Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

thực hiện pháp luật của đại biểu quốc hội trong việc tiếp nhận xử lý việc khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN MAI HẠNH

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
TRONG VIỆC TIẾP NHẬN, XỬ LÝ, THEO DÕI, ĐÔN ĐỐC
VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ KIẾN NGHỊ
CỦA CÔNG DÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HÀ NỘI - 2009

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN MAI HẠNH

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
TRONG VIỆC TIẾP NHẬN, XỬ LÝ, THEO DÕI, ĐÔN ĐỐC
VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ KIẾN NGHỊ
CỦA CÔNG DÂN

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ


Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Lê Văn Hoè

HÀ NỘI - 2009

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình khoa học của riêng tôi. Công trình
được hoàn thiện dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Lê Văn Hoè.
Các kết quả nghiên cứu trong Luận văn là trung thực, bảo đảm tính khách
quan, khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Tác giả luận văn
Nguyễn Mai Hạnh

3


MC LC
TRAN
G
Li cam oan..

1

Mc lc...

2

M U


7

Chng 1: Cơ sơ lý luận thực hiện pháp luật của đại
biểu quốc hội trong việc tiếp công dân, tiếp nhận,
chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân ...

14

1.1 Phỏp lut v i biu Quc hi tip cụng dõn, tip nhn, chuyn
n, ụn c, theo dừi vic gii quyt khiu ni, t cỏo v kin ngh
ca cụng dõn v vic thc hin phỏp lut ca i biu Quc hi vi
vic

thc

hin

phỏp

lut

ú..

14

1.1.1 Khỏi nim, ni dung phỏp lut v i biu Quc hi tip cụng
dõn, tip nhn, chuyn n, ụn c, theo dừi vic gii quyt khiu
ni, t cỏo v kin ngh ca cụng dõn ..


14

1.1.2 Khỏi nim, c im ca thc hin phỏp lut v i biu Quc
hi trong vic tip cụng dõn, tip nhn, chuyn n, ụn c, theo dừi
vic gii quyt khiu ni, t cỏo v kin ngh ca cụng dõn

19

1.2 Vai trũ thc hin phỏp lut ca i biu Quc hi trong vic tip
cụng dõn, tip nhn, chuyn n, ụn c, theo dừi vic gii quyt
khiu ni, t cỏo v kin ngh ca cụng dõn...

39

1.2.1 Thc hin phỏp lut ca i biu Quc hi trong vic tip cụng
dõn, tip nhn, chuyn n, ụn c, theo dừi vic gii quyt khiu
ni, t cỏo v kin ngh ca cụng dõn gúp phn phỏt huy bn cht

4

39


Nhà nước của dân, do dân và vì dân của Nhà nước ta, củng cố mối
quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, củng cố lòng tin của
nhân

dân


vào

Đảng



Nhà

nước…………………………………………...
1.2.2 Thực hiện pháp luật của đại biểu Quốc hội trong việc tiếp công
dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo và kiến nghị của công dân góp phần quan trọng trong việc
thúc đẩy, bảo đảm quyền con người ……………………………………….

40

1.2.3 Thực hiện pháp luật của đại biểu Quốc hội trong việc tiếp công
dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo và kiến nghị của công dân góp phần nâng cao hiệu quả,
hiệu lực giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân và quản
lý nhà nước…………………………………………………………………….

42

1.2.4 Thực hiện pháp luật của đại biểu Quốc hội trong việc tiếp công
dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo và kiến nghị của công dân góp phần nâng cao trình độ,
năng lực lập pháp của đại biểu Quốc hội, qua đó nâng cao năng lực
lập pháp của Quốc hội ………………………………………………………


44

1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật của đại biểu
Quốc hội trong việc tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc,
theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân …

46

1.3.1 Cơ sở pháp luật để đại biểu Quốc hội thực hiện nhiệm vụ
……….

46

1.3.2 Năng lực và trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trước cử tri…….

47

1.3.3 Ý thøc, sù am hiÓu ph¸p luËt cña ng-êi d©n vµ sù quan t©m,
®¸nh gi¸ cña cö tri …………………………………………………………...

