Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN một số kinh nghiệm khi dạy tích hợp môn ngữ văn ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 17 trang )

PHÒNG GIÁO GD&ĐT KRÔNG ANA
TRƯỜNG THCS LÊ QUÝ ĐÔN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI:

MỘT SỐ KINH NGHIỆM KHI DẠY TÍCH HỢP MÔN
NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THCS

Họ và tên: Nguyễn Thị Lệ Hoa
Phùng Thị Nhàn
Đơn vị công tác: Trường THCS Lê Quý Đôn
Trình độ đào tạo: Đại học Sư Phạm
Môn đào tạo: Ngữ văn

Krông Ana, tháng 1 năm 2015
1


MỤC LỤC

I/PHẦN MỞ ĐẦU...........................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................3
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.................................................................3
3. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................3
4. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................4
II/ PHẦN NỘI DUNG.....................................................................................4
1. Cơ sở lí luận.............................................................................................4
2. Thực trạng................................................................................................5
3. Giải pháp, biện pháp................................................................................9


III/ PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ..........................................................15
1.Kết luận...................................................................................................15
2. Kiến nghị................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................16

2


I/PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Để nâng cao chất lượng môn Ngữ văn trong nhà trường đặc biệt là Trường THCS Lê
Quý Đôn và nhằm giúp cho học sinh nâng cao năng lực sử dụng những kiến thức và kĩ năng
mà các em đã lĩnh hội từ giáo viên. Từ đó các em tự huy động có hiệu quả những kiến thức
và kĩ năng của mình để giải quyết những tình huống có ý nghĩa, cũng có khi là một tình
huống khó khăn, bất ngờ hoặc một tình huống chưa từng gặp trong cuộc sống. Vậy t ích hợp
kiến thức đặc biệt là kiến thức các môn học khác trong dạy học văn, trước tiên xuất phát từ ý
tưởng là làm thế nào để một giờ dạy – học văn có hứng thú, đạt hiệu quả cao? Làm sao để
học sinh có thể vận dụng mọi hiểu biết kiến thức từ các môn học khác mà mình tiếp thu được
để giải quyết một vấn đề khoa học và có hiệu quả tốt nhất? Qua kinh nghiệm giảng dạy của
mình chúng tôi đưa ra một số kinh nghiệm khi tích hợp trong dạy học Ngữ văn đó là cách
thức để khắc phục, hạn chế lối dạy học khép kín “trong nội bộ phân môn”, biệt lập các bộ
phận Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn với các môn khoa học xã hội khác. Mặt khác tích
hợp chủ đề, vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết một vấn đề trong dạy học đặc biệt là
môn Ngữ văn cũng đang là phong trào đổi mới ở các trường học, giáo viên, học sinh cũng
đang tích cực thực hiện. Bởi vậy đề tài «Một số kinh nghiệm khi dạy tích hợp môn Ngữ văn ở
trường THCS » của chúng tôi cũng bám sát những mục tiêu và sự định hướng đó. Nó sẽ là
một cái nhìn mới, một cách tiếp cận mới trong giảng dạy Ngữ Văn ở trường THCS Lê Quý
Đôn nói riêng và chương trình môn Ngữ văn ở THCS nói chung. Với đề tài này chúng tôi
nghĩ rằng, nó sẽ bổ ích và có thể là một tài liệu tham khảo cho các bạn đọc. Vậy để chất
lượng môn Ngữ văn trường THCS Lê Quý Đôn ngày một tiến bộ và đạt hiệu quả theo yêu

cầu chung của xã hội đã thôi thúc chúng tôi làm đề tài này.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của việc dạy tích hợp trong môn Ngữ văn không chỉ dừng lại ở việc tích
hợp khép kín “trong nội bộ phân môn Ngữ văn”, mà người dạy phải giúp cho người học tự
học, sáng tạo, bồi dưỡng tư duy, tâm hồn , hiểu và biết tổng hợp, vận dụng các kiến thức của
các môn học vào trong bài học để tiết học sinh động, gây hứng thú cho học sinh trong giờ
học. Qua đó học sinh sẽ tiếp thu và nắm vững nội dung bài học một cách hợp lý có hiệu quả
hơn. Bên cạnh việc tích hợp kiến thức của các môn học giáo viên cần lưu ý hướng dẫn cho
học sinh thói quen tìm hiểu và biết vận dụng tổng hợp kiến thức để giải quyết một vấn đề.
Bởi vì việc học sinh tự tìm hiểu kiến thức cho nội dung bài học sẽ mang lại một cách tiếp cận
mới đa chiều để các em bước vào bài học một cách hiệu quả nhất. Qua đó tạo cho học sinh
hứng thú, tích cực hơn trong học tập.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài của chúng tôi thuộc học sinh học Ngữ văn các khối
lớp 7, 8, 9 trường THCS Lê Quý Đôn.
4. Phạm vi nghiên cứu
Qua các giờ trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn ở các lớp 7D, 7A, 8C, 8D, 9B, 9D của
trường Lê Quý Đôn mà chúng tôi được nhà trường phân công dạy trong năm học 2013 –
2014 vừa qua.
3


5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập, tổng hợp xử lý thông tin giúp chúng tôi thực hiện đề tài này
chính là dựa trên những kinh nghiệm thực tiễn của bản thân qua nhiều năm trực tiếp làm
công tác giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THCS Lê Quý Đôn. Và qua phần tổng hợp kết
quả bài làm của học sinh sau những lần kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết, kiểm tra học kỳ qua
góp ý của đồng nghiệp và sự chỉ đạo sát sao của tổ chuyên môn, qua nghiên cứu tài liệu tham
khảo.
II/ PHẦN NỘI DUNG

