Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Đảng bộ tỉnh bắc giang lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa từ nam 1997 den nam 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 142 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------------------

NGUYỄN THU THỦY

ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC GIANG
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2012

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng
Mã số: 60220315

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Văn Thịnh

Hà Nội - 2014

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 7
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................... 13
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 13
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................. 14
6. Đóng góp của đề tài ................................................................................. 15
7. Kết cấu của luận văn ................................................................................ 15
Chƣơng 1: ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC GIANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2000 ......................... 16


1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và thực trạng đời sống
văn hóa ở tỉnh Bắc Giang trước năm 1997 .................................................. 16
1.1.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội ............................................... 16
1.1.2. Thực trạng đời sống văn hóa tỉnh Bắc Giang trước năm 1997 ..... 22
1.2. Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa từ năm
1997 đến năm 2000 ...................................................................................... 28
1.2.1. Một vài nhận thức về văn hóa và đời sống văn hóa....................... 28
1.2.2. Chủ trương và sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang trong việc
xây dựng đời sống văn hóa từ năm 1997 đến năm 2000 ......................... 35
Chƣơng 2: ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC GIANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2012 ......................... 52
2.1. Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa từ năm
2001 đến năm 2005 ...................................................................................... 52
2.1.1. Chủ trương chung của Đảng và sự vận dụng của Đảng bộ .......... 52
2.1.2. Đảng bộ Bắc Giang lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ............ 59

2


2.2. Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa từ năm
2006 đến 2012.............................................................................................. 74
2.2.1. Chủ trương chung của Đảng và sự vận dụng của Đảng bộ .......... 74
2.2.2. Đảng bộ Bắc Giang lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa ............ 80
Chƣơng 3: MỘT VÀI NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ....................... 100
3.1. Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân ....................................................... 100
3.1.1. Thành tựu ..................................................................................... 100
3.1.2. Một vài hạn chế ............................................................................ 115
3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu .............................................................. 118
KẾT LUẬN .................................................................................................. 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 128


3


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS. Lê Văn Thịnh
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong
luận văn đều trung thực và có nguồn gốc
xuất xứ rõ ràng

Hà Nội, ngày tháng năm
Tác giả luận văn

Nguyễn Thu Thủy

4


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn Thạc sĩ của mình, tôi đã nhận
được rất nhiều sự giúp đỡ của các cá nhân, tập thể và các ban
ngành.
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới thầy Lê
Văn Thịnh – người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá
trình làm luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô Khoa Lịch sử,
Phòng tư liệu khoa Lịch sử, Thư viện Trường Đại học khoa học

xã hội và nhân văn Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn các quý cơ quan: Tỉnh ủy, Ủy
ban nhân dân tỉnh Bắc Giang, Sở văn hóa, thể thao và du lịch
tỉnh, Thư viện tỉnh, Cục thống kê tỉnh Bắc Giang, Cục văn thư
lưu trữ tỉnh đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong công tác sưu tầm,
thu thập tài liệu.
Nhân dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới toàn
thể gia đình và bạn bè đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn
thành luận văn.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thu Thủy

5


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

ANTT

: An ninh trật tự

CLB

: Câu lạc bộ

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
BCH

: Ban Chấp hành


HĐND

: Hội đồng nhân dân

NSVH

: Nếp sống văn hóa

TDTT

: Thể dục thể thao

UBMTTQ : Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
UBND

: Ủy ban nhân dân

VHTT

: Văn hóa thông tin

6


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “văn hóa là một mặt
trận”. Tư tưởng ấy của Người là hiện thân của những khát vọng của cả dân
tộc ta trong việc khẳng định bản sắc văn hóa của mình.

Trong suốt hơn nửa thế kỷ qua, theo tinh thần ấy, Đảng và Nhà nước ta
đã có rất nhiều những chính sách liên quan đến việc xây dựng, phát triển đời
sống văn hóa và luôn coi văn hóa vừa là một mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội.
Đặc biệt, nước ta đang trong thời kỳ mở cửa, từng bước hội nhập với
thế giới, đặt ra những vấn đề cần giải quyết về tư tưởng, đạo đức, lối sống...
Điều đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần có một đường lối văn hóa đúng đắn,
đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra hiện nay.
Và một trong những văn kiện có tính chiến lược, đánh dấu sự phát triển
tư duy lí luận của Đảng về văn hóa là Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (1998). Nghị quyết đã chỉ rõ: “xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời
sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng
đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con
người...” [35, tr.54]. Nghị quyết đã đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo, 10 nhiệm vụ
cụ thể và 4 giải pháp lớn trong đó có giải pháp: phát động phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, huy động mọi lực lượng nhân dân
và cả hệ thống chính trị từ trên xuống dưới, từ trong Đảng, cơ quan Nhà nước,
các đoàn thể ra ngoài xã hội tích cực tham gia phong trào... Tất cả vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.