48

1.3.4 Thái độ và trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong

49

5


việc tiếp nhận đơn thư và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và kiến

nghị do đại biểu Quốc hội chuyển và yêu cầu giải quyết ……………….
1.3.5 Thông tin và mức độ công khai thông tin hoạt động giải quyết
khiếu nại, tố cáo đến đại biểu Quốc hội …………………………………..

52

1.3.6 Các điều kiện bảo đảm để đại biểu Quốc hội thực hiện pháp luật
trong việc tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân ……………

52

Chương 2: TÌNH HÌNH KHIẾU NẠI, TỐ CÁO CỦA CÔNG DÂN
VÀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CỦA ĐẠI BIỂU
QUỐC HỘI TRONG VIỆC TIẾP CÔNG DÂN, TIẾP NHẬN,
CHUYỂN ĐƠN, ĐÔN ĐỐC, THEO DÕI VIỆC GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ KIẾN NGHỊ CỦA CÔNG DÂN…………

54

2.1 Tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân……………………...…..

54

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật của đại biểu Quốc hội trong việc
tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải
quyết

khiếu


nại,

tố

cáo



kiến

nghị

của

công

dân…………………………...

59

2.2.1 Thực trạng tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo
dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân……………………….

61

2.2.2 Thực trạng tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo
dõi

việc


giải

quyết

kiến

nghị

của

công

dân

………………………………..

65

2.3 Đánh giá chung về việc thực hiện pháp luật của đại biểu Quốc hội
trong việc tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công
dân………………...

67

6


2.3.1 Ưu điểm của việc thực hiện pháp luật của đại biểu Quốc hội
trong việc tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi

việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân…………….

67

2.3.2 Hạn chế của việc thực hiện pháp luật của đại biểu Quốc hội
trong việc tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân…………….

68

2.3.3 Nguyên nhân của việc thực hiện pháp luật của đại biểu Quốc
hội trong việc tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân…………….

71

Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TRONG VIỆC TIẾP CÔNG DÂN,
TIẾP NHẬN, CHUYỂN ĐƠN, ĐÔN ĐỐC, THEO DÕI VIỆC GIẢI
QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ KIẾN NGHỊ CỦA CÔNG DÂN

74

3.1 Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật đại biểu Quốc hội trong
việc tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải
quyết

khiếu

nại,


tố

cáo



kiến

nghị

của

công

dân……………………..

74

3.1.1 Yêu cầu đối với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật đại biểu
Quốc hội trong việc tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc,
theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân.…

75

3.1.2 Quan điểm chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện pháp luật đại biểu
Quốc hội trong việc tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc,
theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân….

78


3.1.3 Những nội dung cơ bản của pháp luật về đại biểu Quốc hội tiếp
công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân của đại biểu Quốc hội
cần

thực

7

80


hiện………………………………………………………………………..
3.2 Nâng cao năng lực và trách nhiệm của đại biểu Quốc hội trong
việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn
đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công
dân ………….……………….…………………………………………

86

3.3 Đề cao trách nhiệm của cơ quan, công chức nhà nước trong việc
giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo nói chung và đơn thư khiếu
nại, tố cáo do đại biểu Quốc hội chuyển đến nói riêng ……......………

91

3.3.1 Đề cao trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan nhà nước trong
thực hiện pháp luật khiếu nại, tố cáo việc giải quyết các đơn thư khiếu
nại, tố cáo nói chung và đơn thứ khiếu nại, tố cáo do đại biểu Quốc

hội

đến

chuyển

nói

riêng…………………………………………………………

91

3.3.2 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức làm công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo mà cụ thể là khiếu nại, tố cáo do đại biểu
Quốc hội chuyển đến…………………………………………………………

94

3.4 Nâng cao ý thức của công dân mà trực tiếp là ý thức của người
khiếu nại, tố cáo và kiến nghị có đơn gửi đại biểu Quốc hội ………….

