ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN HỒNG QUÂN
ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ Ở NÔNG THÔN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học : PGS, TS. Đỗ Ngọc Ninh
HÀ NỘI, 2012
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
PHẦN MỞ ĐẦU.........................................................................................................
1
Chương 1: ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI
SỐNG VĂN HOÁ Ở NÔNG THÔN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2000......................
7
1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hoá tỉnh Vĩnh Phúc
và đời sống văn hoá ở nông thôn trước năm 1997........................................................
7
1.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc.......... 7
1.1.2. Nội dung cơ bản của đời sống văn hoá ở nông thôn Vĩnh Phúc..................
9
1.1.3. Khái quát về đời sống văn hoá ở nông thôn Vĩnh Phúc trước năm 1997....
12
1.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về xây dựng đời sống văn
hóa ở nông thôn từ năm 1997 đến năm 2000 và sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Phúc. ................................................................................................................................
14
1.2.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời sống văn
hóa ở nông thôn từ năm 1997 đến năm 2000. ..................................................................
14
1.2.1.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời
sống văn hóa ở nông thôn trước năm 1997.......................................................................
14
1.2.1.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời
sống văn hóa ở nông thôn từ năm 1997 đến năm 2000....................................................
17
1.2.2. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn
từ năm 1997 đến năm 2000 và kết quả.............................................................................
23
1.2.2.1. Về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội,
mừng thọ............................................................................................................................
1
23
1.2.2.2. Về xây dựng Gia đình văn hoá, Làng văn hoá. ..................................
30
1.2.2.3. Về xây dựng hương ước, quy ước......................................................
35
1.2.2.4. Về xây dựng thiết chế văn hoá...........................................................
38
Tiểu kết.......................................................................................................................
40
Chương 2: ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI
SỐNG VĂN HOÁ Ở NÔNG THÔN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010......................
44
2.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời sống văn
hóa ở nông thôn từ năm 2001 đến năm 2010. ..............................................................
44
2.1.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng đời sống văn hoá ở nông
thôn từ năm 2001 đến năm 2010. ....................................................................................
44
2.1.2. Quan điểm, chủ trương của Nhà nước về xây dựng đời sống văn hoá ở
nông thôn từ năm 2001 đến năm 2010. ............................................................................
46
2.2. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn
từ năm 2001 đến năm 2010 và kết quả..........................................................................
55
2.2.1. Về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, mừng thọ.
55
2.2.2. Về Xây dựng Gia đình văn hoá, Làng văn hoá. .........................................
61
2.2.3. Về Xây dựng hương ước, quy ước...............................................................
67
2.2.4. Về xây dựng thiết chế văn hoá.....................................................................
71
Tiểu kết.......................................................................................................................
74
Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM......................................
77
3.1. Một số nhận xét về Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng đời sống
văn hóa ở nông thôn từ năm 1997 đến năm 2010.........................................................
77
3.1.1. Thành tựu và hạn chế. ...................................................................................
77
3.1.1.1. Về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội,
mừng thọ. .........................................................................................................................
77
3.1.1.2. Về xây dựng Gia đình văn hoá, Làng văn hoá. .......................................
80
3.1.1.3. Về xây dựng hương ước, quy ước............................................................
83
3.1.1.4. Về xây dựng thiết chế văn hoá.................................................................
85
2
3.1.2. Nguyên nhân hạn chế. ...................................................................................
87
3.1.2.1. Chủ quan...................................................................................................
87
3.1.2.2. Khách quan................................................................................................
88
3.2. Một số kinh nghiệm về Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng đời
sống văn hóa ở nông thôn từ năm 1997 đến năm 2010................................................
89
3.2.1. Kinh nghiệm về nhận thức và chỉ đạo.........................................................
89
3.2.2. Kinh nghiệm về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang,
lễ hội, mừng thọ.................................................................................................................
90
3.2.3. Kinh nghiệm về xây dựng Gia đình văn hoá, Làng văn hoá........................
92
3.2.4. Kinh nghiệm về xây dựng hương ước, quy ước..........................................
93
3.2.5. Kinh nghiệm về xây dựng thiết chế văn hoá...............................................
94
KẾT LUẬN................................................................................................................
97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................
99
PHỤ LỤC..................................................................................................................
110
3
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCĐ
Ban chỉ đạo
CNH, HĐH
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
GĐVH
Gia đình văn hoá
HĐND
Hội đồng nhân dân
LVH
Làng văn hoá
MTTQ
Mặt trận Tổ quốc
UBND
Ủy ban nhân dân
UBMTTQ
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài.
Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đi qua chặng
đường hơn 25 năm, thu được những kết quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Cùng với
những thành tựu quan trọng về kinh tế, an ninh - quốc phòng, đối ngoại, vấn đề
phát triển văn hoá - xã hội và xây dựng con người luôn luôn được Đảng coi trọng
và đạt kết quả đáng khích lệ.
Trước những khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp của tình
hình thế giới và khu vực, Đảng luôn kiên định xây dựng và thực hiện các chủ
trương, chính sách đổi mới đúng đắn trên các lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó
có lĩnh vực văn hoá, chỉ đạo hoạch định các chính sách văn hoá nhằm thực hiện
thắng lợi mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
Tháng 11 năm 1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 05 về Văn hóa - Văn
nghệ trong cơ chế thị trường; Nghị quyết của Bộ Chính trị và các kết luận về văn
hóa, văn nghệ (tháng 11 năm 1988); tháng 8 năm 1989, Ban Bí thư Trung ương
ra Chỉ thị số 52- CT/TW về đổi mới và nâng cao chất lượng phê bình Văn học Nghệ thuật; tháng 6 năm 1990, Ban Bí thư Trung ương ra Chỉ thị số 61- CT/TW
về công tác quản lý văn học - nghệ thuật; tháng 1 năm 1993, Ban chấp hành
Trung ương Đảng ra Nghị quyết Trung ương 4 về một số nhiệm vụ văn hóa- văn
nghệ những năm trước mắt; tháng 7 năm 1998, Hội nghị Trung ương 5 khoá VIII
ra Nghị quyết về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là cơ sở đặc biệt quan trọng để
xây dựng nền văn hoá đất nước trong thời kì đổi mới. Đó là nền văn hoá với vai
trò là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực thúc đẩy kinh tế - xã
5
hội phát triển, gắn với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất
nước.
