Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Thực trạng huy động vốn của các công ty cổ phần tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.99 KB, 15 trang )

Mục lục


Chương 1: Cơ sở lý luận về huy động vốn của các công ty cổ phần
1.1.Khái quát về công ty cổ phần
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về công ty cổ phần tùy theo hệ thống pháp luật của
mỗi quốc gia. Pháp luật hiện hành của Việt Nam không đưa ra định nghĩa cụ thể về công ty cổ
phần mà chỉ đưa ra những dấu hiệu để nhận biết công ty cổ phần. Khoản 1 Điều 77 Luật
doanh nghiệp 2005 có quy định rõ: “Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: Vốn điều lệ
được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số
lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa; Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm
về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào
doanh nghiệp; Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này”.
1.2. Khái niệm về vốn và cấu trúc vốn của công ty cổ phần
1.2.1. Khái niệm vốn:
Bất kì một doanh nghiệp nào muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều cần
phải có các tài sản nhất định. Biểu hiện hình thái giá trị của các tài sản đí chính là vốn của
doanh nghiệp. Vì cậy, điều đầu tiên doanh nghiệp cần phải có là một lượng vốn nhất định. Chỉ
khi nào có vốn doanh nghiệp mới có thể đầu tư các yếu tố đầu vào để thực hiện hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Có rất nhiều khái niệm về vốn nhưng khái niệm được chấp nhận rộng rãi nhất là: “Vốn
của doanh nghiệp là biểu hiện dưới hình thái giá trị của toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô
hình được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận.”
1.2.2. Cấu trúc vốn của công ty cổ phần:
Cũng như các chủ thể kinh doanh khác, để tiến hành các hoạt động kinh doanh, công ty
cổ phần phải có vốn. Là loại hình công ty đối vốn điển hình nên vấn đề vốn của công ty cổ
phần là vấn đề hết sức phức tạp. Vốn của công ty cổ phần có thể được tiếp cận dưới nhiều góc
độ khác nhau. Căn cứ vào nguồn gốc hình thành vốn, vốn của công ty cổ phần được chia
thành: vốn chủ sở hữu (vốn tự có) và vốn tín dụng (vốn vay). Vốn chủ sở hữu là nguồn gốc
vốn thuộc sở hữu của công ty, được hình thành từ nguồn gốc đóng góp của cổ đông và vốn do


công ty cổ phần tự bổ sung từ lợi nhuận của công ty. Vốn tín dụng là nguồn vốn hình thành từ
việc đi vay dưới các hình thức khác nhau như vay ngân hàng, vay của các tổ chức, cá nhân
khác, hoặc vay bằng cách phát hành trái phiếu. Điều quan trọng là công ty cổ phần phải có
một tỷ lệ vốn vay trên cổ phần hợp lý để phản ánh thể mạnh tài chính của công ty, vừa tạo
niềm tin cho các đối tác của mình.
2


1.3. Các phương thức huy động vốn của công ty cổ phần:
Các chủ thể kinh doanh thường muốn có nguồn vốn lớn để mở rộng quy mô sản xuất
kinh doanh. Công ty cổ phần có các cách để huy động vốn: phát hành cổ phiếu, phát hành trái
phiếu và vay vốn ngân hàng.
1.3.1. Phát hành cổ phiếu:
Đây là kênh huy động vốn dài hạn cho doanh nghiệp đồng thời tăng vốn chủ sở hữu. Khi
phát hành cổ phiếu, có hai loại cổ phiếu là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Khi huy động
vốn bằng cổ phiếu thường, sẽ không phải chịu gánh nặng về cổ tức cố định do được thanh toán
cổ tức ít hơn hoặc không cần thanh toán mà không cần thông qua đại hội đồng cổ đông; không
tồn tại nguy cơ của việc hoàn vốn do cổ phiếu không có kỳ hạn cố định, không cần hoàn
trả.Tuy nhiên, chi phí huy động bằng phát hành cổ phiếu thường tương đối cao, tiền cổ tức trả
cho cổ đông thường cao hơn lãi suất trái phiếu. Phát hành cổ phiếu thường còn làm phân tán
quyền kiểm soát của công ty, giảm lợi ích của cổ đông. Đối với cổ phiếu ưu đãi, việc phát
hành không làm hình thành nghĩa vụ của công ty, vừa cố định lại vừa có tính linh hoạt vì
không có thời hạn cố định. Bên cạnh đó, phát hành cổ phiếu không làm phân tán quyền kiểm
soát công ty. Tuy nhiên, chi phí phát hành cổ phiếu ưu đãi cao hơn phát hành trái phiếu, gây ra
gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp do cổ tức cổ phiếu ưu đãi là cố định.
1.3.2. Phát hành trái phiếu:
Phát hành trái phiếu là kênh huy động vốn với mục đích tài trợ dài hạn cho nhu cầu tăng
vốn của doanh nghiệp. Người sở hữu trái phiếu không được quyền tham gia các quyết định
của công ty như sở hữu cổ phiếu, nhưng lại được cam kết thanh toán cả gốc và lãi. Chi phí
phát hành trái phiếu doanh nghiệp thấp hơn phát hành cổ phiếu. Thu nhập doanh nghiệp có

