Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một vài kinh nghiệm hướng dẫn HS đặt vấn đề trong văn nghị luận lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.28 KB, 20 trang )

Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9

PHÒNG GD & ĐT KRÔNG ANA

TRƯỜNG THCS LƯƠNG THẾ VINH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH ĐẶT VẤN ĐỀ
TRONG VĂN NGHỊ LUẬN VĂN CHƯƠNG LỚP 9

Họ và tên: Trần Thị Lệ
Đơn vị công tác: Trường THCS Lương Thế Vinh
Trình độ đào tạo: Đại học
Môn đào tạo: Ngữ văn

Krông Ana, tháng 01 năm 2015

Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

1


Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9

MỤC LỤC
PHẦN
I
MỞ ĐẦU


II
III
KẾT LUẬN,
KIẾN NGHỊ

NỘI DUNG
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
1. Cơ sở lí luận
2. Thực trạng của vấn đề
3. Giải pháp, biện pháp
4. Kết quả
1. Kết luận
2. Kiến nghị
3. Tài liệu tham khảo

TRANG
2
2
3
3
3
3
3-6
6-15
15-16
17

17
19

I. PHẦN MỞ ĐẦU
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

2


Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9

I.1. Lí do chọn đề tài.
Nghị luận văn chương là kiểu bài không chỉ đòi hỏi học sinh nắm bắt được
những giá trị của tác phẩm mà còn phải biết cách tích lũy các kiến thức đã nắm bắt
được trong bộ môn Ngữ văn để diễn thành văn bản trình bày những nhận xét, đánh
giá và những rung động của bản thân về những thành công và hạn chế của nội dung
và nghệ thuật tác phẩm văn chương đó. Cũng có thể nói đây là kiểu bài tương đối khó
đối với học sinh lớp 9 bậc THCS.
Cha ông ta thường bảo rằng: “Vạn sự khởi đầu nan”. Quả thực làm bài văn
nghị luận đã khó, phần đặt vấn đề lại càng khó hơn đối với học sinh. Đây là phần tạo
cảm giác đầu tiên cho người đọc, giúp người đọc đi vào văn bản nghị luận của mình.
Mục đích của mở bài ai cũng biết rõ là nhằm giới thiệu vấn đề mà mình sẽ viết, sẽ
trao đổi bàn bạc trong bài, thực chất là trả lời câu hỏi: Anh (chị) định viết, định bàn
bạc vấn đề gì? Phần này sẽ tạo ấn tượng ban đầu để người đọc có thiện cảm hay ác
cảm đối với bài viết của học sinh. Vì vậy học sinh đặt vấn đề cần phải gọn gàng, hấp
dẫn để tạo ấn tượng cảm xúc tốt cho người đọc và đặc biệt hơn sẽ tạo tâm lí thuận lợi
trong việc tiếp xúc với những phần sau của bài văn.
Thực tế qua quá trình giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy khi làm bài văn nghị
luận văn chương, học sinh còn rất lúng túng trong việc đặt vấn đề. Một số học sinh
không biết cách đặt vấn đề, không biết tách phần mở bài, thân bài, kết bài; một số

học sinh thì không phân biệt được kiến thức nào ở phần mở bài, kiến thức nào đưa
vào phần thân bài nên thường đưa cả những ý trong phần thân bàn lên mở bài. Điều
đó cho thấy học sinh chưa có phương pháp và kĩ năng làm phần mở bài. Vì vậy, tôi
đã tìm tòi tham khảo, đúc rút kinh nghiệm, khái quát thành một số giải pháp giúp học
sinh khắc phục những khó khăn khi tiến hành làm phần đặt vấn đề của kiểu bài văn
nghị luận văn chương.
I. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
a. Mục tiêu
Với việc nghiên cứu đề tài này, mục tiêu đặt ra là giúp học sinh biết cách đặt
vấn đề khi làm các đề văn nghị luận văn học, giúp các em không còn lúng túng khi
làm mở bài cho bài văn nghị luận văn học. Đề tài còn có thể trở thành một tài liệu
giúp ích cho giáo viên đang giảng dạy bộ môn Ngữ văn.
b. Nhiệm vụ
- Đề ra những giải pháp hiệu quả và cụ thể giúp cho học sinh có nhiều cách đạt
vẫn đề, định hướng được yêu cầu của đề ngay khi làm bài văn nghị luận văn học.
I. 3. Đối tượng nghiên cứu

Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

3


Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9

- Học sinh lớp 9A1, 9A2 trường THCS Lương Thế Vinh – Krông Ana – Đắk
Lắk
I. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Đề tài này được nghiên cứu và thử nghiệm tại trường THCS Lương Thế Vinh
- H.Krông Ana – T. Đăk Lăk
- Chỉ nghiên cứu về việc giúp học sinh biết cách đặt vấn đề khi làm bài văn

nghị luận văn học.
I. 5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp thử nghiệm
- Phương pháp vấn đáp
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm

II. PHẦN NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lí luận
Những năm gần đây vấn đề dạy học ở trường THCS luôn là mối quan tâm
hàng đầu của các nhà sư phạm, văn học là nghệ thuật giúp chúng ta thêm yêu cuộc
sống, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của học sinh, thấy được những cái hay, cái đẹp
của tác phẩm từ đó hình thành nhân cách học sinh. Bàn về vấn đề dạy bộ môn Ngữ
văn không chỉ xoay quanh vấn đề dạy cái gì? Mà cần phải dạy như thế nào? Trong
quá trình giáo dục và học tập văn hóa nói chung và Ngữ văn nói riêng đòi hỏi phải
phù hợp với yêu cầu của thời đại ngày nay, trong quá trình dạy học, giáo viên là
người hướng dẫn định hướng còn học sinh phải chủ động tiếp thu kiến thức có lựa
chọn sáng tạo để vận dụng một cách có hệ thống. Trong quá trình các em làm bài
không chỉ chú trọng đến việc các em cảm nhận tác phẩm một cách đơn thuần mà còn
phải đặc biệt chú ý đến sự tiếp thu tác phẩm và sự vận dụng sáng tạo những kiến
thức ấy thông qua một bài nghị luận văn chương cụ thể. Để đạt được điều đó giáo
viên phải rèn cho học sinh kĩ năng làm bài văn nghị luận văn chương. Cụ thể là phần
đặt vấn đề vì phần này là phần khởi đầu của bài viết và cũng là phần rất khó viết của
học sinh.
II.2. Thực trạng
a. Thuận lợi - khó khăn
* Thuận lợi
- Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, sự hỗ trợ của Hội cha mẹ học sinh
trong công tác xã hội hóa giáo dục, các em được học tập trong một điều kiện khá tốt
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana


4


Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9

về cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học, việc dạy học có ứng dụng công nghệ thông tin
đã thu được kết quả tương đối tốt trong công tác dạy học và giáo dục đạo đức, giáo
dục kĩ năng sống cho các em học sinh. Đặc biệt ở bộ môn Ngữ văn, 100% giáo viên
đạt chuẩn, trên chuẩn. Giáo viên được trang bị phương pháp tốt giúp học sinh lĩnh
hội kiến thức một cách tối ưu nhất. Hơn nữa, hiện nay số lượng sách hướng dẫn về
phương pháp làm văn nghị luận rất phong phú, đa dạng và số lượng sách bài văn
mẫu rất nhiều đáp ứng tốt cho việc học tập tham khảo của học sinh. Đây là một
trong những thuận lợi quyết định chất lượng bài văn nghị luận của học sinh.
- Học sinh cũng được làm quen với nghị luận văn chương (kiểu bài biểu cảm)
từ lớp 7 và đã có những định hướng ban đầu về nghị luận.
- Chương trình có sự tác động của các yếu tố lý thuyết tích hợp như: Bố cục
văn bản, mạch lạc trong văn bản, kiên kết trong văn bản.....và học sinh được tiếp cận
với các tác phẩm văn chương chọn lọc, tiêu biểu có giá trị thẩm mỹ cao.
* Khó khăn
- Về phía giáo viên: Một số giáo viên còn hạn chế trong phương pháp nghị
luận, nên khi hướng dẫn học sinh làm bài, giáo viên còn hướng dẫn chung chung.
Học sinh còn rất mơ hồ khi làm phần đặt vấn đề. Thói quen dạy văn bản không có
phần giới thiệu vào bài cũng làm ảnh hưởng đến việc hình thành kĩ năng làm phần
đặt vấn đề của học sinh. Nhiều giáo viên chưa nhấn mạnh cho học sinh vai trò và
tầm quan trọng của phần đặt vấn đề trong bài văn nghị luận. Giáo viên chưa hướng
dẫn cho học sinh những cách thức cụ thể để có thể viết tốt phần đặt vấn đề. Điều này
có ảnh huởng rất nghiêm trọng đến kĩ năng làm phần đặt vấn đề của học sinh.
-Về phía học sinh: Mặc dù các em đã được làm quen với kiểu bài nghị luận ở
lớp 7 nhưng như chúng ta đã biết nghị luận ở lớp 7 là rất khó với học sinh. Đặc biệt

là học sinh ở địa bàn các xã vùng sâu cách xa trung tâm của huyện, tỉnh. Vì thế, các
em ít có cơ hội tiếp xúc với các tài liệu tham khảo, đặc biệt là sách nâng cao. Với
các em, môn Ngữ văn là một môn học trừu tượng nên chưa được chú ý đầu tư. Vì
thế, khi được tiếp cận với kiểu bài nghị luận văn chương ở học kì II của lớp 9, nhiều
em còn rất mơ hồ. Nhiều học sinh khi làm bài kiểm tra đã làm phần mở bài một cách
qua loa, chiếu lệ cho có mà không ý thức được nhiệm vụ của phần này trong toàn bộ
bài văn nghị luận. Một số học sinh chưa biết trình bày phần đặt vấn đề trên một đoạn
văn, có nhiều trường hợp các em không có phần đặt vấn đề mà gộp chung trong
phần thân bài. Nhiều học sinh ghi nhớ máy móc nên chưa biết áp dụng phương pháp
làm phần đặt vấn đề đối với từng dạng đề cụ thể. Học sinh còn nhầm lẫn tác giả,
ngày, tháng, năm sinh, quê quán, sự nghiệp văn chương. Đa số học sinh còn chưa
biết các bộ phận cần thiết phải có của một phần đặt vấn đề và chưa có kĩ năng viết
phần đặt vấn đề bằng nhiều cách khác nhau ứng với mỗi yêu cầu cụ thể của đề.
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

5


Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9

b. Thành công, hạn chế:
* Thành công: Khi tôi cùng với một số đồng nghiệp thực hiện đề tài này, tôi
nhận ra rằng giáo những giáo viên nắm chắc phần văn nghị luận, nhất là nghị luận
văn chương thì việc dẫn dắt học sinh đặt vấn đề rất đơn giản. Giáo viên đưa ra
nhưng cách mở bài khác nhau học sinh sẽ rất hứng thú nhất là những học sinh khá,
giỏi. Bên cạnh đó đề tài còn giúp các em học sinh trung bình, yếu có thể viết mở bài
một cách dễ dàng mặc dù chỉ mang tính khuôn mẫu.
* Hạn chế: Một số giáo viên còn hạn chế trong phương pháp nghị luận nên khi
hướng dẫn học sinh giáo viên chỉ hướng dẫn một cách chung chung, không cụ thể.
Mặt khác như tôi đã nói trong phần khó khăn, dù cho các em đã học văn nghị luận từ

