Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN hướng dẫn học sinh vận dụng định luật bảo toàn khối lượng để giải nhanh một số bài tập hóa học ở THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.08 KB, 16 trang )

PHÒNG GD VÀ ĐT HUYỆN KRÔNG ANA
SÁNG
KINH
NGHIỆM
HọKIẾN
vàTRƯỜNG
tên: Ngô
Thị Mai
LanTRẤP
THCS
BUÔN
thángTHCS
03/2015Buôn Trấp
Đơn vị côngKrông
tác: Ana,
Trường
ĐỀ tạo:
TÀI:
Trình độ đào
Đại học sư phạm
HƯỚNG
DẪN
SINH
Môn
đào HỌC
tạo: Hóa
học VẬN DỤNG

ĐỊNH LUẬT BẢO TOÀN KHỐI LƯỢNG
ĐỂ GIẢI NHANH MỘT SỐ BÀI TẬP
HÓA HỌC Ở TRUNG HỌC CƠ SỞ



1


MỤC LỤC:
Mục

STT trang

I. Phần mở đầu

03

II. Phần nội dung

04

1. Cơ sở lí luận

04

2. Thực trạng

05

3. Giải pháp, biện pháp

7,8

a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp


9,10

b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp

11,12

c. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp

13

d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp

14

e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu

15

4. Kết quả

16

III. Phần kết luận, kiến nghị

16

1. Kết luận

16


2. Kiến nghị

17

2


I.
1.

PHẦN MỞ ĐẦU
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Môn hóa học trong trường THCS có vai trò quan trọng trong việc hình thành và
phát triển trí dục của học sinh. Ở chương trình THCS đến lớp 8 học sinh mới bắt
đầu làm quen với môn hóa học. Mặc dù mới học môn hóa học nhưng thực tế
không dễ tí nào, học sinh phải tiếp thu hàng loạt các khái niệm trừu tượng như
nguyên tử, nguyên tố, phân tử, một số định luật…Giáo viên thường nghĩ môn hóa
học 8 dễ, kiến thức lý thuyết nhiều, các dạng bài tập còn ít nhưng thực tế những
kiến thức, khái niệm ở lớp 8 là nền tảng để hình thành, phát triển hóa học 9, 10…
nếu giáo viên không chú ý hình thành tốt các khái niệm cho học sinh, học sinh rất
dễ nhầm lẫn những kiến thức trên không phân biệt rõ ràng giữa các khái niệm dễ
dẫn đến không hiểu bài dễ bị hổng kiến thức, chán học.
Nhưng khi học sinh tiếp thu kiến thức mà ít vận dụng thì học sinh lại hay dễ quên
đến khi lên lớp trên việc vận dụng kiến thức giải bài tập theo cách nhanh nhất thì
học sinh vận dụng không được linh hoạt, hoặc giáo viên lại phải nhắc lại những
kiến thức đã học để học sinh nhớ và biết vận dụng nên mất thời gian.
Ở lớp 8 khi học xong định luật bảo toàn khối lượng học sinh làm một vài ví dụ
đơn giản là tìm khối lượng của 1 chất trong phản ứng có n chất khi biết khối lượng

của (n-1) chất trong phản ứng và sau đó hầu như không nhắc gì đến định luật này
mặc dù từ phần tính theo phương trình hoá học trở đi có nhiều bài toán có thể áp
dụng định luật này nhưng cả giáo viên và học sinh chủ yếu sử dụng cách làm
thông thường như sách giáo khoa hướng dẫn mà quên mất cách kết hợp định luật
bảo toàn khối lượng.
Do đó để học sinh biết vận dụng định luật bảo toàn khối lượng nhanh nhẹn, linh
hoạt để giải các bài tập hoặc biết vận dụng nhiều kiến thức để giải một bài toán
nhưng không dài dòng, rườm rà, không mất thời gian nên tôi chọn đề tài "Hướng
dẫn học sinh vận dụng định luật bảo toàn khối lượng để giải nhanh một số
bài tập hoá học ở trung học cơ sở"
Với mong muốn các em thấy các bài toán hoá học luôn đáng yêu, gần gũi thông
qua kết hợp định luật bảo toàn khối lượng vào giải toán từ đó các em sẽ thấy hoá
học là môn học lý thú, không khô khan và sẽ yêu thích môn hoá học hơn nữa.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Đề tài nghiên cứu nhằm giúp học sinh biết vận dụng nhanh định luật bảo toàn
khối lượng vào giải quyết các bài tập hóa học ở trường trung học cơ sở từ đó đưa ra một
số kinh nghiệm giúp học sinh phân dạng bài toán, nắm bắt được cách giải của dạng, thấy
nhanh cách vận dụng được định luật bảo toàn khối lượng vào bài toán một cách hiệu
quả, dễ hiểu nhất.
Đưa ra những kinh nghiệm giúp giáo viên trong một số tiết dạy Hóa học có định
hướng cho học sinh ôn lại nội dung của định luật, cách vận dụng định luật, cách nhận
biết bài toán có thể giải bằng định luật này.
3


Đề tài cũng góp phần giáo dục toàn diện cho HS. Ngoài mục tiêu giúp HS học
các môn tự nhiên ngày càng tốt lên, còn giúp rèn luyện cho HS nhiều kĩ năng quý báu
như kĩ năng nhận dạng bài toán, kĩ năng tổng hợp, nhận xét, góp phần giáo dục cho HS
những đức tính kiên trì, sự cẩn trọng, sự tập trung, tỉ mỉ, chính xác, có cái nhìn toàn diện
hơn về hệ thống kiến thức trong nhà trường phổ thông.