1. Cơ sở lí luận
Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại hiện đang được quan tâm nghiên
cứu và áp dụng vào nhà trường. Ở nước ta, từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây, vấn đề
xây dựng môn học tích hợp với những mức độ khác nhau mới thực sự được tập trung nghiên
cứu, thử nghiệm và áp dụng vào nhà trường phổ thông. Trước đó tinh thần giảng dạy tích
hợp chỉ mới được thực hiện ở những mức độ thấp như liên hệ, phối hợp các kiến thức, kĩ
năng thuộc các môn học hay phân môn khác nhau để giải quyết một vấn đề giảng dạy.
Như vậy ở nước ta hiện nay vấn đề đang đặt ra trong lĩnh vực lí luận và phương pháp
dạy học bộ môn là phải tiếp cận, nghiên cứu và vận dụng dạy học tích hợp vào dạy học Ngữ
văn ở THCS nhằm hình thành và phát triển năng lực cho học sinh một cách có hiệu quả hơn,
góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và đào tạo của bộ môn. Trong lí luận dạy học, tích
hợp là sự kết hợp một cách có hệ thống ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng
thuộc các môn học khác nhau dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề
cập đến trong các môn học.
Việc vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở trường THCS chẳng những
dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập trong các phân môn Văn
học, Tiếng Việt, Tập làm văn cũng như các tri thức khác như hiểu biết lịch sử, địa lý, xã hội,
văn hoá nghệ thuật... mà còn xuất phát từ đòi hỏi thực tế là cần phải khắc phục, xoá bỏ lối
dạy học theo kiểu khép kín, tách biệt thế giới nhà trường và thế giới cuộc sống, cô lập giữa
những kiến thức và kĩ năng của các môn học khác vốn có liên hệ, bổ sung cho nhau, tách rời
kiến thức với các tình huống có ý nghĩa mà những tình huống đó học sinh sẽ gặp sau này.
Nói khác đi đó là lối dạy học khép kín “trong nội bộ phân môn”, biệt lập các bộ phận Văn
học, Tiếng Việt và Tập làm văn vốn có quan hệ gần gũi về bản chất, nội dung và kĩ năng
cũng như mục tiêu, đủ cho phép phối hợp, liên kết nhằm tạo ra những đóng góp bổ sung cho
nhau cả về lí luận và thực tiễn, đem lại kết quả tổng hợp và vững chắc trong việc giải quyết
những tình huống tích hợp hoặc những vấn đề thuộc từng phân môn.
Dạy học Ngữ văn theo định hướng tích hợp vẫn theo đuổi quan điểm “lấy học sinh
làm trung tâm”, tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh trong mọi mặt, mọi khâu của
quá trình dạy học; tìm mọi cách phát huy năng lực tự học, năng lực sáng tạo của học sinh.
Do vậy việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp dạy học cần chú ý giúp học sinh tích hợp

các kiến thức và kĩ năng đã lĩnh hội, xác lập mối liên hệ giữa các tri thức và kĩ năng thuộc
các phân môn đã học bằng cách tổ chức, thiết kế các nội dung, tình huống tích hợp để học
sinh vận dụng phối hợp các tri thức và kĩ năng riêng rẽ của các phân môn vào giải quyết vấn
đề đặt ra, qua đó lĩnh hội các kiến thức và phát triển năng lực, kĩ năng tích hợp. Tổ chức,
thiết kế các hoạt động phức hợp để học sinh học cách sử dụng phối hợp những kiến thức và
kĩ năng đã tiếp thu trong “nội bộ các phân môn”. Đặt học sinh vào trung tâm của quá trình
4


dạy học để học sinh trực tiếp tham gia vào giải quyết các vấn đề, tình huống tích hợp; biến
quá trình truyền thụ tri thức thành quá trình học sinh tự ý thức về cách thức chiếm lĩnh tri
thức và hình thành kĩ năng. Ngoài ra, việc dạy học tích hợp kiến thức các môn học còn giúp
cho học sinh phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của mình. Giáo viên cần chú
trọng mối quan hệ giữa học sinh với sách giáo khoa, từ đó phải buộc học sinh chủ động tự
đọc, tự làm việc độc lập theo yêu cầu trong sách giáo khoa và theo hướng dẫn của giáo viên
thì hiệu quả giờ dạy – học đạt chất lượng cao hơn.
2. Thực trạng
a. Thuận lợi – khó khăn:
Thuận lợi: Trong quá trình làm công tác giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THCS Lê
Quý Đôn, chúng tôi đã hướng dẫn học sinh cách chuẩn bị bài ở nhà (cụ thể là sau khi kết
thúc phần bài mới, chúng tôi yêu cầu học sinh về nhà đọc, soạn và tìm hiểu sau đó chuẩn bị
những yêu cầu mà nội dung bài học ngày hôm sau sẽ học) với cách làm này học sinh tích cực
hưởng ứng rất tốt. Bên cạnh đó chúng tôi cũng đã phối kết hợp tốt với Giáo viên chủ nhiệm
lớp, Ban cán sự bộ môn của lớp và hội cha mẹ học sinh trong nhà trường về việc nhắc nhở,
kiểm tra để các em chuẩn bị bài ở nhà và giờ học trên lớp đạt hiệu quả.
Là người đang trực tiếp tham gia giảng dạy ở các lớp 7D, 7A, 8C, 8D, 9B, 9D nên
chúng tôi luôn kết hợp cùng với giáo viên chủ nhiệm hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, nhắc nhở
sau mỗi giờ học, tuần học. Vì vậy, khi đưa yêu cầu phải chuẩn bị bài soạn, học bài ở nhà vào
nội quy của lớp để ban cán sự bộ môn của lớp theo dõi quá trình chuẩn bị bài của các tổ viên
thì chúng tôi đều nhận được sự đồng thuận từ giáo viên chủ nhiệm và các em học sinh rất