7


Đến đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta một lần nữa khẳng
định lại mục tiêu chiến lược mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa VIII) đề ra là: “Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế, xã hội. Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người

Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất,
năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng
nghĩa tình”[38, tr.114]. Đại hội X của Đảng (2006) tiếp tục nhấn mạnh: “tiếp
tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiến tiến đậm đà
bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã
hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội” [39,
tr.106].
Tiếp nối tinh thần trên, Đại hội XI (2011) của Đảng đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện thống nhất trong đa dạng,
thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn
kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển” [40, tr.70].
Tuy vậy, cho đến nay việc xây dựng đời sống văn hóa còn nhiều điều
cần được quan tâm hơn nữa. Để việc xây dựng đời sống văn hóa có kết quả
thiết thực góp phần vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, cần thống nhất về nhận thức, và nội dung, phương pháp
chỉ đạo, bởi “đời sống văn hóa là tổng hợp những yếu tố vật chất và tinh thần,
môi trường tự nhiên và xã hội, ở trong đó con người thực hiện hoạt động sản
xuất, bảo quản, trao đổi và tiêu thụ những giá trị vật chất và tinh thần do
chính con người tạo ra. Những hoạt động đó phản ánh mối quan hệ giữa con

8


người với thiên nhiên, con người với con người và với xã hội. Đồng thời là cơ
sở hình thành lối sống của con người trong chính môi trường đó” [28, tr.42].
Thấm nhuần đường lối, chủ trương phát triển văn hóa của Đảng và Nhà
nước, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đã lãnh đạo nhân dân xây dựng đời sống văn

hóa, nhằm góp phần tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh, đời sống
kinh tế phát triển, đảm bạo trật tự an ninh quốc phòng.
Những kết quả đạt được của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang trong việc xây
dựng đời sống văn hóa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đến việc phát triển kinh tế,
xã hội của tỉnh. Đồng thời, khẳng định sự đúng đắn của đường lối, chính sách
xây dựng văn hóa của Đảng ta nói chung và Đảng bộ tỉnh Bắc Giang nói
riêng.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong việc xây dựng đời sống
văn hóa ở Bắc Giang còn có những hạn chế bất cập do những nguyên nhân
chủ quan và khách quan. Chính vì vây, việc nghiên cứu vấn đề “Đảng bộ tỉnh
Bắc Giang lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa” là hết sức cần thiết. Trên cơ
sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm thực hiện có hiệu quả công
cuộc xây dựng đời sống văn hóa của tỉnh Bắc Giang hiện nay. Việc tổ chức,
đánh giá quá trình lãnh đạo của Đảng bộ không chỉ có ý nghĩa về mặt khoa
học, thực tiễn mà còn mang tính thời sự.
Xuất phát từ những lí do trên tôi đã chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Bắc
Giang lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa từ năm 1997 đến năm 2012”
làm luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề xây dựng đời sống văn hóa đã được triển khai rộng khắp trong
cả nước nên đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu. Có thể kể đến một số
loại công trình tiêu biểu như:

9


- Một số tác phẩm viết về đường lối văn hóa của Đảng: Đỗ Đình Hãng
(1999), Lí luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng, Nxb Văn hóa dân
tộc; Đỗ Đình Hãng (2006), Tìm hiểu đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Phạm Duy Đức (2010), Đường lối

văn hóa của Đảng cộng sản Việt Nam từ 1930 đến nay, Nxb Văn hóa thông
tin... Ở những công trình này, các tác giả đã trình bày cụ thể những cơ sở hình
thành quan điểm của Đảng ta về văn hóa, đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng qua từng giai đoạn và công cuộc xây dựng, phát triển văn hóa ở
nước ta từ 1930 đến nay.
- Một số tác phẩm nghiên cứu về xây dựng đời sống văn hóa: Phạm
Văn Đồng (1994), Văn hóa và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Phạm
Duy Đức (2010), Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011-2020, những
vấn đề phương pháp luận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Viện Văn Hóa, Bộ
văn hóa (1984), Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, Nxb Văn hóa, Hà Nội;
Nguyễn Văn Hy (1985), Những vấn đề xây dựng đời sống văn hóa cơ sở hiện
nay, Nxb Văn hóa, Hà Nội; Trung Đông (2002), Để có một phong trào toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, Nxb Văn hóa nghệ thuật, Viện văn
hóa, Hà Nội; Ngô Tam Hùng (2004), Điển hình xây dựng đời sống văn hóa cơ
sở, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội; Hoàng Vinh (1999), Mấy vấn đề lí luận
và thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở nước ta, Nxb Văn hóa thông
tin... Ở những tác phẩm này đã làm rõ những vấn đề cơ bản về lí luận và thực
tiễn trong việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, những thành tựu, những
điển hình xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, những khó khăn, từ đó đưa ra một
số phương hướng để đẩy mạnh xây dựng đời sống văn hóa cơ sở.
- Một số tác phẩm viết về xây dựng đời sống văn hóa trong quá trình
công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và những tác động của văn hóa đối với
con người và xã hội: Trần Văn Bính (1998), Văn hóa trong quá trình đô thị

10


hóa ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Phạm Minh Hạc,
Nguyễn Khoa Điềm (2003), Về phát triển văn hóa và xây dựng con người
thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