được từ trái phiếu được thánh toán trước thuế thu nhập nên có thể tiết kiệm hơn so với thanh
toán sau thuế. Ngoài ra, phát hành trái phiếu đảm bảo quyền khống chế doanh nghiệp. Nhưng
độ mạo hiểm tương đối cao do có kỳ hạn cố định, thời hạn thanh toán theo định kì gồm cả gốc
và lãi, điều kiện phát hành khá nghiêm ngặt nên số lượng vốn huy động có hạn.
1.3.3. Vay vốn ngân hàng:
Vay vốn ngân hàng là cách huy động vốn truyền thống và khá nhanh. Chi phí vay vốn
thấp hơn chi phí phát hành trái phiếu; chỉ cần thỏa thuận giữa ngân hàng và doanh nghiệp; tính
linh hoạt khá cao. Tuy vậy, vay vốn ngân hàng đòi hỏi khá chặt chẽ các điều kiện vay, kiểm
soát khi vay, cách thức hoàn trả; số vốn huy động có hạn, thường thì việc huy động vốn ngay
trong thời gian nhất định qua ngân hàng sẽ không lớn bằng so với huy động qua phát hành cổ
phiếu hay trái phiếu.
3


Chương 2: Thực trạng huy động vốn của các công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng huy động vốn của công ty cổ phần ở Việt Nam
2.1.1. Thực trạng về nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu
Huy động vốn từ việc phát hành cổ phiếu mới là một biện pháp đang được rất nhiều
doanh nghiệp(DN) quan tâm hiện nay. Rất nhiều doanh nghiệp nhà nước trong tiến trình cổ
phần hóa đã phát hành thêm cổ phiếu mới để thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài. Các doanh
nghiệp cổ phần khác cũng coi đây là một nguồn vốn vô cùng to lớn. Một số doanh nghiệp đã
tăng được vốn chủ sở hữu lên đáng kể khi sử dụng phương pháp phát hành thêm cổ phiếu này.
Một vài điển hình như: Tập đoàn Hoà Phát (HPG) chia cổ phiếu thưởng cho cổ đông với tỷ lệ
10:4. Hiện nay, tập đoàn này có 132 triệu cổ phiếu niêm yết, tương đương với số vốn điều lệ
1.320 tỷ đồng, sau khi chia cổ phiếu thưởng và hoàn thành thủ tục niêm yết, sẽ có thêm 52,8
triệu cổ phiếu sẵn sàng cho giao dịch trên thị trường chứng khoán. Công ty cổ phần Hoá An
(DHA) chia cổ phiếu thưởng cho cổ đông với tỷ lệ 10:3, với số cổ phiếu phát hành thêm là 3,4
triệu cổ phiếu, nâng tổng số cổ phiếu lưu hành trên thị trường lên khoảng 10 triệu. Bên cạnh
đó DHA cũng bán cổ phiếu mới tăng vốn cho cổ đông theo tỷ lệ 10: 2, tương ứng với 2,0 triệu
cổ phiếu, với giá bán 40.000 đồng/cổ phiếu, tương đương số tiền là 80 tỷ đồng.Công ty cổ

phần khoáng sản Bình Định (BMC) phát hành thêm cổ phiếu mới cho cổ đông với tỷ lệ được
mua là 2:1, với giá 20.000 đồng/cổ phiếu. Công ty xi măng Bỉm Sơn (BCC) phát hành 10 triệu
cổ phiếu, trong đó bán cho cổ đông với tỷ lệ 20:1, với giá bán 20.000 đồng/cổ phiếu; và chào
bán rộng rãi ra công chúng theo phương thức đấu thầu với giá khởi điểm là 35.000 đồng/cổ
phiếu. Công ty cổ phần Sông Đà 3 phát hành 6 triệu cổ phiếu bằng chia cổ tức, cổ phiếu và
đấu giá. Đó là chưa kể một số DN bán đấu giá phần vốn Nhà nước: Công ty cổ phần bến xe
tàu phà Cần Thơ và Công ty cổ phần năng lượng kho ngoại quan Cawaco... Hàng loạt doanh
nghiệp khác IPO (phát hành lần đầu ra công chúng) và hàng loạt doanh nghiệp khác phát
hành cổ phiếu mới tăng vốn điều lệ, như Công ty TNHH một thành viên chế tạo máy TKV...
Tổng số vốn của 2 kênh này dự kiến thu hút cũng lên tới 7.000–10.000 tỷ đồng. Điều này có
thể được lí giải bởi những lí do sau đây:
Thứ nhất, DN thực sự cần vốn để thực hiện các dự án mới và mở rộng hoạt động sản
xuất kinh doanh. Mặt khác, đối với các dự án rủi ro cao và kết quả lợi nhuận không thực sự tốt
thì DN cũng có xu hướng dùng vốn cổ phần nhiều hơn so với dùng vốn nợ nhằm tăng tính an
toàn về tài chính.
Thứ hai, DN gặp khó khăn trong việc vay vốn với lãi suất chấp nhận được từ ngân hàng
trong thời gian qua đã làm cho kênh huy động vốn cổ phần được ưu tiên hơn. Thực tế mặt
bằng chung của lãi suất cho vay (cả ngắn hạn và trung dài hạn) hiện khoảng 8%/năm (theo
4