cao. Qua sổ theo dõi của Ban cán sự bộ môn giúp chúng tôi thấy được những lỗ hổng trong
kiến thức về việc kết hợp các kiến thức liên môn của học sinh trong môn Ngữ văn hoặc
những khó khăn mà các em gặp phải trong quá trình chuẩn bị bài mới. Từ đó giúp chúng tôi
tự điều chỉnh và đưa ra những phương pháp dạy học phù hợp, hợp lí để chất lượng giảng dạy
đạt kết quả cao hơn.
Được sự quan tâm của tổ chuyên môn, BGH nhà trường, những đồng nghiệp trong tổ
Văn – Họa – Nhạc đang làm công tác giảng dạy Ngữ văn tư vấn, giúp đỡ tạo điều kiện cho
chúng tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này.
Khó khăn: Việc chuẩn bị bài của các em trong các giờ học còn sơ sài, đối phó với
việc kiểm tra sự chuẩn bị bài ở nhà của cán sự bộ môn và giáo viên bộ môn nên hiệu quả giờ
học chưa sinh động. Chính vì vậy phần tích hợp kiến thức các em trong bài học còn thụ
động. Đồng thời nó còn làm cho giáo viên rơi vào tình trạng quá ôm đồm kiến thức và dẫn
tới việc tích hợp không đạt được kết quả như mong muốn và tệ hại hơn có thể kìm hãm sự
tư duy, chủ động và sáng tạo của học sinh.
b.Thành công – hạn chế:
Xuất phát từ thực tiễn khi được nhà trường phân công giảng dạy môn Ngữ Văn ở các
lớp 7D, 7A, 8C, 8D, 9B, 9D trong năm học 2013-2014. Bước đầu chúng tôi cảm nhận được
là muốn tạo cho học sinh hứng thú với môn học và có hiệu quả trong giảng dạy học Ngữ văn
ở trong trường THCS không thể không đổi mới phương pháp nhất là tích hợp. Kiến thức
ngày càng đa dạng, đặc biệt là các môn khoa học xã hội có sự gắn kết chặt chẽ, hỗ trợ lẫn
nhau. Việc tích hợp kiến thức để giải quyết một vấn đề không phải là việc làm mới. Khi
giảng dạy chúng tôi vẫn đang làm và học sinh khá – giỏi các em cũng đang làm. Và để tạo
thói quen nhớ lại kiến thức các môn học xã hội cho các em học sinh trung bình, yếu khi học
5


môn Ngữ văn nhất là trong những bài văn học có lịch sử hay các bài văn học có kiến thức
liên quan đến môn Địa lý, Âm nhạc, Mĩ thuật..... chúng tôi thường tổ chức cho các em thảo
luận theo nhóm. Và mỗi nhóm đều được chúng tôi phân Ban cán sự bộ môn, các em học sinh
khá giỏi hỗ trợ, kèm cặp nên bước đầu kết quả tương đối khả quan. Cho nên việc tích hợp mà

chúng tôi đưa vào bài học hài hòa, đúng chỗ, đúng lúc, không máy móc. Đã đem lại hứng thú
cho học sinh khi học môn Ngữ văn mà học sinh không phải tiếp xúc văn bản một cách khô
khan, suy diễn nhất là khi dạy các văn bản liên quan đến lịch sử hay danh lam thắng cảnh,
âm nhạc.
Cụ thể khi dạy bài: Đấu tranh cho một thế giới hòa bình (Mác-ket) (tiết 6, 7 – Ngữ
văn 9 - tập 1) Ở văn bản này, giáo viên nên tích hợp ở phần củng cố bài. Giáo viên có thể đặt
câu hỏi như sau: Bác Hồ chúng ta đã làm những gì để dân tộc Việt Nam có được như ngày
hôm nay? Bác có những đóng góp gì cho phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới?
Giáo viên để cho các em học sinh thảo luận nhóm theo từng cặp và sau đó các em sẽ trả lời
bằng những cách khác nhau theo sự hiểu biết của mình. Giáo viên chốt một số ý cơ bản sau:
Bác đã bôn ba khắp năm châu bốn bể để tìm ra con đường cứu nước. Năm 1917 Bác Hồ trở
lại Pháp và gia nhập Đảng Xã hội Pháp năm 1919. Kế đó, thay mặt “Hội những người Việt
Nam yêu nước” tại Pháp Bác gửi đến Hội nghị hòa bình Vesaillels “Bản yêu sách của nhân
dân Việt Nam” còn gọi là “Yêu sách 8 điểm” đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận quyền tự
do, dân chủ và quyền bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Trong suốt những năm ở nước
ngoài cũng như khi về nước, Bác cũng đứng về nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi họ
hãy đoàn kết đấu tranh chống lại hòa bình…. Trên đây chì là một số việc làm của Bác trong
việc đấu tranh nhằm làm cho thế giới hòa bình. Ngoài ra, Bác còn phát động nhiều phong
trào như: diệt giặc đói, giặc dốt, …giúp cho nhân dân ta có cuộc sống tốt hơn, hạnh phúc và
ấm no hơn sau chiến tranh (kiến thức lịch sử).
Như vậy trên cơ sở tích hợp liên môn kiến thức cho học sinh giáo viên cần lưu ý phần
tích hợp ngang trong bộ môn Ngữ văn. Sau khi dạy xong bài Chiếu dời đô (tiết 90 – Ngữ văn
8 - tập 2) qua phần hướng dẫn học tập giáo viên mời một học sinh khá hoặc giỏi giới thiệu
(bằng cách thuyết minh) cho cả lớp hiểu thêm về hình ảnh Chùa Một Cột – công trình kiến
trúc nổi tiếng của thủ đô Hà Nội được xây dựng từ thời Lí trong sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập 2 trang 49.

Chùa Một Cột – công trình kiến trúc nổi tiếng của thủ đô Hà Nội được xây dựng từ thời Lí