96

3.5 Các giải pháp khác………...…………………..…………………...

99

3.5.1 Phát huy vai trò hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội, Văn
phòng Đoàn đại biểu Quốc hội với tính chất là bộ máy giúp việc cho
đại biểu Quốc hội …………………………………………………………….


99

3.5.2 Phát huy hơn nữa vai trò của thông tin công chúng, phương tiện
truyền thông vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc
hội trong việc tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân…………….

8

102


3.5.3 Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo và coi trọng công tác
tuyên truyền pháp luật về khiếu nại, tố cáo nói riêng và pháp luật nói
chung

trong

nhân

dân………………………………………………………...

104

KẾT LUẬN……………….…………………………………………..………

106

Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………...……...


108

9


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền và lợi ích hợp pháp của công dân luôn được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm và được pháp luật bảo vệ. Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 và các
văn bản pháp luật khác đều quy định quyền lợi của công dân trước công quyền,
đặc biệt là quyền được khiếu nại, tố cáo.
Khiếu nại, tố cáo chính là phương thức tự vệ hợp pháp, là công cụ pháp lý
để công dân bảo vệ lợi ích của mình và lợi ích của Nhà nước khi bị xâm phạm.
Thông qua khiếu nại, tố cáo, Nhà nước có thể kiểm tra hoạt động tuân theo pháp
luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội, đồng thời kiểm tra được tính
đúng đắn của chủ trương, chính sách và pháp luật đã ban hành. Quyền khiếu nại
và tố cáo cũng là quyền dân chủ về chính trị, biểu hiện quyền làm chủ nhà nước
và xã hội, thông qua việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước,
nhân viên nhà nước khi phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật. Quyền khiếu
nại, tố cáo còn được hiểu dưới góc độ quyền bảo vệ quyền. Điều này được luận
giải bởi lẽ công dân sử dụng quyền khiếu nại, tố cáo để bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của chính họ bị xâm hại. Nội dung của khiếu kiện chủ yếu liên
quan đến tranh chấp đất đai, vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng... những vấn đề
ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi, đến cuộc sống hàng ngày của người dân.
Chính vì vậy, để bảo vệ quyền lợi của mình, người dân đã sử dụng quyền khiếu
nại, tố cáo được pháp luật trao cho làm công cụ bảo vệ mình. Do vậy, vấn đề
khiếu nại, tố cáo được xem là một trong những quyền nhạy cảm của công dân.
Nhằm thể chế hoá quyền khiếu nại, tố cáo - một trong những quyền cơ
bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận, đồng thời thể hiện quan điểm đường

lối của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, đáp ứng những đòi hỏi bức xúc đặt ra trong
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, một hành lang pháp lý về khiếu nại, tố cáo
đã được ban hành, bước đầu đã đi vào cuộc sống và thu lại những kết quả đáng

10


mừng. Trước hết phải kể đến Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, được sửa đổi, bổ
sung trong các năm 2004, 2005, sau đó là một loạt các văn bản hướng dẫn thi
hành. Đặc biệt, phải kể đến Chỉ thị số 09/CT-TW ngày 6/3/2002 về một số vấn
đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và Kế hoạch số
01/KH-TW về kiểm tra sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân do Ban Chấp hành trung ương Đảng ban
hành. Điều này cho thấy sự quan tâm của Đảng, Nhà nước về vấn đề này, cũng
như khẳng định tầm quan trọng của quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong
hệ thống các quyền cơ bản của con người.
Trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân cùng với xu thế giao lưu và hội nhập
quốc tế ngày càng gia tăng, đòi hỏi quyền cơ bản của cá nhân, công dân nói
chung và quyền khiếu nại, tố cáo nói riêng phải được đề cao hơn nữa trong hoạt
động chung của bộ máy nhà nước. Là cơ quan đại diện, đại biểu cao nhất của
dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất trong bộ máy nhà nước, Quốc hội có
trách nhiệm cao nhất trong việc bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người,
mà cụ thể là quyền khiếu nại, tố cáo. Thực tế đã cho thấy trong những thời điểm
Quốc hội họp nhiều đoàn khiếu kiện đông người ở các địa phương kéo lên trung
ương. Đáng lưu ý là có sự liên kết với nhau giữa các đoàn, các cá nhân ở địa
phương này với địa phương khác gây sức ép đòi trung ương phải giải quyết. Chỉ
tính từ năm 1999 đến 6 tháng đầu năm 2005 các cơ quan hành chính nhà nước
các cấp đã tiếp 1.759.429 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo và kiến nghị, phản