công ty cổ phần chứng khoán Sài gòn-Hà Nội thống kê). Lãi suất này vẫn cao hơn so với tốc
độ tăng trưởng lợi nhuận của các doanh. Chính vì vậy mà tăng trưởng tín dụng tính đến thời
điểm tháng 10/2015 mới đạt 12,51%, chưa đạt mức tăng trưởng mục tiêu mà Ngân hàng Nhà
nước đặt ra vào đầu năm 2015.
Thứ ba, cũng có những doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu chỉ để đảm bảo tỷ lệ cân
đối giữa vốn nợ và vốn chủ sở hữu. Khi doanh nghiệp đang có mức tỉ lệ nợ cao, việc phát
hành thêm sẽ làm giảm tỉ lệ này. Điều này giúp cho doanh nghiệp luôn ở trong trạng thái tài
chính lành mạnh, giảm thiểu rủi ro thanh khoản cũng như nguy cơ vỡ nợ từ nguồn vốn vay.
Thứ tư, khi thị trường định giá cổ phiếu của nó cao hơn giá trị nội tại. Phát hành thêm

trong trường hợp này sẽ tạo ra lợi nhuận tài chính cho công ty, và thực chất là tăng phần lợi
nhuận cho nhà đầu tư hiện hữu.
Theo đánh giá của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, quy mô thị trường chứng khoán Việt
Nam đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng bước đóng vai trò là kênh dẫn vốn
trung và dài hạn quan trọng. Trong suốt thời kỳ từ 2002 -2005, mức vốn hóa thị trường chỉ đạt
trên dưới 1% GDP. Quy mô thị trường đã nhảy vọt mạnh mẽ lên 22,7% vào năm 2006 và tiếp
tục tăng lên mức trên 43% năm 2007. Và sau 15 năm hình thành và phát triển,đến nay thị
trường chứng khoán Việt Nam đã đạt quy mô vốn hóa bằng 32% GDP. Tuy đạt được con số
như vậy nhưng quy mô thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn bị đánh giá là còn nhỏ so với
các nước trong khu vực và những thị trường lâu đời trên thế giới. Mục tiêu quan trọng được
đặt ra của cơ quản quản lý và vận hành thị trường là đưa quy mô vốn hóa thị trường bằng
100% GDP vào năm 2020. Cụ thể giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán qua các năm được
thể hiện qua biểu đồ sau:
Giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán giai đoạn 2000-2014
(đơn vị: nghìn tỉ đồng)
Nguồn: Báo Đầu tư chứng khoán

Qua biểu đồ, có thể thấy:
 Giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán Việt Nam(TTCKVN) tăng trưởng rõ rệt sau
15 năm hình thành và phát triển trở thành một kênh huy động vốn tiềm năng đối với
các công ty cổ phần Việt Nam.
 Từ chỉ đạt 1-2 nghìn tỉ đồng (dưới 1% GDP) trong những năm đầu thành lập,
TTCKVN đến 2014 đã đạt giá trị vốn hóa đến 1156 nghìn tỉ đồng tương đương
32,24% GDP.
 Giai đoạn biến động giảm được lí giải:
- Năm 2008, khủng hoảng kinh tế toàn cầu diễn ra, Việt Nam cũng không nằm
ngoài tầm ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng và thị trường chứng khoán năm
5



-

2008 sụt giảm đáng kể giá trị so với năm trước đó bởi tình hình kinh tế khó
khăn.
Năm 2011, kinh tế biến động xấu với mức lạm phát cao 18%, thị trường bất
động sản đóng băng làm lộ ra nhiều hệ lụy từ ngân hàng, tín dụng đen,….tái cấu
trúc hệ thống ngân hàng, vỡ nợ tín dụng đen dây chuyền ở nhiều địa phương,
ảnh hưởng rất lớn đến niềm tin của các nhà đầu tư, 50000 doanh nghiệp Việt
Nam phá sản trong năm do năng lực sản xuất kinh doanh suy yếu nghiêm trọng
bởi khả năng tiếp cận vốn giảm (lãi suất tín dụng tăng cao, nguồn vốn trở nên
khan hiếm). Với đặc điểm kinh tế như vậy đã kéo theo sự sụt giảm giá trị vốn
hóa TTCKVN.

2.1.2. Thực trạng về nguồn vốn từ phát hành trái phiếu công ty
A, Giai đoạn trước năm 2006
- Số lượng doanh nghiệp huy động vốn qua phát hành trái phiếu còn rất ít, cho thấy kênh
huy động vốn qua phát hành trái phiếu còn rất hạn chế và quá mới mẻ với doanh nghiệp.Các
tổ chức phát hành trong giai đoạn này chủ yếu là các tổ chức tín dụng và rất ít doanh nghiệp
phát hành, cũng có rất ít cty cổ phần phát hành trái phiếu và hầu hết là phát hành trái phiếu
chuyển đổi. Năm 1996, Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) đã phát hành trái phiếu chuyển
đổi ngày 01/7/1996 với tổng mệnh giá 5 triệu USD được chuyển đổi thành cổ phiếu vào năm
1998. Năm 2001, Công ty cổ phần công nghệ thông tin (EIS) cũng đã phát hành trái phiếu
chuyển đổi với tổng mệnh giá 10 tỷ đồng, thời hạn 3 năm và được chuyển đổi vào năm 2004
với hệ số chuyển đổi được xác định trước.
-

Trong giai đoạn này, phát hành trái phiếu quốc tế để huy động vốn nước ngoài cũng đã
được cụ thể hóa trong Nghị định 23/1994/ NĐ-CP của chính phủ song trên thực tế chưa
có ngân hàng thương mại quốc doanh hay doanh nghiệp nhà nước nào phát hành trái
phiếu theo Nghị định này. Nguyên nhân chủ yếu là do Việt Nam có định mức tín nhiệm

rất thấp trên thị trường quốc tế nên mức bù rủi ro đối với trái phiếu rất cao, dẫn đến chi
phí cho việc phát hành cao, vượt quá khả năng chịu đựng của các doanh nghiệp trong
nước.