3. Đối tượng nghiên cứu
- Là học sinh khối 8, 9 trường THCS Buôn Trấp qua các năm từ 2011 đến 2014.
- Chúng tôi còn nghiên cứu dựa trên thực tế dạy học, kết quả dạy học của
các giáo viên dạy Hóa học trong trường qua các năm học gần đây.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Học sinh khối 8, 9 trường THCS Buôn Trấp qua các năm 2012 đến 2014. Chú ý
kết quả năm học gần nhất. Cụ thể năm 2014- 2015
Số lớp: Khối 9: 8 lớp; Khối 8: 7 lớp.
Số lượng HS:
- Số liệu từ kết quả dạy học của 4 GV dạy Hóa học trong trường.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu các văn bản chỉ đạo, thông tin về
các phương pháp dạy học tích cực.
- Phương pháp xử lý số liệu: phân tích kết quả các điểm kiểm tra thường xuyên,
kiểm tra định kì, so sánh tỉ lệ HS giải được các BT tính toán trước và sau khi áp dụng đề
tài.
- Phương pháp nghiên cứu thông qua trải nghiệm thực tế: Lấy thông tin từ các
GV trực tiếp giảng dạy.
- Phương pháp điều tra: Thông qua các phiếu thăm dò ý kiến học sinh.
II. Phần nội dung
1. Cơ sở lí luận
- Quan điểm chỉ đạo của Đảng về đổi mới, phát triển ngành giáo dục và đào tạo
nêu rõ:
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và
của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các
chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển
toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực
tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.

- Trong hệ thống các môn học ở trường THCS, môn hoá học giữ một vai trò quan
trọng trong việc hình thành và phát triển tư duy của học sinh. Mục đích của môn học là
giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho học sinh những tri thức,
những hiểu biết về thế giới, con người thông qua các bài học, giờ thực hành... . Khi học
4


tập môn hóa học HS sẽ hiểu, giải thích được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở cấu
tạo nguyên tử, phân tử, sự chuyển hóa quy lại giữa các chất hay các phản ứng hoá học...
Đồng thời cung cấp kiến thức làm nền tảng, cơ sở phát huy tính sáng tạo ra những ứng
dụng phục vụ trong đời sống của con người. Hóa học góp phần giải tỏa, xóa bỏ những
hiểu biết sai lệch làm hại đến đời sống, tinh thần của con người...
- Để đạt được mục đích của học hoá học trong trường phổ thông thì giáo viên dạy
hóa học là nhân tố tham gia quyết định chất lượng. Do vậy, ngoài những hiểu biết về hoá
học, người giáo viên dạy hoá học còn phải có phương pháp dạy học thu hút, gây hứng
thú khi lĩnh hội kiến thức, làm cho HS thấy dễ hiểu, áp dụng làm được bài tập,... Do đó
GV phải giúp HS giải quyết tốt các dạng bài tập tính toán, trước khi giải quyết thì phải
phân dạng được bài tập, có cách giải phù hợp với dạng toán, tuy nhiên trong chuyên đề
này chúng tôi chỉ đưa ra vấn đề một dạng về áp dụng định luật bảo toàn khối lượng để

giải nhanh một số bài tập hoá học ở trung học cơ sở.
2. Thực trạng
a. Thuận lợi, khó khăn
- Thuận lợi:
Các bài kiểm tra định kì, học kì của bộ môn Hóa học được nhà trường, các học
sinh lưu giữ tương đối đầy đủ, đáp ứng được yêu cầu phân tích, minh chứng.
Các giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn khác đã tạo điều kiện để công việc
điều tra, thu thập số liệu, đối chứng hiệu quả khi áp dụng đề tài.
Các giáo viên giảng dạy bộ môn Hóa học ở trường THCS Buôn Trấp đều thực sự
có trách nhiệm, hứng thú cùng hỗ trợ cung cấp cho chúng tôi tư liệu, số liệu, tình hình

thực tế liên quan đến đề tài nghiên cứu. Các GV đã tạo điều kiện để kiểm nghiệm, đối
chứng qua các tiết dạy, các bài kiểm tra 15 phút tại lớp mình dạy.
- Khó khăn:
Trong số những học sinh học yếu môn Hóa có một tỷ lệ đáng kể các em lại lười
học, chưa ngoan. Do vậy gây trở ngại cho việc thực hiện đề tài. Một số học sinh không
quan tâm nhiều đến mục đích của vấn đề mà GV áp dụng, về nhà thì không chịu tự ôn
tập, thực hiện yêu cầu của GV, và cuối cùng, kết quả nghiên cứu đối với số HS này là
không có giá trị để kết luận.
Khi áp dụng đề tài, một trở ngại không nhỏ là số tiết luyện tập chưa nhiều, học
sinh học 2 buổi thì không được học thêm môn hóa học nên việc ôn tập, đinh hướng phân
loại các dạng toán cho học sinh chưa được thường xuyên, đầy đủ. Thực tế trong đội ngũ
các GV giảng dạy môn Hóa học ở trường THCS, vẫn còn 1 số ít GV chưa thật sự nhiệt
tình để khắc phục khó khăn giúp học sinh nắm bắt được nhiều cách giải bài toán để học
sinh thấy rõ tác dụng khi vận dụng định luật bảo toàn khối lượng.
b. Thành công, hạn chế
- Thành công: Đề tài đã chỉ rõ: nếu GV dạy Hóa học chịu khó đưa ra được bài
toán có nhiều cách giải thường xuyên thì học sinh chắc chắn phân loại bài toán nhanh
hơn, biết vận dụng định luật một cách hiệu quả thì mang lại hiệu quả dạy học cao hơn.
Cụ thể là nhiều HS làm được nhiều các dạng BT thì biết cách giải và biết cách giải
5