6



Hạn chế: Học sinh giờ đây không còn yêu thích môn Ngữ văn nên cách tiếp cận, học
tập môn Ngữ Văn vẫn còn thụ động. Nhiều em soạn và chuẩn bị bài qua loa, sơ sài, đối phó
với việc kiểm tra bài của lớp, của Giáo viên bộ môn nên chất lượng chưa đồng đều (nhất là
đối với các học sinh người dân tộc thiểu số). Nhiều em xem nhẹ việc học môn Ngữ văn cũng
như các kiến thức về khoa học xã hội nên tư liệu chuẩn bị cho bài học mới chưa phong phú.
c.Mặt mạnh- mặt yếu:
Sự quan tâm của nhà trường, Tổ chuyên môn và sự chỉ đạo sát sao thực hiện tốt
PPCT, chuẩn kiến thức kỹ năng, Tích hợp tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và tích hợp kiến
thức liên môn, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Với ý thức ham học hỏi của các cán sự
bộ môn ở mỗi lớp cũng như thái độ học tập nghiêm túc của học sinh các lớp chúng tôi giảng
dạy. Sự phối kết hợp chặt chẽ giữa Giáo viên Bộ môn và GVCN, Hội Cha mẹ học sinh các
lớp đã đẩy mạnh phong trào thi đua dạy tốt, học tốt đạt kết quả tương đối cao hơn so với năm
học trước.
Giáo viên bộ môn cần trao đổi với GVCN về tình hình học tập môn Ngữ văn của các
em. Để cuối mỗi tháng khi sinh hoạt lớp có sự tham gia của đại diện Hội Cha mẹ học sinh
nhờ có sự động viên, nhắc nhở của cha mẹ, GVCN thì ý thức học tập của các em về bộ môn
Ngữ văn sẽ tốt hơn.
Giáo viên bộ môn luôn hướng dẫn cho Ban cán sự bộ môn cách tìm hiểu và chuẩn bị
kiến thức của mỗi bài học. Qua đó các em sẽ hướng dẫn lại cho các bạn khác đặc biệt là
những bạn yếu kém để giờ học hiệu quả hơn. Với cách làm này, giáo viên luôn nhận được sự
ủng hộ từ các em học sinh nhất là những em yêu thích bộ môn này.
Giáo viên bộ môn chia lớp thành các nhóm nhỏ theo địa bàn thôn, buôn để các em dễ
trao đổi, tìm hiểu các tư liệu hỗ trợ cho bài học hiệu quả hơn. Bên cạnh đó giáo viên phải
thường xuyên học hỏi tìm tòi, cập nhật thông tin kiến thức mỗi ngày để nâng cao chuyên
môn. Và học hỏi kinh nghiệm những người đi trước nhằm đưa chất lượng giảng dạy ngày đi
lên. Giáo viên phải thực sự là người định hướng, khơi nguồn cảm hứng, hứng thú cho học
sinh những tri thức thiết thực, bổ ích qua mỗi bài học.
Cuối mỗi tiết học Giáo viên cần dành một khoảng thời gian ngắn để các em có thể
trình bày hoặc nêu những vấn đề mà mình cần thầy cô giúp đỡ. Từ đó giáo viên sẽ soạn, định

hướng bài học phù hợp với đối tượng học sinh hơn.
Mặt yếu: Các em học sinh trung bình và yếu còn chưa mạnh dạn trong việc góp ý kiến
của mình với nhóm học tập nên dẫn đến thụ động, chưa tự tin với cách học đa chiều, tích hợp
kiến thức liên môn để giải quyết tốt một vấn đề.
d.Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:
Để phong trào dạy và học từng bước đạt chất lượng theo yêu cầu của xã hội thì người
thầy phải là người biết định hướng đúng cho học sinh của mình. Ngày nay khi nói đến tích
hợp là người ta nghĩ ngay đến việc vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết một vấn đề.
Người thầy phải sáng tạo trong dạy học, phải giúp cho học sinh được chủ động tiếp
cận nội dung văn bản, chọn được phương pháp phù hợp để học tập với hiệu quả cao nhất mà
không bị gò bó, căng thẳng.
Khi vận dụng kiến thức liên môn giúp giáo viên luôn phải đặt mình vào bộ môn, luôn
tự làm mới chính mình, làm chủ nội dung, phương pháp, cách tổ chức dạy học. Bởi vì chỉ có
vậy người giáo viên mới có thể “truyền lửa” đến học sinh, mới có thể giúp các em chủ động
tích cực, sáng tạo trong tiếp cận, lĩnh hội tri thức. Không chỉ tích hợp theo phân môn mà còn
7


tích hợp liên môn sẽ giúp giáo viên luôn chủ động, sáng tạo trước mọi yêu cầu. Đặc trưng bộ
môn đầy chất nghệ thuật còn có sự chính xác, logic của môn lịch sử, có chiều sâu triết lí của
hệ tư tưởng, văn hóa,… Từ đó người dạy văn có thể có cái nhìn đa chiều khi tiếp cận một tác
phẩm. Vì vậy mới có thể khơi lên “ngọn lửa” nhiệt huyết học tập của học sinh. Dạy học vận
dụng kiến thức liên môn trong dạy học văn cũng là yêu cầu bắt buộc của cuộc sống hôm nay.
Với xu thế thời đại là hội nhập toàn cầu, khoa học là sự giao thoa, kế thừa, văn hóa là sự đan
xen đa dạng,… và giáo dục đương nhiên không thể nằm ngoài những yếu tố trên được.
e.Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Khi dạy học tích hợp trong môn Ngữ văn chúng tôi hướng dẫn học sinh cần chú trọng
đến sách giáo khoa bởi vì học sinh không chủ động tự đọc, tự làm việc độc lập theo yêu cầu
trong sách giáo khoa và theo hướng dẫn của giáo viên thì hiệu quả giờ dạy – học không đạt
chất lượng.

Để tiết học sinh động, phong phú thì người thầy phải tạo cho học sinh hứng thú với
môn học qua việc đổi mới phương pháp nhất là tích hợp. Hệ thống kiến thức ở THCS ngày
càng đa dạng mà các môn khoa học xã hội lại có sự hỗ trợ nhau. Nên việc tích hợp kiến thức
để giải quyết một vấn đề trong quá trình dạy học không còn là việc làm xa lạ đối với bản
thân giáo viên và các em học sinh khá, giỏi. Nhưng để tạo thói quen nhớ lại kiến thức các
môn học xã hội cho các em học sinh trung bình, yếu khi học môn Ngữ văn nhất là trong
những bài văn học có lịch sử hay các bài học có kiến thức liên quan đến môn Địa lý, Âm
nhạc, Mĩ thuật..... thì chúng tôi thường tổ chức cho các em thảo luận theo nhóm, theo cặp.
Với cách làm như vậy sẽ giúp cho học sinh tiếp cận tri thức dễ dàng hơn thông qua sự hỗ trợ,
kèm cặp của các bạn như cha ông ta đã nói « học thầy không tày học bạn » nên bước đầu kết
quả học tập của các em học sinh trung bình – yếu tương đối khả quan. Khi tích hợp trong quá
trình dạy chúng tôi không ôm đồm kiến thức đưa vào bài học một cách tràn lan mà cần tích
hợp đúng chỗ, đúng lúc thì kết quả nắm vững kiến thức của học sinh sẽ nâng lên rõ rệt hơn.
Việc tích hợp trong môn học phù hợp giúp học sinh tiếp xúc văn bản sinh động, không suy
diễn nhất là khi dạy các văn bản liên quan đến lịch sử hay danh lam thắng cảnh, âm nhạc.
Chẳng hạn khi giáo viên dạy bài Đấu tranh cho một thế giới hòa bình (Mác-ket) (tiết 6, 7 –
Ngữ văn 9 - tập 1) giáo viên đưa câu hỏi tích hợp ở phần củng cố bài khi hỏi : Bác Hồ chúng
ta đã làm những gì để dân tộc Việt Nam có được như ngày hôm nay? Bác có những đóng
góp gì cho phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới? Giáo viên cho học sinh thảo
luận nhóm theo từng cặp và các em sẽ trả lời bằng những cách hiểu khác nhau theo sự hiểu
biết của mình (qua kiến thức lịch sử). Sau đó giáo viên chốt một số ý cơ bản về tư tưởng yêu
nước và độc lập dân tộc trong quan hệ với hòa bình thế giới (chống nạn đói, nạn thất học,
chiến tranh và bệnh tật) mà Bác luôn quan tâm. Ngoài tích hợp liên môn kiến thức cho học
sinh giáo viên cần lưu ý phần tích hợp ngang trong bộ môn Ngữ văn. Sau khi dạy xong bài
Chiếu dời đô (tiết 90 – Ngữ văn 8 - tập 2) qua phần hướng dẫn học tập giáo viên mời một
học sinh khá hoặc giỏi giới thiệu (bằng cách thuyết minh) cho cả lớp hiểu thêm về hình ảnh
Chùa Một Cột – công trình kiến trúc nổi tiếng của thủ đô Hà Nội được xây dựng từ thời Lí
trong sách giáo khoa Ngữ văn 8 - tập 2 trang 49.
Tuy nhiên không phải bài học nào các em học sinh cũng có sự chuẩn bị bài chu đáo
nên một số phần tích hợp kiến thức cho các em trong bài học chưa đạt hiệu quả cao do học

