Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Thực trạng tuân thủ vệ sinh tay đúng thời điểm và các yếu tố liên quan đến sự tuân thủ vệ sinh tay đúng thời điểm của nhân viên y tế tại một số khoa của bệnh viện nhi đồng Cần Thơ năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (631.94 KB, 73 trang )

SỞ Y TẾ TP. CẦN THƠ
BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG

.......

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ

THỰC TRẠNG TUÂN THỦ VỆ SINH TAY
ĐÚNG THỜI ĐIỂM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
ĐẾN SỰ TUÂN THỦ VỆ SINH TAY ĐÚNG THỜI ĐIỂM
CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ TẠI MỘT SỐ KHOA
CỦA BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG CẦN THƠ NĂM 2015

Chủ nhiệm đề tài: CKI ĐD. Trần Thị Thu Hà
Cộng sự chính: ThsĐD. Lữ Mộng Thùy Linh
CĐĐD. Lê Ngọc Điệp
CĐĐD. Lê Ngọc Hằng

Cần Thơ, năm 2015


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TIẾNG VIỆT
• BV:

Bệnh viện

• CCTH:

Cấp cứu tổng hợp


• HSTC – CĐ:

Hồi sức tích cực – Chống độc

• NKBV:

Nhiễm khuẩn bệnh viện

• NVYT:

Nhân viên y tế

• VST:

Vệ sinh tay

TIẾNG ANH


AIDS (Acquired immunodeficiency syndrome): Hội chứng suy giảm
miễn dịch mắc phải

• CDC (Centers for Disease Control and Prevention): Trung tâm kiểm soát
và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ


MRSA (Methicillin-resistant Staphylococcus aureus): Tụ cầu vàng
kháng kháng sinh Methicillin

• NCPAP (Nasal continuous positive airway pressure): Hệ thống thở áp

lực dương liên tục qua mũi
• WHO (World Health Organization): Tổ chức Y tế Thế giới.

ii


MỤC LỤC
...............................................................................................................................1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.......................................................................1
MỤC LỤC..............................................................................................................2
ĐẶT VẤN ĐỀ.......................................................................................................1
Chương 1................................................................................................................4
TỔNG QUAN TÀI LIỆU......................................................................................4
1.1 Mốc lịch sử của vệ sinh bàn tay .................................................................4
1.2 Nhiễm khuẩn bệnh viện...............................................................................6
1.2.1 Định nghĩa NKBV.....................................................................................6
1.3 Mối liên quan giữa tuân thủ vệ sinh tay và tỉ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện . . .7
1.4 Tầm quan trọng vệ sinh tay ..........................................................................8
1.5 Định nghĩa sự tuân thủ vệ sinh tay................................................................9
Bảng 1.1 Phân biệt VST bằng xà phòng và sát khuẩn tay nhanh [2] ...............11
1.6 Một số nghiên cứu liên quan.......................................................................11
Chương 2..............................................................................................................16
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.........................................16
2.1 Đối tượng nghiên cứu.................................................................................16
2.2 Phương pháp nghiên cứu............................................................................16
2.3 Biến số nghiên cứu......................................................................................17
Đặc tính mẫu nghiên cứu:................................................................................17
- Tuổi: lấy năm hiện tại trừ đi năm sinh...........................................................17
- Giới tính: có hai giá trị là nam hoặc nữ.........................................................17
- Nghề nghiệp (chuyên môn): gồm 4 giá trị là: bác sĩ, điều đưỡng, bảo mẫu và

hộ lý..................................................................................................................17
- Thâm niên công tác: là thời gian công tác trong ngành, có 3 giá trị: < 2 năm,
từ 2 – 5 năm và trên 5 năm...............................................................................17
- Thời điểm khảo sát: gồm 3 giá trị là sáng, chiều và đêm.............................17
iii


- Sỗ bệnh nhân chăm sóc: là biến định lượng, số người bệnh mà một NVYT
cần chăm sóc.....................................................................................................17
Các thời điểm vệ sinh tay: có 5 thời điểm ......................................................17
- Trước tiếp xúc người bệnh............................................................................17
- Trước thực hiện kỹ thuật vô khuẩn...............................................................17
- Sau tiếp xúc người bệnh................................................................................17
- Sau nghi ngờ hoặc tiếp xúc máu, dịch tiết.....................................................17
- Sau tiếp xúc môi trường xung quanh người bệnh..........................................17
Tại mỗi thời điểm có 3 giá trị là: sát khuẩn tay nhanh, rửa bằng xà phòng và
không rửa tay....................................................................................................17
Đối tượng được sát định tuân thủ rửa tay khi thực hiện rửa tay nhanh hoặc
bằng xà phòng tại 5 thời điểm mà cán bộ khảo sát được..................................17
2.4 Công cụ và phương pháp thu thập số liệu..................................................18
2.5 Xử lý số liệu................................................................................................19
2.6 Đạo đức trong nghiên cứu..........................................................................19
Chương 3..............................................................................................................20
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..................................................................................20
3.2 Tỉ lệ tuân thủ vệ sinh tay.............................................................................21
3.3 Một số yếu tố liên quan đến tuân thủ rữa tay..............................................26
Chương 4..............................................................................................................30
BÀN LUẬN.........................................................................................................30
4.1 Đặc tính mẫu của đối tượng nghiên cứu.......................................................30
Qua kết quả nghiên cứu chúng tôi ghi nhận một số đặt điểm về đặc tính chung

của đối tượng như sau: về phân bố độ tuổi của đối tượng chúng tôi nhận thấy các
đối tượng chủ yếu có độ tuổi ≤ 35 với 74,2% và các đối tượng còn lại là trên 35
tuổi. Các đối tượng đa phần là những người vẫn còn trẻ đó là một lợi thế do họ
có thể tiếp xúc học hỏi được những đề mới trong công tác, nhanh nhẹn trong
công việc, tuy nhiên vẫn có những điểm còn hạn chế như về kinh nghiệm làm
việc hay tuổi trẻ thì thường ít cẩn thận bằng những người lớn tuổi. Còn về phân
iii