Nguyễn Văn Huyên (2006), Văn hóa là mục tiêu và động lực của sự phát
triển xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Văn hóa và đời sống, Nxb
Thanh niên, Hà Nội...
- Ngoài những công trình trên, còn có nhiều bài báo được đăng tải trên
tạp chí bàn về xây dựng đời sống văn hóa: Ủy ban văn hóa giáo dục thanh
niên và nhi đồng quốc hội (1995), Khảo sát tình hình xây dựng đời sống văn
hóa cơ sở, Tạp chí văn hóa nghệ thuật, (số 11); Nguyễn Khoa Điềm (2000),
Đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, phục vụ
đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tạp chí văn
hóa nghệ thuật, (số 4); Phạm Quang Nghị, Để văn hóa trở thành một động lực
bên trong của sự phát triển, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, Tạp chí văn hóa nghệ thuật, (số 149); Nguyễn Khoa Điềm
(1997), Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở trong tình hình mới, Tạp chí văn
hóa nghệ thuật, (số 156); Nguyễn Viết Chức (1997), Xây dựng đời sống văn
hóa ở cơ sở, Tạp chí văn hóa nghệ thuật, (số 161); Nguyễn Trung Thu (1999),
Thực hiện nghị quyết Trung ương 5 về cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”, Tạp chí Tư tưởng văn hóa, (số 07).... Trong các bài
viết, các tác giả đã đề cập đến vai trò của đời sống văn hóa trong sự phát triển
của đất nước, thực trạng xây dựng đời sống văn hóa, những kết quả đạt được,
những hạn chế còn tồn tại để từ đó đưa ra một số giải pháp để đẩy mạnh việc
xây dựng đời sống văn hóa hiện nay.
- Đối với tỉnh Bắc Giang, nghiên cứu về văn hóa tỉnh có một số tác
phẩm như: Đinh Xuân Lâm, Ngô Văn Trụ (2008), Di sản văn hóa Bắc Giang
- Biên niên sự kiện và tư liệu lịch sử; Ngô Văn Trụ (2011), Văn hóa Bắc

11


Giang một góc nhìn, Nxb Văn hóa thông tin; Bảo tàng tỉnh Bắc Giang (2005),
Di sản văn hóa Bắc Giang – Bước đầu tìm hiểu truyền thống văn hóa các dân

tộc; Bảo tàng tỉnh Bắc Giang (2012), Những giá trị văn hóa cổ truyền tỉnh
Bắc Giang, Nxb Thông tấn, Hà Nội; UBND tỉnh Bắc Giang (2006), Địa chí
Bắc Giang – Lịch sử và văn hóa.. Tuy nhiên, nghiên cứu về đời sống văn hóa
tỉnh Bắc Giang một cách toàn diện và hệ thống dưới góc độ lịch sử cho đến
nay chưa có một cuốn sách chuyên khảo nào. Về nội dung này mới chỉ có một
số kỉ yếu hội thảo và các báo cáo tổng kết như: Kỉ yếu hội thảo khoa học về
xây dựng quy ước làng văn hóa ở Hà Bắc(1993); Báo cáo số 12/BC-VHTT,
ngày 10/5/2002, Về tình hình thực hiện chỉ thị số 27/CT-TW của Bộ Chính trị
về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội; Báo
cáo số 14/BC-BCĐ, ngày 12/7/2002, Về việc sơ kết 4 năm (1999-2002) thực
hiện cuộc vận động toàn dân xây dựng đời sống văn hóa; Báo cáo số 42/BCVHTT, ngày 20/8/2003, Về việc tổng kết 5 năm (1998-2003) thực hiện nghị
quyết hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về
xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; Báo cáo
số 55/BC-SVHTTDL ngày 5/4/2013 về Tổng kết 15 năm “toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa” (1998-2012)... Các công trình trên đã khẳng định
những kết quả, thành tựu cũng như những hạn chế trong việc tổ chức thực
hiện xây dựng đời sống văn hóa ở tỉnh Bắc Giang.
Mặc dù đã có nhiều công trình tài liệu nói về đời sống văn hóa, trong
đó có đời sống văn hóa ở tỉnh Bắc Giang, song do nhiều nguyên nhân, vấn đề
Đảng bộ Bắc Giang lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa từ năm 1997 đến
năm 2012 đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách thật sự
thấu đáo. Chính vì vậy, những công trình nghiên cứu trên là nguồn tài liệu
tham khảo rất quý giá của đề tài này.

12


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ vai trò của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang trong lãnh đạo, thực hiện

đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển đời sống văn hóa
của tỉnh Bắc Giang trong những năm 1997 đến năm 2012, góp phần xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trình bày có hệ thống quan điểm, chủ trương đường lối phát triển văn
hóa của Đảng trong những năm đổi mới và thực tiễn đời sống văn hóa Bắc
Giang dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ.
Khái quát lại những thành quả xây dựng và phát triển đời sống văn hóa
ở tỉnh Bắc Giang trong những năm 1997 – 2012. Qua đó khẳng định vai trò và
ý nghĩa thực tiễn của việc xây dựng đời sống văn hóa do Đảng bộ tỉnh Bắc
Giang lãnh đạo đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - văn hóa –
xã hội của tỉnh.
Trên cơ sở đánh giá những thành tựu và những hạn chế trong việc xây dựng
đời sống văn hóa của tỉnh Đảng bộ, luận văn rút ra một số bài học kinh nghiệm và
giải pháp về xây dựng và phát triển đời sống văn hóa ở tỉnh Bắc Giang.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Chủ trương, quá trình thực hiện của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang về xây
dựng đời sống văn hóa và tình hình đời sống văn hóa tỉnh Bắc Giang dưới sự
chỉ đạo của Đảng bộ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Khái niệm đời sống văn hóa có nội hàm rất phong phú.
Trong khuôn khổ đề tài Luận văn Thạc sĩ, chúng tôi quan tâm đến những nội
dung chủ yếu sau đây:

13


- Hoạt động thông tin, tuyên truyền, cổ động
- Hoạt động văn nghệ quần chúng

- Hoạt động thông tin thư viện, đọc sách, báo
- Hoạt động giáo dục truyền thống và bảo vệ các di tích lịch sử văn hóa
- Hoạt động xây dựng làng, khu phố, đơn vị văn hóa, gia đình văn hóa,
nếp sống văn hóa
- Hoạt động thể dục thể thao, vui chơi giải trí
- Xây dựng thiết chế văn hóa.
Về không gian: Tỉnh Bắc Giang.
Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 1997 đến năm 2012.
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tƣ liệu
Nguồn tài liệu sử dụng làm luận văn bao gồm:
- Các văn kiện của Đảng, Bộ Chính trị,Ban Bí thư về xây dựng văn hóa
- Các văn kiện, Nghị quyết, chỉ thị của Đảng bộ Bắc Giang
- Các báo cáo, tổng kết, kết luận của tỉnh Bắc Giang
- Các tác phẩm và công trình nghiên cứu về văn hóa của các tác giả,
nhà nghiên cứu đã được công bố, bao gồm các sách đã xuất bản, các bài đăng
trên tạp chí khoa học.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận: Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lí luận
của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu
lịch sử và phương pháp lôgíc là chủ yếu, ngoài ra kết hợp với phương pháp
điều tra, phân tích, so sánh, đối chứng tài liệu, xử lí số liệu... để làm sáng tỏ
nội dung của đề tài.

14


6. Đóng góp của luận văn

Hình thành một hệ thống tư liệu tương đối hoàn chỉnh về chủ trương,
chính sách về xây dựng đời sống văn hóa của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang.
Những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang, góp phần tham khảo cho công tác xây dựng đời sống
văn hóa giai đoạn hiện nay và các giai đoạn tiếp theo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm có 3
chương
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo xây dựng đời sống văn
hóa từ năm 1997 đến năm 2000.
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo xây dựng đời sống văn
hóa từ năm 2001 đến năm 2012
Chương 3: Một vài nhận xét và kinh nghiệm.

15


Chƣơng 1: ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC GIANG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2000
1.1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và thực trạng đời
sống văn hóa ở tỉnh Bắc Giang trƣớc năm 1997
1.1.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội
1.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Bắc Giang nằm cách thủ đô Hà Nội 50km về phía Bắc, cách cửa khẩu
quốc tế Hữu Nghị 110km về phía Nam; phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Lạng
Sơn; phía Tây và Tây Bắc giáp Hà Nội, Thái Nguyên; phía Nam và Đông
Nam giáp tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và Quảng Ninh. Đây là một miền đất cổ,
có truyền thống lịch sử lâu đời gắn bó cùng cả nước trong suốt quá trình dựng
nước và giữ nước.
Bắc Giang từng được người xưa ví là “phên dậu”, là một trong “tứ

trấn” trọng yếu của đất nước. Tên gọi Bắc giang xuất hiện đầu tiên trên bản
đồ hành chính vào thời nhà Lý (thế kỉ XI - XIII). Sau một giai đoạn lịch sử
dài tách – nhập, thay đổi tên gọi, ngày 6/11/1996, cùng với tỉnh Bắc Ninh,
tỉnh Bắc giang được tách từ tỉnh Hà Bắc. Tỉnh Bắc giang chính thức được
thành lập và hoạt động theo đơn vị hành chính mới từ ngày 1/1/1997 [41;
tr.7].
Với vị trí nằm cạnh vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, tiếp giáp hay gần
với 3 tỉnh/thành có vị trí kinh tế hàng đầu là Hà Nội - Hải Phòng - Quảng
Ninh, lại nằm trên tuyến giao thương quốc tế truyền thống, thông qua quốc lộ
1A và 1B, Bắc Giang có nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội và giao
lưu văn hóa với các địa phương khác.
Bắc Giang là một tỉnh miền núi, diện tích đất tự nhiên là 3827,38km2,
bao gồm 9 huyện và 1 thành phố, trong đó, có 6 huyện miền núi (Lục Nam,

16


Lục Ngạn, Yên Thế, Tân Yên, Yên Dũng, Lạng Giang) và 01 huyện vùng cao
(Sơn Động); có 230 xã, phường, thị trấn (30 xã đặc biệt khó khăn).
Địa hình Bắc Giang cao ở phía Đông Bắc, dốc nghiêng dần về phía
Tây Nam, chia thành 2 tiểu vùng: vùng miền núi và vùng trung du có đồng
bằng xen kẽ. Đặc điểm chủ yếu của địa hình là miền núi (chiếm 72% diện tích
toàn tỉnh), địa hình chia cắt mạnh, phức tạp chênh lệch về độ cao lớn. Với địa
hình như vậy đã tạo ra cho Bắc Giang sự phong phú về nhóm nguyên, nhiên
liệu với hàng chục mỏ than đá, than bùn, các loại nguyên vật liệu cung cấp
cho ngành công nghiệp hóa chất, gốm sứ, vật liệu xây dựng..
Khí hậu Bắc Giang mang những đặc trưng của vùng khí hậu chuyển
tiếp, vừa có tính nhiệt đới nóng ẩm, vừa có tính chất á nhiệt đới, là điều kiện
thuận lợi cho cây trồng, vật nuôi sinh trưởng và phát triển.
Với hơn 130.000ha rừng, trong đó có nhiều sông, suối, hồ đập, cây