Nông nghiệp và nông thôn nước ta có một vị trí và vai trò quan trọng
trong tiến trình phát triển của đất nước. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là
một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc đổi mới. Xây dựng đời
sống văn hóa ở nông thôn là góp phần tạo nên động lực đẩy nhanh quá trình đổi
mới, đồng thời góp phần tích cực vào công cuộc bảo tồn và chấn hưng văn hóa
nước nhà, vì một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nhận thức sâu sắc về vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết về xây dựng
đời sống văn hóa ở nông thôn và việc thực hiện chủ trương, đường lối, nghị
quyết của Đảng, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã triển khai mạnh mẽ công tác này.
Trong thời gian qua, đời sống văn hóa ở nông thôn Vĩnh Phúc đã có nhiều thay
đổi theo hướng tích cực, bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc. Tuy nhiên nông
thôn Vĩnh Phúc phải đối diện với những thách thức lớn như: tình trạng mê tín dị
đoan, các hủ tục, những thói quen lạc hậu, nạn bạo hành, ô nhiễm môi trường
vẫn còn diễn biến phức tạp. Bên cạnh đó, việc cưới, việc tang vẫn còn rờm rà
gây phiền hà trong khu dân cư; ở nhiều nơi truyền thống gia đình, hàng xóm
đang bị xem nhẹ. Nhiều nơi đã gắn bảng Khu dân cư văn hóa, song còn mang
tính hình thức, ở đó còn nhiều vấn đề văn hóa chưa đạt yêu cầu. Tình hình nêu
trên do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu thuộc về sự lãnh đạo của
Đảng bộ Tỉnh đối với xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn, nhất là từ năm
1997 (năm tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập) đến nay. Nghiên cứu sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh đối với việc xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn từ năm 1997
đến nay, mà trọng tâm từ năm 1997 đến năm 2010 là rất cần thiết, để rút ra
những điều bổ ích, làm cơ sở cho việc lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá của
Đảng bộ tỉnh trong những năm tới đạt kết quả cao hơn.
6
Để góp phần vào công việc nêu trên, tôi chọn và thực hiện đề tài luận văn
Thạc sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam: “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo
xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn từ năm 1997 đến năm 2010”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn.
Việc xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn được triển khai rộng khắp
trong cả nước, ở Trung ương cũng như các tỉnh đều có những công trình nghiên
cứu được đăng tải trên các sách, báo, tạp chí:
- Bộ Văn hóa Thông tin, Cục văn hóa Thông tin cơ sở (1997), Một số vấn
đề xây dựng làng - ấp văn hóa hiện nay, Nxb Hà Nội. Cuốn sách đã nêu rõ được
thực trạng của việc xây dựng làng - ấp văn hoá trên địa bàn cả nước và đề cập
đến các vấn đề được coi như là giải pháp để làm tốt công tác xây dựng làng - ấp
văn hoá.
- Bộ Văn hóa Thông tin, Cục Văn hóa Thông tin cơ sở (1997), Xây dựng
gia đình văn hóa trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đề
cập đến vai trò của gia đình đối với sự phát triển của xã hội nói chung và sự
nghiệp đổi mới nói riêng. Cuốn sách chỉ rõ việc cần thiết phải đẩy mạnh xây
dựng gia đình văn hoá với những tiêu chí mới phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ
của công cuộc đổi mới đất nước.
- Bộ Văn hóa Thông tin, Cục Văn hóa Thông tin cơ sở (1998), Hỏi và đáp
về xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, nếp sống văn hó, tổ chức và quản lý
lễ hội truyền thống, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trình bày dưới dạng hỏi,
đáp đã giải đáp tất cả những vấn đề cơ bản liên quan đến việc xây dựng làng văn
hoá, gia đình văn hoá, nếp sống văn hoá và tổ chức lễ hội truyền thống. Cuốn
sách có vai trò tuyên truyền, hướng dẫn mọi người hiểu được bản chất và cách
thực hiện những vấn đề đã nêu sao cho phù hợp với chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước.
7
- Dương Thanh Tam, Lê Văn Thinh (1999), Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa mới ở khu dân cư, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nội dung
cuốn sách phản ánh về phong trào do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc (UBMTTQ) Việt
Nam chủ trì. Trên cơ sở nêu bật những ý nghĩa của phong trào, cuốn sách đã đưa
ra một cách phân tích sâu sắc về những vấn đề thuộc về nội dung của phong trào
và hệ thống các giải pháp để thực hiện phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hoá ở khu dân cư" có hiệu quả.
Những năm gần đây cũng có một số cuốn sách được xuất bản về vấn đề
này, điển hình như:
- Ban chỉ đạo Trung ương (2000), Hỏi và đáp về phong trào Toàn dân xây
dựng đời sống văn hóa, Nxb Hà Nội, Hà Nội. Cuốn sách đã giải đáp những vấn
đề cơ bản về phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá", từ nội
hàm khái niệm cho đến việc hướng dẫn thực hiện phong trào.