nhanh, ngắn gọn, dễ hiểu từ đó góp phần nâng cao chất lượng đại trà (thể hiện ở điểm
kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì cao hơn)
- Hạn chế: Quy mô thực hiện, nghiên cứu đang chỉ giới hạn ở trường THCS Buôn
Trấp, huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk – nơi có điều kiện thuận lợi hơn các trường trong
huyện. Do đó đề tài chưa tìm hiểu hiệu quả thu được khi áp dụng ở các môi trường giáo
dục khác.
c. Mặt mạnh, mặt yếu
- Mặt mạnh: Nội dung, giải pháp, biện pháp thực hiện đề tài tương đối thiết thực,

thường gặp, dễ vận dụng trong thực tế giảng dạy Hóa học. Mỗi GV đều ít nhiều áp dụng
được vào công việc của mình..
- Mặt yếu: Mới chỉ nghiên cứu cụ thể ở một dạng toán là vận dụng định luật bảo
toàn khối lượng nên nội dung chưa được phong phú, chưa mở rộng kiến thức ở nhiều
dạng khác.
d. Nguyên nhân, các yếu tố tác động:
- Những thành công mà đề tài thu được là nhờ những nội dung của biện pháp thực
hiện được chúng tôi nung nấu, đặt nền móng từ lâu. Từ đó đến nay, chúng tôi đã dần dần
trao đổi, triển khai đến các GV dạy Hóa học trong nhà trường trong các cuộc sinh hoạt
chuyên môn của tổ. Mỗi GV đều nhất trí thực hiện những nội dung đã thống nhất chung.
Cuối mỗi học kì, năm học chúng tôi tổng hợp để rút ra nhiều nhận xét, đánh giá, đồng
thời điều chỉnh một số nội dung chưa phù hợp. Nói tóm lại, những số liệu trong đề tài là
số liệu thực, có thể tin tưởng, những vấn đề đưa ra và được giải quyết, những kết luận
có trong đề tài là kết quả của 1 quá trình nghiên cứu với khoảng thời gian đảm bảo.
- Đề tài vẫn còn một vài hạn chế nhất định bởi cái nhìn của người nghiên cứu
chưa thể toàn diện, trong quá trình thực hiện có những phát sinh không theo hướng
mong đợi. Những nguyên nhân khách quan như áp lực công việc nặng nề, đối tượng HS
chưa thật hợp tác cũng tạo ra những tồn tại nêu trên.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra:
Thứ nhất, thực trạng về chất lượng học tập bộ môn Hóa học trong nhà trường nói
riêng: Số lượng HS điểm yếu, kém môn Hóa học (các bài kiểm tra định kì, học kì, điểm
trung bình môn) còn không ít, có lớp tỉ lệ này là trên dưới 15%. Ý thức học tập của một
số em còn nhiều vấn đề phải quan tâm: lười học bài cả trên lớp lẫn ở nhà, ít khi làm bài
tập về nhà, các em này yếu cả các môn tự nhiên khác như toán, lý,..

Ở lớp 8 khi học xong định luật bảo toàn khối lượng học sinh làm một vài ví
dụ đơn giản là tìm khối lượng của 1 chất trong phản ứng có n chất khi biết khối
lượng của (n-1) chất trong phản ứng và sau đó hầu như không nhắc gì đến định
luật này mặc dù từ phần tính theo phương trình hoá học trở đi có nhiều bài toán có
thể áp dụng định luật này nhưng cả giáo viên và học sinh chủ yếu sử dụng cách

làm thông thường như sách giáo khoa hướng dẫn mà quên mất cách kết hợp định
luật bảo toàn khối lượng, khi lên lớp 9 có nhiều bài toán khó ( dạng tìm tên kim loại,
toán hỗn hợp, tăng giảm khối lượng...) nếu giải theo cách bình thường thì rất là dài dòng,
khó hiểu nhưng biết vận dụng định luật bảo toàn khối lượng thì lại nhẹ nhàng, dễ hiểu
hơn mà cũng ngắn gọn hơn. Lúc này muốn vận dụng định luật bảo toàn khối lượng thì
6