bố theo giới tính của đối tượng thì chúng tôi ghi nhận tỷ lệ nam giới chiếm hơn 3
lần so với nữ giới (77,5% và 22,5%). Nam hay nữ thì không quan trọng trong
công tác, nhưng có một điểm chúng ta cần chú ý đó là tính cách của mỗi giới. Nữ
thì thường cẩn thận, tỉ mĩ hơn so với nam giới tuy nhiên điều này không phải lúc
nào cũng đúng mà còn tùy thuộc vào tính cách của từng người..........................30
Về trình độ chuyên môn của các đối tượng nghiên cứu, chúng tôi nghiên cứu tại
3 khoa của bệnh viện Nhi đồng Cần Thơ là khoa sơ sinh, hồi sức tích cực –
chống độc và cấp cứu tổng hợp thì chúng tôi ghi nhận tỷ lệ đối tượng điều dưỡng
là cao nhất với 70,8%, tiếp đến là bác sĩ với 16,9%. Điều này cũng hoàn toàn
hợp lý trong bối cảnh y tế của Việt Nam nối chung và của Bệnh viện Nhi đồng
Cần Thơ nối riêng, điều dưỡng là những người trực tiếp hàng ngày chăm sóc và
theo dõi bệnh nhân có tiếp xúc nhiều với người bệnh, bác sĩ cũng tiếp xúc hàng
ngày nhưng thời gian là ít hơn, còn những đối tượng khác như bảo mẫu thì
thường xuyên tiếp xúc với trẻ sơ sinh hay hộ lý thì chủ yếu tiếp xúc với những
môi trường xung quanh bệnh nhân. Về thăm niên công tác của các đối tượng thì
chúng tôi nhận thấy sự phân bố có chênh lệch những không quá lớn với tỷ lệ cao
nhất là các đối tượng có công tác từ trên 5 năm với 44,9%. Các đối tượng có
thâm niên càng nhiều năm chứng tỏ có nhiều kinh nghiệm hơn so với những đối
tượng có thâm niên thấp, tuy nhiên chúng ta cần chú ý do những đối tượng này
đã làm nhiều năm nên có khi họ chủ quan trong một số công việc.....................31
Chúng tôi tiến hành khảo sát các đối tượng nghiên cứu tại ba thời điểm trong

ngày là sáng, chiều và đêm. Qua đó chúng tôi ghi nhận tỷ lệ quan sát là theo thời
điểm là phân bố tương đối đều nhau, với tỷ lệ đối tượng quan sát cao nhất vào
buổi sáng với 41,6%, tiếp đếm là quan sát vào đêm với 37,1% và còn lại được
quan sát vào buổi chiều với 21,3%. Tại các thời điểm quan sát có thể có ảnh
hưởng đến đến công việc của đối tượng, như tại thời điển buổi sáng các đối
tượng là bác sĩ hay điều dưỡng phải làm việc nhiều hơn, phải đi chăm sóc, thăm
bệnh, tiêm thuốc… còn vào chiều và đêm thì công việc ít hơn hoặc với khoa cấp
cứu thì công việc của họ là liên tục ngày hay đêm. Điều này có thể dẫn tới một
iii


số vấn đề như quá bận với công việc nên quên hoặc bỏ qua một số việc làm cần
thiết trong quá trình làm việc. Còn về số bệnh nhân mà mỗi đối tượng cần chăm
sóc (không kể những đối tượng là hộ lý) có phân bố như sau: tỷ lệ nhân viên phải
chăm sóc từ 1 – 5 bệnh nhân có tỷ lệ cao nhất với 61,0%, tiếp đến là 6 – 10 bệnh
nhân với 23,2% và thấp nhất là trên 10 bệnh nhân với 15,9%. Một nhân viên mà
phải chăm sóc cho quá nhiều bệnh nhân thì có ảnh hưởng rất lớn đến hành vi
cũng như là cảm xúc của nhân viên đó, có thể do họ quá bận nên họ kịp làm
những công việc theo đúng quy trình của nó, nhất là đối với những bệnh viện
đang xảy ra việc quá tải bệnh nhân như Bệnh viện Nhi đồng Cần Thơ hiện nay.
..............................................................................................................................32
4.2 Tỉ lệ tuân thủ vệ sinh tay................................................................................32
Rửa tay là một trong những công việc rất cần thiết để giữa sạch đôi bàn tay nhất
là đối với các nhân viên y tế những người thường xuyên tiếp xúc với người bệnh,
bàn tay là nơi có rất nhiều vi khuẩn trú ở có thể gây ra nhiều bệnh khác nhau,
đường bàn tay cũng là một trong những nguyên nhân gây ra nhiễm trùng bệnh
viện phổ biến nhất, những điều này đã được các nhà khoa học chứng minh.
Theo Tổ chức Y tế thế giới thì có 5 thời điểm mà người nhân viên y tế bắt buộc
phải vệ sinh tay, qua nghiên cứu chúng tôi ghi nhận tỷ lệ tuân thủ rửa tay theo
từng thời điểm của nhân viên y tế tại Bệnh viên Nhi đồng Cần Thơ như sau: tại

thời điểm trước tiếp xúc với bệnh nhân thì có 67,5% các NVYT thực hiện rửa tay
bằng cách sát khuẩn nhanh hoặc bằng xà phòng. Tại thời điểm trước thực hiện
các kỹ thuật vô khuẩn thì có 89,7% NVYT thực hiện rửa tay. Tại thời điểm sau
khi tiếp xúc bệnh nhân thì có 83,1% NVYT thực hiện rửa tay. Tại thời điểm sau
nghi ngờ hoặc tiếp xúc với máu, dịch tiết thì có 98,2% NVYT thực hiện rửa tay
và tại thời điểm sau tiếp xúc môi trường xung quanh bệnh nhân thì có 61,8%
NVYT thực hiện rửa tay. Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Kim Liên thì
tỷ lệ tuân thủ rửa tay theo 5 thời điểm đều thấp hơn so với nghiên cứu của chúng
tôi, các tỷ lệ này lần lượt là 48,9% trước khi tiếp xúc bệnh nhân, 54,3% trước khi
làm thủ thuật, 73,3% sau nguy cơ phơi nhiễm với dịch tiết, 59,7% sau khi tiếp
iii


xúc bệnh nhân, 48,7% sau khi tiếp xúc môi trường xung quanh bệnh nhân [6]. Sự
khác nhau này có thể là do sự khác nhau về thời gian nghiên cứu, nghiên cứu của
chúng tôi được thực hiên sau này nên việc rửa tay ngày càng được ngành y tế
quan tâm hơn. Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT đã được cải
thiện, tuy nhiên vẫn còn một bộ phân không hề nhỏ các NVYT vẫn chưa tuân thủ
đúng việc vệ sinh tay trong những thời điểm có thể gây ra những nhiễm trùng
cho người bệnh mà điều này là hết sức nghiêm trọng.........................................33
Còn về tỷ lệ tuân thủ rửa tay đầy đủ cả 5 thời điểm của NVYT chúng tôi ghi
nhận được là 44,9%. Tỷ lệ này của chúng tôi thấp hơn trong nghiên cứu của Trần
Thị Thanh Hà, trong nghiên cứu của mình tác giả này ghi nhận tỷ lệ tuân thủ vệ
sinh tay của NVYT là 62% [7], còn trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị
Kim Liên cũng ghi nhận tỷ lệ cao hơn trong nghiên cứu của chúng tôi với 55,3%
NVYT tuân thủ rửa tay [6]. Nhìn vào kết quả trên chúng ta có thể nhận thấy có
một điều hơi bất hợp lý là tại 5 thời điểm cần phải vệ sinh tay thì tỷ lệ trong từng
thời điểm của nghiên cứu chúng tôi cao hơn các nghiên cứu của các tác giả trên,
tuy nhiên vấn đề tuân thủ rửa tay chung lại thấp hơn. Theo tôi việc này có thể là
do sự quá tải của bệnh viện làm cho các thời điểm khác nhau mà NVYT đó có