- Văn Đức Thanh (2001), Về xây dựng Môi trường văn hóa cơ sở, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Xuất phát từ việc phân tích về khái niệm văn hoá,
tác giả đã đưa ra một cách nhìn nhận chi tiết về môi trường văn hoá ở nông thôn,
đồng thời nhấn mạnh đến những yếu tố cần thiết phải xây dựng môi trường văn
hoá lành mạnh và một hệ thống các giải pháp để làm được điều đó.
- Lê Quý Trấn, Nguyễn Văn Tam, Trần Thị Ánh Tuyết (2001),“Hội nông
dân Việt Nam với phong trào gia đình văn hoá, thôn ấp, bản, làng văn hoá", Nxb
Lao Động, Hà Nội. Trong công trình này nhóm tác giả đã nêu bật được vai trò
của Hội nông dân với phong trào xây dựng gia đình văn hoá, thôn, ấp, bản, làng
văn hoá. Đồng thời đề cập đến những việc đã làm được và chưa làm được của
Hội nông dân đối với phong trào. Từ đó các tác giả rút ra những giải pháp cần
thiết để nâng cao vai trò của Hội nông dân với phong trào.
- Bu Thoong Chít Ma Ni - Trưởng Ban tổ chức Trung ương, Đảng Nhân
dân Cách mạng Lào, Luận án tiến sĩ bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính
8
quốc gia Hồ Chí Minh (2010), “Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lãnh đạo xây
dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay”. Luận án đã trình bày một cách
hệ thống quá trình lãnh đạo xây dựng nông thôn mới của Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào, trong đó vai trò của yếu tố văn hoá là rất quan trọng.
Đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ
thống về quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá
ở nông thôn từ năm 1997 đến năm 2010.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn.
3.1. Mục đích.
Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo việc xây dựng đời
sống văn hóa ở nông thôn từ năm 1997 đến năm 2010. Trên cơ sở đó Luận văn
rút ra những kinh nghiệm.
3.2 Nhiệm vụ.
Trình bày một cách có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc vận
dụng chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn
vào lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn của tỉnh (phân chia thành
hai thời kỳ: từ năm 1997 đến năm 2000 và từ năm 2001 đến năm 2010), chỉ ra
ưu, khuyết điểm, nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh
Phúc đối với việc xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn. Thời gian từ năm
1997 đến năm 2010.
- Về không gian, luận văn nghiên cứu đời sống văn hoá nông thôn và
Đảng bộ Tỉnh lãnh đạo xây dựng đời sống văn hoá nông thôn trên địa bàn tỉnh.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận của luận văn là: Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa và phát triển văn hóa;
9
đồng thời luận văn kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu về mặt lý luận của
các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận văn.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là: Thực trạng lãnh đạo xây dựng đời sống
văn hoá ở nông thôn của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1997 đến năm 2010,
thể hiện trong thực tiễn và trong các văn kiện, báo cáo sơ kết, tổng kết về lãnh
đạo phát triển văn hóa của Tỉnh ủy, các cấp ủy, tổ chức đảng trong tỉnh, các báo
cáo của Ủy ban Nhân dân, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Vĩnh Phúc, các văn
bản khác của các tổ chức, cơ quan trong tỉnh có liên quan đến văn hóa.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin và sử dụng các phương pháp lịch sử - logic, phân tích – tổng
hợp, điều tra, khảo sát, tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp của luận văn.
- Những kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn từ
năm 1997 đến năm 2010 của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo cho Tỉnh uỷ và các cấp uỷ trong tỉnh trong quá trình lãnh đạo xây dựng đời
sống văn hoá ở nông thôn trong những năm tới và cho các nhà nghiên cứu quan
tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa
ở nông thôn từ năm 1997 đến năm 2000.
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ở
nông nông thôn từ năm 2001 đến năm 2010.
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm.
10
Chương 1
ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ Ở NÔNG THÔN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2000
1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hoá tỉnh
Vĩnh Phúc và đời sống văn hoá ở nông thôn trước năm 1997.
1.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh
Phúc.
Tỉnh Vĩnh Phúc thuộc đồng bằng Bắc Bộ, là vùng đồng bằng có trung du
và miền núi. Phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang, phía Tây giáp
tỉnh Phú Thọ, phía Nam và Đông giáp Hà Nội.
Tháng 2/ 1950 tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập trên cơ sở hợp nhất tỉnh
Vĩnh Yên và tỉnh Phúc Yên. Tháng 2/1968 tỉnh Vĩnh Phúc hợp nhất với tỉnh
Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú. Từ ngày 1/1/1997 tỉnh Vĩnh Phú tách trở lại
thành 2 tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Tỉnh Vĩnh Phúc có 6 đơn vị hành chính cấp
huyện: thị xã Vĩnh Yên và 5 huyện Lập Thạch, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Tam Đảo,
Mê Linh. Từ 1/8/2008 huyện Mê Linh đã được tách ra và sáp nhập vào thành
phố Hà Nội.
Đến năm 2010, Vĩnh Phúc có 9 đơn vị hành chính (thành phố Vĩnh Yên,
thị xã Phúc Yên và các huyện Lập Thạch, Tam Dương, Vĩnh Tường, Yên Lạc,
Tam Đảo, Bình Xuyên, Sông Lô), 112 xã với số dân nông thôn là 777.354 người
chiếm 77,75% [10, tr.14].
Nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa đồng bằng sông Hồng và vùng trọng
điểm kinh tế Bắc Bộ với các tỉnh trung du miền núi phía Bắc, Vĩnh Phúc có hệ
thống giao thông đa dạng gồm đường sắt, đường bộ và đường thuỷ; ở gần sân
bay Quốc tế Nội Bài, là cầu nối giữa thủ đô Hà Nội với các tỉnh miền núi phía
Bắc và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), vì vậy rất thuận lợi cho phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội và hội nhập quốc tế.
11
Vĩnh Phúc có 3 vùng sinh thái rõ rệt: đồng bằng, trung du và vùng núi,
cùng với nguồn tài nguyên nước mặt, nước ngầm tương đối dồi dào, do vậy hết
sức thuận tiện cho phát triển nông lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp, xây dựng
và du lịch - dịch vụ.
Tỉnh có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Rừng quốc gia Tam
Đảo, hồ Đại Lải, hồ Làng Hà, Đầm Và, Đầm Vạc... Nhiều di tích lịch sử, văn
hoá mang đậm dấu ấn lịch sử và giá trị tâm linh như: danh thắng đền thờ Quốc
mẫu Tây Thiên, thiền viện trúc lâm Tây Thiên, tháp Bình Sơn, di chỉ khảo cổ
học Đồng Đậu... có gần 250 di tích lịch sử, văn hoá đã được xếp hạng. Những
làng nghề nổi tiếng như làng gốm Hương Canh, làng rèn Lý Nhân, làng mộc
Bích Chu, làng thương mại Thổ Tang...
Trong những năm qua Vĩnh Phúc đã đạt được những thành tựu nổi bật về
phát triển kinh tế - xã hội, nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và bền vững.
Vào thời điểm tái lập tỉnh, xuất phát điểm nền kinh tế rất thấp, kinh tế thuần
nông, tỷ trọng nông nghiệp chiếm trên 52% giá trị GDP, công nghiệp chiếm
12,86%; thu nhập bình quân đầu người là 140 USD; thu ngân sách gần 100 tỷ
đồng. Sau khi tái lập tỉnh, tăng trưởng bình quân GDP từ năm 1997 đến năm
2000 đạt 17,8%, giai đoạn 2001-2006 đạt 16,2%, giai đoạn 2006-2010 đạt là
18,0%/năm. Năm 2007 cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: công
nghiệp, xây dựng chiếm 61,06%; dịch vụ chiếm 24,68%; nông, lâm, thủy sản
14,25%. Các nguồn lực được khai thác hiệu quả, thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài đạt cao.
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ. Đặc biệt trong lĩnh vực giáo
dục- đào tạo, Vĩnh Phúc sớm đạt được các chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng
độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở (từ năm 2002); tỷ lệ lao động qua
đào tạo năm 2007 đạt 36,4%. Duy trì được vị trí là một trong những địa phương
dẫn đầu cả nước về tỷ lệ học sinh đỗ vào các trường đại học, cao đẳng. Công tác
12
chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm, các dịch vụ y tế ngày càng được
đảm bảo, năm 2007, toàn tỉnh có gần 90% xã, phường đạt chuẩn quốc gia về y tế
xã; 80% trạm y tế xã, phường có bác sỹ; tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi
giảm dần còn 18,7%.
Vĩnh Phúc cũng là xứ sở của nhiều làn điệu dân ca đặc sắc như: Xoan
ghẹo, Xa mạc, Trống quân… của nhiều trò chơi, sinh hoạt văn hoá dân gian độc
đáo như: lễ hội Tây Thiên, chọi trâu (Hải Lựu), kéo song (Hương Canh), hát
Sọong cô của dân tộc Sán dìu...
1.1.2. Nội dung cơ bản của đời sống văn hoá ở nông thôn Vĩnh Phúc.
Một là, việc cưới, việc tang, lễ hội, mừng thọ:
Việc cưới, việc tang, lễ hội, mừng thọ là vấn đề mang tính lịch sử tồn tại
từ lâu đời và hết sức nhạy cảm, đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi cộng đồng dân
cư và mỗi con người gồm những phong tục, tập quán tốt đẹp và những hủ tục lạc
hậu. Bên cạnh đó là những ảnh hưởng của các nền văn hoá các nước lân cận và
nền văn hoá phương Tây trong thời kỳ nước ta bị phong kiến, thực dân, đế quốc
đô hộ trước đây và hiện nay là quá trình hội nhập quốc tế.
Cưới, tang, lễ hội tác động đến mọi khía cạnh, lĩnh vực của đời sống xã
hội, đặc biệt là ở nông thôn. Thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tang, lễ hội sẽ góp phần quan trọng xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh,
làm “nền tảng tinh thần” và là động lực cho sự phát triển kinh tế, xã hội, đảm
bảo quốc phòng an ninh.
Hai là, xây dựng Gia đình văn hoá (GĐVH), Làng văn hoá (LVH):
Gia đình là tế bào của xã hội, do đó, văn hóa gia đình đóng vai trò quan
trọng trong vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc. Gia
đình tốt là cơ sở bảo đảm cho đời sống văn hoá của dân tộc lành mạnh, tạo điều
kiện thuận lợi để phấn đấu đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ và
văn minh.
13
Văn hóa gia đình là một bộ phận, là cái “gốc” của văn hóa làng, văn hóa
nước. Vì vậy, việc đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa không thể
tách rời việc nghiên cứu, xem xét, đánh giá từ góc độ văn hóa gia đình. Nghĩa là,
cuộc vận động xây dựng gia đình văn hóa và tiêu chí gia đình văn hóa phải dựa
trên những giá trị văn hóa truyền thống của gia đình. Đồng thời trong quá trình
xây dựng gia đình văn hóa phải biết giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Đó là cơ sở rất quan trọng để xây dựng tư tưởng, đạo đức lối sống tốt đẹp, xây
dựng đời sống văn hóa lành mạnh từ trong mỗi gia đình, chống lại sự xâm nhập
của các tệ nạn xã hội và những tác động xấu từ mặt trái của cơ chế thị trường
hiện nay đến đời sống văn hoá cộng đồng.