giáo viên lại mất thời gian nhắc lại định luật, cách vận dụng định luật và có thể phải
giảng bài toán vài lần học sinh mới nhớ lại, biết cách vận dụng định luật bảo toàn khối
lượng.
Thứ hai, vấn đề dạy của giáo viên vẫn còn ít nhiều hạn chế, cụ thể: còn có GV
chưa thật tâm huyết, giảng dạy thiếu nhiệt tình trên lớp, giảng còn khó hiểu. Qua dự giờ,
đánh giá một số tiết dạy, chúng tôi còn nhận ra có GV còn chủ quan giảng lại bài tập cho
học sinh mà không chỉ cho học sinh thấy có một số bài toán thì có thể giải bằng nhiều
cách khác nhau trong đó có cách là vận dụng định luật bảo toàn khối lượng .
3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Mục tiêu của các giải pháp, biện pháp chúng tôi đưa ra trong đề tài gồm:
- Giúp các đồng nghiệp cùng giảng dạy bộ môn Hóa học trên địa bàn huyện
Krông Ana giúp học sinh biết vận dụng định luật bảo toàn khối lượng vào giải quyết
một số bài tập hóa học một cách hiệu quả.
- Đề tài mong muốn tạo ra một diễn đàn nhỏ, cụ thể về 1 chủ đề để các GV cùng
trao đổi kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau, vận dụng những vấn đề phù hợp để áp dụng vào
công việc hàng ngày của mình: dạy học môn Hóa học.
- Góp phần nâng cao chất lượng đại trà của HS, đặc biệt chất lượng môn Hóa học.
Giảm tỉ lệ HS học yếu môn Hóa học.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Thường khi giáo viên dạy xong bài này, ngoài những bài áp dụng ngay dạng toán
tìm khối lượng một chất khi biết khối lượng của n-1 chất trong phản ứng hoá học và hầu

như suốt thời gian còn lại của lớp 8 giáo viên ít sử dụng đến định luật bảo toàn khối
lượng để hướng dẫn học sinh làm bài tập tính theo phương trình hoá học.
Đối với kinh nghiệm của bản thân, tôi thường làm như sau:
- Trước hết phải yêu cầu học sinh hiểu về nội dung định luật bảo toàn khối lượng.
Định luật: " Trong phản ứng hoá học tổng khối lượng các chất sản phẩm bằng tổng khối
lượng các chất tham gia phản ứng". Nội dung định luật tương đối dễ hiểu nên học sinh
sẽ không mất nhiều thời gian để học hiểu và thuộc nhưng để vận dụng được nó thì không
phải học sinh nào cũng hiểu được.
- Một số áp dụng của định luật:
CT 1/ mA + mB = mC + mD
CT2/ Gọi khối lượng của các chất trước phản ứng là mT
Gọi khối lượng của các chất sau phản ứng là mS
Dù phản ứng đủ hay dư thì ta vẫn có: mS =mT
- Đa số giáo viên và học sinh khối 8 sau khi học xong thường vận dụng ít ở
những dạng toán đơn giản là tìm khối lượng của một chất khi biết khối lượng của (n-1)
chất. Ví dụ:
1/ Cho 4,8 gam magiê (Mg) tác dụng với oxi (O2) thu được 8 gam magiê oxit (MgO).
a/ Lập phương trình hoá học
b/ Tìm khối lượng oxi đã phản ứng.
Giải:
a/ PTHH: 2Mg + O2
2MgO
7


b/ Áp dụng định luật BTKL ta có:
mMg + m O2 = mMgO
=> m O2 = 8-4,8 = 3,2 gam
2/ Cho 5,4 gam nhôm (Al) tác dụng với 29.4 gam axit sunfuric (H2SO4) thu được muối
nhôm sunfat (Al2(SO4)3) và 0.6 gam hidro.

a/ Lập phương trình hoá học.
b/ Tính khối lượng muối nhôm sunfat thu được.
Giải
a/ 2Al + 3H2SO4
Al2(SO4)3 + 3H2
b/ Áp dụng định luật BTKL ta có:
mAl + m H 2 SO4 = mAl2(SO4)3 + mH2
=> mAl2(SO4)3 = mAl + m H 2 SO4 - mH2 = 5.4 + 29.4 -0.6= 34.2 gam
Thường sau khi vận dụng định luật để hướng dẫn học sinh làm các bài tập trên thì thời
gian sau giáo viên và học sinh ít dùng hay ít vận dụng định luật có khi thời gian sau lãng
quên mất nhưng đối với tôi thì khi đến dạng toán " Tính theo Phương trình hoá học" tôi
tiếp tục hướng dẫn học sinh vận dụng định luật BTKL để giải nhanh một số bài tập mà
khi dùng ĐLBTKL lại dễ hiểu và học sinh thấy hứng thú khi biết áp dụng định luật
BTKL vào bài tập phức tạp. Ví dụ:
Ở hóa học 8:
BT 1/ Cho 9,2 gam một kim loại hoá trị I tác dụng với khí oxi dư (O2) thu được 12,4
gam oxit. Tìm tên kim loại
Đối với dạng này thường áp dụng cho học sinh khá, giỏi. Nhưng ban đầu học sinh mới
gặp dạng này lần đầu thì sẽ thấy khó làm, giáo viên trên lớp thường hướng dẫn học sinh
tìm số mol của kim loại, sau đó suy ra số mol oxit, rồi tìm khối lượng mol (M) của oxit
theo công thức M = m/n rồi trừ khối lượng oxi suy ra khối lượng mol của M. Ngoài
cách này giáo viên nên hướng dẫn học sinh cách áp dụng định luật bảo toàn khối lượng
để học sinh biết tận dụng các kiến thức đã học vào giải bài tập. Cách giải:
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
- Sau khi học sinh viết xong PTHH
thì giáo viên có thể hỏi: Qua PTHH
trên em thấy tổng số các chất tham
gia và sản phẩm trong này là bao
nhiêu?