ánh. Tính từ năm 1997 đến năm 2001, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đã
tiếp nhận 83.686 đơn thư. Trong đó từ năm 1999 - 2001, Uỷ ban pháp luật đã
tiếp nhận và xử lý 13.478 đơn thư khiếu nại, tố cáo về 10.577 vụ việc. Nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là:
Một, Đất nước ta trải qua nhiều giai đoạn cách mạng, có nhiều vấn đề
thuộc lịch sử để lại nhất là vấn đề nhà cửa, đất đai qua các thời kỳ cải tạo, Nhà

11


nước chưa có những quy định gì khác với trước đây nên các cơ quan chức năng
thực sự lúng túng trong xử lý giải quyết những khiếu kiện. Trong khi đó, giá trị
nhà đất tăng cao nên việc khiếu nại, tố cáo càng gay gắt, bức xúc.
Hai, Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhu cầu phát triển
cơ sở hạ tầng, việc giải phóng mặt bằng thu hồi đất để mở rộng đô thị diễn ra
khắp nơi. Mặt khác, giá bất động sản ngày càng tăng là nguyên nhân người dân
khiếu kiện gay gắt về đền bù, giải toả, thu hồi đất. Trong khi đó, quá trình giải
quyết khiếu kiện còn chưa thật sự thoả đáng ở một số nơi, một số cán bộ tha hoá,
biến chất, tham ô, làm sai chính sách pháp luật của nhà nước.
Ba, Hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về khiếu nại, tố cáo còn
chồng chéo, mâu thuẫn với các quy định pháp luật chuyên ngành khiến cho hoạt
động giải quyết khiếu nại, tố cáo đã phức tạp càng trở nên khó khăn hơn.
Trước sự phức tạp của tình trạng khiếu kiện như hiện nay, đòi hỏi phải có
biện pháp giải quyết vấn đề kịp thời và hiệu quả. Điều này đòi hỏi Quốc hội và
các cơ quan của Quốc hội phải có cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân một cách nhanh chóng với tinh thần trách nhiệm cao. Do tính chất quan
trọng của vấn đề, pháp luật đề cao vai trò của Quốc hội trong việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân. Với chức năng thực hiện quyền giám sát tối cao
đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, Quốc hội nói chung và đại biểu Quốc
hội nói riêng phải phát huy vai trò của cơ quan quyền lực, đại diện cho ý chí

nguyện vọng của dân, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của dân, qua đó thực hiện
trách nhiệm của người đại biểu nhân dân trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo,
góp phần giải quyết hiệu quả tình trạng khiếu kiện, ổn định an ninh chính trị, làm
yên lòng dân.
Để tăng cường hiệu quả trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, vai trò
của người đại biểu Quốc hội không chỉ dừng ở lắng nghe tâm tư nguyện vọng
của cử tri, của người khiếu kiện mà phải theo sát quá trình giải quyết khiếu kiện
của các cơ quan có thẩm quyền. Đây chính là một trong nhiệm vụ quan trọng của

