một GVCN lớp tốt
Vì GVCN là cán bộ quản lý lớp cho nên người dạy giỏi và người chủ
nhiệm giỏi không nhất thiết là một. Có đồng thuận, có lệch pha trong thực tế là
bình thường. Tố chất quan trọng của GVCN là tố chất của một con người hành
động. Chủ nhiệm lớp phải nghiêm túc và cần một bộ óc kế hoạch hoá, lớp học là
con người phải giáo hoá do đó không thể có một chương trình cài đặt sẵn. Phải
lao vào làm. Thấy đúng thì tổng kết và áp dụng tiếp, thấy sai phải điều chỉnh kế
hoạch kịp thời hoặc huỷ bỏ theo quy trình: xây dựng kế hoạch - thực hiện kế
hoạch - kiểm tra kế hoạch - tổng kết và vạch kế hoạch mới. Rất cần ở chủ nhiệm
lớp các phẩm chất nhiệt tình, sâu sát, cần cù trí nhớ tốt, quan sát tinh, tâm lí giỏi,
có khả năng xây dựng đội ngũ cán bộ HS. GVCN phải vừa là thầy vừa là bạn
của học trò.
• GVCN lớp là tấm gương sáng cho HS noi theo
Giáo viên không phải là người nhồi nhét kiến thức mà đó là công việc của
người khơi dậy ngọn lửa cho tâm hồn. Trong lớp học, GVCN là người để các
em noi theo. Cách hành động, suy nghĩ, cư xử của GV sẽ ảnh hưởng rất nhiều về
quan niệm của HS và phụ huynh về GV. Bản thân tôi vừa là GVCN đồng thời là
GVBM Ngữ văn. Vì vậy, khi đến trường hoặc lên lớp, tôi đều có những tác
phong làm gương cho HS.

Soạn bài trước khi đến lớp. Theo tôi, chỉ khi nào thầy cô cảm thấy hứng
thú với bài dạy thì sự hứng thú đó mới lây truyền sang HS. Sự hứng thú này đi
đôi với sự soạn bài trước và có một chương trình trước cho những gì phải làm
trong giờ học thay vì một thái độ "tùy cơ ứng biến". GV cần chuẩn bị đầy đủ tài
liệu, đồ dùng dạy học trước khi dạy. Người dạy càng tận tâm thì các em càng cố
gắng học.

21


Biết lắng nghe HS nói. Mỗi khi các em phát biểu ý kiến hay nói một điều
gì, giáo viên dù bận rộn cũng phải lắng nghe các em nói. Có như vậy khi mình
nói các em mới chú ý nghe trở lại.
Bên cạnh đó, GVCN biết thông cảm và chia sẻ những khó khăn của các
em. Trả lời những câu hỏi của các em một cách thấu đáo (nếu chưa có câu trả
lời, hứa sẽ tìm câu trả lời chính xác). Cho các em biết là các em có thể điện
thoại cho giáo viên để nói chuyện hay hỏi bài vở (cách làm bài, giải thích từ
khó, cách trả lời...). Hỏi các em về những khó khăn trong đời sống, những khó
khăn ở trường... giúp các em giải quyết những khó khăn này. Trong lớp học hay
ngoài lớp học, giáo viên còn phải đóng vai người anh, người chị, người cha
người mẹ, người bạn lớn tuổi mà các em có thể tin tưởng, nhờ cậy được. Qua
đó, các em sẽ biết sống nhẫn nại, kiên trì và giàu lòng nhân ái.
Trong lĩnh vực giáo dục người thầy không chỉ có lòng “yêu nghề mến trẻ”
đem hết nhiệt tình để truyền đạt kiến thức cho HS mà quan trọng hơn nữa là
phải có một biện pháp làm thế nào để HS có ý thức học tập và đi vào nề nếp
hơn. Muốn HS tiếp thu được tri thức mới, người GVCN phải có giải pháp giúp
các em có ý thức học tập chủ động tiếp thu kiến thức, hăng say thi đua trong học
tập, nhiệt tình trong hoạt động phong trào tập thể.
Tuy nhiên, để công tác giáo dục đạt hiệu quả thì việc trước tiên là người
giáo viên là cần phải có chữ “ UY” đối với HS, trong đó chữ “UY”của GVCN