- Đề bài đã cho khối lượng mấy
chất?
- Khi đọc đề bài em thấy bài toán
cho khối lượng của 2 chất trong tổng
số có 3 chất thì em sẽ dùng cách nào
để tính khối lượng chất kia dễ dàng
nhất?
- Khi đọc đề bài xong em viết PTHH
sau đó nếu em thấy bài toán cho khối
lượng của (n-1) chất trong tổng n
8

- Học sinh trả lời ngay là 3 chất.

- 2 chất
- Dùng định luật bảo toàn khối
lượng.

- Hs chú ý để tích lũy kinh nghiệm


chất thì cách giải đầu tiên em hãy
nghĩ ngay tới là định luật bảo toàn
khối lượng nếu thấy không được thì
hãy dùng cách khác.
-Em gọi tên kim loại là gì?
- Em hãy viết PTHH
- Bây giờ em tính được khối lượng
chất nào khi áp dụng ĐLBTKL?
- Em tính được số mol oxi không?


Gọi tên kim loại là A
4 A + O2 → 2A2O
-Hs thấy dễ dàng tìm khối lượng
oxi
m O2 = m A2O - mA = 12,4 – 9,2 =
3,2 gam
- Hs sẽ tính được số mol oxi theo
CT
n= m/M=

3.2
= 0.1 mol
32

- Theo PTHH: Số mol A bằng 0,4
mol

- Em đưa số mol oxi vào PTHH và
tính xem số mol A là bao nhiêu?
- Em có số mol A, có khối lượng A
thế em tìm được tên A không?

- Tìm được tên A dựa vào khối
lượng mol

Gv có thể giảng kỹ bài toán theo hướng giải này như sau:
Gọi tên kim loại là A
PTHH:
4 A + O2 → 2A2O

4
1
2
0.4
0.1
0.2
Theo định luật bảo toàn khối lượng ta có:
m O2 = m A2O - mA = 12,4 – 9,2 = 3,2 gam
Số mol oxi là: n O2 =

3.2
= 0.1 mol
32

Theo PTHH ta thấy nA = 0.4 mol
Khối lượng mol của A là: M=

9.2
= 23 gam. Suy ra A là Na
0.4

Tương tự cách làm trên tôi có thể đưa thêm một số bài tập để học sinh áp dụng. Vì là
học sinh lớp 8 mới làm quen với hoá học, mới biết dạng toán này nên đề bài phải thật dễ
hiểu, dễ áp dụng để khuyến khích học sinh. Ví dụ
BT 2/ Cho 4 gam kim loại hoá trị II tác dụng hết với khí clo (Cl2) thu được 11.1 gam
muối. Tìm tên kim loại.
BT3/ Cho 10.8 gam kim loại hoá trị III tác dụng hết với khí oxi (O 2) thu được 20.4 gam
oxit. Tìm tên kim loại.
BT4/ Cho 3.2 g phi kim hóa trị IV tác dụng hết với oxi (O2) thu được 6.4 g oxit. Tìm tên
phi kim.

Sau đó học đến chương oxi thì cũng có thể dùng các bài tập như ví dụ 1 vừa củng cố lại
tính chất hoá học của oxi vừa nhớ được định luật bảo toàn khối lượng.
Và đối với lớp 9 có rất nhiều dạng bài tập nếu giải theo các bước bình thường thì
nhìn thấy dài dòng và có thể khó hiểu, ta có thể giải nhanh bằng cách áp dụng định luật
bảo toàn khối lượng, hoặc đối với giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi thì lại càng nhiều
dạng bài tập có thể giải nhanh bằng cách áp dụng định luật bảo toàn khối lượng. Ví dụ:
1/ Bài tập 5 trang SGK Hoá học 9: Hoà tan 9,2 gam kim loại A hoá trị I tác dụng với khí
clo dư thu được 23,4 gam muối. Tìm tên kim loại
9


Cách 1: Ta giải theo các bước bình thường:
PTHH:
2A + Cl2 
→ 2ACl
2
1
2
9.2
A

Số mol của A là: nA=

9.2
A
9.2
A

9.2
Theo PTHH ta thấy số mol ACl = A

23, 4
= 2.54 A
Khối lượng mol của ACl là: 9, 2
A

Ta có: A + 35,5 = 2,54 A
 1,54 A = 35,5
=> A= 23
Vậy A là Na
Cách 2:
2A + Cl2 
→ 2ACl
2
1
2
0.4
0.2
0.4
Theo định luật bảo toàn khối lượng ta có:
m Cl2 = m ACl - mA = 23.4 – 9,2 = 14.2 gam
Số mol clo là: n Cl2 =

14.2
= 0.2 mol
71

Theo PTHH ta thấy nA = 0.4 mol
Khối lượng mol của A là: M=

9.2

= 23 gam. Suy ra A là Na
0.4

BT 2/ Hoà tan hết 10 gam chất rắn X gồm: Mgo, CuO, Al2O3 cần vừa đủ 300 ml dung
dịch H2SO4 1M. Cô cạn dung dịch sau phản ứng thu được bao nhiêu gam hỗn hợp muối
khan?
Giải bài toán:
Bài toán này thường dùng cho học sinh khá, giỏi lớp 9. Ban đầu học sinh mới đọc
sẽ thấy khó vì có 3 oxit tham gia phản ứng, 3 PTHH mà chỉ có 2 số liệu vì học sinh có
thói quen lập PTHH, tìm số mol của từng chất rồi mới tìm được khối lượng. Nếu các em
giải toán theo cách tính thông thường thì rất khó. Gv định hướng cho học sinh những
dạng toán này ta nên áp dụng định luật bảo toàn khối lượng thì sẽ dễ hiểu hơn và học
sinh sẽ không thấy khó khăn khi giải bài tập hóa học mà ngược lại sẽ thấy hứng thú hơn.
Gv hướng dẫn cho học sinh là yêu cầu của bài toán là tính khối lượng muối khan do đó
mình có thể áp dụng định luật BTKL như sau:
PTHH: MgO + H2SO4 
→ MgSO4 + H2O
CuO + H2SO4 
→ CuSO4 + H2O
Al2 O3 + 3H2SO4 
→ Al2( SO4)3 + 3H2O
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
Từ số liệu bài toán cho em tìm được
10