12


người đại biểu Quốc hội: Giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương, giám
sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Hoạt động này của đại biểu
Quốc hội nếu thực hiện tốt không chỉ góp phần giải quyết triệt để, hiệu quả các
vụ khiến kiện, giảm thiểu tình trạng khiếu kiện vượt cấp, khiếu kiện đông
người... mà qua đó góp phần nâng cao trình độ, năng lực lập pháp của đại biểu
Quốc hội. Bởi lẽ, chính trong quá trình giám sát thực hiện pháp luật nói chung và
pháp luật về khiếu nại, tố cáo nói riêng người đại biểu Quốc hội có cơ hội nghiên
cứu về pháp luật cả về nội dung và hình thức từ đó phát hiện những bất cập của
hệ thống pháp luật cần phải sửa đổi, hoàn thiện, từ đó kiến nghị lên Quốc hội để
hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật, xây dựng một hành lang pháp lý tốt nhất.
Đó chính là vai trò của người đại biểu Quốc hội trong việc thực hiện nhiệm vụ
lập pháp.
Với Đề tài: "Thực hiện pháp luật của đại biểu Quốc hội trong việc tiếp
nhận, xử lý, theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị
của công dân" tôi hy vọng sẽ phần nào làm rõ được vai trò của đại biểu Quốc
hội trong việc góp phần giải quyết hiệu quả khiếu nại, tố cáo của công dân hiện
nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Quyền khiếu nại, tố cáo; thực hiện quyền khiếu nại, của công dân là một
vấn đề phức tạp và nhạy cảm, đặc biệt là trong thời điểm Việt Nam đang trong
tiến trình hội nhập quốc tế, vấn đề dân chủ, thực hiện dân chủ luôn là mục tiêu
cho các thế lực chống đối viện dẫn làm cái cơ để chống đối, phá hoại an ninh
chính trị, hoà bình của nước ta. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn
diện, đầy đủ, khoa học vấn đề này luôn được chú trọng. Nhiều đề tài, công trình
khoa học đã nghiên cứu về quyền khiếu nại, tố cáo, cơ chế giải quyết khiếu nại,
tố cáo đã được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như : Luận án tiến sĩ của
tác giả Trần Văn Sơn : "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân đối với công chức, cơ quan hành chính nhà

13


nước"; "Công tác dân vận trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân" do
ThS. Nguyễn Tiến Thịnh (chủ biên) - Nxb. Tư pháp, H. 2007; "Thẩm quyền giải
quyết khiếu kiện hành chính" của Tiến sĩ Nguyễn Thanh Bình - Nxb. Tư pháp,
H. 2004;... Tuy nhiên, các bài viết, các đề tài mới chỉ tập trung nghiên cứu các
quy phạm pháp luật về khiếu nại tố cáo, tiến tới hoàn thiện pháp luật về khiếu
nại, tố cao. Chưa có một đề tài nào nghiên cứu về quyền khiếu nại, tố cáo gắn
với chủ thể đặc biệt: Đại biểu Quốc hội - người đại biểu nhân dân dưới góc nhìn
của người đại diện cho ý chí quyền lực của nhân dân.
3. Mục đích của đề tài
Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật của đại
biểu Quốc hội về việc tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân, từ đó để có cơ sở đề
xuất những luận chứng và giải pháp bảo đảm cho đại biểu Quốc hội thực hiện
nghiêm chỉnh các quy định pháp luật đó. Đồng thời tạo cơ sở lý luận và thực tiễn
đảm bảo cho công dân thực hiện quyền cơ bản của mình một cách hiệu quả, bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình một cách chính đáng, đáp ứng yêu cầu xây

dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của luận văn
Là một đề tài thuộc chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp
luật, luận văn không đi sâu nghiên cứu vị trí, chức năng, nhiệm vụ của đại biểu
Quốc hội mà chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt
động thực hiện pháp luật của đại biểu Quốc hội trong việc tiếp công dân, tiếp
nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến
nghị của công dân, từ đó gián tiếp nghiên cứu hoạt động giám sát của đại biểu
Quốc hội thông qua hoạt động giám sát khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công
dân.
5. Nội dung nghiên cứu đề tài