Xây dựng gia đình văn hóa là xây dựng mô hình gia đình phù hợp với tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Xây dựng gia
đình văn hóa vừa phải kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt
đẹp của gia đình, vừa xây dựng những giá trị văn hoá của gia đình trong thời kỳ
mới phù hợp với sự vận động phát triển của xã hội văn minh, nhằm mục tiêu làm
cho gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người.
Ba là, xây dựng hương ước, quy ước:
Hương ước là bản ghi chép các điều lệ liên quan đến đời sống của cộng
đồng dân cư sinh sống trong làng, được hình thành dần dần trong lịch sử, được
điều chỉnh và bổ sung khi cần thiết. Các điều ấy, trong các chế độ xã hội trước
đây thường gọi là lệ làng. Hương ước còn có cách gọi khác như: Hương biên,
hương lệ, hội đình, hội ước…
Trong xã hội hiện đại, hương ước có thể xem là hệ thống các quy định tồn
tại song song với pháp luật nhưng không đối lập với pháp luật. Hương ước đề
cập tới những nội dung cụ thể gắn với hoàn cảnh phong tục, tập quán lâu đời của
từng làng, là những nội dung mà các bộ luật của Nhà nước không đề cập đến.
14
Hương ước được xây dựng trên cơ sở những mối quan hệ giữa các thành
viên của cộng đồng làng, xã với nhau, giữa mỗi thành viên với cộng đồng, giữa
các cộng đồng nhỏ trong làng (xóm, họ…) và làng.
Hương ước không chỉ đề ra các hình thức trừng phạt với các việc làm sai
trái mà còn đề ra những hình thức khen thưởng việc tốt, có ích cho làng.
Nội dung của các bản hương ước thường gồm 4 loại quy ước:
1. Những quy ước về chế độ ruộng đất.
2. Những quy ước về việc khuyến nông, bảo vệ sản xuất, bảo vệ môi
trường.
3. Những quy ước về tổ chức xã hội và trách nhiệm của các chức dịch
trong làng.
4. Những quy ước về văn hoá tinh thần và tín ngưỡng.
Như vậy có thể thấy nội dung, vai trò, và sự ảnh hưởng to lớn của hương
ước đối với sự phát triển của làng xã Việt Nam nói chung và Vĩnh Phúc nói
riêng. Có thể thấy, Hương ước chính là một văn bản đặc biệt quan trọng trong
đời sống làng xã. Trong đó, có rất nhiều thuần phong mĩ tục, các nét đẹp, các giá
trị truyền thống của từng làng xã . Hương ước có thể thúc đẩy, cũng có thể là cản
trở đối với sự phát triển của làng, xã. Vì vậy, yêu cầu đặt ra khi xây dựng những
bản hương ước phải phù hợp với nếp cảm, nếp nghĩ của từng địa phương, đồng
thời phải tuân thủ pháp luật, phù hợp với thực trạng phát triển của mỗi địa
phương. Tiếp thu những yếu tố tích cực của hương ước cũ để xây dựng hương
ước mới ở các làng hiện nay là việc làm cần thiết để góp phần xây dựng và nâng
cao đời sống văn hóa ở các xóm làng.
Bốn là, xây dựng thiết chế văn hoá:
Xây dựng thiết chế văn hoá ở nông thôn gồm ba bộ phận: cơ sở vật chất
phục vụ các hoạt động văn hoá, đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá và các cơ
chế, chính sách văn hoá nông thôn. Cụ thể là:
15
Xây dựng cơ sở vật chất phục vụ các hoạt động văn hoá: Cần quan tâm
vận động nhân dân tích cực thực hiện nội dung này theo phương châm Nhà nước
và nhân dân cùng làm, tạo kết quả bước đầu, tạo tiền đề cho việc xây dựng đời
sống văn hoá ở nông thôn.
Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá ở nông thôn: Các địa phương đã
quan tâm đến vấn đề này, nhưng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá nhìn
chung chưa đáp ứng được yêu cầu trong điều kiện hiện nay. Ở cấp xã chỉ có một
cán bộ chuyên trách làm công tác văn hoá, ở nhiều thôn, xóm cán bộ làm công
tác văn hoá phải kiêm nhiệm hoặc không có. Cán bộ làm công tác văn hoá là bộ
phận cấu thành có tính quyết định vấn đề thiết chế văn hoá nông thôn. Vì vậy,
phải bắt đầu từ khâu cán bộ có năng lực, sở trường để đào tạo, đào tạo lại, đồng
thời có phương án tăng thêm về số lượng cán bộ văn hoá cho cấp xã, thôn xóm.
Các cơ chế, chính sách văn hoá nông thôn: Đảng và Nhà nước đã ban
hành nhiều chính sách để xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là cơ sở rất quan trọng để xây dựng cơ chế, chính
sách văn hoá nông thôn.
1.1.3. Khái quát về đời sống văn hoá ở nông thôn Vĩnh Phúc trước năm
1997.
* Thành tựu:
Đời sống văn hoá ở nông thôn tỉnh Vĩnh Phúc so với thời kỳ trước đổi
mới đã có bước phát triển, tiến bộ rõ rệt, nhiều nét mới về giá trị văn hoá, đạo
đức và lối sống của nhân dân từng bước được hình thành. Đó là tính năng động,
tính tích cực của công dân, không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội từng bước
được tăng lên.