rừng nguyên sinh phong phú... tạo cảnh quan, môi trường sinh thái đẹp và hấp
dẫn, Bắc Giang có nhiều tiềm năng trong việc thu hút đầu tư, trong đó có các
đầu tư về văn hóa, du lịch.
Nhìn chung, điều kiện tự nhiên của Bắc Giang, từ điều kiện thời tiết khí hậu, tài nguyên nước, rừng, đã tạo cho tỉnh một vị trí địa kinh tế, địa văn
hóa có nhiều thuận lợi, với nhiều tiềm năng cho phát triển sự nghiệp kinh tế,
văn hóa, thể thao và du lịch trên cơ sở đa dạng hóa văn hóa tộc người, với các
tiểu vùng văn hóa khác nhau, đẩy mạnh phát triển hoạt động TDTT; phát triển
các loại hình du lịch văn hóa, nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái. Tận dụng và khai
thác các lợi thế từ tài nguyên hồ và rừng nguyên sinh, lấy đây là hai thế mạnh
để tạo nên bản sắc riêng về mặt văn hóa và du lịch trong thời gian tới.
Liền kề với các đô thị lớn và tỉnh phát triển của vùng (Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh, Lạng Sơn), tận dụng các lợi thế về vị trí địa lý để không
những phát triển kinh tế - xã hội mà còn là điều kiện và cơ sở cho sự học hỏi,

17


trao đổi, giao lưu về văn hóa, qua đó, nâng cao trình độ dân trí và mở rộng
tầm nhìn cho mọi tầng lớp dân cư, đây cũng là một yếu tố có tính nền tảng tác
động đến sự phát triển của Bắc Giang trong tương lai.
1.1.1.2. Điều kiện kinh tế - văn hóa- xã hội
Năm 1997 khi mới tái lập, Bắc Giang là tỉnh có điểm xuất phát kinh tế
thấp, cơ cấu chủ yếu là nông nghiệp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội yếu kém.
Sau hơn 15 năm phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2006 – 2011
đạt 10%. Kinh tế Bắc Giang tăng trưởng ổn định, tốc độ tăng trưởng GDP duy
trì ở mức khá. Tuy nhiên, hiện nay Bắc Giang vẫn là một tỉnh nghèo và chưa
có những “bứt phá” trong đầu tư phát triển công nghiệp như một số tỉnh có
tiềm năng và thế mạnh tương đối giống Bắc Giang như: Vĩnh Phúc, Hải
Dương.
Từ những thành tựu phát triển kinh tế cũng đặt ra nhu cầu lớn về phát

triển văn hoá, thông tin. Với cơ cấu kinh tế đang chuyển mạnh sang phát triển
công nghiệp, dịch vụ, nhu cầu phát triển văn hoá sẽ khác nhiều so với giai
đoạn trước, như: nhu cầu xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa hiện đại, nhu
cầu văn hoá của công nhân khu công nghiệp, nhu cầu văn hoá cho các khu
dân cư tập trung, các loại hình văn hoá nghệ thuật mới, nhu cầu giao lưu thông tin, du lịch, tập luyện TDTT...
Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 01/4/2009, dân số Bắc
Giang là 1.558.150 người, với mật độ dân số trung bình là sấp xỉ 406
người/km2. Tỷ lệ tăng dân số bình quân giai đoạn 1999-2009 của tỉnh: 0,4%.
Toàn tỉnh có 21 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó các dân tộc thiểu số
chiếm 12,9% và đông nhất là người Kinh. 90,34% dân số Bắc Giang sống ở
nông thôn, tỷ lệ này cao hơn nhiều tỷ lệ trung bình của cả nước, gần 20%. Là
một tỉnh với quy mô dân số trung bình, cơ cấu dân số trẻ, đa phần trong độ

18


tuổi lao động sẽ đặt ra nhu cầu lớn về đời sống văn hoá, nhất là các hoạt động
văn hoá công cộng, các loại hình văn hoá, nghệ thuật mới, về thông tin.
Bắc Giang là một trong những địa bàn gốc – quê hương sinh tụ và phát
triển đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Thời kỳ đồ đá còn để lại dấu vết ở Bố
Hạ, Chũ, An Châu, Mai Sưu... các di chỉ đồ đồng thau được tìm thấy ở Hiệp
Hòa, Yên Thế, Lục Nam... Bên các dòng sông Thương, sông Cầu, sông Lục
Nam là địa bàn định cư của họ. Hòa nhập chung và là một thành tố của nền
văn hóa Lạc Việt với việc phổ biến truyền thuyết Lạc Long quân và Âu Cơ
phản ánh ý thức quốc gia đang từng bước hình thành.
Trong quá trình hình thành và phát triển, Bắc Giang là vùng đất văn
hiến, nằm một phần trong những “tứ trấn” (trấn Kinh Bắc); là mảnh đất có
truyền thống hiếu học, khoa bảng; giàu lòng yêu nước và truyền thống cách
mạng, với tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất.
Thời Lý, Trần đến Hậu Lê, Bắc giang có nhiều đóng góp quan trọng