sinh còn thụ động. Chính điều này làm cho giáo viên rơi vào tình trạng quá ôm đồm kiến
thức và dẫn tới việc tích hợp không đạt được kết quả như mong muốn. Như việc tích hợp
trong bài « Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu » ở chương trình Ngữ văn 7 khi
8


tích hợp giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu về việc sử dụng ngôn từ của Nguyễn Ái Quốc
trong bài có tác dụng gì ? Nhưng khi thảo luận và trình bày ý kiến học sinh không trả lời
đúng yêu cầu câu hỏi. Bên cạnh đó các em học lực trung bình và yếu còn chưa mạnh dạn
trong việc góp ý kiến của mình với nhóm học tập, chưa tự tin với cách học đa chiều, tích hợp
kiến thức liên môn để giải quyết tốt một vấn đề. Nhiều em cho rằng môn Ngữ văn không
quan trọng bởi vậy để hướng dẫn các em tìm hiểu các kiến thức về khoa học xã hội và tư liệu
chuẩn bị cho bài học mới chưa phong phú dẫn đến việc tự học và nghiên cứu của các em
chưa cao theo yêu cầu của xã hội.
3. Giải pháp, biện pháp
a.Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Biện pháp phối hợp giữa GVBM với GVCN, Hội Cha mẹ học sinh và ban cán sự bộ
môn mỗi lớp được xây dựng theo kế hoạch của lớp dựa trên kế hoạch mà chuyên môn nhà
trường đề ra và kế hoạch hoạt động cũng như bản đăng kí cam kết chất lượng giữa GVBM
với Hiệu trưởng. Nên cuối tháng 8 và đầu tháng 9 khi chuyên môn nhà trường lên kế hoạch,
thì mỗi GV cũng tự lên kế hoạch giảng dạy và đề ra phương pháp giảng dạy cho phù hợp với
đối tượng học sinh mà mình phụ trách. Trước hết phải khẳng định không có phương pháp
dạy học tích hợp Ngữ văn mà chỉ có định hướng dạy học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp.
Trong đó định hướng cơ bản là đảm bảo việc dạy học những tri thức, kĩ năng đặc thù của
từng phân môn, giáo viên còn phải tìm ra yếu tố “đồng quy” giữa ba phân môn. Đồng thời
giáo viên phải có ý thức khai thác các yếu tố chung có thể tích hợp liên môn trong một bài
học một cách nhuần nhuyễn, tự nhiên, không máy móc, gượng ép, áp đặt. Phải ý thức triệt để
việc tích cực hóa hoạt động cuả học sinh. Tóm lại, việc dạy học Ngữ văn theo hướng tích
hợp là định hướng dạy học Ngữ văn vừa mang tính kế thừa vừa mang tính phát triển.
b.Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp

Ở nội dung này, SKKN của chúng tôi sẽ tập trung vào việc dẫn dắt mô tả từng khía
cạnh vấn đề qua từng phần tích hợp ở mỗi bài học ở các lớp mà chúng tôi tham gia giảng
dạy.
* Chứng minh qua các bài học cụ thể:
Bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta (Hồ Chí Minh) (tiết 81 – Ngữ văn 7 tập 2)
I. Mục tiêu cần đạt (Theo chuẩn kiến thức kĩ năng)
II. Chuẩn bị:
-Giáo viên: Yêu cầu học sinh đọc, sưu tầm tài liệu, tìm hiểu kiến thức liên quan, cách lí giải
biện chứng vấn đề. Xây dựng giáo án theo các hoạt động dạy học.
-Học sinh: Ngoài soạn, chuẩn bị bài chú ý sưu tầm tư liệu (Hình chụp các tư liệu lịch sử đã
học qua các thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) và những hình ảnh về những việc làm thiết thực
ngày nay thể hiện tinh thần yêu nước của mỗi người)
III. Hoạt động dạy học:
1.Ổn định lớp - Kiểm tra bài cũ: Giáo viên kiểm tra sự chuẩn bị bài, sưu tầm, tìm hiểu
kiến thức cần có trong bài học của học sinh ở nhà.
2.Bài mới:
9


Hoạt động của thầy và trò
Hoạt động 1: Giới thiệu bài
Hoạt động 2: Đọc hiểu

Nội dung bài

Văn bản ra đời trong hoàn cảnh nào?
GV cho HS quan sát hình ảnh Đại hội lần II của Đảng
Lao Động Việt Nam tại Việt Bắc tháng 2/1951 (để học
sinh hiểu rõ hoàn cảnh ra đời của tác phẩm).


Hoạt động 3: GV hướng dẫn HS đọc, tìm hiểu nghĩa
của các từ khó, thể loại và bố cục.