năm lớp 7, thế nhưng rất nhiều em chưa hiểu thế nào là nghị luận, phải làm bài nghị
luận như thế nào. Vì thế, khi tôi thực hiện đề tài này tại lớp 9A1, 9A2 vẫn còn nhiều
em làm phần đặt vấn đề không đúng trọng tâm của đề, nói đúng hơn là lạc đề, có khi
loay hoay mãi không làm xong bài vì mất quá nhiều thời gian để nháp phần mở bài.
c. Mặt mạnh, mặt yếu:
- Như tôi đã nói ở phần thành công, đề tài mà tôi đưa ra đã tạo hứng thú cho
học sinh khi học văn nghị luận văn học, các em không còn thấy khó khăn khi làm
bài viết nghị luận văn học nữa, còn có những em có sự sáng tạo hơn, có những cách
đặt vấn đề rất hay. Thậm chí đối với những giáo viên còn non về chuyên môn, chưa
nắm chắc về văn nghị luận thì nghiên cứu đề tài này sẽ giúp giáo viên hướng dẫn
học sinh làm mở bài một cách dễ dàng, không còn lúng túng khi học sinh hỏi về
những cách mở bài khác nhau.
- Bên cạnh những mặt mạnh, thì đề tài tôi nghiên cứu còn có những hạn chế
nhất định: Chưa thực sự gây hứng thú cho HS yếu kém, ham chơi, lười học, lười suy
nghĩ, các em cứ làm theo khuôn mẫu mà lười sáng tạo. Vì thế nhiều lúc giáo viên
chấm bài cảm thấy nhàm chán, vì mình như đang chấm chính mình, ít gây được
hứng thú.
d. Các nguyên nhân; yếu tố tác động
- Do một số giáo viên nắm chưa chắc phần văn nghị luận nhất là nghị luận văn
chương. Văn khởi phát từ chính tâm hồn, nếu tâm hồn của chúng ta trở nên khô cằn
thì lời văn cũng ít dần đi. Chính vì thế việc trau dồi vốn từ, tìm tòi học hỏi để nâng
cao hiểu biết của mình về chuyên ngành là điều kiện rất cần để dạy Ngữ văn tốt.
- Một trong những nguyên nhân khiến đề tài còn gặp khó khăn khi nghiên cứu
và áp dụng là vẫn còn những em học sinh ham chơi, lười biếng, không chịu suy nghĩ
tìm tòi nên khi ra bài tập thường không làm hoặc ỉ lại vào người khác. Một số em
còn mơ hồ về văn nghị luận văn chương, chưa biết cách làm mở bài.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

6



Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9

- Những vấn đề thực trạng mà đề đã đặt ra khiến tôi trăn chở. Làm sao để khắc
phục những mặt hạn chế và phát huy những mặt mạnh của đề tài? Giáo viên chính là
người trả lời câu hỏi đó. Bởi nếu giáo viên nắm chắc, hiểu sâu về nghị luận văn
chương, vốn từ phong phú, khi giảng văn cách lập luận chặt chẽ, thường xuyên dẫn
dắt vấn đề, chuyển ý ở mỗi phần …thì sẽ tạo cho học sinh thói quen vào vào một
cách tự nhiên. Giáo viên là người hướng dẫn và học sinh là người thực hiện. Giáo
viên hãy hướng các em biết cách mở bài, đặt vấn đề trong những tiết luyện tập,
luyện nói. Trước khi yêu cầu các em hoàn chỉnh một bài viết hãy yêu cầu các em mở
bài theo nhiều cách khác nhau, từ đó các em sẽ nhận ra rằng nếu mở bài đúng thì
viết phần thân bài sẽ đơn giản hơn, đi đúng hướng của đề bài hơn. Làm phần mở
bài cũng giống như người ta đi tìm đường, nếu tìm đúng hướng đi sẽ không bao giờ
bị lạc.
- Bên cạnh đó, học sinh cũng là một nhân tố chiếm 50% sự thành công của đề
tài. Nếu các em chăm ngoan, chịu khó tìm tòi và thực sự yêu thích môn Văn thì các
em sẽ rất thích thú trong những tiết học văn. Bởi lẽ văn là người (văn học là nhân
học), học văn là học làm người. Qua những tiết văn bản ta cảm thụ được những cái
hay, cái đẹp trong cuộc sống, trong tâm hồn của người sáng tạo. Học văn rèn cho ta
cách viết, cách nói và cả cách sống nữa. Nếu các em hiểu được, cảm thụ được thì
việc đặt vấn đề khi làm bài viết nghị luận văn chương sẽ không còn khó khăn và mất
nhiều thời gian nữa.
II.3. Giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp; biện pháp
Thực hiện đề tài này, tôi mong muốn có thể nâng cao được chất lượng học tập
ở môn Ngữ văn của học sinh. Đồng thời tôi cũng muốn đưa ra một vài kinh nghiệm
của mình để có thể giúp đồng nghiệp trong quá trình giảng dạy.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp

b.1.Trước hết giáo viên phải giúp học sinh nắm được cấu tạo cơ bản
thông thường của một phần đặt vấn đề:
- Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài, giáo viên phải cho học sinh xác định
yêu cầu cụ thể của đề bài về thể loại, nội dung, phạm vi, mức độ nghị luận đồng thời
cho học sinh phát hiện những thông tin gợi ý, dẫn nhập trong những đề bài đó. Từ đó
định hướng cho học sinh cách vận dụng những thông tin làm phần đặt vấn đề.
b.1.1. Gợi mở vào đề (có thể):
- Nêu xuất xứ của đề, của một nhận định.
- Nêu lí do dẫn đến bài viết.
- Trích dẫn thơ, tục ngữ, ca dao.
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

7


Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9

b.1.2. Giới thiệu vấn đề: Đây là bộ phận trọng tâm nhất của phần đặt vấn đề,
nhằm tạo tình huống có vấn đề, để ta giải quyết trong phần giải quyết vấn đề:
- Giới thiệu nội dung vấn đề.
- Xác định phương hướng, phương pháp, phạm vi, mức độ giới hạn của vấn đề
( nếu có ).
b.1.3. Chép lại câu văn, câu thơ trích dẫn của đề bài.
Tuy nhiên, để viết các thông tin trên cần lưu ý cho học sinh như sau:
- Một phần đặt vấn đề hay, phải ngắn gọn, súc tích, sát với đề và hấp dẫn đối
với người đọc. Yêu cầu của ngắn gọn là dẫn dắt vài ba câu, nêu vấn đề một vài câu
và giới hạn vấn đề một câu.
- Một phần mở bài hay cần phải đầy đủ: nghĩa là đọc xong mở bài, người đọc
biết được bài viết bàn về vấn đề gì? Trong phạm vi nội dung tư liệu nào?
- Độ dài và dung lượng phần đặt vấn đề nên cân đối với khuôn khổ bài viết