Bước đầu hình thành một số nghi thức mới trong việc cưới, việc tang, lễ
hội, mừng thọ. Cải tạo có kết quả một bước phong tục tập quán lạc hậu, đạo lý
uống nước nhớ nguồn, hiếu thảo, thuỷ chung được phát huy.
16
Cuộc vận động xây dựng GĐVH, LVH đã đạt được những kết quả đáng
kể. Kinh tế có bước phát triển và tăng trưởng tương đối cao, đời sống nhân dân
từng bước được cải thiện. Bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi. Kết quả xây dựng
GĐVH, LVH đã góp phần vào việc ổn định tình hình chính trị, đảm bảo trật tự
an toàn xã hội, khơi dậy, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Một số thiết chế văn hoá mới được xây dựng và phát huy tác dụng. Tỉnh
đã có Đài Phát thanh Truyền hình, Báo Vĩnh Phúc, 11 tờ tin và tạp chí của các
sở, ban, ngành, đoàn thể. Có 6 đài truyền thanh huyện, thị, 88 đài truyền thanh
cơ sở, đóng vai trò quan trọng trong việc đưa thông tin cần thiết tới người dân,
đặc biệt là ở các xã miền núi [84, tr.3].
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh (UBND) đã
ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của lễ hội truyền thống, quy định về
sửa chữa và xây dựng nơi thờ tự, về xây dựng GĐVH, LVH giai đoạn 1998 2004, xây dựng quy định về tổ chức việc cưới, tang, lễ hội. Các công trình như
nhà văn hoá, sân chơi, bãi tập được xây dựng các vùng nông thôn trong tỉnh, tạo
điều kiện cho nhân dân hoạt động văn hoá.
* Hạn chế:
Về việc cưới, việc tang, lễ hội, mừng thọ: do đang trong quá trình chuyển
đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, có lúc các cấp uỷ đảng trong Tỉnh đã có
phần buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý trên một số lĩnh vực văn hoá, xã hội.
Nhiều cấp uỷ còn xem nhẹ việc giáo dục nếp sống và lối sống, còn chưa hướng
dẫn kịp thời về duy trì các phong tục, còn thiếu những quy định cụ thể đối với
việc cưới, việc tang, lễ hội nên nhiều hiện tượng không lành mạnh đã nảy sinh và
phát triển ở nhiều nới.
Nhiều gia đình ở nông thôn, trong đó có cả gia đình cán bộ có chức, có
quyền, vì những động cơ vụ lợi, hiếu danh, đã tổ chức đám cưới, đám tang linh
đình phô trương, thực chất là "Bán cỗ thu tiền". Nạn ma tuý mại dâm và các tệ
17
nạn xã hội khác có chiều hướng gia tăng; mê tín, dị đoan cùng nhiều hủ tục, kể
cả một số hủ tục mới hình thành do thói đua đòi và do cách học theo nước ngoài
thiếu sự phê phán, chọn lọc, đang có khuynh hướng phục hồi và phát triển.
Cuộc vận động xây dựng dựng GĐVH, LVH còn nhiều hạn chế, yếu kém,
kết quả đạt được không đồng đều. Đời sống nhân dân tuy có bước cải thiện,
nhưng nhìn chung vẫn còn khó khăn. Các tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn có
hiệu quả, ở nhiều nơi lại có chiều hướng gia tăng. Tình hình phạm pháp, mâu
thuẫn trong nhân dân, khiếu kiện đông người còn xảy ra phức tạp ở một số nơi.
Việc xây dựng hương ước, quy ước làng xã ở một số nơi chưa được sự
quan tâm thường xuyên của cấp uỷ, chính quyền và sự phối hợp của các ban
ngành, đoàn thể trong Tỉnh.
Thời lượng phát sóng, phát hình của Đài phát thanh và truyền hình Tỉnh
tuy đã tăng, nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của nhân dân . Báo Vĩnh Phúc
tuần 3 kỳ, song số lượng phát hành còn ít. Kinh phí đầu tư cho xây dựng nhà văn
hoá thôn, xã, các công trình văn hoá, thể thao còn hạn chế. Các văn bản pháp quy
về hoạt động văn hoá còn chưa đầy đủ và đồng bộ nên hạn chế việc quản lý các
hoạt động văn hoá trên địa bàn Tỉnh. Bộ máy tổ chức và quản lý văn hoá chưa
đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển văn hoá trong thời kỳ mới.
1.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về xây dựng đời
sống văn hóa ở nông thôn từ năm 1997 đến năm 2000 và sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc.
1.2.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời
sống văn hóa ở nông thôn từ năm 1997 đến năm 2000.
1.2.1.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời
sống văn hóa ở nông thôn trước năm 1997.
Việt Nam có một nền văn hóa lâu đời, phát huy giá trị to lớn trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước. Từ khi Đảng ra đời, nhất là từ khi trở thành Đảng
18
cầm quyền, Đảng luôn quan tâm đến sự phát triển văn hoá dân tộc. Cùng với quá
trình thực hiện đường lối cách mạng, đường lối văn hóa của Đảng cũng dần được
hình thành và từng bước được bổ sung, điều chỉnh theo yêu cầu của cách mạng,
phù hợp với xu thế của thời đại và nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Từ cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930) đến Đề cương văn hóa
của Đảng (1943) và các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc, cùng với việc xây
dựng nền văn hóa mới, Đảng luôn coi trọng xây dựng đời sống văn hóa ở các
vùng, miền đất nước, trong đó có vùng nông thôn rộng lớn.
Trong Đề cương văn hóa Việt Nam (1943) Đảng đã nêu rõ ba đặc trưng
của nền văn hóa Việt Nam là “Tính dân tộc, tính khoa học và tính đại chúng”.