- Số mol của axit là: 0.3x1= 0,3


số mol chất nào?

Nếu áp dụng định luật BTKL thì em
sẽ có phương trình khối lượng như
thế nào?
Em đã có khối lượng của chất nào
rồi?
Em tìm khối lượng chất nào nữa?
Theo pthh em thấy số mol axit và số
mol nước như thế nào?
Số mol nước là bao nhiêu?
Tính khối lượng nước được không?
Em đã tính được khối lượng muối
chưa?

mol
- HS: mX + maxit = mmuối + mnước
mX = 10 gam
m axit = 0.3x98 =29.4 gam
-Khối lượng nước
Số mol axit = số mol nước
Số mol nước = 0,3 mol
m nước = 0.3 x 18 = 5.4 g
mmuối = mx + maxit - mnước = 10+
29.4-5.4 = 34 gam

GV hướng dẫn học sinh trình bày lại bài, học sinh sẽ thấy bài rất ngắn gọn, dễ hiểu:
Số mol của axit H2SO4 là: 0.3x1= 0,3 mol
Áp dụng ĐLBTKL ta có: mX + maxit = mmuối + mnước
Theo đề bài: mX = 10 gam
Khối lượng axit là: m axit = 0.3x98 =29.4 gam
Theo PTHH ta thấy số mol axit = số mol nước= 0.3 mol

Khối lượng nước là: m nước = 0.3 x 18 = 5.4 g
Vậy khối lượng muối là: mmuối = mx + maxit - mnước = 10+ 29.4-5.4 = 34 gam
BT 3/ Hoà tan 18,4 gam hỗn hợp X gồm 2 kim loại hoá trị II và III trong dd HCl vừa đủ thu
được dung dịch (dd) Y và khí Z. Đốt cháy hoàn toàn lượng khí Z thu được 9 gam nước. Cô cạn
dd Y thu được bao nhiêu gam muối khan.
Đây cũng là một bài toán khó dùng cho học sinh khá giỏi. Bài tập này có thể giải theo nhiều
cách khác nhau nhưng áp dụng định luật BT KL để giải là dễ hiểu nhất. Tôi thường hướng dẫn
học sinh giải như sau:
Yêu cầu hs gọi tên kim loại, viết PTHH
Gọi tên kim loại hóa trị II, III lần lượt là A, B
Ta có PTHH:
A + 2HCl
ACl2+ H2
2B + 6HCl
2BCl3 + 3H2

Hoạt động của giáo viên

Hoạt động của học sinh

Đốt cháy khí Z thì xảy ra phản
ứng gì?
Em hãy tính số mol của nước
Số mol H2 là bao nhiêu?
Nếu dùng định luật BTKL để tìm
khối lượng muối em làm như thế
nào?
11

- Hidro tác dụng với oxi

2H2 + O2 -> 2H2O
- Số mol của nước là:
9
= 0.5 mol
n H2O =
18
- Số mol nước = số mol H2 =
0,5 mol
mKL + max = mmuối + mHidro
=> mmuối= mKL + max - mHidro
- khối lượng axit


Em phải tìm khối lượng chất nào
nữa?
Nhìn vào PTHH em thấy số mol
axit với số mol H2 như thế nào?
Em tính khối lượng axit, hidro rồi
từ đó tìm khối lượng muối theo
định luật BTKL

- 2 x Số mol H2 = số mol axit
=> Số mol axit = 0,5 x 2 = 1
mol
Khối lượng H2 là: 0,5x2 = 1
gam
Khối lượng axit là: 1x36,5 =
36,5 gam
Khối lượng muối là:
m muối = 18,4 + 36,5 – 1=53,9

g

Hướng dẫn giải BT đầy đủ:
A + 2HCl 
→ ACl2+ H2
2B + 6HCl
2BCl3 + 3H2
2H2 + O2 -> 2H2O
0,5
0,5
- Số mol của nước là:
n H2O =

9
= 0.5 mol
18

-Theo PTHH số mol nước = số mol H2 = 0,5 mol
Theo ĐLBTKL ta có: mKL + max = mmuối + mHidro
=> mmuối= mKL + max - mHidro
Theo PTHH ta thấy: số mol axit = 2 x số mol H2
=> Số mol axit = 0,5 x 2 = 1 mol
Khối lượng H2 là: 0,5x2 = 1 gam
Khối lượng axit là: 1x36,5 = 36,5 gam
Khối lượng muối là: m muối = 18,4 + 36,5 – 1=53,9 g
BT4/ Hỗn hợp chất rắn X gồm kim loại hóa trị I và oxit của nó. Cho 23,2 gam X vào nước dư
thu được 32gam bazơ Y và 2,24 lit khí (ĐKTC). Tìm CTHH của X