trong cuộc kháng chiến chống Tống (thế kỷ XI), chống Mông – Nguyên (thế
kỷ XIII), chống Minh (thế kỷ XV) và chống Thanh (thế kỷ XVIII). Chiến
thắng Chi Lăng – Xương Giang (1427) là sự kiện nổi bật nhất trong lịch sử
quốc gia ở thế kỷ XV. Trong chống Pháp (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX)
khởi nghĩa Yên Thế là biểu tượng của ý trí kiên cường bất khuất của nhân dân
Bắc Giang. Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp và chống Mỹ,
Bắc Giang đã cùng cả nước chiến đấu giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Người Bắc Giang không chỉ có ý trí đấu tranh kiên cường bất khuất mà
còn giỏi trồng trọt, khéo tay nghề, thạo buôn bán và giỏi thi thư. Bắc Giang
nổi tiếng với các sản phẩm thủ công nghiệp Thổ Hà, Vạn Vân ngược xuôi
sông Cầu cung cấp cho cả vùng đồng bằng sông Hồng. Ngay từ thời Lý –
Trần, Bắc Giang đã có người đỗ đại khoa, nổi tiếng thơ văn như tiến sĩ Thân
Nhân Trung, trạng nguyên Giáp Hải, Đào Sư Tích...

19


Người Bắc Giang có cuộc sống tinh thần phong phú, đa dạng của sự
đan xen các khu vực văn hóa người kinh với văn hóa các dân tộc thiểu số. Hát
quan họ của Việt Yên, hát ví, hát chèo trong hội Phồn Xương (Yên Thế), hát
soong hao, sli, hát lượn, soong cô... nơi đây có nhiều lễ hội sang xuân hoặc
lập thu như hội đền Hả (Lục Ngạn), hội chùa Bổ Đà, hội nghè Nếnh (Việt
Yên), hội Thương Thắng (Hiệp Hòa), hội Đa Mai (thị xã Bắc Giang), hội
Hương Giản, hội Lạc Giản (Yên Dũng)... Trong lễ hội, cá nhân và cộng đồng,
địa phương và khu vực hòa nhập vào nhau vừa thế tục vừa thiêng liêng góp
phần gắn kết cộng đồng làng và liên làng.
Là nơi sinh sống, hội tụ của nhiều tộc người với những sắc thái văn hóa
khác nhau, Bắc Giang có nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể tiêu biểu
và độc đáo.
Về các di sản vật thể, toàn tỉnh Bắc Giang có 2.237 di tích, trong đó có

109 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, và 276 di tích được xếp hạng cấp
tỉnh. Tiêu biểu có thể kể đến: đình Thổ Hà, chùa Phù Lão, đình Lỗ Hạnh,
chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Bổ Đà… Về các di sản phi vật thể, toàn tỉnh Bắc
Giang có trên 500 di sản phi vật thể tiêu biểu, trong đó có trên 410 lễ hội, và
nhiều di sản khác có giá trị, như: về âm nhạc (có hát Quan họ, hát Ca trù, hát
Chèo); nghệ thuật ẩm thực; những tri thức dân gian; làng nghề truyền thống;...
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển nhanh chóng về kinh tế, xã
hội, nhiều giá trị văn hóa truyền thống (các di tích, lễ hội dân gian, nghề và
làng nghề thủ công truyền thống,..) được bảo tồn và phục hồi. Sự phục hồi
của các giá trị văn hóa truyền thống không những khẳng định những khía
cạnh đặc sắc của văn hóa Bắc Giang, mà còn cho thấy những giá trị văn hóa
truyền thống được cộng đồng coi trọng. Sự phục hồi của những giá trị văn
hóa truyền thống không chỉ làm phong phú đời sống văn hóa xã hội, mà có

20


thể là nhân tố tích cực (những chuẩn mực về đạo đức, thẩm mỹ) trong xây
dựng những đời sống văn hóa mới, xây dựng môi trường xã hội lành mạnh.
Như vậy, các đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội và văn hóa đã tạo nên
một số đặc thù tác động vào quá trình xây dựng sự nghiệp văn hóa, thể thao
và du lịch của tỉnh Bắc Giang là:
Là một tỉnh đa dạng về địa hình, về tiềm năng tự nhiên, nằm trên trục
đường giao lưu kinh tế - văn hóa của đất nước.
Là tỉnh có trình độ phát triển kinh tế - xã hội trung bình của cả nước,
còn có những hạn chế về tiềm lực đầu tư cho phát triển. Về cơ bản, Bắc Giang
vẫn là một tỉnh có cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đang chuyển dịch sang hướng
công nghiệp và dịch vụ, tốc độ đô thị hóa còn chưa mạnh. Kết cấu kinh tế xã
hội này đã quy định những điều kiện và đặc điểm phát triển về sự nghiệp văn
hóa, thể thao và du lịch thời gian tới.