thể quên hoặc không chú ý nhiều đến vấn đề rửa tay hoặc có thể là do một sự chủ
quan của các NVYT đây là những vấn đề cần khắc phục của các NVYT tại Bệnh
viên Nhi đồng Cần Thơ........................................................................................34
Tại mỗi khoa của bệnh viện có một chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng vẫn
với một mục đích chung là chăm lo cho sức khỏe của người bệnh. Trong nghiên
cứu chúng tôi ghi nhận về tỷ lệ tuân thủ rửa tay của từng khoa như sau: khoa sơ
sinh với tỷ lệ tuân thủ rửa tay là 55,6% đây là khoa có tỷ lệ tuân thủ rửa tay cao
nhất trong 3 khoa, khoa Hồi sức tích cực – chống độc có tỷ lệ tuân thủ rửa tay
thấp nhất trong 3 khoa với 27,3% và khoa Cấp cứu tổng hợp với tỷ lệ 40,9% các
NVYT tuân thủ rửa tay. Tỷ lệ này của chúng tôi sự khác biệt với các nghiên cứu
của các tác giả khác như: nghiên cứu của Trần Thị Thanh Hà, trong nghiên cứu
của mình tác giả này ghi nhận tại khoa Hồi sức tích cực – chống độc là có tỷ lệ
iii


tuân thủ vệ sinh tay cao nhất với 90%, tiếp đến mới là khoa Sơ sinh với 85% [7].
Còn trong một nghiên cứu khác của Nguyễn Thị Kim Liên thì ghi nhận tỷ lệ tuân
thủ rửa tay cao nhất là khoa Ngoại thần kinh với 73,8%, tiếp đến là khoa Sơ sinh
với 72,6% [6]. Sự khác biệt giữa các nghiên cứu có thể liên quan đến nhiều vấn
đề khác như về giới tính, độ tuổi, thời điểm khảo sát hoặc thăm niên làm việc của
các NVYT tại tường khoa phòng, do đó sự khác nhau trên là điều hợp lý..........35
Ngoài ra chúng tôi còn ghi nhận một số sự phân bố một số đặc điểm của NVYT
theo các khoa về sự tuân thủ rửa tay như sau: về sự phân bố chuyên môn theo
khoa chúng tôi ghi nhận tại khoa sơ sinh và khoa cấp cứu tổng hợp thì các
NVYT là bác sĩ là có sự tuân thủ rửa tay là cao nhất với 66,7% và 100%, còn tại
khoa Hồi sức tích cực – chống độc thì những người hô lý lại có tuân thủ rửa tay
cao nhất với 50,0%. Về sự phân bố các NVYT theo thâm niên làm việc của từng
khoa thì chúng tôi nhận thấy tại cả 3 khoa thì tỷ lệ đối tượng có thâm niên làm
việc trên 5 năm đều tuân thủ rửa tay cao hơn các nhóm còn lại với tỷ lệ lần lượt
là khoa sơ sinh với 71,4%, khoa Hồi sức tích cực – chống độc là 40,0% và khoa

cấp cứu tổng hợp là 55,6%. Nhận thấy tại các khoa phòng thì có sự khác nhau về
tỷ lệ tuân thủ rửa tay của các NVYT vì vậy chúng ta tìm đúng những đối tượng
mà có những biện pháp can thiệp khác nhau.......................................................36
Tương tự là sự phân bố các NVYT theo giới của từng khoa về tuân thủ rửa tay.
Chúng tôi nhận thấy tại hai khoa là Hồi sức tích cực – chống độc và cấp cứu tổng
hợp thì tỷ lệ nam tuân thủ rửa tay cao hơn nữ cới tỷ lệ lần lượt là 57,1% và 80,0,
còn ở khoa sơ sinh thì ngược lại nữ lại có sự tuân thủ cao hơn với tỷ lệ là 59,5%.
Còn về phân bố độ tuổi của NVYT theo khoa về tuân thủ rửa tay thì chúng tôi
cũng nhận thấy tương tự như sự phân bố theo giới với khoa Hồi sức tích cực –
chống độc và cấp cứu tổng hợp thì nhóm NVYT có độ tuổi ≤ 35 là có sự tuân thủ
rửa tay cao hơn nhóm trên 35 tuổi, còn ở khoa sơ sinh thì ngược lại ở nhóm > 35
tuổi có sự tuân thủ cao hơn nhóm ≤ 35 tuổi với tỷ lệ là 78,6%. Đồng thời chúng
tôi còn ghi nhận sự phân bố thời điểm khảo sát theo khoa vệ sự tuân thủ rửa tay
của NVYT, qua kết quả chúng tôi ghi nhận tại khoa sơ sinh và khoa cấp cứu tổng
iii


hợp thì các NVYT được quan sát vào buổi chiều thì có sự tuân thủ cao hơn các
NVYT được quan sát vào buổi sáng và đêm với tỷ lệ là 100%, và ngược lại tại
khoa Hồi sức tích cực – chống độc thì các NVYT được quan sát vào đêm lại có
sự tuân thủ cao hơn với tỷ lệ là 50,0%. Nhận thấy ở các khoa vẫn có sự tương
đồng nhau về sự phân bố các nhóm NVYT tuân thủ rửa tay, tuy nhiên vẫn có sự
khác nhau ở một số nhóm, vì vậy chúng ta cần nắm rõ các thông tin này để có sự
can thiệp phù hợp trên từng khoa, từng nhóm đối tượng để đạt được kết quả cao
nhất đồng thời là giúp thực hiện tốt công tác bảo vệ sức khỏa của các bệnh nhân.
..............................................................................................................................37
4.3 Một số yếu tố liên quan đến tuân thủ rữa tay.................................................37
Tìm hiểu các yếu tố liên quan đến việc tuân thủ rửa tay của các NVYT giúp
chúng ta có những kế hoạch định hướng tốt hơn nhằm cải thiện được vấn đề tuân
thủ rửa tay của các NVYT. Qua nghiên cứu và đánh chúng tôi ghi nhận được kết

quả như sau: Nhận thấy về giới thì nam có sự tuân thủ rửa tay cao hơn nữ với tỷ
lệ là 55,0% và 42,0%, còn về độ tuổi thì chúng tôi ghi nhận những NVYT có độ
tuổi > 35 thì có sự tuân thủ rửa tay cao hơn nhóm có độ tuổi ≤ 35. Mặc dù có sự
khác nhau về tỷ lệ giữa các nhóm nhưng chúng tôi chưa ghi nhận được sự khác
nhau có ý nghĩa thống kê giữa giới cũng như độ tuổi của NVYT với sự tuân thủ
rửa tay (p>0,05). Kết quả này của chúng tôi cũng giống với nghiên cứu của hai
tác giả Nguyễn Thị Thanh Hà và Nguyễn Thị Kim Liên, hai tác giả này cũng
chưa ghi nhận vó mối liên quan giữa hai yếu tố giới và độ tuổi đến sự tuân thủ
rửa tay [6], [7]. Tuy nhiên chúng ta cũng cần chú ý ở các đối tượng có tỷ lệ tuân
thủ rửa tay thấp cần được nhắc nhở nhiều hơn để cải thiện được vấn đề tuân thủ
rửa tay tại các thời điểm.......................................................................................38
Về yếu tố trình độ chuyên môn, chúng tôi ghi nhận một kết quả khá bất ngờ với
tỷ lệ các NVYT có tuân thủ rửa tay cao nhất thuộc về nhóm hộ lý với 71,4%, tiếp
đến là bác sĩ với 60,0% và thấp nhất là nhóm điều dưỡng với 38,1%. Kết quả này
hoàn toàn khác với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Kim Liên, tác giả này ghi
nhận sự tuân thủ rửa tay như sau: 45,8% ở bác sĩ , 62,8% ở điều dưỡng/kỹ thuật
iii