Nếu giáo viên nào thường xuyên hướng dẫn học sinh làm bài tập hóa học thì thấy ngay
bài này nếu dùng phương pháp hóa học bình thường thì giải rất dài, khó hiểu nhưng nếu

dùng định luật BTKL thì nhanh, dễ hiểu. Giáo viên định hướng cho học sinh khi gặp
dạng toán này thì dùng ĐLBTKL giải sẽ nhanh và dễ hơn.
Giải cụ thể:
Gọi tên kim loại là A thì chất rắn X: A, A2O
2A + 2H2O ->2 AOH + H2
(1)
0.2 0.2
0.2
0.1
A2O + H2O -> 2AOH
(2)
0.3
0.6
Số mol H2 là:

2.24
= 0.1 mol
22.4

Khối lượng H2 là; 0,1 x 2 = 0.2 g
Theo định luật BTKL thì khối lượng nước tham gia phản ứng = mY + m H2 - mx
=32 +0,2-23,2 = 9 gam
12


Số mol nước là:

9
= 0.5 mol => Số mol nước phản ứng với A2O là: 0.5-0.2=0.3 mol
18


Số mol AOH ở 2 phản ứng: 0.2 +0.6 =0.8 mol
MAOH =

32
= 40 gam=> A =40 – 17 = 23
0.8

Vậy A là Na
Trên đây chỉ là một số dạng bài tập hướng dẫn học sinh biết vận dụng định luật bảo toàn
vào giải bài tập, thực tế còn nhiều bài tập có thể áp dụng nhất là trong quá trình ôn thi
học sinh giỏi giáo viên sẽ phải hướng dẫn học sinh vận dụng định luật BTKL nhiều hơn.
c. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
- Giáo viên bộ môn cần có ý thức cao trong việc góp phần nâng cao chất lượng
dạy học. Mỗi GV nên thường xuyên tích lũy những kinh nghiệm hay, có nhiều lợi ích
trong việc dạy- học. Để đạt hiệu quả mong muốn khi vận dụng đề tài thì mỗi người
chúng ta phải kiên trì trong suốt quá trình dạy để hướng dẫn học sinh.
Để tiếp tục hoàn thiện vấn đề nghiên cứu trong đề tài chúng ta lại cần dành thời
gian, công sức đáng kể để nghiên cứu kỹ hơn sách giáo khoa, sách tham khảo và các tài
liệu, kiến thức khác.
Với HS, đối tượng quan trọng nhất, HS sẽ là người thể hiện kết quả đạt được của đề tài,
thì cần điều kiện mang tính quyết định: HS phải là người có ý thức đối với việc học tập
của bản thân, chăm, ngoan, có tinh thần hợp tác. Với số ít HS rơi vào tình trạng không
thèm nghe, bàng quang, không chịu học, đạo đức chưa khá tốt,... thì GV khó để đạt được
hiệu quả mong muốn.
Như vậy, để thực hiện và thành công đề tài, cần tổ hợp các điều kiện cả về phía
GV lẫn HS.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
- Giải pháp về phía GV (nghiên cứu kiến thức, định hướng, gợi mở, tổ chức hoạt
động tích hợp...) là điều kiện đầu tiên để thực hiện được mục đích của đề tài, giải pháp

này mở đường cho hoạt động học tập, ôn tập, vận dụng của học sinh diễn ra.
- Giải pháp về phía HS lại quyết định các hoạt động của GV có tiếp tục diễn ra
hay không, có đạt được kết quả hay không. Hay nói cách khác, những bài tập Hóa học
mà HS áp dụng các phương pháp giải toán hay vào để hoàn thành là bằng chứng của
việc GV vận dụng các giải pháp, biện pháp vào dạy học.
Các giải pháp đưa ra đều có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau từ đó
tạo ra kết quả nghiên cứu của đề tài. Thiếu một trong các giải pháp trên sẽ gây khó khăn,
tạo rào cản trong khi thực hiện thậm chí làm cho quá trình nghiên cứu không thu được
kết quả.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
- Kết quả khảo nghiệm:
Những tiết trước mặc dù đã học ĐLBTKL nhưng để vận dụng giải bài tập thì rất
ít em biết vận dụng chỉ khoảng 5-7% biết sử dụng nếu giáo viên gợi ý. Sau khi hướng
dẫn học sinh vận dụng định luật bảo toàn khối lượng sau một vài tiết học tôi có đưa ra
13


một bài tập mà có thể áp dụng nhiều cách giải, tôi chấm và kiểm tra xem các em có biết
vận dụng định luật vào giải bài tập hay không. Kết quả như sau:
+ Nội dung bài tập ở hóa 8: Đốt 12,8 gam kim loại A có hóa trị II trong khí oxi
dư sai phản ứng thu được 16 gam oxit. Tìm tên kim loại.
+ Nội dung bài tập ở hóa 9: Cho 17,8 gam hỗn hợp 2 kim loại có hóa trị II tác
dụng hết với dung dịch HCl thu được 4,48 lit khí H2 (ĐKTC). Tính khối lượng muối thu
được.
(tôi sử dụng bài tập này kiểm tra ở lớp có nhiều học sinh khá giỏi)
Sau khi chấm tôi tổng hợp xem có bao nhiêu em đã biết sử dụng định luật BTKL
vào giải đúng dạng toán, có bao nhiêu em sử dụng cách khác, kết quả:

Khối


TS học sinh

Hs vận dụng ĐLBTKL

Hs vận dụng cách khác

làm bài kiểm tra

SL

%

SL

%

Lớp 8

85

65

76.4

20

23.6

Lớp 9


88

70

79.5

18

20.5

TC

173

135

78

38

22

Đa số các em đã biết vận dụng kiến thức vào làm bài tập, và nhiều em đã biết vận
dụng định luật BTKL vào giải bài tập hiệu quả so với trước khi chưa học kỹ về định luật
BTKL.
Tôi lại làm 1 phiếu thăm dò khác để tìm hiểu xem học sinh có thích sử dụng
phương pháp này sau khi học hay không. Phiếu thăm dò:
Em hãy đánh dấu (v) vào ô trống trước câu trả lời của em:
Sau khi học xong định luật bảo toàn khối lượng, thì em:
Biết áp dụng định luật BTKL vào giải một số bài tập.

Không biết áp dụng định luật BTKL.
Thích áp dụng định luật BTKL vào làm bài tập.
Không thích áp dụng định luật BTKL vào làm bài tập.
Tôi điều tra 173 học sinh trên thì thu được kết quả như sau:

TS học sinh Hs biết áp dụng
định luật BTKL
được hỏi

vào giải một số bài
tập.

SL
173

145

83.8

Hs không biết Thích áp dụng
áp dụng định định luật BTKL
luật BTKL
vào làm bài tập

Không thích áp
dụng định luật
BTKL vào làm
bài tập.

%


%

SL

28

16.2
14

127

73.4

43

26.6


Qua kết quả trên cho thấy có nhiều em sau khi học đã biết vận dụng định luật
BTKL vào giải toán và có nhiều em rất thích vận dụng định luật này. Vậy sau khi hướng
dẫn học sinh vận dụng định luật này vào làm bài tập thì đã có nhiều kết quả tốt, đạt hiệu
quả.
- Giá trị khoa học: Sau khi hướng dẫn học sinh biết vận dụng định luật BTKL
vào giải quyết một số bài tập thì đã có nhiều học sinh biết vận dụng kiến thức hơn, yêu
thích bộ môn hơn góp phần nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn Hóa học nói riêng và kết
quả giáo dục của nhà trường nói chung. Vấn đề này vừa đặt ra yêu cầu về phía giáo viên
và học sinh, nhờ đó bản thân GV cũng phát huy được tinh thần tự học, tự tìm hiểu, phát
triển ở người dạy và người học kĩ năng tư duy, tổng hợp, năng lực nhận thức.
4. Kết quả

- Từ những kết quả trên cho thấy đề tài đã cơ bản thực hiện được mục tiêu đặt ra:
tổng hợp và thể hiện được hiệu quả dạy học khi vận dụng đề tài vào thực tế giảng dạy.
Khi học lý thuyết học sinh mới chỉ hiểu vấn đề còn chưa áp dụng tốt vào giải quyết bài
tập nhưng khi có sự hướng dẫn, mở rộng của giáo viên thì học sinh đã hiểu sâu về kiến
thức hơn, nhiều học sinh biết nhiều cách giải quyết một vấn đề, từ đó yêu thích môn học
hơn, hứng thú học tập hơn.
Góp phần nâng cao được chất lượng học tập toàn diện và chất lượng môn Hóa
học của học sinh.
- Giá trị khoa học mang lại khi thực hiện đề tài: học sinh biết vận dụng đinh luật
BTKL vào giải bài tập hóa học.
Rèn luyện cho HS nhiều kĩ năng quý báu như kĩ năng nhận dạng bài toán, kĩ năng
tổng hợp, nhận xét.
Góp phần giáo dục cho HS những đức tính kiên trì, sự cẩn trọng, sự tập trung, tỉ
mỉ, chính xác, có cái nhìn toàn diện về hệ thống kiến thức trong nhà trường phổ thông.
III. Phần kết luận, kiến nghị
1. Kết luận
- Kinh nghiệm học sinh biết vận dụng đinh luật BTKL vào giải bài tập hóa học ở
trường THCS Buôn Trấp có ý nghĩa góp phần nâng cao hiệu quả dạy học.
- Sau khi hoàn thành kinh nghiệm này, chúng tôi nhận định rằng mỗi GV dạy hóa
học ở trường THCS để thu được chất lượng tốt của bộ môn tốt thì GV phải bỏ ra công
sức đầu tư đúng mực. Kết quả nâng lên ít hay nhiều phụ thuộc một nửa là từ sự tìm tòi,
suy nghĩ, trăn trở và triển khai, tổ chức của GV, nửa còn lại phụ thuộc vào sự hợp tác, tự
học của HS. Riêng với vấn đề mà chúng tôi nêu trong kinh nghiệm này, chúng tôi đã
15


chứng minh được rằng: kinh nghiệm này góp phần nâng cao chất lượng học tập của học
sinh đối với môn Hóa học.
2. Kiến nghị
- Lãnh đạo các trường THCS trong địa bàn huyện Krông Ana quan tâm tới đề tài

này, chỉ đạo tổ CM triển khai, thảo luận đề tài trong 1 số buổi sinh hoạt tổ chuyên môn
để các GV thảo luận, đóng góp ý kiến xây dựng, chọn lựa nội dung phù hợp với nhà
trường để áp dụng.

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
(Ký tên, đóng dấu)

16



×