Như vậy trong giai đoạn 1994-2006, dù nhà nước đã ban hành những quy định tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp phát hành trái phiếu để huy động vốn nhưng trên thực tế phương
thức này vẫn chưa được các doanh nghiệp quan tâm và vận dụng một cách phổ biến, giá trị
vốn huy động thông qua trái phiếu trong giai đoạn này vẫn còn quá ít so với nhu cầu và tiềm
lực của các doanh nghiệp.
B, Giai đoạn từ năm 2006 đến nay
6


Năm 2006, sự ra đời của Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh
nghiệp đã tạo bước ngoặt mới cho sự phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam.
Chủ thể phát hành được mở rộng (bên cạnh các doanh nghiệp nhà nước còn có các công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Thị trường
trái phiếu doanh nghiệp đã có những bước phát triển vượt bậc.
Từ 2006 đến 2010, đã có 35 đợt phát hành của các doanh nghiệp nhà nước với khối
lượng huy động khoảng 32.000 tỷ đồng. Ngoài ra, còn có một số đợt phát hành của doanh
nghiệp tư nhân, tuy nhiên không có hệ thống cơ sở dữ liệu thống kê chúnh thức. Từ 2011
đến hết năm 2012, đã có 30 doanh nghiệp gửi thông báo đăng ký phát hành trái phiếu tại
thị trường trong nước, với khối lượng huy động khoảng 27.500 tỷ đồng. Thống kê cho
thấy có 21 doanh nghiệp đã tổ chức phát hành thành công với khối lượng khoảng 17.000
tỷ đồng.
Về phía công ty cổ phần, huy động vốn qua phát hành trái phiếu chưa phổ biến, số lượng
công ty cổ phần phát hành vẫn còn rất khiêm tốn. Nhưng bên cạnh đó cũng đã có một số công
ty cổ phần phát hành trái phiếu nổi bật như:
-


Năm 2006, Công ty cổ phần đầu tư hạ tầng kĩ thuật TPHCM (CII) huy động được
131,5 tỷ đồng, Công ty cổ phần may Nhà Bè là 36 tỷ đồng.
Trong năm 2008, đã có một số doanh nghiệp lựa chọn giải pháp phát hành trái phiếu ra
thị trường để huy động vốn : Công ty cổ phần địa ốc Sài Gòn thương tín (Sacomreal) đã
thực hiện 2 đợt phát hành vào tháng 2 và 3/2008 với tổng mệnh giá cả 2 đợt là 850 tỷ
đồng. Công ty cổ phần Vincom đã công bố phát hành trái phiếu trong tháng 4/2008 với
tổng mệnh giá đạt 2000 tỷ đồng. Và cũng trong năm này, có 2 gương mặt mới lần đầu
tiên xuất hiện trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp là công ty cổ phần du lịch và
thương mại Vnpearl (5/2008) và Công ty cổ phần Hoàng Anh Gia Lai (9/2008). Hai
công ty này đã chính thức gia nhập thị trường trái phiếu doanh nghiệp bằng việc phát
hành ra thị trường 1000 tỷ đồng trái phiếu cho mỗi công ty.

- Trong năm 2012, tập đoàn Masan đã phát hành thành công 100 triệu USD trái phiểu
chuyển đổi, kỳ hạn 4 năm, lãi suất 5%/năm (tăng 1% sau mỗi năm). Tập đoàn Vingroup đã
phát hành thành công 300 triệu USD trái phiếu chuyển đổi, kỳ hạn 5 năm, lãi suất 5%/năm.

7


Nguồn: ndh.vn

 Trái phiếu doanh nghiệp chỉ chiếm 5,6% GDP, tỉ lệ rất nhỏ so với quy mô toàn thị
trường trái phiếu. Phần nhiều trong thị trường trái phiếu là trái phiếu chính phủ và
trái phiếu được chính phủ bảo lãnh.
 Số lượng doanh nghiệp và lượng vốn huy động từ thị trường trái phiếu doanh
nghiệp còn hạn chế. Các doanh nghiệp huy động vốn thông qua phát hành trái
phiếu chủ yếu là các doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế.
Mặc dù trong những năm gần đây, có nhiều doanh nghiệp quan tâm tới kênh huy động
vốn bằng phát hành trái phiếu doanh nghiệp nhưng nó chỉ đối với các doanh nghiệp lớn, còn
các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì rất khó khăn, khó khăn nhất là lòng tin từ các nhà đầu tư. So

với các nước trong khu vực và trên thế giới, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp/tổng dư nợ trái
phiếu của Việt Nam mới đạt 11% trong khi con số tương ứng của Thái Lan là 33%, Malaysia:
50%, Hàn Quốc là 51%. Điều kiện phát hành trái phiếu hiện nay quy định tại Nghị định 90
quá chặt chẽ như yêu cầu doanh nghiệp phải có lãi. Bởi có những trường hợp doanh nghiệp
cần phát hành trái phiếu để cơ cấu lại tài chính, đang bị lỗ cũng có thể phát hành trái phiếu. Bộ
Tài chính cũng đã đưa ra một số định hướng phát triển cho trái phiếu doanh nghiệp như:
khuyến khích doanh nghiệp huy động vốn trực tiếp trên thị trường, hạn chế sự phụ thuộc quá
mức vào việc cấp vốn qua kênh tín dụng; tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý.
8