Sau khi giáo viên hướng dẫn cho học sinh tìm hiểu về
vai trò ý nghĩa của đoạn mở đầu và giáo viên hướng
dẫn học sinh tìm và chỉ ra đoạn văn tương ứng để làm
rõ lòng yêu nước của nhân dân ta, tác giả đã dựa vào
những chứng cứ cụ thế nào?
+ Lòng yêu nước trong quá khứ, ngày nay. Đoạn 2 và
đoạn 3.
Tích hợp với môn Lịch sử cho HS nhớ lại các sự kiện
lịch sử đã học qua các thời đại Bà Trưng, Bà Triệu,
Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung.
Học sinh quan sát hình ảnh và nhận xét lòng yêu nước
trong quá khứ được xác nhận bằng chứng cứ lịch sử
nào?
-Thời Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,
Quang Trung.
Tích hợp với môn Lịch sử cho HS nhớ lại cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) và
môn GDCD cho HS thấy được tư tưởng độc lập dân
tộc, tinh thần yêu nước bằng những hành động, việc
làm cụ thể, thiết thực mà mỗi người dân Việt Nam
thể hiện trong các cuộc đấu tranh dựng nước và giữ
nước.
Gv yêu cầu HS quan sát hình ảnh, video và nhận xét để
chứng minh lòng yêu nước của đồng bào ta ngày nay,
10


I. Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
1.Tác giả:
2.Tác phẩm: Văn bản được trích
từ văn kiện Báo cáo chính trị do
Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày
tại Đại hội lần II của Đảng Lao
Động Việt Nam (nay là Đảng
CSVN) tại Việt Bắc tháng 21951.
II. Đọc, hiểu văn bản:
1.Đọc:
2.Từ khó: Sgk
3.Thể loại:
- Nghị luận xã hội.
-Bố cục: 3 phần.
III. Phân tích:
1. Nhận định chung về lòng yêu
nước:
Gợi tả sức mạnh và khí thế mạnh
mẽ của lòng yêu nước chính là
truyền thống quý báu của nhân
dân ta.
2. Những biểu hiện của lòng yêu
nước:


tác giả đã viết bằng những câu văn nào?
+Từ các cụ già tóc bạc…yêu nước ghét giặc.
+Từ những chiến sĩ…những con đẻ của mình.
+Từ những nam nữ công nhân…cho Chính phủ.
Trong mỗi câu văn đó được sắp xếp như thế nào? Theo

trình tự gì? Cấu trúc dẫn chứng ấy có quan hệ với
nhau như thế nào?

+ Liệt kê, dẫn chứng.
+Trình tự: Từ ….đến.
-Trình tự thời gian, không gian.
-Tuổi tác: già - trẻ, …
-Nhiệm vụ: Chiến đấu- sản
xuất...
-Con người, nghề nghiệp: Bộ đội,
công nhân, ...
*Việc làm: chịu đói, nhịn ăn, diệt
giặc, ...
+ Làm sáng tỏ chủ đề đoạn văn:
GV bình, chuyển ý.
lòng yêu nước của đồng bào ta.
Để làm nổi bật tình yêu nước tác giả sử dụng hình ảnh 3. Nhiệm vụ của chúng ta:
so sánh nào?
-Tinh thần yêu nước như các thứ của quý
Em hiểu thế nào về lòng yêu nước trưng bày và lòng
yêu nước giấu kín trong đoạn văn này?
-Khẳng định tình yêu nước khi tiềm tàng kín đáo, khi
bộc lộ rõ ràng.
Tác giả ví tinh thần yêu nước như các thứ của quí
nhằm nói lên vấn đề gì?
-Đề cao tinh thần yêu nước của nhân dân ta, làm cho
người đọc người nghe dễ hiểu về giá trị của lòng yêu
nước.
Tích hợp với môn GDCD giúp học sinh cảm nhận
tinh thần yêu nước bằng những hành động, việc - Ra sức giải thích, tuyên truyền,

tổ chức lãnh đạo làm cho tinh
làm cụ thể, thiết thực từ đó có định hướng đúng đắn thần yêu nước ….công việc
cho bản thân về việc góp sức mình xây dựng đất kháng chiến
-> Cần phải thể hiện lòng yêu
nước theo nguyện vọng của Bác.
nước bằng những việc làm cụ
Thảo luận: Trong khi bàn về bổn phận của chúng ta,
thể.
tác giả đã bộc lộ quan điểm yêu nước như thế nào? Vì
sao tác giả lại bộc lộ quan điểm yêu nước như vậy?
HS quan sát tranh và nhận xét về tinh thần yêu nước
của nhân dân ta trong mỗi thời đại được thể hiện như
thế nào? (Liên hệ bản thân)
Học xong văn bản em có nhận xét gì về cách nêu dẫn
chứng, lập luận của bài văn, cách sử dụng các biện
pháp nghệ thuật của tác giả?
Các biện pháp nghệ thuật đó giúp thể hiện nội dung
như thế nào?
IV.Tổng kết : Ghi nhớ : SGK/27.
GV gọi HS đọc phần ghi nhớ ở SGK/27.
3. Hướng dẫn học tập:
- Kể tên một số văn bản nghị luận của Bác.
-Phân tích tác dụng của từ ngữ, câu văn nghị luận giàu hình ảnh trong văn bản.
- Soạn bài : Câu đặc biệt (Xem và trả lời các câu hỏi SGK/27 – 28).
11


Rút kinh nghiệm: .......................................................................................................................
Bài Ca Huế trên sông Hương (Hà Ánh Minh) (tiết 113 – Ngữ văn 7 - tập 2)
I. Mục tiêu cần đạt (Theo chuẩn kiến thức kĩ năng)