viên, 38,1% ở hộ lý và 20% ở đối tượng khác [6]. Còn trong nghiên cứu của tác
giả Nguyễn Thị Thanh Hà thì ghi nhận NVYT có sự tuân thủ rửa tay cao là Kỹ
thuật viên, Bảo mẫu > 70%, khối Bác sĩ và Sinh viên thực tập tuân thủ VST kém
chỉ chiếm 41 – 43% [7]. Tuy nhiên chúng tôi cũng chưa ghi nhận sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê về trình độ chuyên môn với sự tuân thủ rửa tay với p>0,05,
trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Liên thì ghi nhận có sự khác biệt giữa các
nhóm với p<0,05. Nhận thấy trong nghiên cứu của chúng tôi các đối tượng là
điều dưỡng lại có tỷ lệ tuân thủ thấp nhất so với các nhóm còn lại, trong khi đó
điều dưỡng là những người tiếp xúc nhiều nhất với người bệnh hay thực hiện các
thủ thủ thuật trên người bệnh mà tỷ lệ tuân thủ rửa tay thấp là một việc rất
nghiêm trọng, nó có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của người bệnh hoặc gây ra

những nhiễm trùng bệnh viện. Các lãnh đạo bệnh viên cần chú ý và quan tâm sâu
sắc hơn vấn đề này để có những biện pháp chấn chỉnh kịp thời..........................39
Về sự khác biệt giữa thâm niên làm việc với tuân thủ rửa tay của đối tượng
chúng tôi ghi nhận kết quả như sau: tỷ lệ tuân thủ cao nhất ở nhóm NVYT có
thâm niên làm việc > 5 năm với 60,0%, nhóm NVYT có thâm niên làm việc từ 2
– 5 năm là 30,8% và dưới 2 năm là 34,8%. Chúng tôi ghi nhận sự khác biệt trên
có ý nghĩa thống kê với p=0,034. Kết quả này trong nghiên cứu của chúng tôi
khác với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Kim Liên và Trần Thị Thanh Hà,
hai tác giả này chưa ghi nhận có sự khác biệt về thâm niên làm việc với sự tuân
thủ rửa tay của NVYT [6], [7]. Chúng tôi nhận thấy kết quả trong nghiên cứu
của mình là rất hợp lý, ở những đối tượng có thâm niên làm việc lâu năm thì họ
có kinh nghiệm hơn biết được sự quan trọng của việc rửa tay, thêm một yếu tố
khác nữa hỗ trợ cho sự khác biệt này là khi mà các NVYT có thâm niên lâu năm
tức là có độ tuổi đã cao, mà chúng ta đã ghi nhận những đối tượng có độ tuổi cao
thì có sự tuân thủ rửa tay cao hơn........................................................................40
Thời điểm khảo sát là một yếu tố quan trọng mà nhiều tác giả chú ý đến khi
nghiên cứu về sự tuân thủ rửa tay của NVYT. Qua nghiên cứu tại 3 thời điểm
sáng, chiều và đêm về tuân thủ rửa tay chúng tôi nhận thấy các NVYT được
iii


khảo sát vào buổi chiều là có sự tuân thủ rửa tay cao nhất với tỷ lệ là 73,7%, tiếp
đến là buổi sáng với 51,4% và thấp nhất là vào ban đêm với tỷ lệ tuân thủ chỉ có
21,2%. Kết quả này của chúng tôi giống với nghiên cứu của tác giả Trần Thị
Thanh Hà, tác giả này cũng ghi nhận tỷ lệ NVYT được quan sát vào buổi chiều
có sự tuân thủ rửa tay cao hơn buổi sáng với 66% so với 60% [7]. Và sự khác
biệt này trong nghiên cứu của chúng tôi là có ý nghĩa thống kê với p=0,001, có
nhiều lý do cho thấy kết quả trên là hợp lý như: buổi sáng thì công việc nhiều
hơn, các NVYT phải đi thăm bệnh, tiêm thuốc, quét don… nên đôi khi họ quên
hoặc quá bận nên không thực hiện rửa tay, còn vào buổi chiều thì ít công việc

hơn nên có nhiều thời gian hơn. ..........................................................................41
Về yếu tố số bệnh nhân mà một NVYT chăm sóc với vấn đề tuân thủ rửa tay
chúng tôi chưa ghi nhận có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Tuy
nhiên chúng tôi đã ghi nhận được ở các NVYT phải chăm sóc từ 10 bệnh nhân
trở lên thì có sự tuân thủ rửa tay cao hơn hai nhóm còn lại với tỷ lệ là 61,5%,
trước đó chúng tôi đã ghi nhận tại từng khoa của bệnh viện thì các đối tượng này
cũng có sự tuân thủ rửa tay cao hơn so với hai nhóm có thâm niên làm việc thấp
hơn, điều này là hoàn toàn phù hợp với thực tế mà chúng tôi đã nêu ở trên. Ngoài
ra chúng tôi còn nhận thấy tuy có khác biệt về sự tuân thủ rửa tay giữa các khoa
sơ sinh, hồi sức tích cực – chống độc và cấp cứu tổng hợp nhưng tỷ lệ này chưa
có khác biệt một cách có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Tuy nhiên đây là một số
liệu hết sức quan trọng để các nhà quản lý bệnh viện có thể nhìn vào và có các
biện pháp can thiệp kịp thời và đúng cách để giúp cho từng khoa phòng của bệnh
viện có được sự tuân thủ rửa tay ngày càng cao hơn...........................................42
KẾT LUẬN..........................................................................................................43
1. Tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay.................................................................................43
Tỷ lệ NVYT tuân thủ đầy đủ các thời điểm rửa tay là 44,9%............................43
Tỷ lệ NVYT tuân thủ rửa tay thuộc khoa sơ sinh là 55,6%; khoa hồi sức tích cực
– chống độc 27,3% và khoa cấp cứu tổng hợp là 40,9%.....................................43
Tỷ lệ NVYT tuân thủ rửa tay theo 5 thời điểm như sau:....................................43
iii