Đã tạo ra những nền tảng nhất định cho việc định vị một vị trí địa chính
trị, kinh tế và văn hóa cho tỉnh từ một tỉnh miền núi nghèo, chậm phát triển,
có phần bị biệt lập thành một tỉnh có sự tăng tốc về quá trình tiếp biến và giao
lưu kinh tế - văn hóa, đặt nền tảng cho sự phát triển các mặt của tỉnh.
Là tỉnh có sự đa dạng về văn hóa tộc người, nhiều tiềm năng di sản vật
thể và phi vật thể, có tiềm năng phát triển du lịch, có nhiều hoạt động văn hóa
- xã hội, tạo nền tảng và hỗ trợ cho sự phát triển sự nghiệp văn hóa, thể thao
và du lịch.
Trên nền tảng hệ thống hồ và rừng nguyên sinh, các di sản vật thể và
phi vật thể phong phú, đặc sắc của tỉnh, Bắc Giang có thể xây dựng được bản
sắc, sự khác biệt riêng có về mặt văn hóa và du lịch, góp phần xây dựng bản
lĩnh và cốt cách của văn hóa và con người Bắc Giang, hài hòa giữa phát triển
kinh tế và phát triển đời sống văn hóa tinh thần trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH.

21


1.1.2. Thực trạng đời sống văn hóa tỉnh Bắc Giang trước năm 1997
Trong công tác xây dựng đời sống văn hóa, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đã
quan tâm sâu sắc, có những chỉ đạo sát sao nhằm từng bước xóa bỏ những tàn
dư lạc hậu của chế độ cũ để lại và dần xác lập những yếu tố mới của nền văn
hóa XHCN.
Thời kì còn chung tỉnh Hà Bắc cũ, trong Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Hà Bắc lần thứ III (1976), căn cứ vào tình hình thực tế của tỉnh, Đại hội đã đề
ra phương hướng nhiệm vụ chung 5 năm (1976-1980) của Đảng bộ, trong đó
chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ của văn hóa đó là: “đẩy mạnh cách mạng tư
tưởng và văn hóa… cải thiện một bước đời sống nhân dân” [41, tr.7]. Trong
Báo cáo công tác Tỉnh ủy tại đại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Bắc lần thứ
IV (1977) Đảng bộ tỉnh Hà Bắc đã đánh giá: “Từ sau đại hội III, phong trào

toàn tỉnh đã có chuyển biến tốt,.. một số mặt thực hiện đạt và vượt mức kế
hoạch Nhà nước… Đời sống quần chúng được ổn định. An ninh chính trị
được giữa vững” [41, tr. 26]. Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh Hà Bắc lần thứ IV đã đề ra nhiệm vụ mới cho văn hóa: “Ra sức tuyên
truyền giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối, chính sách của Đảng, nâng
cao trình độ văn hóa, trình độ khoa học kĩ thuật, nâng cao giác ngộ xã hội chủ
nghĩa cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, đẩy lùi các biểu hiện tiêu cực, xây
dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa…” [41,
tr.27]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Bắc Giang đã dành được
những thắng lợi quan trọng trên lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội, đời sống
nhân dân được ổn định và có phần cải thiện, các phong trào quần chúng sôi
nổi, thu được nhiều kết quả đáng mừng.
Trong Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Bắc lần thứ V(1979), Đảng bộ
đã tiếp tục thực hiện phong trào: xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn
hóa mới, đào tạo con người mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân

22


trong tỉnh tích cực tham gia phong trào bài trừ tệ nạn xã hội, đấu tranh xóa bỏ
những tàn tích văn hóa lạc hậu; xây dựng nền văn hóa XHCN. Phong trào xây
dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa mới được phát động sâu rộng và
mang lại hiệu quả thiết thực. Việc cưới, việc tang được tổ chức theo nếp sống
mới. Mạng lưới thông tin, truyền thanh, báo chí được mở rộng. Phong trào
văn hóa văn nghệ quần chúng tiếp tục phát triển, góp phần nâng cao đời sống
văn hóa tinh thần của nhân dân, đẩy mạnh khí thế lao động sản xuất. Phong
trào thể dục thể thao phát triển rộng khắp. “Đến năm 1980, toàn tỉnh có 230
đơn vị tiến tiến, 4000.000 người luyện tập các môn thể dục thể thao và
100.000 người đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể” [41, tr. 50]. Các hình thức tổ
chức như Hội khỏe Phù Đổng, câu lạc bộ ngoài trời… thu hút mọi lứa tuổi

tham gia. Hoạt động thể thao thành tích cao bước đầu được quan tâm, phát
triển, đạt một số giải ở khu vực và toàn quốc.
Bước vào thực hiện nhiệm vụ 5 năm 1981-1985, cùng với những khó
khăn, thuận lợi chung của cả nước, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, Đảng bộ
và nhân dân tỉnh Hà Bắc còn phải đối mặt với nhiều vấn đề kinh tế, xã hội
bức xúc đòi hỏi phải giải quyết cấp bách: nền kinh tế nhỏ bé, manh mún, năng
suất lao động và thu nhập bình quân đầu người thấp, nhiều mặt của nền kinh
tế mất cân đối nghiêm trọng, không đáp ứng đủ yêu cầu sản xuất và đời sống,
các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội vẫn tiếp tục phát triển, gây trở
ngại lớn trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội của Đảng bộ. Trong
hoàn cảnh đó, Đảng bộ tỉnh Hà Bắc đã tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh Hà Bắc lần thứ VI (1983) đã thông qua những nhiệm vụ cụ thể về phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhờ những cố gắng chung, các hoạt động văn
hóa đã bám sát, phục vụ nhiệm vụ chính trị, góp phần xây dựng cuộc sống
mới, con người mới XHCN, đẩy lùi tàn dư, tập tục lạc hậu. Phong trào thể
dục thể thao phát triển ở các địa phương, đơn vị và trong các trường học, hội