2.1.3. Thực trạng về nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại
A, Tín dụng ngân hàng:
Huy động vốn vay ngân hàng là rất quan trọng đối với doanh nghiệp nói chung và các
công ty cổ phần nói riêng. Và đây là một trong những hình thức được sử dụng nhiều nhất
trong các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Theo nghiên cứu của Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam VCCI năm 2011, có đến hơn 74% doanh nghiệp muốn tìm đến vốn
bằng hình thức vay ngân hàng. Đối với cách thức huy động vốn này, doanh nghiệp có thể vay
vốn ngắn hạn hoặc dài hạn, do vậy có thể đáp ứng được nhu cầu về vốn của doanh nghiệp cho
các mục tiêu khác nhau. Thêm vào đó, lãi suất vay ngân hàng được xem là chi phí của doanh
nghiệp, do vậy doanh nghiệp được giảm một phần thuế thu nhập. Tuy nhiên, để vay được vốn
ngân hàng, các doanh nghiệp phải có bản báo cáo kế hoạch sử dụng vốn cụ thể để ngân hàng
thẩm định cũng như có tài sản thế chấp cho các khoản vay đó. Ngoài ra doanh nghiệp cần tuân
thủ những qui định do ngân hàng đề ra trong việc sử dụng nguồn vốn vay. Kết quả là doanh
nghiệp bị giảm sự chủ động trong việc vay và sử dụng vốn vì phụ thuộc vào đánh giá của ngân
hàng cũng như các quy định mà tổ chức tín dụng đã đặt ra.
Mặc dù được sử dụng phổ biến nhất ở Việt Nam, nhưng có thể kể đến những nhược điểm
chủ yếu của phương án này là chi phí vốn khá lớn (lãi suất cao), thủ tục phức tạp, thời gian
thẩm định dự án cho tới khi kí hợp đồng tín dụng và bắt đầu giải ngân có thể tới hàng năm
hoặc hơn, điều này làm lỡ nhiều cơ hội của nhà đầu tư. Thêm nữa, các điều kiện mà ngân hàng

đưa ra thường khá ngặt nghèo, điều kiện cho vay thường là giảm thiểu tối đa rủi ro cho Ngân
hàng. Bù lại chủ đầu tư không phải chia sẻ phần lợi nhuận thu được với bất kỳ ai so với một
vài phương án khác…
Tuy nhiên, sử dụng nguồn vốn này cần lưu ý: không nên chiếm dụng quá nhiều hoặc quá
lâu một khoản nợ nào đó vì nó sẽ ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp với đối tác, với thị
trường hoặc kiện tụng pháp luật, tốt nhất nên có sự thỏa thuận về việc chiếm dụng vốn.

9


Nguồn: Báo điện tử cafef

Từ biểu đồ trên, có thể thấy:
 Tốc độ tăng trưởng tín dụng tăng trưởng cao trong giai đoạn 2001-2011 thể hiện
sự phát triển trong hệ thống các tổ chức tín dụng, ngân hàng trong việc cung ứng
vốn cho doanh nghiệp.
 Tốc độ tăng trưởng chậm lại trong các năm từ 2011 đến gần đây. Lí giải cho sự
biến động này là chênh lệch lãi suất đầu ra - đầu vào thấp, cơ cấu tài sản buộc
phải chuyển dịch sang các tài sản có mức độ sinh lời không cao như trái phiếu
chính phủ, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước.
B, Tín dụng thương mại:
Ở Việt Nam hiện nay, theo thống kê có tới 80,5% số doanh nghiệp huy động vốn từ các
nguồn mua bán chịu, sử dụng vốn của đối tác. Tuy nhiên, những giao dịch đó chỉ mới được
ghi lại một cách đơn giản trên sổ nợ của người bán; ngay cả khi mua bán trả chậm, các bên
cũng chỉ lập văn bản thỏa thuận với nội dung đơn giản về thời gian và số tiền trả chậm. Vì
vậy, các khoản nợ đã không được xác nhận về mặt pháp lí và khó chứng minh khi nảy sinh
tranh chấp; dẫn đến nguy cơ nợ nần dây dưa, thậm chí mất trắng tiền tỷ của các tiểu thương ở
chợ đầu mối…Mặc dù quan hệ tín dụng thương mại mua bán chịu giữa các doanh nghiệp, tiểu
thương đã tồn tại như một quan hệ thực tế khách quan trong nền kinh tế Việt Nam, nhưng phải
tới 1/7/2006 thì luật các công cụ chuyện nhượng mới có hiệu lực, quan hệ này mới chính thức

được pháp luật thừa nhận. Đây được xem như một đông lực thúc đẩy sự phát triển thị trường
mua bán nợ nói triêng và thị trường tiền tệ nói chung.
2.2. Đánh giá thực trạng
10