Sau đó là những bức thư, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa, văn
nghệ và nhất là tác phẩm Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam đã xác định rõ
đường lối văn hóa Mác xít ở Việt nam. Vì vậy từ khi nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa ra đời, một nền văn hóa mới đã từng bước được hình thành, phát
triển và đạt được những thành tựu đáng tự hào. Nền văn hóa mới đã “cổ vũ quần
chúng đấu tranh và sản xuất vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội và góp phần
xây dựng cuộc sống mới, con người mới” [42, tr.31- 32].
Sau khi giành được chính quyền (8/1945) và trải qua hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng và Nhà nước luôn
quan tâm đến việc xây dựng nền văn hoá mới. Đạt thành tựu to lớn và tích luỹ
được những kinh nghiệm quý báu, trong đó có những kinh nghiệm xây dựng đời
sống văn hoá ở nông thôn.
Đại hội Đảng toàn quốc IV (12/1976) đã chỉ rõ: "cần phải có những chính
sách và biện pháp nhằm tạo điều kiện cho mọi người tham gia vào hoạt động văn
hoá, văn nghệ; đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu cầu thưởng thức và hoạt động văn
hóa văn nghệ của nhân dân từ thành thị đến nông thôn, từ nơi đông người đến
những vùng xa xôi hẻo lánh. Phải tổ chức đời sống ở vùng kinh tế mới, các nông
19
trường, lâm trường, công trường, miền núi và hải đảo. Ở các xã, ấp, làng, bản
cần xây dựng những công trình văn hoá quy mô vừa và nhỏ mang mầu sắc địa
phương khác nhau, thể hiện tính phong phú của nền văn hóa chung của dân tộc
ta". [37, tr.113].
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (3/1982) tiếp tục nhấn mạnh việc xây
dựng đời sống văn hóa ở cơ sở "cần phải đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống
văn hoá ở cơ sở, bảo đảm mỗi nhà máy, nông trường, lâm trường, mỗi đơn vị lực
lượng vũ trang, công an nhân dân, cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi
xã, hợp tác xã, phường, ấp đều có đời sống văn hoá. Đại hội cũng chỉ rõ nhiệm
vụ phải xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở của từng vùng. Phải hết sức chăm lo
xây dựng văn hóa ở nông thôn" [38, tr.102].
Từ năm 1986, trên tinh thần đổi mới toàn diện và sâu sắc đất nước, Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986), Đảng đã có những nhận thức mới về
vai trò, vị trí của văn hoá.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
đã khẳng định: "kinh tế và văn hóa là hai mặt tác động qua lại lẫn nhau nhằm xây
dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người"
[39, tr.10].
Quá trình mở cửa trong những năm đổi mới đã làm sống động và khởi sắc
môi trường văn hóa. Tuy nhiên, những mặt trái của nó ở nhiều nơi đã ảnh hưởng
xấu đến môi trường văn hóa và tác động xấu đến một số điểm của nhân cách con
người. Vì thế, việc xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh không chỉ có ý nghĩa
lâu dài đối với việc chủ động phòng chống “Văn hóa đen” và tệ nạn xã hội mà
còn tạo dựng được lối sống và lẽ sống mới, thuận lợi cho quá trình hình thành
nhân cách ở mỗi con người.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (7/1996), Đảng ta đã xác định
phải xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiến tiến đậm đã bản sắc dân tộc và chỉ
20
rõ cần phải “Củng cố và tăng cường mạng lưới văn hoá cơ sở” [41, tr.111]. Việc
Đảng ta chăm lo đến đời sống văn hóa cơ sở nhằm mục đích “Nâng cao hiểu biết
và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân ở mọi vùng đất nước, hướng nhân dân
về nếp sống văn hóa, văn minh, chống các hủ tục mê tín dị đoan” [41, tr.111];
đồng thời để “đưa các nhân tố văn hoá, tinh thần thấm sâu vào các lĩnh vực của
đời sống xã hội, từ cách ứng xử trong gia đình, trường học cho đến các hoạt
động sản xuất, giao tiếp…” [41, tr.112].
1.2.1.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng đời
sống văn hóa ở nông thôn từ năm 1997 đến năm 2000.
Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII (1998) về xây dựng và phát triển nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo
cơ bản, 10 nhiệm vụ cụ thể và 4 nhóm giải pháp lớn để toàn Đảng, toàn dân phát
huy nội lực xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Sau khi đánh giá về thực trạng nền văn hóa ở nước ta, Nghị quyết đã
đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa. Hai trong những
nhiệm vụ cụ thể được Đảng ta quan tâm là xây dựng con người Việt Nam trong
giai đoạn mới và xây dựng môi trường văn hóa. Hai nhiệm vụ này gắn kết với
vai trò của việc xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn. Xây dựng con người
Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới là xây dựng con người “có lối sống
lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ
cương phép nước, quy ước cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường
sinh thái” [40, tr.59].
Việc xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn còn nằm trong chiến lược
xây dựng môi trường văn hóa, tức là phải “tạo ra các đơn vị cơ sở (gia đình,
làng, bản, xã, phường… ), các vùng dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi…) đời
sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng
lên của các tầng lớp nhân dân”. "Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của
21
gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng
xây dựng gia đình văn hóa. Xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà
trường và xã hội” [40, tr.59- 60].
Sự coi trọng việc xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn của Đảng là
"nhằm giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam, xây
dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Đồng thời là
để thu hẹp dần khoảng cách đời sống văn hóa giữa đô thị và nông thôn, giữa
những vùng kinh tế phát triển với các vùng sâu, vùng xa, vùng núi, biên giới, hải
đảo, giữa các tầng lớp nhân dân” [40, tr.60].