II. Chuẩn bị:
-Giáo viên: Yêu cầu học sinh đọc, sưu tầm tài liệu, tìm hiểu kiến thức liên quan. Xây dựng
giáo án theo các hoạt động dạy học.
-Học sinh: Ngoài soạn, chuẩn bị bài chú ý tìm hiểu các làn điệu dân ca ở các vùng miền trên
đất nước để so sánh và thấy được cái độc đáo của ca Huế trên sông Hương. (Hình chụp cố đô
Huế, thuyền rồng trên sông Hương).
III. Hoạt động dạy học:
1.Ổn định lớp - Kiểm tra bài cũ: Giáo viên kiểm tra sự chuẩn bị bài, sưu tầm, tìm hiểu
kiến thức cần có trong bài học của học sinh ở nhà.
2.Bài mới:
Sau khi tìm hiểu xong bài học về Ca Huế trên sông Hương giáo viên cho học sinh
luyện tập để học sinh biết cách so sánh với dân ca các vùng miền khác trên đất nước để thấy
cái độc đáo của ca Huế trên sông Hương (tích hợp với môn Âm nhạc); quan sát hình ảnh để
hiểu thêm về nét đẹp tinh thần trong văn hóa Huế (tích hợp với môn Mĩ thuật).
Câu 1: GV mở cho HS nghe một đoạn dân ca và yêu cầu học sinh xác nhận bài dân ca
đang nghe thuộc điệu lí nào trong những điệu lí sau:
a.Lí giận thương (dân ca Nghệ Tĩnh).
b.Lí ngựa ô (dân ca Nam Bộ).
c.Lí cây đa (dân ca Bắc Bộ).
d.Lí ngựa ô (dân ca Huế).
Đáp án: d.
Câu 2: Gv yêu cầu học sinh quan sát hai bức ảnh trong sgk và cho biết chúng minh
họa cho hai nét đẹp nào của văn hóa Huế?

Hình a

Hình b

Đáp án:
-Hình a: vẻ đẹp của ca Huế trên sông Hương.

-Hình b: vẻ đẹp của cố đô Huế.
Bài Chiếu dời đô (Lí Công Uẩn) (tiết 90 – Ngữ văn 8 - tập 2)
12


Trong phần mục tiêu cần đạt: Ngoài những kiến thức, kĩ năng cần đạt theo yêu cầu chuẩn
kiến thức kĩ năng giáo viên nên yêu cầu học sinh chuẩn bị thêm kĩ năng sưu tầm tài liệu đó
là kiến thức lịch sử thời Lí, địa thế Hà Nội, tư tưởng của các triều đại phong kiến. Để sau khi
tìm hiểu xong phần bài học ở phần hướng dẫn học tập giáo viên có thể tích hợp ngang trong
bộ môn Ngữ văn bằng cách:
-Giáo viên mời một học sinh khá hoặc giỏi giới thiệu (bằng cách thuyết minh) cho cả lớp
hiểu thêm về hình ảnh Chùa Một Cột – công trình kiến trúc nổi tiếng của thủ đô Hà Nội được
xây dựng từ thời Lí trong sách giáo khoa Ngữ văn 8 - tập 2 trang 49.
-Sau đó GV hệ thống lại nội dung bài học học sinh sẽ hiểu sâu hơn, nắm vững bài học một
cách thiết thực hơn.
Bài Đấu tranh cho một thế giới hòa bình (G.G. Mác-két) (tiết 6, 7 – Ngữ văn 9 tập 1)
I. Mục tiêu cần đạt (Theo chuẩn kiến thức kĩ năng)
II. Chuẩn bị:
-Giáo viên:Theo dõi tình hình thời sự hằng ngày qua ti vi, báo chí, lưu ý những sự kiện quan
trọng để liên hệ với bài học.
+Soạn bài, xem tư liệu có liên quan ( SGK, SGV ).
-Học sinh: Soạn và đọc bài trước ở nhà theo dõi tình hình thời sự hằng ngày qua ti vi, báo
chí, lưu ý những sự kiện quan trọng, ghi chép tóm tắt và liên hệ với bài học.
III. Hoạt động dạy học:
1.Ổn định lớp - Kiểm tra bài cũ: Giáo viên kiểm tra sự chuẩn bị bài, sưu tầm, tìm hiểu
kiến thức cần có trong bài học của học sinh ở nhà.
2.Bài mới: Sau khi tìm hiểu xong phần bài học ở phần hướng dẫn học tập giáo viên có thể
tích hợp kiến thức liên môn (Lịch sử, Mĩ thuật) vào bài học như sau :
GV nêu câu hỏi : Bác Hồ chúng ta đã làm những gì để dân tộc Việt Nam có được như ngày
hôm nay? Bác có những đóng góp gì cho phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới?

-Học sinh có thể trả lời bằng nhiều cách khác nhau dựa trên kiến thức đã học về Lịch sử qua
sự chuẩn bị ở nhà.
-GV chốt một số ý: Bác đã bôn ba khắp năm châu bốn bể để tìm ra con đường cứu nước.
Năm 1917 Bác Hồ trở lại Pháp và gia nhập Đảng Xã hội Pháp năm 1919. Kế đó, thay mặt
“Hội những người Việt Nam yêu nước” tại Pháp Bác gửi đến Hội nghị hòa bình Vesaillels
“Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam” còn gọi là “Yêu sách 8 điểm” đòi chính phủ Pháp
phải thừa nhận quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của nhân dân Việt Nam. Trong suốt
những năm ở nước ngoài cũng như khi về nước, Bác cũng đứng về nhân dân các nước thuộc
địa và kêu gọi họ hãy đoàn kết đấu tranh chống lại hòa bình…. Trên đây chì là một số việc
làm của Bác trong việc đấu tranh nhằm làm cho thế giới hòa bình. Ngoài ra, Bác còn phát
động nhiều phong trào như: diệt giặc đói, giặc dốt, …giúp cho nhân dân ta có cuộc sống tốt
hơn, hạnh phúc và ấm no hơn sau chiến tranh (kiến thức lịch sử).
+Về nhà vẽ tranh thể hiện ý tưởng và nhận thức của bản thân về nguy cơ chiến tranh và
cuộc đấu tranh vì một thế giới hòa bình.
+GV dặn HS chuẩn bị bài mới.
Rút kinh nghiệm:………………………………………………………………………..
c.Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Theo kế hoạch của từng lớp được đề ra trong Đại hội chi đội đầu năm và bản cam kết
chất lượng giữa Gv và Hiệu trưởng. Sau khi các lớp đại hội chi đội và chuyên môn nhà
13