2.2.1. Thành tựu đạt được
Bước đầu đã thu hút được vốn từ việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty.
Chính phủ đã ban hành những quy định rõ ràng hơn về việc phát hành cổ phiếu và trái
phiếu doanh nghiệp. Luật chứng khoán được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ
1/1/2007 đã tạo khung hành lang pháp lí thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu của các
doanh nghiệp. Như nghị định 52/2006/NĐCP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp đã mở
ra một kênh mới để huy động vốn cho doanh nghiệp, khuyến khích các doanh nghiệp trực
tiếp tham gia huy động vốn trên thị trường để phục vụ mục tiêu đầu tư phát triển của
doanh nghiệp, kể cả mục tiêu tăng quy mô vốn tự có.
Tín dụng ngân hàng vẫn là hình thức huy động vốn chủ yếu của cá doanh nghiệp
nước ta. Hoạt động chủ yếu của các Tổ chức Tín dụng vẫn là huy động và cho vay với các
hình thức tín dụng truyền thống, chiếm từ 75%-80% thị phần cũng như tài sản của hệ
thống ngân hàng. Một số ngân hàng có chiến lược rõ ràng hướng về khu vực doanh
nghiệp vừa và nhỏ, mỗi ngân hàng đã dành một lượng vốn nhất định để cho khu vực
doanh nghiệp này vay. Một số ngân hàng cũng đang thay đổi chế dộ cho vay đối với
doanh nghiệp vừa& nhỏ, có sự linh hoạt hơn, thích hợp hơn với cơ chế thị trường.
Tính đến nay với hơn chục công ty cho thuê tài chính, trên 500 nhân viên chuyên
nghiệp, vốn tự có trên 900 tỷ đồng và vốn đầu tư trên 3000 tỷ đồng, hoạt động cho thuê
tài chính đã đảm bảo nộp ngân sách, có lãi và góp phần hỗ trợ tích cực trong việc cung
cấp các giải pháp tài chính cho doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Mặc dù ra đời chưa lâu nhưng hoạt động cho thuê tài chính của chúng ta đã có những
bước phát triển đáng kể. Cho thuê tài chính thực sự là một kênh dẫn vốn trung và dài hạn
quan trọng, được đánh giá là khá hữu hiệu tạo điều kiện thu hút vốn cho các đơn vị sản
xuất kinh doanh, nhất là với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quy mô hoạt động kinh doanh

cho thuê tài chính phát triển khá nhanh và tăng trưởng vượt bậc qua các năm.
Có một điều rất đáng khuyến khích là trong hoạt động kinh doanh của mình, các
công ty cho thuê tài chính thường không có sự phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế
khác nhau, đối tượng cho thuê tài chính chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh;
các doanh nghiệp đi thuê còn được hưởng lợi lích từ các thành tựu khoa học kĩ thuật tiên
tiến; được hưởng các dịch vụ tư vấn miễn phí và những thông tin cần thiết khác từ những
nhà cung cấp dịch vụ.
Theo đánh giá chung thì hoạt động cho thuê tài chính trong thời gian qua đã dần mở
rộng quy mô với đối tượng cho thuê và thành phần khách hàng tham gia, doanh số cho
thuê ngày một tăng cao, chất lượng hoạt động cho thuê tài chính tương đối tốt, tỉ lệ nợ quá
hạn ở mức cho phép, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước… Tuy nhiên, các công ty cho
thuê tài chính hiện nay nguồn vốn huy động còn ít, hoạt động còn rải rác chủ yếu là ở Hà
11


Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Thêm vào đó thị trường mua bán máy móc, thiết bị cũ
chưa phát triển cũng như chưa tạo được điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt
động cho thuê tài chính ở Việt Nam.
2.2.2. Hạn chế
Thị trường chứng khoán ở Việt Nam mặc dù đã phát triển nhanh chóng nhưng
vẫn chưa đầy đủ, chưa trở thành kênh huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển. Một số
công ty vẫn không muốn niêm yết trên thị trường chứng khoán. Trong khi ở các nước
khác, đây là một vinh hạnh lớn, phải phấn đấu trong thời gian dài mới có đủ điều kiện
niêm yết. Nguyên nhân chính của hiện tượng này liên quan đến lợi ích của công ty khi
niêm yết và không niêm yết. Nghịch lí ở Việt Nam là: Quyền niêm yết đem lại cho công
ty cổ phần khi niêm yết kém quyền lợi mà họ mất đi khi tham gia niêm yết. Đó là khi
không tham gia niêm yết không cần kiểm toán hằng năm, không tốn phí kiểm toán, không
cần công bố thông tin và dễ trốn thuế hơn… Tuy nhiên những cái gọi là “ưu điểm” khi
không tham gia niêm yết chỉ có thể có trong thời điểm giao thời, lúc tranh tối tranh sáng,
và không hoàn toàn bền vững khi nhà nước có những biện pháp quản lí chặt chẽ hơn.