- Trước tiếp xúc với bệnh nhân: có 67,5% tuân thủ rửa tay, trong đó có 65,1%
NVYT rửa tay bằng sát khuẩn nhanh và 2,4% rửa bằng xà phòng......................43
- Trước khi thực hiện các biện pháp vô khuẩn: có 89,6% tuân thủ rửa tay, trong
đó có cùng 44,8% NVYT rửa tay bằng sát khuẩn nhanh và bằng xà phòng.......43
- Sau tiếp xúc với bệnh nhân: có 83,1% tuân thủ rửa tay, trong đó có 41,0%
NVYT rửa tay bằng sát khuẩn nhanh và 42,1% rửa bằng xà phòng....................43
- Sau nghi ngờ hoặc tiếp xúc máu, dịch tiết: có 98,2% tuân thủ rửa tay, trong đó

có 38,2% NVYT rửa tay bằng sát khuẩn nhanh và 60,0% rửa bằng xà phòng....43
- Sau khi tiếp xúc môi trường xung quanh bệnh nhân: có 61,8% tuân thủ rửa tay,
trong đó có 31,5% đối tượng rửa tay bằng sát khuẩn nhanh và 30,3% rửa bằng xà
phòng....................................................................................................................43
2. Một số yếu tố liên quan đến tuân thủ rửa tay...................................................43
Ghi nhận có 2 yếu tố liên quan đến việc tuân thủ rửa tay của NVYT là thâm niên
làm việc và thời điểm khảo sát. Trong đó những đối tượng có thâm niên làm việc
> 5 năm và thời điểm khảo sát là buổi chiều thì tuân thủ rửa tay cao hơn các
nhóm NVYT còn lại với p<0,05..........................................................................43
KIẾN NGHỊ.........................................................................................................44
Đối với Ban giám đốc Bênh viện:.......................................................................44
Trong các buổi họp cần tăng cường nhắc nhở đối với các Trưởng, phó khoa về
sự cần thiết và quan trọng của việc rửa tay, nhất là trong 5 thời điểm đã được Tổ
chức Y tế thế giới đưa ra. Đồng thời cần tổ chức các đội giám sát công tác rửa
tay hàng tuần, hàng ngày để có thể kịp thời chấn chỉnh các nhân viên chưa tuân
thủ việc rửa tay trong quá trình làm việc.............................................................44
Đối với Trưởng, phó các khoa:...........................................................................44
Cần thường xuyên nhắc nhở các nhân viên của khoa mình phải rửa tay theo
đúng quy định của ngành y tế, không được chủ quan trước mọi tình huống. Cần
có những biện pháp xử lý như nhắc nhở các nhân viên vi phạm trong các buổi
họp…....................................................................................................................44
Đối với từng nhân viên y tế:...............................................................................44
iii


Bản thân cần tự giác tuân thủ các quy định của ngành, cần tăng cường tu dưỡng
y đức để có thể phục vụ cho người bệnh ngày càng tốt hơn. ............................44
HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU.........................................................................45
1. Trong nghiên cứu chúng tôi chỉ thực hiện quan sát các đối tượng có rửa tay
hay không mà chưa thực hiện quan xem các đối tượng rửa tay có đúng quy trình

hay không. Đối với những trường hợp thực hiện các kỹ thuật vô khuẩn thì tùy
thuộc vào loại thủ thuật mà có những quy định rửa tay khác nhau, tuy nhiên
trong nghiên cứu chúng tôi chưa thể đánh những trường hợp này......................45
2. Tại 3 khoa sơ sinh, hồi sức tích cực – chống độc và cấp cứu tổng hợp có tất cả
101 nhân viên, tuy nhiên chúng tôi không thể thực hiện nghiên cứu trên tất cả
các đối tượng này.................................................................................................45
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................46
Phụ lục 2:.............................................................................................................51
BẢN ĐỒNG THUẬN THAM GIA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU.............................51
Phụ lục 3:.............................................................................................................53
PHIẾU QUAN SÁT TUÂN THỦ VỆ SINH TAY..............................................53
A. THÔNG TIN CHUNG.................................................................................53
B. THỜI ĐIỂM VỆ SINH TAY.......................................................................54
Phụ lục 4:.............................................................................................................55
TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.........................................................................55
Phụ lục 6:.............................................................................................................57
DANH SÁCH NHÂN SỰ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI...............................................57

iii


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1 Phân biệt VST bằng xà phòng và sát khuẩn tay nhanh .............................
11
Bảng 3.1 Đặc tính mẫu của đối tượng nghiên cứu (n=89) .......................................
20
Bảng 3.2 Tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay theo các thời điểm của đối tượng.....................
20
Bảng 3.3 Phân bố theo khoa về tuân thủ đầy đủ các thời điểm rửa tay....................
21

Bảng 3.4 Phân bố chuyên môn đối tượng theo khoa về tuân thủ đầy đủ các thời
điểm rửa tay...............................................................................................................
22
Bảng 3.5 Phân bố thâm niên làm việc theo khoa về tuân thủ đầy đủ các thời
điểm rửa tay...............................................................................................................
23
Bảng 3.6 Phân bố giới theo khoa về tuân thủ đầy đủ các thời điểm rửa tay.............
23
Bảng 3.7 Phân bố độ tuổi theo khoa về tuân thủ đầy đủ các thời điểm rửa tay........
24
Bảng 3.8 Phân bố thời điểm khảo sát theo khoa về tuân thủ đầy đủ các thời điểm
rửa tay .......................................................................................................................
25
Bảng 3.9 Liên quan giữa giới tính và tuân thủ rữa tay.............................................
25
iv


Bảng 3.10 Liên quan giữa độ tuổi và tuân thủ rữa tay..............................................
26
Bảng 3.11 Liên quan giữa trình độ chuyên môn và tuân thủ rữa tay........................
26
Bảng 3.12 Liên quan giữa thâm niên làm việc và tuân thủ rữa tay..........................
27
Bảng 3.13 Liên quan giữa thời điểm khảo sát và tuân thủ rữa tay...........................
27
Bảng 3.14 Liên quan giữa số bệnh nhân chăm sóc và tuân thủ rữa tay của bác sĩ,
điều dưỡng và bảo mẫu.............................................................................................
27
Bảng 3.15 Liên quan giữa nhân viên các khoa và tuân thủ rữa tay của bác sĩ,

điều dưỡng và bảo mẫu.............................................................................................
28

iv


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1 Đặc điểm tuổi và giới đối tượng nghiên cứu...................................19
Biểu đồ 3.2 Đặc điểm chuyên môn và thâm niên công tác của đối tượng nghiên
cứu.......................................................................................................................19
Biểu đồ 3.3 Tỷ lệ đối tượng tuân thủ đầy đủ các thời điểm rửa tay....................21

iv


ĐẶT VẤN ĐỀ
Mỗi năm trên thế giới có hàng nghìn người chết liên quan đến nhiễm khuẩn
bệnh viện [21]. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), nhiễm khuẩn bệnh viện là
các nhiễm khuẩn xuất hiện sau 48 giờ kể từ khi bệnh nhân nhập viện và không
hiện diện cũng như không có ở giai đoạn ủ bệnh tại thời điểm nhập viện. Nhiễm
khuẩn bệnh viện xảy ra ở khắp nơi trên thế giới. Một số nghiên cứu đã đưa ra 5
hậu quả của nhiễm khuẩn bệnh viện đối với người bệnh là: tăng tỷ lệ mắc bệnh,
tỷ lệ tử vong, ngày điều trị, chi phí điều trị và tăng sự kháng thuốc của vi sinh
vật. Nhiễm khuẩn bệnh viện trong các bệnh viện Việt Nam qua các báo cáo đã
được đăng trên các tạp chí y học nhiễm khuẩn bệnh viện hiện mắc từ 5,4 - 8%
người bệnh nội trú, nhiễm khuẩn vết mổ trên người bệnh có phẫu thuật chiếm từ
2,5 - 8,45% và viêm phổi bệnh viện trên các người bệnh có thở máy từ 40 - 50%
[8]. Nỗ lực kiểm soát các tác nhân gây nhiễm khuẩn bệnh viện hiện tại và tương
lai vẫn còn là một thách thức đối với những nhà quản lý y tế, những nhà nghiên
cứu, thầy thuốc và Điều dưỡng lâm sàng. Và đặc biệt nhiễm khuẩn bệnh viện ở