không nên quá ngắn hoặc quá dài. Đặc biệt là phần này phải thể hiện mối liên hệ
chặt chẽ và sự tương ứng về dung lượng lẫn phong cách với phần kết thúc vấn đề.
Một mở bài hay cần tránh:
- Tránh dẫn dắt vòng vo quá xa mải mới gắn được vào phần nêu vấn đề.
- Tránh dẫn dắt không liên quan gì đến vấn đề sẽ nêu.
- Tránh nêu vấn đề quá dài dòng, chi tiết, có gì nói hết luôn rồi thân bài lại lặp
lại những điều đã nói ở mở bài.
b.2. Rèn thói quen diễn đạt có vấn đề.
- Trong quá trình dạy văn bản nghị luận văn chương, giáo viên phải tạo thói
quen giới thiệu về bài giảng trước khi tìm hiểu để học sinh hình thành thói quen đặt
vấn đề và cũng thấy được vai trò và tầm quan trọng của phần đặt vấn đề trong một
bài văn nghị luận. Trong khi dạy tác phẩm, giáo viên cần trang bị cho mình những
kiến thức về phương pháp làm văn nghị luận văn chương cụ thể là phương pháp làm
phần đặt vấn đề để hình thành kĩ năng và thói quen cho học sinh ngay từ khi giới
thiệu về tác giả, tác phẩm. Giáo viên cần định hướng cụ thể giúp học sinh các cách
làm phần đặt vấn đề cụ thể ứng với từng yêu cầu của đề bài để có cách đặt vấn đề
cho phù hợp. Giáo viên hướng dẫn học sinh từ cách dùng từ, đặt câu, dựng đoạn cho
chính xác và có sự hiểu biết cụ thể đối với từng kiểu bài nghị luận để có cách đặt vấn
đề cho phù hợp với yêu cầu đề bài. Giáo viên chú ý thao tác cung cấp cho học sinh
những thông tin cần thiết về tác giả, tác phẩm, những nổi bật về phong cách để học
sinh có thể đặt vấn đề một cách chính xác.

Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

8


Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9

- Ngoài những thông tin đã có trong SGK, giáo viên cung cấp thêm tư liệu,

những đánh giá, nhận xét, những danh hiệu, giải thưởng mà tác tác giả đạt được,
những vấn đề có liên quan đến thời gian tác phẩm ra đời, ảnh hưởng tới người
đọc...để học sinh có vốn kiến thức.
- Đặt yêu cầu quy định với học sinh khi trả lời câu hỏi, luyện tập viết ngắn có
đặt vấn đề (kể cả khi viết và khi nói).
b.3. Giáo viên cung cấp cho học sinh phương pháp làm phần đặt vấn đề
thông qua một số kiểu đặt vấn đề đặc trưng để học sinh có thể lựa chọn để áp
dụng sao cho phù hợp với yêu cầu của đề bài cụ thể.
b.3.1. Bằng cách giới thiệu tác giả, sự nghiệp văn chương, rồi đưa vào tác
phẩm mà đề yêu cầu: Đây là cách mở bài phổ biến và dễ làm nhất với tất cả các đối
tượng học sinh. Trong mục giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm , giáo viên cần
hướng học sinh ghi nhớ những nét chính, nét tiêu biểu về tác giả đó, học sinh phải
nắm được nét tiêu biểu của từng tác giả để phân biệt tác giả này với tác giả khác.Với
cách này, học sinh của tôi đã ghi nhớ rất tốt kiến thức về tác giả, tác phẩm để vận
dụng trong phần mở bài.
*Ví dụ 1:
Đề: Hãy phân tích bài thơ: “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan?
- Đặt vấn đề: Bà Huyện Thanh Quan là một nhà thơ nữ nổi tiếng của dòng văn
học trung đại được nhiều người yêu mến với các tác phâm thơ “ Qua đèo
Ngang”,“Chiều hôm nhớ nhà”, “Thăng Long thành hoài cổ”. Tác phẩm “Qua đèo
Ngang” hấp dẫn độc giả bao thế hệ bằng bút pháp tinh tế điêu luyện tả cảnh ngụ tình
độc đáo. Bà đã mượn cảnh Đèo Ngang trong buổi chiều tà bóng xế để thể hiện tâm
sự hoài cổ kín đáo của mình. Vậy để cảm nhận sâu sắc hơn về bài thơ ta hãy cùng
đến với tác phẩm của bà.
*Ví dụ 2:
Đề: Hãy phân tích bài thơ: “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải.
- Đặt vấn đề: Thanh Hải là nhà thơ giải phóng, được đông đảo độc giả yêu
mến với các bài thơ nổi tiếng “Mồ anh hoa nở” và “Những đồng chí trung kiên”.
Sau ngày nước nhà thống nhất ông vẫn bền bỉ sáng tác. Năm 1980, khi nằm trên
giường bệnh, ông đã sáng tác bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” lời thơ chân thành, mộc

mạc, giản dị nhưng rất đổi thiết tha, gieo vào lòng người bao cảm xúc. Hãy cùng tôi
đến với bài thơ ấy của ông để cảm nhận những nét đặc sắc về nội dung lẫn nghệ
thuật.
*Ví dụ 3:
Đề: Hãy cảm nhận tác phẩm truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana

9


Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9

- Đặt vấn đề: Nhắc đến Nguyễn Đình Chiểu là ta nói đến một nhà thơ yêu
nước tiêu biểu nhất của dòng văn học Trung đại. Nhưng Nguyễn Đình Chiểu còn
được độc giả bao thế hệ biết đến như một nhà thơ ca ngợi đạo lí làm người, đề cao
tiết hạnh của người phụ nữ, đề cao lòng trung hiếu, hành động vị nghĩa của nam giới
mà tác phẩm Lục Vân Tiên là một minh chứng hùng hồn. Các bạn hãy cùng tôi quay
lại dòng văn học Trung đại, tìm đến tác phẩm Lục Vân Tiên của ông để cùng tôi cảm
nhận sâu sắc hơn về tác phẩm.
b.3.2. Bằng cách đi từ hoàn cảnh sáng tác:
* Ví dụ 1:
- Đề: Phân tích bài thơ: “Viếng Lăng Bác”của Viễn Phương?
- Đặt vấn đề: Sinh thời Bác Hồ dành trọn vẹn tình yêu thương cho miền Nam,
đã bao lần Bác khao khát một lần được đến thăm miền Nam, nhưng niềm mong ước
ấy chưa được thực hiện thì Bác đã vĩnh viễn ra đi để lại muôn vàn nỗi tiếc thương
cho dân tộc Việt Nam nói chung và đồng bào miền Nam nói riêng. Vào năm 1976,
nước nhà hoàn toàn thống nhất được một năm, lăng Bác cũng vừa khánh thành Viễn
Phương cùng dòng người xúc động bồi hồi đến Ba Đình thành kính thiêng liêng
dâng lên Bác bài thơ “Viếng Lăng Bác” xiết bao xúc động. Bài thơ là nén hương
trầm thành kính thiêng liêng của Viễn Phương đối với Bác và cũng là của toàn thể