Nhà đầu tư thiếu thông tin, giao dịch chứng khoán qua mạng mới bắt đầu được đầu
tư, cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Giao dịch chứng khoán qua mạng là một hình thức phổ
biến hiện nay trên thế giới. Ở nước ta hình thức này cũng mới bắt đầu xuất hiện nhưng cơ
sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà đàu tư. Sau 15 năm đi vào hoạt động, thị
trường chứng khoán Việt Nam đã thu hút hàng ngàn nhà đầu tư và tổ chức tham gia giao
dịch. Hầu hết là tập trung ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Doanh nghiệp chưa có phương tiện hiệu quả để truyền tải thông tin đến các nhà đầu tư.
Thông tin chưa được lưu trữ, thông kê và sắp xếp để phục vụ cho mọi đối tượng đầu tư.
Nguyên nhân của tình trạng này là do: Các quy định pháp lí chưa được cải thiện, nội dung
bắt buộc công bố chưa bao hàm hết các vấn đề mà nhà đầu tư quan tâm, các công ty niêm
yết chưa chú trọng tới khâu thông tin và quan hệ với nhà đầu tư, Thực trạng này gây ra
hậu quả là:
- Các nhà đầu tư mới rất khó khăn trong viêc tìm hiểu về doanh nghiệp vì mất thời
gian trong việc thu thập thông tin
- Hiện này các trang web về chứng khoán còn thiếu thông tin bằng tiếng Anh, vì thế
rất hạn chế cho các nhà đầu tư nước ngoài nào muốn có cơ hội tiếp cận các nguồn thông
tin.
Việc phát hành chứng khoán mới ra thị trường nước ngoài đang ở giai đoạn thử
nghiệm. Bởi các chuẩn mực kế toán Việt Nam vẫn còn quá nhiều khác biệt so với các
chuẩn mực kế toán thế giới, muốn niêm yết cổ phiếu ở các nước khu vực và xa hơn nữa là
12


toàn cầu thì buộc lòng các doanh nghiệp Việt Nam phải chuyển đổi các báo cáo tài chính
và hàng loạt các báo cáo quản trị nội bộ khác theo yêu cầu của thị trường trong khi đó thì
các nguồn nhân lực của Việt Nam không đủ, còn nếu thuê các công ty tư vấn thì sẽ phải
gánh chịu chi phí hết sức nặng nề.
Vẫn còn tồn tại sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp nhà
nước với doanh nghiệp phi nhà nước, doanh nghiệp nhà nước thì dễ vay ngân hàng hơn.
Vẫn tồn tại thực trạng ưu tiên cho khu vực kinh tế nhà nước từ lĩnh vực kinh doanh, tài

chính cho đến tín dụng, ngân hàng và các vấn đề khác. Trong kinh doanh, còn nhiều lĩnh
vực kinh tế tư nhân không được làm như kinh tế nhà nước. Về vốn, việc tiếp cận đến
nguồn vốn của khu vực tư nhân còn nhiều khó khăn, nhất là vốn vay ưu đãi.
Khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn hạn chế, nguyên
nhân có từ hai phía: Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn thiếu các điều kiện vay vốn
còn các tổ chức tín dụng thì lại lo sợ vấn đề an toàn vốn vay. Do đó việc phân bổ tín dụng
vẫn được xem còn nhiều ưu tiên hơn cho các doanh nghiệp nhà nước, nhất là tập trung
nhiều vốn cho một số tổng công ty. Cơ cấu nguồn vốn cũng như cơ cấu đầu tư chưa phù
hợp và đáp ứng yêu cầu đầu tư trung dài hạn cho các công trình hạ tầng cơ sở có tính chất
nền tảng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là lĩnh vực nông nghiệp nông thôn.
Theo điều tra của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ có 1/3 doanh nghiệp vừa và nhỏ có
khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, 1/3 khó tiếp cận và 1/3 không tiếp cận được.
Không ít doanh nghiệp vừa và nhỏ cho rằng, thủ tục các ngân hàng đặt ra là "quá sức" đối
với doanh nghiệp. Ngay cả khi có chính sách ưu đãi của Chính phủ cũng chỉ có 5-10% số
doanh nghiệp vừa và nhỏ được vay.Định giá tài sản doanh nghiệp chưa tốt. Tài sản của
doanh nghiệp thường bị định giá thấp hơn giá trị thực tế. Doanh nghiệp vay được ít hơn
và ảnh hưởng đến các quyết định của doanh nghiêpk. Các doanh nghiệp cần vốn không đủ
điều kiện vay vốn, khó có thể tiếp cận được với nguồn vốn này.
Theo đánh giá chung thì hoạt động cho thuê tài chính trong thời gian qua đã dần mở
rộng quy mô với đối tượng cho thuê và thành phần khách hàng. Tuy vậy, vẫn còn tồn tại
những vấn đề sau:
- Việc quy định nguồn vốn huy động còn có những bất cập. Theo pháp luật thì số
vốn đầu tư cho các doanh nghệp đi vay không thể vượt quá 30% vốn điều lệ của công ty.
Nhưng trên thực tế các quy định này đang cản trở cho các hoạt động của công ty cho thuê
tài chính. Bởi vì với quy định như trên thì phần lớn việc đầu tư chỉ dừng lại ở các công ty
vừa và nhỏ. Việc huy động được nguồn vốn cũng như khả năng tích lũy của các công ty
cho thuê tài chính là rất khó khăn trong khi việc phát hành giấy tờ có giá gần như không
thực hiện được vì cần phải có sự đồng ý của ngân hàng nhà nước.
13