thì cần hơn. Chữ “UY” ở đây là uy tín, là lòng kính trọng tin yêu, là lòng khâm
phục, lòng ngưỡng mộ của trò đối với thầy... Thầy có chữ “UY’’ thì thầy bảo,
thầy nói, thầy dạy trò mới vâng theo. Theo tôi, chữ “UY” được hình thành từ cái
nhỏ nhất. Đó là lời nói, việc làm, hành động; là trang phục, tư thế tác phong,
cách thức cư xử... và sự hấp dẫn trong từng tiết học của giáo viên. Bên cạnh chữ
“UY” thì phải nói tới chữ “TÂM” của GVCN. Chữ “TÂM” được hiểu ở đây là
lòng thương yêu trẻ đích thực, là lòng tâm huyết với công việc của mình. Người
GVCN cần phải quản lý lớp, giáo dục HS bằng tình yêu thương. Kinh nghiệm
của bản thân tôi: HS yêu quí thầy, cô giáo nào thì thích học, luôn vâng lời thầy,
cô giáo ấy. Để làm được điều đó không phải là việc đơn giản.

22


III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
- Đa số HS của lớp tôi chủ nhiệm có ý thức kỷ luật cao, tương thân tương
ái, có trách nhiệm cao với công việc được giao, có kỹ năng sống. Biết
phê bình và tự phê bình,…
- Kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên bộ môn và gia đình, thông tin chính
xác, kịp thời.
- Các em tự rèn luyện cho mình ý thức giữ gìn lớp sạch đẹp, thân thiện.
- HS có ý thức, tích cực tham gia xây dựng phong trào thi đua học tập tốt.
- HS tuân thủ nghiêm túc những nội quy của trường, lớp.
- Hăng hái tham gia các phong trào của hội, Đội.
Từ những kinh nghiệm của bản thân cùng với sự cố gắng tìm tòi học hỏi
những kinh nghiệm quí báu của đồng nghiệp nên trong năm học này, lớp 6E tôi
chủ nhiệm đã đạt kết quả đáng khích lệ như sau:
- Học lực:
Kết quả khảo sát đầu năm
+ Giỏi: 12 HS, chiếm 42.9%.

+ Khá: 14 HS, chiếm 50.0%.
+ Yếu: 2 HS, chiếm 7.1%
Không có HS Kém

Kết quả khảo sát học kỳ I
+ Giỏi: 20 HS, chiếm 71.4%.
+ Khá: 8 HS, chiếm 28.6%.
Không có HS Yếu, Kém

- Hạnh kiểm: Kết quả xếp loại hạnh kiểm học kỳ I
+ Tốt: 28 HS, chiếm 100%.
Không có hạnh kiểm khá, trung bình.
Như vậy, sau khi thực hiện những biện pháp trên với lớp 6E, chỉ qua một
học kì I năm học 2011 - 2012 nhưng lớp đã đạt được nhiều kết quả khả quan.
Việc phân công nhiệm vụ rõ ràng cho từng HS trong Ban cán sự lớp đã
đem lại hiệu quả trong việc quản lí nề nếp và chất lượng học tập. Các em thực
hiện nhiệm vụ đầy đủ với tinh thần trách nhiệm cao. Có những trường hợp
GVCN không cần có mặt nhưng các em vẫn quản lí lớp tốt. Đây là một trong
những nhân tố quyết định thành tích đạt được của lớp 6E.
Cùng với việc duy trì nề nếp sinh hoạt 15 phút đầu giờ đã giúp HS chủ
động trong học tập.
GVCN đã thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm trong việc phối hợp với các
tổ chức, đoàn thể trong và ngoài nhà trường có hiệu quả về công tác giáo dục
đạo đức cho HS.
Theo thời gian, những bài học về đạo đức, nhân cách trong tiết sinh hoạt
lớp giúp HS luôn nhớ, vững bước hơn trước những khó khăn trong cuộc sống.
23


Trong học kì này, lớp 6E đạt được những thành tích như sau:

- Giải nhất văn nghệ.
- Giải nhất thể thao trong hội thi Hội khỏe phù đổng.
- Giải nhất kỳ thi Olympic Tiếng Anh qua mạng.
- Giải nhất cuộc thi Nét đẹp văn minh, thanh lịch của HS thủ đô.
- Giải nhì báo tường chào mừng ngày 20-11.
- Đạt giải nhất kỳ thi Kể chuyện theo sách
- Lớp đạt tập thể HS Tiên tiến xuất sắc.
- Lớp 6E là một trong những chi đội vững mạnh của trường.
Tôi đã xây dựng được một tập thể lớp trong đó các em đều chăm ngoan,
có ý thức tu dưỡng rèn luyện và học tập tốt. Qua đó bản thân tôi đã có được sự
tin yêu, quý mến của các em, có được uy tín và tín nhiệm của nhà trường và các
bậc phụ huynh HS.
Để có được kết quả như trên là do sự nỗ lực phấn đấu của bản thân, sự
quan tâm giúp đỡ và chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường, sự học hỏi
kinh nghiệm của các bạn bè đồng nghiệp, sự tin yêu kính trọng của HS lớp chủ
nhiệm đã là nguồn động viên kịp thời tạo điều kiện để tôi hoàn thành tốt công
tác chủ nhiệm lớp.

24


KẾT LUẬN
I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
- Nhìn chung giải pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm thì nhiều, tuỳ theo
đặc điểm tình hình của mỗi lớp, GVCN có thể tìm cho mình những biện pháp
thích hợp, không nên áp dụng rập khuôn máy móc bất kỳ một phương pháp tiên
tiến nào bởi lẽ sản phẩm đây chính là con người. Tuy nhiên điều cơ bản nhất là
GVCN phải tạo được uy tín với HS và đồng nghiệp về năng lực chuyên môn và
tư cách đạo đức, tác phong công việc. Chỉ có thể trở thành GVCN tốt khi thực
sự là một tấm gương mẫu mực trong cuộc sống, giải quyết tốt các mối quan hệ

không chỉ đối với HS lớp chủ nhiệm mà còn với gia đình, đồng nghiệp, với mọi
người ở nơi cư trú. Có thể thấy mọi cử chỉ, cách ăn mặc, nói năng, đi đứng, thái
độ biểu hiện của GVCN đối với mọi hiện tượng xã hội lúc có mặt HS hay không
có mặt HS đều có ảnh hưởng đến nhân cách HS lớp chủ nhiệm. Chính vì vậy, để
làm tốt công tác chủ nhiệm, GVCN trước hết phải đề ra kế hoạch tự hoàn thiện
bản thân về mọi mặt:
+ Bồi đắp lòng yêu nghề, tận tuỵ với công việc.
+ Nâng cao không ngừng trình độ học vấn, văn hoá chung, trình độ
chuyên môn, rèn luyện đạo đức tác phong.
+ Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm lí luận sư phạm, mẫu mực trong
giao tiếp xã hội, đồng nghiệp, thầy trò, thực sự là Tấm gương sáng cho HS noi
theo.
- Giải pháp cần, nhưng cái cần hơn cả vẫn là tấm lòng, là sự nhiệt tình,
trách nhiệm và tình thương yêu học trò. Nếu chúng ta làm việc với cái tâm của
người thầy, công tác chủ nhiệm chắc chắn sẽ gặt hái được nhiều thành công.
- Công tác chủ nhiệm nhiều vất vả, khó khăn nhưng cũng nhiều niềm vui,
ai yêu nghề cũng sẽ thành công trong công tác chủ nhiệm.
Từ khi bước vào nghề tôi đã luôn tâm niệm với hai mươi điều mà người
giáo viên cần biết:
1. Hãy vui cùng những thành tích nhỏ bé của học trò và hãy chia sẻ những
thất bại của chúng.
2. Bạn là người rất gần gũi với học trò, hãy cố gắng để chúng luôn cởi mở
với bạn. Hãy vừa là bạn vừa là thầy của chúng.
3. Đừng ngại thừa nhận với học trò là mình không biết về một vấn đề nào
đó. Hãy cùng chúng tìm câu trả lời.
4. Hãy cố gắng khơi dậy sự tự tin trong mỗi em HS. Khi đó chúng sẽ đạt
tới nhiều đỉnh cao trong học tập.
25



×