Để thực hiện được điều đó, Đảng chủ trương “đẩy mạnh phong trào xây
dựng làng, ấp, xã, phường văn hóa, nâng cao tính tự quản của cộng đồng dân cư
trong việc xây dựng nếp sống văn minh”. Bên cạnh đó, Đảng cũng nhấn mạnh
vào việc “phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết
chế văn hóa cơ sở; đầu tư xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm tầm
quốc gia” [40, tr.60]. Thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm
văn hóa”. “Ban hành chính sách khuyến khích sáng tạo văn hóa và khả năng đáp
ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân” [40, tr.69].
Đặc biệt, Nghị quyết nhấn mạnh: “Xây dựng nếp sống văn minh trong
việc cưới, việc tang và lễ hội, đẩy lùi các hủ tục, các tệ nạn cờ bạc, ma túy, mại
dâm, bạo lực và gây rối trật tự công cộng” [40, tr.69]; “cải thiện đời sống văn
hóa ở những vùng đời sống văn hóa còn thấp kém, nhất là những vùng sâu, vùng
xa, vùng núi, biên giới hải đảo, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, đáp ứng nhu
cầu bức thiết về đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân” [40, tr.70].
Một trong những giải pháp lớn để phát triển văn hóa là dành sự ưu tiên
cho việc xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn bằng việc: “Phát động phong
trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, huy động mọi lực lượng
của nhân dân và cả hệ thống chính trị từ trên xuống, từ trong Đảng, cơ quan Nhà
22
nước, các đoàn thể, ra ngoài xã hội tích cực tham gia phong trào”. Phong trào
này, bao gồm các phong trào như: Người tốt việc tốt; Uống nước nhớ nguồn;
Đền ơn đáp nghĩa; Xóa đói giảm nghèo; Xây dựng gia đình văn hóa, làng, xã,
phường văn hóa; Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư …
Toàn bộ các phong trào này đều vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh” [40, tr.71].
Ngày 12/1/1998, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra
Chỉ thị số 27-CT/TW về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc
tang và lễ hội. Mục đích của Chỉ thị nhằm mở cuộc vận động sâu rộng trong toàn
Đảng, toàn dân đẩy mạnh nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, trong đó yếu tố
đầu tiên là việc thiết lập nếp sống lành mạnh trong việc cưới, việc tang, lễ hội.
Chỉ thị nêu rõ những định hướng trong việc cưới, việc tang, lễ hội: Bảo tồn có
chọn lọc, cải tiến, đổi mới những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc; loại bỏ
dần trong cuộc sống những hình thức lỗi thời, lạc hậu; nghiên cứu xây dựng và
hình thành dần những hình thức vừa văn minh, vừa giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc; Lành mạnh, tiết kiệm, tránh xa hoa lãng phí, phiền nhiễu.
Chống khuynh hướng kinh doanh, vụ lợi; Xoá bỏ hủ tục, bài trừ mê tín dị đoan.
Chỉ thị chỉ rõ những công việc cần làm: Cấp uỷ đảng và chính quyền các
cấp phải thực sự quan tâm, có kế hoạch cụ thể chỉ đạo xây dựng nếp sống văn
minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, coi đó là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của địa phương; phát động phong trào quần chúng rộng rãi, nêu cao vai trò
làm chủ, ý thức tự giác của nhân dân, xây dựng và thực hiện các tiêu chuẩn về
Nếp sống văn minh - Gia đình văn hóa.
Ngày 28/3/1998, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 14/1998/CT-TTg về
việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Thủ tướng
Chính phủ yêu cầu: "các ngành, các cấp có kế hoạch và tổ chức những hoạt động
23
cụ thể nhằm triển khai có hiệu quả cuộc vận động này với các nội dung chủ yếu
như sau:
+ Các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương xây dựng chương
trình, kế hoạch cụ thể phù hợp với thực tế của mình và triển khai thực hiện tới
tận cơ sở, coi đây là công tác trọng tâm.
+ Kiện toàn Ban Chỉ đạo nếp sống văn hóa ở các địa phương, Trưởng
ban chỉ đạo do 1 Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân đảm nhiệm, Phó Trưởng ban là
Thủ trưởng cơ quan Văn hóa - Thông tin và mời đại diện ủy ban Mặt trận Tổ
quốc tham gia, thành viên là đại diện một số ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội.
Văn phòng Ban Chỉ đạo đặt tại cơ quan Văn hóa - Thông tin
+ Tổ chức chỉ đạo, thực hiện cuộc vận động này và lồng ghép vào cuộc
vận động ''Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư'' do ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phát động [95, tr.2- 3].
Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ,
ngày 11/7/1998, Bộ Văn hoá Thông tin ra Thông tư số 04/1998/TT-BVHTT
hướng dẫn thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Thông
tư thể hiệ rõ tinh thần Chỉ thị của Bộ Chính trị và Thủ tướng Chính phủ, nêu rõ
việc thực hiện việc cưới, tang, lễ hội phải tuỳ điều kiện từng địa phương.
Ngày 19/7/1998, Thủ tướng Chính phủ đề ra Chương trình hành động số
1109/CP-VX thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về "Xây dựng và
phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Tiếp theo,
ngày 23/12/1999 thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 235/1999/QĐ-TTg về
việc thành lập Ban Chỉ đạo cuộc vận động phong trào "Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hoá" theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII).
Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30/CT-TƯ về tăng cường
công tác quản lý Nhà nước đối với việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy
ước. Tiếp theo Nhà nước đã ban hành một loạt văn bản chỉ đạo, hướng dẫn việc
24