trường thống nhất các cam kết do giáo viên kí và được sự hậu thuẫn vững chắc của Cha mẹ
học sinh nên các lớp chúng tôi tham gia giảng dạy đều thống nhất 100 % học sinh thực hiện
nghiêm túc việc chuẩn bị bài và học bài trước khi đến lớp. Tuy nhiên, Ban cán sự bộ môn,
GVCN, GVBM và Hội cha mẹ học sinh phải có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, nhắc nhở
kiểm tra hằng ngày và báo cáo kịp thời về cho GVBM. Để hai bên có sự hợp tác chặt chẽ thì
ý thức học tập của học sinh sẽ dần nâng cao và đạt chất lượng hơn.
d.Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Đây chỉ là những định hướng chung về phương pháp dạy môn Ngữ văn nói chung và

các phân môn nói riêng theo quan điểm tích hợp nhất là tích hợp kiến thức liên môn vào bài
học và thực tế cuộc sống. Còn vận dụng vào cụ thể từng bài, từng phần, từng khối lớp như
thế nào là tùy thuộc ở sự tư duy sáng tạo của mỗi giáo viên. Việc tích hợp phải tự nhiên, hài
hòa, đúng chỗ, đúng lúc, tránh sự máy móc. Bản thân chương trình đã mang tính tích hợp,
nên việc tích hợp phải được tính toán để phù hợp 45’ lên lớp. Tránh việc quan trọng hóa điều
này để rơi vào tình trạng lan man … Muốn có tri thức để tích hợp trong dạy học, mỗi giáo
viên phải trang bị cho mình một phông kiến thức rộng: Giỏi một môn và biết nhiều môn
khác, ít nhất là trong phạm vi tự nhiên hay xã hội. Trong việc đánh giá bài học của học sinh
nên chú ý tích hợp nhưng không vì thế mà bắt bẻ máy móc. Cần phải xem bài làm đó chỗ
tích hợp có phù hợp, cần thiết không? Lưu lượng đưa vào bài là vừa hay quá ít, quá lớn?
Việc tích hợp như thế đã tự nhiên nhuần nhuyễn hay còn áp đặt, gượng ép. Tuy nhiên, dù thế
nào cũng vẫn phải tuân thủ nguyên tắc: Lấy học sinh làm trung tâm còn thầy đóng vai trò là
người tổ chức hướng dẫn, trò chủ động tích cực hoạt động.
e.Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Kết quả khảo sát học sinh các lớp trước và sau khi chúng tôi áp dụng dạy học Ngữ
văn theo định hướng tích hợp ”lấy học sinh làm trung tâm” qua các giờ kiểm tra sự chuẩn bị
bài học ở nhà của học sinh, kiểm tra 15 phút, 1 tiết và điểm trung bình môn học cuối kì của
các lớp được thể hiện như sau:
Bảng đánh giá kết quả của học sinh các lớp trước khi áp dụng dạy học Ngữ văn theo
định hướng tích hợp:
Lớp

Tổng số
học sinh

7A
7D
8C
8D
9B

9D

35
36
38
36
39
36

Ý thức tự giác học tập
tìm hiểu (bài cũ và chuẩn
bị bài mới, xây dựng bài)
22
33
28
32
20
32

Giỏi
02
20
03
18
04
15

Xếp loại
Trung
Khá

bình
03
17
10
04
5
20
06
10
08
15
08
11

Yếu
15
2
10
02
12
02

Đánh giá kết quả của học sinh các lớp sau khi áp dụng dạy học Ngữ văn theo định
hướng tích hợp:
Lớp

Tổng số
học sinh

Ý thức tự giác học tập

tìm hiểu (bài cũ và chuẩn
14

Giỏi

Xếp loại
Khá
Trung

Yếu


7A
7D
8C
8D
9B
9D

35
36
38
36
39
36

bị bài mới, xây dựng bài)
30
35
33

35
31
34

02
30
03
28
04
25

07
05
10
06
08
08

bình
21
01
20
02
22
03

05
0
05
0

05
0

Với sự đối chiếu bảng đánh giá kết quả học sinh các lớp trước và sau khi áp dụng dạy
học Ngữ văn theo định hướng tích hợp ở trên cho thấy bước đầu chúng tôi đánh giá là khá
thành công. Một là đã tạo ra được phong trào thi đua vận dụng kiến thức liên môn để giải
quyết một vấn đề, tích hợp được nội dung kiến thức. Hai là tạo ra không khí học tập sôi nổi
trong các nhóm học sinh góp phần nâng cao chất lượng cho học sinh. Ba là học sinh đã tích
cực, chủ động bước đầu sáng tạo và có thói quen học tập chủ động. Và quan trọng nhất là
làm cho các tiết học môn Ngữ văn khi tích hợp sẽ giúp bài học gần gũi, hấp dẫn hơn với cả
người dạy và người học.
III/ PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1.Kết luận
Nói tóm lại, đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy học Ngữ văn nói riêng theo
định hướng tích hợp và tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh là một quá trình, không
phải là việc làm ngày một, ngày hai. Nhưng điều quan trọng là mỗi chúng ta ý thức được
việc đổi mới phương pháp dạy học nhất là tích hợp kiến thức là một yêu cầu cấp thiết hiện
nay. Phấn đấu để mỗi tiết học bình thường ở nhà trường, học sinh được hoạt động nhiều hơn,
được thực hành và thảo luận nhiều hơn, và quan trọng hơn nữa là được suy nghĩ và sáng tạo
nhiều hơn.
2. Kiến nghị
Phòng giáo dục nên tạo điều kiện để giáo viên được tham dự các tiết dạy tích hợp của
các giáo viên tham dự đạt giải trong các cuộc thi do Phòng GD và Sở GD tổ chức.
Nhóm thực hiện
Nguyễn Thị Lệ Hoa

Phùng Thị Nhàn

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP TRƯỜNG


..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
15


..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
(Ký tên, đóng dấu)

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP HUYỆN

..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
..........................................................................................................................................
.
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
(Ký tên, đóng dấu)

TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT

TÊN TÀI LIỆU

TÁC GIẢ
16



1

Tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn KTKN môn NXB Giáo dục Việt Nam
Ngữ văn THCS (Tập 1 và 2)

2

SGK, sách hướng dẫn, thiết kế bài giảng Ngữ NXB Giáo dục Việt Nam
Văn lớp 7, lớp 8 và lớp 9.

3

Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn ở NXB Giáo dục Việt Nam
trường THCS

4

Kiến thức Lịch Sử, Địa Lí, Văn hóa, các triều đại NXB Giáo dục Việt Nam
phong kiến Việt Nam

17



×