trẻ sơ sinh làm gia tăng nguy cơ tử vong của trẻ sơ sinh lên từ 2 đến 4 lần [4],
[14]. Ngày nay, mặc dù kiến thức về kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện ngày
càng cao, kháng sinh phổ rộng ngày càng nhiều và các biện pháp kiểm soát
nhiễm khuẩn bệnh viện ngày càng được tăng cường, song nhiễm khuẩn vẫn chưa
giảm. Có nhiều phương thức lây truyền nhiễm khuẩn bệnh viện, tuy nhiên sự lây
truyền qua bàn tay nhân viên y tế là một trong những nguyên nhân hàng đầu .
Nhiều nghiên cứu cũng khẳng định vệ sinh tay với dung dịch sát khuẩn tay chứa
cồn là biện pháp quan trọng nhất để dự phòng sự lây truyền tác nhân gây bệnh
trong các cơ sở y tế.
Tại Việt Nam, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 18/2009/TT-BYT ngày 14
tháng 10 năm 2009 hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác kiểm soát nhiễm khuẩn
tại các cơ sở khám, chữa bệnh, trong đó đã quy định thầy thuốc, nhân viên y tế,
1


sinh viên/học sinh và người bệnh, người nhà người bệnh khi đến bệnh viện phải
vệ sinh tay theo quy định và hướng dẫn của cơ sở khám, chữa bệnh. Vệ sinh tay
của nhân viên y tế là một trong những giải pháp hàng đầu được Tổ chức Y tế
Thế giới (WHO) khuyến cáo nhằm tăng cường kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện
và phòng ngừa các bệnh lây truyền cho người bệnh và nhân viên y tế trong quá
trình cung cấp dịch vụ y tế [22].Vệ sinh tay làm giảm 40% nhiễm khuẩn bệnh
viện [15].
Theo WHO, tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay của các nước trên thế giới dao động
từ 5% đến 89% và trung bình là 37.8% [20]. Tại Việt Nam, tỷ lệ tuân thủ vệ
sinh tay trung bình ở nhân viên y tế từ 40 - 50% [21].
Vệ sinh tay là biện pháp đơn giản nhưng hiệu quả làm giảm tỷ lệ lây nhiễm
chéo nhưng thực tế theo quan sát thì việc tuân thủ vệ sinh tay của nhân viên y tế
lại chưa cao. Tại BV Nhi Trung ương năm 2010 kết quả sự tuân thủ vệ sinh tay
ban đầu tại 03 khoa HSTC tăng từ 33,3% lên 55,8% và sau cùng tăng 61,9% [5],
Bệnh viện Nhi đồng 1 năm 2012 tỷ lệ tuân thủ VST ở khoa Sơ sinh là 85% [7].

Bệnh viện Nhi đồng 2, năm 2013 tỷ lệ tuân thủ VST ở khoa Sơ sinh là 72,6%,
khoa Cấp cứu là 64,3% [6]. Bệnh viện Nhi đồng Cần Thơ năm 2013 tỷ lệ tuân
thủ vệ sinh tay đúng quy trình còn rất thấp chỉ đạt 38,75%.
Tuy nhiên, từ năm 2013 đến năm 2015 chưa có nghiên cứu nào được thực
hiện tại khoa Sơ sinh, khoa Hồi sức tích cực – Chống độc, khoa Cấp cứu tổng
hợp Bệnh viện Nhi đồng Cần Thơ, đồng thời đánh giá sự tuân thủ vệ sinh tay của
nhân viên y tế sau phát động chiến dịch “Bảo vệ sự sống hãy vệ sinh tay” năm
2015 của Bệnh viện nên chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Thực trạng tuân thủ
vệ sinh tay đúng thời điểm và các yếu tố liên quan đến sự tuân thủ vệ sinh
tay đúng thời điểm của nhân viên Y tế tại một số khoa của Bệnh viện Nhi
đồng Cần Thơ năm 2015”, để đánh giá thực trạng và tìm hiểu những yếu tố liên
quan từ đó có biện pháp can thiệp hiệu quả làm giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh
viện.

2


Mục tiêu nghiên cứu:
• Xác định tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay đúng thời điểm của nhân viên y tế tại
khoa Sơ sinh, khoa Hồi sức tích cực – Chống độc, khoa Cấp cứu tổng
hợp Bệnh viện Nhi đồng Cần Thơ năm 2015.
• Xác định các yếu tố liên quan đến sự tuân thủ vệ sinh tay đúng thời điểm
của nhân viên y tế tại khoa Sơ sinh, khoa Hồi sức tích cực – Chống độc,
khoa Cấp cứu tổng hợp Bệnh viện Nhi đồng Cần Thơ năm 2015.

3


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1 Mốc lịch sử của vệ sinh bàn tay
Trong suốt thế kỷ thứ XIX, ở Châu Âu và Mỹ, 25% bà mẹ sinh con tại bệnh
viện đã tử vong do sốt hậu sản. Nguyên nhân là do vi khuẩn Streptococcus
pyogenes. Năm 1843, bác sĩ Oliver Wendell Holmes (Mỹ) yêu cầu một bác sĩ
của khoa sản (nơi ông làm việc) nghỉ việc một tháng sau 2 trường hợp bà mẹ tử
vong mà ông cho rằng liên quan đến vệ sinh bàn tay của bác sĩ đó. Ý kiến của
ông đã bị nhiều bác sĩ cùng thời phản đối.
Vào những năm 1840, bác sĩ Ignaz Semmelweis (1818 - 1865) công tác tại
Bệnh viện đa khoa Vienne (Áo) khám phá ra sự khác biệt về tỷ lệ tử vong ở các
bà mẹ sau sinh con giữa hai khoa Sản của bệnh viện. Năm 1846, Semmelweis
nghiên cứu và thấy rằng tại hai khoa Sản của bệnh viện, cùng thực hành một kỹ
thuật rửa tay. Khoa thứ nhất là khoa thực hành của sinh viên y khoa, nơi mà chỉ
có các bác sĩ và sinh viên y khoa làm việc có tỷ lệ tử vong do sốt hậu sản là
13,10%, tỷ lệ này cao gấp gần 5 lần so với khoa thứ 2 là khoa hướng dẫn thực
hành cho nữ hộ sinh (bao gồm các nữ hộ sinh và học sinh hộ sinh) có tỷ lệ tử
vong ở các bà mẹ sau sinh là 2,03%. Ông quan sát và thấy rằng các bác sĩ và sinh
viên y khoa thường không rửa tay sau khi thăm khám mỗi bệnh nhân, thậm chí
sau khi mổ tử thi bệnh nhân. Ông cho rằng nguyên nhân sốt hậu sản là do bàn tay
không rửa của các bác sĩ và các sinh viên y khoa chứa tác nhân gây bệnh. Ông đã
đề xuất sử dụng dung dịch nước vôi trong (chứa chlorine) để rửa tay vào thời
điểm chuyển tiếp sau mổ tử thi sang thăm khám bệnh nhân. Tỷ lệ tử vong của
các bà mẹ sau đó đã giảm từ 12,24 % xuống 2,38%. Tuy nhiên, tại thời điểm đó,
nhiều người cho rằng khuyến cáo rửa tay giữa những lần tiếp xúc với người bệnh
của Semmelweis là quá nhiều và không bác sĩ nào chấp nhận đôi bàn tay của họ
chính là nguyên nhân gây tử vong hậu sản. Một số người khác thì cho rằng kết
4