đồng bào miền Nam, dân tộc Việt Nam dâng lên Người cha già kính yêu của dân
tộc. Ta cùng đi vào bài thơ ấy của tác giả để cảm nhận nét đặc sắc về nội dung, nghệ
thuật của bài thơ.
* Ví dụ 2:
- Đề: Chứng minh triết lí sống: “Ân nghĩa thủy chung, uống nước nhớ
nguồn”qua bài thơ: “Ánh Trăng” của Nguyễn Duy.
- Đặt vấn đề: Năm 1978, đất nước ta hoàn toàn độc lập được ba năm. Những
năm tháng chiến đấu gian khổ đã đi qua, người lính gác súng trở về tắm mình trong
niềm hạnh phúc của cuộc sống hiện đại. Họ vội vàng quên đi bao kỉ niệm cùng đồng
đội năm nào. Bài thơ “Ánh Trăng” như một lời tự nhắc thấm thía về thái độ sống: “
Ân nghĩa thủy chung, uống nước nhớ nguồn”, lời thơ như một câu chuyện tâm tình
mà rất đỗi sâu sắc. Vậy ta hãy cùng cảm nhận triết lí sống ấy qua bài thơ: “ Ánh
Trăng” của Nguyễn Duy.
*Ví dụ 3 :
Đề: Có ý kiến cho rằng: “ Hai nguồn cảm hứng vũ trụ,thiên nhiên và lao động
hòa quện làm một trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận”. Phân tích ý
kiến trên.
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana
10


Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9

- Đặt vấn đề: Năm 1958, nhân chuyến đi thực tế vùng mỏ Quảng Ninh, chứng
kiến cảnh lao động tưng bừng, phấn khởi của những Ngư dân lao động làm chủ cuộc
đời, hồn thơ Huy Cận như được tiếp thêm sức sống. Ông thả hồn mình vào những
vần thơ bay bổng, lãng mạn, diệu kì. Bởi thế khi đến với tác phẩm thơ “Đoàn thuyền
đánh cá”của ông có ý kiến cho rằng: “ Hai nguồn cảm hứng vũ trụ,thiên nhiên và lao
động hòa quện làm một”. Để cảm nhận sâu sắc hơn về nhận định trên, ta hãy đến với
bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.

b.3.3. Bằng cách đi từ đề tài, chủ đề của tác phẩm:
* Ví dụ 1:
Đề: Cảm nhận bức tranh mùa xuân qua bốn câu thơ đầu của đoạn trích“ Cảnh
ngày xuân” ( Trích Truyện Kiều Nguyễn Du)
- Đặt vấn đề: Mùa xuân tươi đẹp không biết tự bao giờ đã trở thành nguồn
cảm hứng bất tận của thi ca. Đến với đề tài mùa xuân ta đắm mình vào biết bao áng
văn hay, lời thơ đẹp. Viết về đề tài mùa xuân, Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc đã
gởi đến độc giả bao thế hệ bức bích họa mùa xuân say mê lòng người. Đó là bốn câu
thơ đầu trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”. Vậy để thấy rõ tài năng họa sĩ bậc thầy
của Nguyễn Du, ta cùng đến với đoạn trích ấy.
* Ví dụ 2:
Đề: Chứng minh cuộc đời bất hạnh và số phận bi đát của người phụ nữ qua
dòng văn học cổ.
- Đặt vấn đề: Cuộc đời và số phận người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng cho
bao văn nhân, thi sĩ sáng tác nên các tác phẩm văn học có giá trị. Đến với dòng văn
học cổ, đề tài người phụ nữ luôn ám ảnh văn chương. Bởi cuộc đời người phụ nữ
thật tăm tối bất hạnh, bi đát trong xã hội phong kiến. Xót xa trước số phận thê thảm
của họ, bao văn nhân, thi sĩ rơi lệ. Để thấu hiểu hơn về cuộc đời bất hạnh và số phận
bi đát của người phụ nữ thời ấy, ta hãy cùng quay lại dòng văn học cổ để cùng tôi
chia sẻ, cảm thông với nỗi thống khổ của họ.
* Ví dụ 3:
Đề: Cảm nhận tình yêu làng, tình yêu nước của ông Hai trong tác phẩm
“Làng” của Kim Lân.
- Đặt vấn đề: Đề tài tình yêu quê hương, đất nước luôn là nguồn cảm hứng bất
tận của thi ca. Viết về đề tài này, bao văn nhân, thi sĩ tuôn trào cảm hứng lên đầu
ngọn bút để rồi kết tinh thành bao áng văn hay, lời thơ đẹp có giá trị mãi với thời
gian. Ta cùng đến với dòng văn học kháng chiến, cùng tôi đọc lại tác phẩm “Làng”
của nhà văn Kim Lân cảm nhận tình yêu làng hòa quện trong tình yêu nước thiết tha,
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana
11



Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9

bền chặt của ông Hai. Phải chăng tình cảm ấy cũng là tình cảm thiêng liêng, cao quý
của dân tộc ta trong kháng chiến chống Pháp.
b.3.4. Bằng cách đi từ các câu thơ, câu văn, khúc nhạc cùng đề tài của các
tác phẩm, tác giả khác dẫn tới tác phẩm sẽ nghị luận:
* Ví dụ 1:
Đề: Cảm nhận tình yêu quê hương thiết tha sâu nặng của Tế Hanh trong tác
phẩm “Quê Hương”.
- Đặt vấn đề: Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã từng hỏi:
“ Quê hương là gì hở mẹ?
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ?
Mà ai đi xa cũng nhớ về”.
Vâng! Hai tiếng quê hương sao mà gần gũi và thiêng liêng đến thế. Quê
hương là những gì nhỏ bé, thân thuộc mà gắn bó nhất đối với cuộc đời mỗi người
chúng ta. Bởi ai sinh ra cũng đã có một quê hương thân thương, để ta yêu, để ta nhớ,
để ta cất tiếng gọi hai tiếng thiêng liêng: Quê Hương tự nơi sâu thẳm lòng mình.
Viết về tình yêu quê hương thiết tha, cháy bỏng, Tế Hanh đã thành công tuyệt đối
với bài thơ “Quê Hương”. Để cảm nhận tình yêu quê hương sâu nặng của Tế Hanh,
ta hãy một lần nữa đọc lại và nghiền ngẫm bài thơ.
*Ví dụ 2:
Đề: Chứng minh tình yêu thiên nhiên trong dòng văn học cổ.
- Đặt vấn đề: Hẳn con người Việt Nam ta không ai không biết những câu thơ
quen thuộc:
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn

Mây mù che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.”
Từ những lời thơ đẹp ấy chấp cánh cho ta tìm về quá khứ, đến với dòng văn
học cổ tìm lại những vần thơ ca ngợi thiên nhiên tươi đẹp của quê hương gấm vóc
Việt Nam.
*Ví dụ 3:
Đề: Cảm nhận phong cách thơ của Bà Huyện Thanh Quan.
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana
12


Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9

- Đặt vấn đề: Nhà thơ Trần Lê Văn đã từng nhận xét về Bà Huyện Thanh
Quan:
“ Ôm nỗi cô đơn kiêu hãnh thế
Cầm chặt vần thơ đứng giữa nhân gian”.
Vâng! Quả thế, Bà Huyện Thanh Quan là một nhà thơ nữ tiêu biểu của dòng
văn học Trung đại. Mặc dù số lượng thơ cùa bà không nhiều nhưng ai đã từng đọc
thơ của Bà Huyện Thanh Quan hẳn không thể quên được phong cách thơ trang nhã,
quý phái, đài các và buồn mang mác bởi tâm sự hoài cổ kín đáo của bà. Để hiểu rõ
hơn về phong cách thơ Bà Huyện Thanh Quan ta cùng đến với các tác phẩm của bà.
b.3.5. Bằng cách so sánh, đối chiếu:
*Ví dụ 1: So sánh, đối chiếu giữa tác giả này với tác giả khác cùng một dòng
văn học.
Đề: Phân tích bài thơ “Sang Thu” của Hữu Thỉnh.
- Đặt vấn đề: Nếu tác phẩm thơ “Nói với con” của Y Phương thể hiện một
phong cách thơ mang màu sắc hình tượng của lối tư duy thổ cẩm của người dân tộc
miền núi, để lại dấu ấn khó phai trong lòng người đọc thì tác phẩm thơ “Sang Thu”
của Hữu Thỉnh cũng đi vào lòng người, bởi sự nhẹ nhàng tinh tế và nhạy cảm của
nhà thơ trước cảnh đất trời vào thu. Để cảm nhận sâu sắc hơn khúc giao mùa đặc

biệt ấy ta cùng đến với tác phẩm thơ “Sang Thu” của Hữu Thỉnh.
*Ví dụ 2: So sánh, đối chiếu giữa tác phẩm này với tác phẩm khác của cùng
một tác giả.
Đề: Phân tích bài thơ “Bánh Trôi Nước” của nhà thơ Hồ Xuân Hương.
- Đặt vấn đề: Đến với tác phẩm “Đề đền Sầm Nghi Đống” với những vần thơ
Nôm ngỗ nghịch, đầy khẩu khí, Hồ Xuân Hương đã để lại cho ta niềm tin tưởng vào
tài năng vượt trội nam giới của người phụ nữ. Nhưng đến với tác phẩm thơ “ Bánh
Trôi nước” của bà, bằng lối thơ vịnh vật sắc nét Hồ Xuân Hương đã mang đến cho ta
cả niềm vui lẫn nỗi buồn về vẻ đẹp tâm hồn, cũng như cuộc đời sóng gió không thể
làm chủ được cuộc đời và số phận mình của người phụ nữ. Ta cùng đến với tác
phẩm “Bánh Trôi nước” của Hồ Xuân Hương để cùng tôi cảm thông với nỗi bất
hạnh, cũng như tự hào về những phẩm chất cao quý ấy của người phụ nữ.
b.3.6 .Bằng cách xác định vị trí đoạn thơ trích : (Trong kiểu bài phân tích
một đoạn trích hay một ý kiến, nhận định về đoạn trích)
Ví dụ 1:

Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana
13


Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9

Đề: Có ý kiến cho rằng: “Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh
tâm tình đầy xúc động”. Em có đồng ý với ý kiến đó không.
- Đặt vấn đề: Kiều lòng tự nhủ lòng :
“ Thà rằng thác một thân con
Hoa dù rã cánh lá còn xanh cây”
Tự nguyện bán mình chuộc cha và em, Kiều rơi vào chốn lầu xanh. Không
cam chịu cảnh đời nhục nhã ấy, nàng toan bề tự vẫn. Nhưng mụ chủ lầu xanh sợ mất
cả chì lẫn chài nên đã cứu chữa kịp thời, lấy lời hơn lẽ thiệt khuyên Kiều, hứa sẽ tìm

nơi xứng đáng sẽ gả và không bắt nàng tiếp khách. Tú Bà đã giam lỏng Kiều ở lầu
Ngưng Bích để toan tính một âm mưu khác. Trong nỗi đau đớn tuyệt vọng khôn
cùng, Kiều ở đây: “Đối cảnh sinh tình”. Toàn bộ đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng
Bích” là một bức tranh tâm tình đầy xúc động mà Nguyễn Du đã tài tình khéo léo
miêu tả tình và cảnh của Kiều khi bị đưa ra ở đây.
Ví dụ 2:
- Đề: Phân tích đoạn thơ sau trong bài “Bếp lửa” của Bằng Việt.
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
…..Ôi kì là và thiêng liêng - bếp lửa!”
- Đặt vấn đề:
Viết về người bà trong gia đình, với tình thương và đức hi sinh cao cả, bài thơ
“Bếp lửa” của Bằng Việt là một trong những bài thơ lắng sâu trong tâm hồn tuổi thơ
mỗi chúng ta. Hình ảnh người bà đôn hậu cùng hình ảnh ngọn lửa là hai nét vẽ biểu
cảm của một hồn thơ đẹp, điều đó đã được thể hiện một cách hàm súc qua đoạn thơ
sau:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
…..Ôi kì là và thiêng liêng - bếp lửa!”
b.3.7. Bằng cách đi từ ấn tượng cảm xúc của bản thân về tác phẩm: ( Đối
với kiểu bài phát biểu cảm nghĩ về một tác phẩm hoặc một đoạn trích)
*Ví dụ 1:
Đề: Cảm nghĩ về hình ảnh những chiến sĩ lái xe trong tác phẩm thơ “Bài thơ
về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
- Đặt vấn đề: Đến với dòng văn học kháng chiến chống Mĩ, ta bắt gặp rất
nhiều áng văn hay, lời thơ đẹp. Một tác phẩm để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc nhất
là tác phẩm thơ của Phạm Tiến Duật - Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Bởi toàn bộ
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana
14


Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9


bài thơ là một khúc tráng ca, ca ngợi những chiến sĩ lái xe tuyến đường Trường Sơn
gan góc, dũng cảm, lạc quan sẵn sàng hi sinh vì miền Nam ruột thịt. Vậy để cảm
nhận sâu sắc và thấm thía hình ảnh những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường
Sơn ấy ta cùng đến với tác phẩm thơ đặc sắc “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của
Phạm Tiến Duật.
*Ví dụ 2:
Đề: Cảm nghĩ về tình bà cháu qua bài thơ “Bếp Lửa” của Bằng Việt.
- Đặt vấn đề: Trong chương trình Ngữ văn 9, tôi dã học nhiều tác phẩm hay.
Nhưng tác phẩm mà tôi tâm đắc nhất là tác phẩm “Bếp Lửa” của Bằng Việt. Bởi
toàn bộ bài thơ là một khúc tình ca, ca ngợi tình cảm bà cháu thiêng liêng sâu nặng.
Chính tình cảm ấm áp tràn đầy tình yêu thương của bà dành cho cháu đã thắp sáng
lên trong tim cháu ngọn lửa của niềm tin bất diệt, khiến cháu vững bước hơn trên
mọi nẻo đường đời. Dẫu cháu có tung cánh ở phương trời nào cũng không bao giờ
quên được quê hương nguồn cội nơi có bà với bếp lửa thân thương. Vậy để thấy rõ
hơn tình bà cháu thiêng liêng sâu nặng ấy, ta cùng đến với tác phẩm “Bếp Lửa” của
ông.
- Như vậy, thông qua việc cung cấp, phân tích cho học sinh thấy được: Phần
mở bài trong ví dụ đã sử dụng những thông tin nào. Từ đó với học sinh giỏi, các em
sẽ vận dụng linh hoạt các kiến thức đã có để viết mở bài một cách uyển chuyển. Còn
đối với những em học sinh trung bình và yếu thì việc hình thành cách đặt vấn đề cơ
bản qua các ví dụ của giáo viên có thể còn thiếu sự uyển chuyển nhưng đã như một
công thức để các em biết viết phần đặt vấn đề.
Ví dụ: Nghị luận phân tích
Giới thiệu tác giả + tác phẩm + Giá trị nghệ thuật, nội dung tác phẩm

Ví dụ: Biểu cảm về một tác phẩm (hoặc đoạn trích).
Giới thiệu tác giả + tác phẩm + cảm nhận (ấn tượng) về tác phẩm (đoạn trích)
Ví dụ: Nghị luận về nhân vật văn học (Phân tích hay cảm nhận về nhân vật)
Nhân vật + tác phẩm, tác giả - Đặc điểm của nhân vật (cảm nhận).

c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
- Đối với giáo viên: để thực hiện tốt được những giải pháp, biện pháp này đòi
hỏi giáo viên phải nắm chắc kiến thức về văn nghị luận, nhất là nghị luận văn
chương, chịu khó tìm tòi học hỏi, đọc tư liệu tham khảo để vốn từ phong phú. Mặt
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana
15


Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9

khác giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết được tầm quan trọng của việc đặt
vấn đề trong văn nghị luận, từ đó từng bước tạo cho học sinh thói quen dẫn dắt vào
bài viết theo từng dạng bài cụ thể. Khi giảng bài, giáo viên cần chú trọng những lời
bình giảng, chuyển ý để học sinh hiều cách vào bài là vô cùng quan trọng. Bên cạnh
đó, để học sinh tránh tình trạng lạc đề giáo viên cần chỉ rõ cho học sinh thấy được
tầm quan trọng của việc tìm hiểu đề, từ đó mới xác định được nội dung kiến thức
của đề bài và làm mở bài mới không sai.
- Đối với học sinh: các em phải chịu khó tìm tòi, học hỏi, đọc sách báo, tìm
hiểu các tư liệu về tác giả, tác phẩm, lên lớp chú ý lắng nghe thầy cô giảng bài để thu
nhận kiến thức…Nếu làm được như vậy vốn từ của các em sẽ phong phú, kết hợp
với tư duy sáng tạo thì việc tạo lập một mở bài về nghị luận văn chương sẽ rất dễ
dàng, thậm chí còn rất hay nữa.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
- Các giải pháp, biện pháp luôn quan hệ chặt chẽ với nhau. GV muốn giảng
dạy một tiết văn nghị luận văn học thành công, các em học sinh không lúng túng,
không mất quá nhiều thời gian vào việc nháp mở bài khi làm bài kiểm tra thì giáo
viên phải nắm chắc đặc điểm của văn nghị luận, tạo thói quen cho học sinh dẫn vào
bài bằng cách bắt đầu một bài học mới hay khi chuyển qua phần mới của bài giáo
viên nên dùng lời lẽ dẫn dắt để chuyển ý, đồng thời đưa ra những cách mở bài khác
nhau để học sinh học tập.