- Hoạt động cho thuê tài chính của chúng ta hiện nay còn phát triển khá manh mún
và chưa có chiến lược phát triển cụ thể trong tương lai, trong đó vẫn đề nhu cầu thị trường
chưa được tập trung nghiên cứu làm ảnh hưởng đến chinh sách huy động vốn. Ngoài ra
thì hoạt động thuê mua ở Việt Nam còn khá đơn điệu, lãi suất chưa thực sự hấp dẫn và
phần lớn các công ty cho thuê tài chính đều chưa thành lập hệ thống các chi nhánh
- Phải nói đến những hạn chế rất phổ biến hiện nay đó là các công ty cho thuê tài
chính chưa thiết lập được các mối quan hệ sâu rộng đến các cơ sở cung ứng máy móc
thiết bị và đội ngũ cán bộ cũng thiếu những chuyên gia giỏi để nám vững khoa học công
nghệ tiên tiến.
- Việc phân biệt giữa cho thuê tài chính và các giao dịch cho thuê thông thường khác
chưa thật sự rõ ràng.
- Vấn đề quyền được thu hồi tài sản khi bên thuê vi phạm hợp đồng cũng là một
trong những vấn đề gây bàn cãi. Trong thực tế, quyền này gần như không thực hiện được
vì bên thuê thường không chịu giao tài sản, nếu không có sự hỗ trợ của các cơ quan thi
hành pháp luật. Việc bán tài sản cho bên thứ ba lại phải được sự đồng ý của bộ Thương
mại và như vậy gây nên vấn đề truy thu thuế nhập khẩu.
- Cuối cùng là vấn đề quảng cáo, tuyên truyền cho các công ty cho thuê tài chính
vẫn chưa được chú trọng.

Chương 3: Một số giải pháp nâng cao huy động vốn cho các công ty cổ phần
hiện nay
Tăng hiệu quả huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu, giảm sự phụ
thuộc quá nhiều từ vốn vay ngân hàng, tín dụng thương mại. Để đạt được điều này, quan
trọng nhất là nâng cao hiệu quả phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Đối với
bản thân công ty cổ phần, cần: tăng vốn sản xuất kinh doanh, thu hút các nguồn lực cần
thiết; mở rộng quy mô, tăng sức cạnh tranh; tăng hiệu quả, lợi nhuận kinh doanh, việc
làm; cải thiện về thu nhập và dân chủ về kinh tế cho các cổ đông, người lao động … Đối
với Nhà nước, tạo động lực phát triển đầy đủ, hoàn thiện thị trường chứng khoán, đẩy
mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, nâng cao uy thế quốc gia trên trường quốc

tế thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán trong nước, tạo điều kiện
cho các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài tiếp cận thị trường chứng khoán
thuận lợi. Về phía các nhà đầu tư, cần nâng cao hiểu biết trong hoạt động đầu tư, tránh
tình trạng chạy theo tâm lý đám đông, thiếu hiểu biết gây ra những biến động xấu cho thị
trường.
14


Một số giải pháp đối với doanh nghiệp để có thể vay được vốn ngân hàng nhiều
hơn: Doanh nghiệp phải tạo uy tín với ngân hàng, thanh toán nợ đúng hẹn, lập các báo
cáo tài chính đầy đủ… Doanh nghiệp cần có những dự án kinh doanh hiệu quả để ngân
hàng dễ cho vay hơn, và có thể được số vốn như mong muốn. Tăng cường cơ cấu lại nợ,
đặc biệt tập trung cơ cấu lại nợ cho các đối tượng là doanh nghiệp vay tín chấp không có
tài sản thế chấp và có khả năng tiêu thụ được hàng hóa. Đẩy mạnh việc thành lập của Quỹ
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, trên cơ sở đó đưa ra những cơ chế cụ thể nhằm sớm
triển khai các hoạt động bảo lãnh vốn vay ngân hàng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Để khắc phục những tồn tại của cho thuê tài chính, bên cạnh việc đẩy mạnh việc
tuyên truyền , quảng cáo thì quan trọng hơn chúng ta phải nhanh chóng hoàn thiện môi
trường pháp ló để các công ty cho thuê tài chính có thể tham gia thị trường liên ngân
hàng, tiếp xúc với các nhà đầu tư nước ngoài, sớm có những hoạt động thiết thực nhằm
tiến tới thành lập Hiệp hội cho thuê tài chính tại Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:
-

Bài viết “Phát hành thêm cổ phiếu: Đong đếm lợi-hại” trên website
đăng ngày 11/09/2010
Bài viết “Lãi suất đang chịu sức ép tăng trong những tháng cuối năm” trên website của
công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn – Hà Nội, đăng ngày 29/05/2015
Bài viết “Tín dụng 2015: Tiếp tục nới rộng mục tiêu” đăng trên website


Bài viết “Hướng đến quy mô vốn hóa thị trường chứng khoán bằng 100% GDP” báo
Vietnamplus, đăng ngày 31/07/2015
Bài viết “5 năm dư chấn khủng hoảng tài chính thế giới tại Việt Nam” báo Vnexpress,
đăng ngày 16/9/2013
Bài viết “Không nên chạy theo tăng trưởng tín dụng” báo điện tử cafef, đăng ngày
01/09/2014
Bài viết “Tăng trưởng tín dụng giảm: Các ngân hàng lại làm xiếc số liệu?” báo Đầu tư
chứng khoán, đăng ngày 24/7/2014
Bài viết “Cần giải pháp tháo gỡ vốn cho các doanh nghiệp” báo vietnamplus, đăng ngày
10/05/2011

- Bài viết “Năm 2012, quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam chiếm 21,6% GDP” báo
-

ndh.vn đăng ngày 17/01/2013
Giáo trình “Tài chính học” - Học viện ngân hàng

15



×