quả nghiên cứu của ông là thiếu bằng chứng khoa học. Năm 1849 ông bị sa thải
khỏi bệnh viện Vienne và tới làm việc ở khoa Sản Bệnh viện Pest's St. Rochus ở

Hungari (1851 – 1857). Tới năm 1860, Bệnh viện Vienne vẫn coi ông ta là kẻ
phản bội, mặc dù chính ông, khi còn làm việc tại bệnh viện đó, là người xoá tỷ lệ
tử vong do sốt cao ở trẻ sơ sinh từ 35/101 trường hợp.
Năm 1879, tại một hội thảo khoa học ở Paris, bác sĩ Louis Pasteur đã lên
tiếng: "Nguyên nhân gây tử vong ở những bà mẹ bị nhiễm trùng hậu sản chính là
các bác sĩ đã sử dụng bàn tay khám các bà mẹ bị bệnh rồi khám các bà mẹ mạnh
khoẻ". Sau đó, ông đã đưa ra lý thuyết về "Mầm bệnh" và phương pháp tiệt
khuẩn Pasteur được sử dụng tới ngày nay.
Trong những năm đó, khuyến cáo rửa tay đã gặp rất nhiều khó khăn bởi
thiếu phương tiện rửa tay, thiếu nước, sự gia tăng đề kháng kháng sinh của vi
khuẩn trong khi đó nhân viên y tế rất thiếu kiến thức về vệ sinh bệnh viện. Điều
đó đã giải thích cho sự phản ứng của các bác sĩ trước khuyến cáo rửa tay giữa
những lần tiếp xúc với những bệnh nhân khác nhau, họ cho rằng rửa tay như vậy
là quá nhiều.
Năm 1910, bác sĩ Rosephine Baker (Hoa Kỳ) đã tổ chức khoá tập huấn đầu
tiên giảng dạy về vệ sinh bàn tay cho những cán bộ y tế chăm sóc bệnh nhi.
Năm 1992, một báo cáo khoa học của New Enland công bố kết quả nghiên
cứu về rửa tay tại khoa hồi sức cấp cứu. Báo cáo cho thấy, mặc dù đã áp dụng
những biện pháp giáo dục và giám sát đặc biệt, nhưng tỷ lệ tuân thủ rửa tay ở cán
bộ y tế chỉ xấp xỉ 30% và tỷ lệ cao nhất chỉ đạt 48%. Cũng năm đó CDC (Mỹ)
cho biết tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện giao động từ 5 – 15% tại các bệnh viện,
điều này dẫn đến nguy cơ nhiễm khuẩn trên nhân viên y tế và năm 1993 đã có 11
nhân viên y tế mắc bệnh viêm gan A do không rửa tay sau khi tiếp xúc với 1
trong 2 bệnh nhân viêm gan A. [19]

5


1.2 Nhiễm khuẩn bệnh viện
1.2.1 Định nghĩa NKBV

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), NKBV là các nhiễm khuẩn xuất hiện
sau 48h kể từ khi bệnh nhân nhập viện và không hiện diện cũng như không ở
giai đoạn ủ bệnh tại thời điểm nhập viện.
1.2.2 Tác nhân gây NKBV
Nhiễm khuẩn bệnh viện gây ra bởi các vi khuẩn, vi rút, nấm và ký sinh
trùng. Trong đó nhiễm trùng đường tiết niệu thông qua thủ thuật đặt dẫn lưu
nước tiểu không đảm bảo vô khuẩn là phổ biến nhất, đứng hàng thứ 2 là viêm
phổi.
1.2.3 Tình hình NKBV hiện nay
 Trên thế giới
Bất kỳ nơi nào trên thế giới, các nước phát triển cũng như các nước
nghèo đều phải đối diện với NKBV. Theo nghiên cứu của WHO tại 55 bệnh viện
của 14 nước trên các châu lục, khoảng 8,7% bệnh nhân nội trú mắc NKBV.
 Tại Việt Nam
Theo nghiên cứu của Nguyễn Việt Hùng và cộng sự thực hiện năm 2006
– 2007 tại 62 bệnh viện khu vực phía Bắc đại diện các tuyến: Trung ương,
tỉnh/Thành phố và Quận/Huyện cho thấy, tỉ lệ NKBV trung bình là 7,8%. Trong
đó các bệnh viện tuyến TW có tỉ lệ NKBV là 5,4%; các BV tuyến tỉnh/thành phố
có tỉ lệ NKBV là 8,3% cao hơn tỉ lệ NKBV ở các BV tuyến quận/huyện là 6,4%.
Tác nhân gây NKBV hàng đầu là Pseudomonas aeruginosa, tiếp đó là
Acinetobacte baumani và nấm Candida [11].
1.2.4 Hậu quả của Nhiễm khuẩn bệnh viện
Nhiễm khuẩn bệnh viện gây ra những hậu quả nặng nề với bệnh nhân cũng
như các NVYT. Các hậu quả của NKBV bao gồm:
1.2.4.1 Tăng chi phí và tăng ngày điều trị
Tại Việt Nam, thông tin tại Đại hội Hội Kiểm soát nhiễm khuẩn Hà Nội
năm 2008 cho thấy, mỗi NKBV làm kéo dài thời gian nằm viện trung bình từ 9,4
6