- Theo xu thế của thời đại thì chúng ta đang từng bước đổi mới phương pháp
dạy học nhằm phát huy tính chủ động tích cực của học sinh. Giáo viên là người
hướng dẫn học trò là người thi công. Vậy để học sinh làm tốt được phần mở bài đòi
hỏi các em phải nắm chắc kiến thức về thể loại văn học đó, hiểu về nội dung, nghệ
thuật, tác giả, tác phẩm từ đó các em sẽ sử dụng lời văn của mình để liên kết những
nội dung cần thiết và đặt vấn đề. Đầu xuôi thì đuôi mới lọt. Nếu các em mở bài tốt
thì chắc chắn các em sẽ viết phần thân bài một cách dễ dàng. Vì thế những biện pháp
để giúp học sinh làm tốt phần đặt vấn đề mà tôi đưa ra luôn có quan hệ chặt chẽ và
bổ trợ cho nhau. Đối với những học sinh khá, giỏi các em có thể mở bài gián tiếp,
phát huy tính sáng tạo, nhưng với những học sinh trung bình các em có thể làm mở
bài trực tiếp theo những hướng dẫn của giáo viên.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
- Qua quá trình nghiên cứu, khảo nghiệm đề tài tôi đã thu được những kết quả
tương đối khả quan: Nhiều học sinh không còn mất quá nhiều thời gian cho việc
nháp mở bài. Đối với những học sinh khá giỏi, các em đã nhớ những bước hướng
dẫn của cô, sau đó đọc kĩ lại đề, xác định được đối tượng nghị luận và dễ dàng mở
bài, thậm chí các em còn có những mở bài gián tiếp rất hay.
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana
16


Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9

- Đối với những học sinh trung bình, yếu các em đã biết làm mở bài đúng
hướng, mặc dù có tính rập khuôn nhưng cũng đã giúp các em nhận dạng đề và vào
bài dễ dàng. Mỗi khi đến tiết kiểm tra bài viết Tập làm văn các em không dành quá
nhiều thời gian để nháp mở bài. Có những em mở bài không được, hay mở bài lạc
hướng sẽ khiến mất thời gian, thậm chí lạc đề. Khi áp dụng đề tài và khảo nghiệm
hai lớp 9A1, 9A2 tôi thấy tình trạng trên giảm hẳn.
- Từ những kết quả khảo nghiệm trên, tôi nhận thấy rằng đề tài của tôi đưa ra

nghiên cứu thực sự có giá trị khoa học, mang tính thực tiễn. Bởi nó không chỉ giúp
đồng nghiệp của tôi vững vàng hơn khi hướng dẫn học sinh làm văn nghị luận văn
chương mà còn giúp học sinh biết cách mở bài, viết văn tốt hơn.
II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề
nghiên cứu
Qua tìm hiểu và thực hiện giải pháp, năm học 2013 – 2014 khảo sát chất
lượng học sinh làm phần đặt vấn đề qua bài viết số 6 và 7 như sau:
- Ở bài viết số 6
LỚP

SĨ SỐ GIỎI

KHÁ

SL %

SL

T. BÌNH

YẾU

%

SL

%

SL


KÉM
%

SL

9A1

38

5

13.2 15

39.5

18

47.4

0

0

9A2

37

2

5.4


27

19

51.4

5

13.5 1

10

%

2.7

- Ở bài viết số 7
LỚP

SĨ SỐ GIỎI

KHÁ

SL %

SL

T. BÌNH


YẾU

%

SL

%

SL

9A1

38

8

21.1 20

52.6

10

26.3

0

9A2

37


4

10.8 15

40.5

15

40.5

3

KÉM
%

SL

%

0
8.1

0

Rõ ràng khi áp dụng giải pháp hữu ích này vào thực tiễn giảng dạy. Tôi thấy
hiệu quả dạy học tăng lên rõ rệt. Số lượng học sinh giỏi, khá tăng lên, giảm tỉ lệ học
sinh yếu và không còn học sinh kém. Năm học này, tôi đang tiếp tục áp dụng giải
pháp để chuẩn bị cho nghị luận văn chương ở học kì II. Đó là ngay từ khi tìm hiểu
văn bản, tôi đã phải chú trọng đến việc cung cấp cho học sinh những thông tin về tác
giả, tác phẩm như đã trình bày ở phần trên. Chắc chắn, khi học sinh làm tốt phần đặt

vấn đề thì các phần khác trong bài nghị luận sẽ thuận lợi hơn và tổng điểm của bài
văn nghị luận sẽ tăng lên.
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana
17


Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9

Với cách mở bài thông dụng đã được trình bày ở mục 3.1, học sinh yếu kém
cũng đã có những tiến bộ nhất định và đạt được kết quả trong các kì thi học kì và thi
chuyển cấp.
III. Phần kết luận, kiến nghị
III.1. Kết luận:
Như đã đặt vấn đề viết bài văn nghị luận với học sinh lớp 9 khá khó khăn vì
nhiều yếu tố nhưng yếu tố khó nhất với các em là viết được phần đặt vấn đề, viết
được phần dặt vấn đề là các em sẽ viết được bài văn. Vẫn biết là rèn cho các em viết
văn phải rèn toàn diện và với thời gian dài, nhưng tôi vẫn mạnh dạn trình bày những
kiến giải mà tôi đã áp dụng hướng dẫn học sinh có thể viết tốt phần đặt vấn đề, khắc
phục được những hạn chế, khó khăn cho giáo viên cũng như học sinh khi tiến hành
làm phần đặt vấn đề trong hệ thống bài văn nghị luận văn chương.
Trong quá trình viết giải pháp bản thân còn nhiều hạn chế, bài viết còn những
thiếu sót rất mong được sự góp ý chân thành của các thầy cô, các anh chị và các bạn
đồng nghiệp để giải pháp được hoàn thiện hơn. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm
ơn.
III.2. Kiến nghị
Sau khi nghiên cứu đề tài này, tôi thấy kết quả đạt được rất khả quan, vì vậy
tôi rất mong muốn kinh nghiệm mà tôi đúc rút ra qua quá trình giảng dạy có thể giúp
ích cho đồng nghiệp, cho học sinh có những biện pháp hữu ích để làm tốt bài nghị
luận văn học, nhất là khi đặt vấn đề.
Trên đây là một vài kinh nghiệm giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận

văn chương lớp 9. Tôi rất mong nhận được sự góp ý quý báu của Ban giám hiệu
cùng các đồng nghiệp để cho đề tài của tôi được hoàn thiện hơn .
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Buôn Trấp, ngày 15 tháng 01 năm 2015
Người viết

Trần Thị

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana
18


Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9

.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
.......................................................................................................................
Chủ tịch Hội đồng sáng kiến

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách Nghị luận văn chương nhà xuất bản trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Muốn viết được bài văn hay – nhà xuất bản giáo dục, Nguyễn Đăng mạnh
chủ biên.
Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana
19



Một số giải pháp giúp học sinh đặt vấn đề trong văn nghị luận văn chương lớp 9

Trần Thị Lệ - GV trường THCS Lương Thế Vinh- Krông Ana
20



×