23


khỏe Phù Đổng được tổ chức hàng năm thu hút hàng vạn học sinh tham gia.
Tỉnh tổ chức Đại hội TDTT đạt kết quả, thúc đẩy phong trào thể dục thể thao
trong tỉnh.
Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng, phong trào
vệ sinh phòng bệnh, trồng và sử dụng cây thuốc nam tiếp tục phát triển. Công
tác kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em được
tập trung chỉ đạo, đạt hiệu quả. Tỉ lệ tăng dân số giảm từ 2,69% (năm 1982)
xuống còn 1,9 % (năm 1985) [41, tr.66].
Ngày 28/4/1984, UBND tỉnh đã ra kế hoạch thực hiện Nghị quyết số
159-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về công tác văn hóa thông tin trong thời

gian trước mắt. Đây là một kế hoạch quan trọng, do đó phải được triển khai tổ
chức thực hiện nghiêm túc, tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức tư
tưởng đến hành động cụ thể. Kế hoạch yêu cầu: Làm cho các cấp, các ngành
và nhân dân trong tỉnh tiếp tục thấm nhuần đường lối văn hóa văn nghệ của
Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội V của Đảng, quán triệt phương hướng
nhiệm vụ công tác văn hóa thông tin trong thời gian trước mắt theo tinh thần
nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng và kế hoạch của UBND tỉnh… Từ nay
đến năm 1985, phấn đấu đạt các chỉ tiêu sau: toàn tỉnh có 90% số xã, phường
và cơ sở tương đương có hoạt động văn hóa, trong đó có 20% đạt loại khá,
các huyện miền núi 70% cơ sở có hoạt động văn hóa trong đó có 5% đạt loại
khá. Các huyện miền núi trung du 90% cơ sở có hoạt động cho văn hóa trong
đó có 20% đạt loại khá. Các huyện đồng bằng 100% các cơ sở có hoạt động
văn hóa trong đó có 30% đạt loại khá.
Bên cạnh thành tích, tiến bộ đạt được, hoạt động văn hóa vẫn còn nhiều
yếu kém: Hoạt động văn hóa thông tin, báo chí chưa tập trung cao độ vào việc
đấu tranh chống những tư tưởng và hành động sai trái, tệ nạn mê tín dị đoan,
tập tục lạc hậu, gây rối trật tự công cộng vẫn xảy ra, hoạt động văn hóa, văn

24


nghệ, y tế, thể thao ở địa bàn nông thôn, nhất là ở miền núi chưa được quan
tâm đúng mức. Phong trào “Người công dân kiểu mẫu – gia đình cách mạng
gương mẫu” chưa phát triển mạnh, một số chính sách xã hội chưa thực hiện
tốt.
Trải qua hơn 10 năm (1975 -1985), trong điều kiện kinh tế, xã hội của
cả nước nói chung, tỉnh Hà Bắc nói riêng gặp nhiều khó khăn, thử thách do
hậu quả chiến tranh. Nhưng dưới sự lãnh đạo của ban chấp hành Trung ương
Đảng và của Tỉnh ủy, cán bộ, đảng viên và các dân tộc trong tỉnh đoàn kết
nhất trí, phát huy truyền thống cách mạng và tinh thần tự lực tự cường, chủ

động sáng tạo, nắm bắt kịp thời tình hình, khắc phục khó khăn, tạo ra những
bước chuyển biến rõ rệt trên lĩnh vực kinh tế, góp phần làm cho đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân từng bước ổn định và có mặt cải thiện.
Giai đoạn 1986 – 1990, hoạt động văn hóa – thông tin, thể thao có cố
gắng bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, đóng góp quan trọng vào
việc tuyên truyền đường lối đổi mới, duy trì sự ổn định về chính trị trước
những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, củng cố niềm tin của nhân
dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Hoạt động văn hóa ở các địa phương có tiến
bộ, tích cực đấu tranh ngăn chặn việc truyền bá văn hóa phẩm có nội dung
độc hại, một số môn thể thao truyền thống được duy trì và phát triển. Qua 5
năm thực hiện đường lối đổi mới, đời sống vật chất của nhân dân cơ bản được
bảo đảm, 85-90% gia đình ở nông thôn có nhà xây gạch, lợp ngói, 51% số xã
có điện sinh hoạt [41, tr.116].
Năm 1993, HĐND tỉnh Hà Bắc ra Nghị quyết số 38/HĐND 9 về xây
dựng quy ước làng văn hóa trong đó nêu rõ các nguyên tắc cơ bản là: “Tuân
thủ các quy định của pháp luật; Kế thừa, phát triển các phong tục tập quán,
truyền thống và nền văn hóa truyền thống tốt đẹp, loại bỏ các hủ tục, mê tín;
Phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi làng nhưng không được gây phương hại

25


×