đến 24,3 ngày và làm tăng chi phí điều trị trung bình từ 2 - 32,3 triệu đồng [7].
Đây quả là một số tiền lớn so với mức thu nhập trung bình của người dân tại thời
điểm năm 2008 mới là 1024 USD tương đương gần 16 triệu đồng [8].
Các bệnh nhân mắc NKBV đòi hỏi nhu cầu chăm sóc và điều trị cao hơn do đó
làm tăng thêm áp lực công việc cho các NVYT vốn đã làm việc trong tình trạng
quá tải.
1.2.4.2 Tăng sự kháng thuốc của vi sinh vật
Nhiễm khuẩn bệnh viện không những gây hậu quả nặng nề về mặt lâm
sàng, kinh tế mà còn là nguyên nhân làm tăng sự kháng thuốc của vi sinh vật,
làm xuất hiện những chủng vi khuẩn đa kháng kháng sinh (ví dụ như MRSA – tụ
cầu kháng kháng sinh Methicillin) là nguyên nhân dẫn đến tử vong trong các
bệnh viện. Tại Hoa Kỳ, tháng 10/2010, CDC công bố số người chết do MRSA đã
vượt quá số người chết vì bệnh AIDS. Trong số các bệnh viện được khảo sát,
MRSA được tìm thấy ở 176 bệnh nhân, chiếm tỷ lệ 45%, trong đó 7,7% bị lây
khi đang nằm viện.
1.2.4.3 Các hậu quả khác
NKBV còn làm tăng tỉ lệ tử vong và tăng các biến chứng cho người bệnh.
NKBV không chỉ gây biến chứng nặng nề cho bệnh nhân, là nguy cơ lây nhiễm
cho NVYT, NKBV còn làm giảm chất lượng điều trị và uy tín của bệnh viện.
1.3 Mối liên quan giữa tuân thủ vệ sinh tay và tỉ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện
NKBV lây truyền qua một số con đường, tuy nhiên việc lây truyền thông
qua bàn tay của NVYT là phổ biến nhất. NKBV gây ra những hậu quả vô cùng
nghiêm trọng không chỉ với bệnh nhân mà còn đối với các NVYT. Sự tuân thủ
vệ sinh tay của NVYT (như rửa tay với nước và xà phòng, rửa tay với dung dịch
sát khuẩn tay chứa cồn) được coi là biện pháp đơn giản và hiệu quả nhất để
phòng ngừa hiệu quả NKBV. VST đúng cách sẽ làm loại bỏ hầu hết lớp vi sinh
vật gây ra NKBV cho bệnh nhân. Nhiều nghiên cứu cũng khẳng định vệ sinh tay
bằng dung dịch có chứa cồn là biện pháp quan trọng nhất để dự phòng sự lây
truyền tác nhân gây bệnh trong các cơ sở y tế. Một nghiên cứu trên Thế giới từ
7



năm 1994 đến 1997 trên 20,000 cơ hội rửa tay của NVYT tại một BV đã cho
thấy: khi tỉ lệ tuân thủ vệ sinh tay của nhân viên y tế tăng từ 48% (1994) lên 66%
(1997) thì tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện giảm từ 16,9% (1994) xuống còn 6,9%
(1997) Tại Việt Nam, can thiệp làm tăng sự tuân thủ vệ sinh tay của NVYT cũng
mang lại hiệu quả tích cực trong việc làm giảm tỉ lệ NKBV. [11]
1.4 Tầm quan trọng vệ sinh tay
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, rửa tay được coi là liều vắc xin tự chế, rất đơn
giản, dễ thực hiện, hiệu quả về chi phí cũng như có thể cứu sống hàng triệu
người.
Những năm gần đây, Bộ Y tế đã phát động phong trào vệ sinh bàn tay ở cả
bệnh viện và cộng đồng. Theo nhiều báo cáo của các chuyên gia kiểm soát
nhiễm khuẩn trong và ngoài nước thì các bệnh truyền nhiễm đã và đang diễn ra
trong cộng đồng hoàn toàn có thể phòng ngừa được bằng cách giữ gìn vệ sinh,
trong đó có rửa tay bằng xà phòng là biện pháp cơ bản nhất. Theo đó, chỉ một
động tác rửa tay sạch đã làm giảm tới 35% khả năng lây truyền vi khuẩn gây
bệnh tiêu chảy làm tử vong hàng triệu người mỗi năm trên thế giới. Việc rửa tay
cũng có thể làm giảm rủi ro nhiễm khuẩn tiêu chảy tới 47%, nhiễm khuẩn đường
hô hấp tới 19 – 45%. Các nghiên cứu cho thấy, bàn tay của một người có thể
mang tới 4,6 triệu mầm bệnh [19].
Vệ sinh tay (VST) là làm sạch tay bằng nước với xà phòng có hay không có
chất sát khuẩn và sát khuẩn tay với dung dịch có chứa cồn.
Vệ sinh tay (VST) là cách hiệu quả nhất để ngăn chặn lây lan của vi sinh
vật, giảm thiểu vi khuẩn cư trú trên tay trong hoạt động chuyên môn hàng ngày
[12].
Vệ sinh tay là nội dung cơ bản của phòng ngừa chuẩn và là biện pháp hiệu
quả nhất trong kiểm soát sự lây truyền tác nhân gây bệnh trong các cơ sở khám
bệnh chữa bệnh.


8


1.5 Định nghĩa sự tuân thủ vệ sinh tay
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (Who), khi nhân viên y tế có thực hiện chăm
sóc người bệnh, sẽ có 5 thời điểm (5 cơ hội) mà người NVYT bắt buộc phải vệ
sinh:
1.VST trước khi tiếp xúc với người bệnh: NVYT phải rửa sạch bàn tay
trước khi tiếp xúc bệnh nhân để bảo vệ bệnh nhân trước những tác hại của vi
khuẩn do bàn tay của NVYT có thể mang lại.
2.VST trước khi làm bất cứ thao tác nào đòi hỏi sự vô khuẩn khi chăm sóc
người bệnh: rửa sạch bàn tay ngay lập tức trước một vài công việc được thực
hiện vô khuẩn để bảo vệ bệnh nhân trước những tác hại của vi khuẩn, bao gồm
các mầm bệnh ở bản thân bệnh nhân, hoặc do lây từ cơ thể NVYT.
3.VST sau khi tiếp xúc với người bệnh: rửa sạch bàn tay ngay sau khi phơi
nhiễm với yếu tố nguy cơ từ chất dịch tiết cơ thể (sau khi tháo bỏ găng tay) mục
đích để bảo vệ chính bản thân NVYT và môi trường chăm sóc y tế từ các mầm
bệnh có hại ở bệnh nhân.
4.VST sau khi có nghi ngờ phơi nhiễm với máu và dịch cơ thể: rửa sạch bàn
tay của mình sau khi tiếp xúc với bệnh nhân và khu vực xung quanh bệnh nhân
khi NVYT rời khỏi khu vực đó, để bảo vệ chính bản thân mình và môi trường
chăm sóc y tế từ các mầm bệnh có hại ở bệnh nhân.
5.VST sau khi đụng chạm vào khu vực xung quanh người bệnh (dụng cụ,
máy móc, đồ vật…): rửa sạch bàn tay sau khi tiếp xúc một vài đồ vật hoặc máy
móc xung quanh bệnh nhân, khi NVYT rời khỏi khu vực đó để bảo vệ chính bản
thân mình và môi trường chăm sóc y tế từ các mầm bệnh có hại ở bệnh nhân.
Và khi NVYT thực hiện vệ sinh tay ở 5 thời điểm này thì được gọi là có
tuân thủ vệ sinh tay. Tuy nhiên, nếu tại thời điểm quan sát đối tượng không thực
hiện kỹ thuật vô khuẩn trên người bệnh và không nghi ngờ hoặc tiếp xúc máu,
dịch tiết thì có thể không thực hiện VST tại thời điểm 2 và/hoặc 4 vẫn được xem

là tuân thủ vệ sinh tay.

9


×