14


Từ mục đích được xác định trên, nội dung nghiên cứu của luận văn gồm
các vấn đề sau:
- Xây dựng khái niệm, chỉ rõ đặc điểm của việc thực hiện pháp luật của
đại biểu Quốc hội trong việc tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo
dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân.
- Phân tích vai trò của việc thực hiện pháp luật của đại biểu Quốc hội
trong việc tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc đại biểu Quốc hội thực hiện
pháp luật trong việc tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân.
- Khái quát những ảnh hưởng và thực trạng thực hiện pháp luật của đại
biểu Quốc hội, chỉ rõ các nguyên nhân và hạn chế.
- Đưa ra các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật của đại biểu Quốc hội
trong việc tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải

quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học duy vật biện chứng và
phương pháp duy vật lịch sử, trực tiếp sử dụng các phương pháp kết hợp giữa lý
luận và thực tiễn, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích tổng hợp
và một số phương pháp của các ngành khoa học khác, như phương pháp so sánh,
phương pháp của khoa học thống kê, phương pháp xã hội học, phương pháp của
lý thuyết hệ thống.
Các phương pháp nghiên cứu trong luận văn được thực hiện trên nền tảng
tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và trên cơ sở đường
lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính trị, kinh tế, văn hoá và xã
hội.
7. Điểm mới của luận văn

15


- Ngoài việc làm sâu sắc thêm khái niệm về quyền khiếu nại, tố cáo, Luận
văn đã đưa ra cách tiếp cận mới về quyền khiếu nại, tố cáo với chủ thể đặc biệt là
đại biểu Quốc hội. Từ đó hoàn thiện cơ chế pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
- Nêu, phát hiện và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp nhận, xử
lý đơn thư khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân của đại biểu Quốc hội,
góp phần giúp đại biểu Quốc hội thực hiện tốt nhất trong hoạt động tiếp nhận, xử
lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, qua đó thực hiện tốt nhiệm vụ giám
sát của mình.
- Đóng góp một nội dung mới của pháp luật về việc đại biểu Quốc hội tiếp
nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân và những giải
pháp có tính khả thi để đại biểu Quốc hội thực hiện quyền của mình.
- Góp phần đánh giá khách quan thực trạng thực hiện pháp luật của đại
biểu Quốc hội trong việc tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi

việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân.
8. Kết cấu của Luận văn
Luận văn gồm Lời mở đầu, 3 chương với 10 mục, kết luận và tài liệu tham
khảo.

16


Chương 1
CƠ SƠ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI TRONG VIỆC TIẾP CÔNG DÂN,
TIẾP NHẬN, CHUYỂN ĐƠN, ĐÔN ĐỐC, THEO DÕI VIỆC
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ KIẾN NGHỊ CỦA CÔNG DÂN
1.1 Pháp luật về đại biểu Quốc hội tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển
đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công
dân và việc thực hiện pháp luật của đại biểu Quốc hội với việc thực hiện
pháp luật đó
1.1.1 Khái niệm, nội dung pháp luật về đại biểu Quốc hội tiếp công dân,
tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và
kiến nghị của công dân
1.1.1.1 Khái niệm pháp luật về đại biểu Quốc hội tiếp công dân, tiếp
nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến
nghị của công dân
Pháp luật về đại biểu Quốc hội nói chung và cụ thể là pháp luật về đại
biểu Quốc hội tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân thường rất đa dạng và phức
tạp, ít khi được quy định tập trung trong một văn bản riêng. Pháp luật của các
nước quy định về đại biểu Quốc hội là tập hợp tất cả các quy định thành văn
hoặc bất thành văn có liên quan đến việc ứng cử, bầu cử, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và quá trình hoạt động của đại biểu Quốc hội.

Pháp luật về đại biểu Quốc hội các nước thường tập trung vào các vấn đề
chính sau:
- Nhiệm kỳ và bản chất đại diện của đại biểu Quốc hội bao gồm các quy
định liên quan đến việc tính thời hạn nhiệm kỳ của đại biểu Quốc hội; mối quan

17


hệ giữa cử tri và đại biểu Quốc hội; cách thức kết thúc hoạt động của đại biểu
trước khi hết nhiệm kỳ.
- Địa vị pháp lý của đại biểu Quốc hội bao gồm các quy định liên quan
đến quyền, nghĩa vụ của đại biểu Quốc hội; về các điều kiện bảo đảm cho hoạt
động của đại biểu.
- Việc thực thi nhiệm vụ đại biểu Quốc hội bao gồm các quy định có liên
quan đến công việc thường ngày của đại biểu Quốc hội. Đây chủ uếu là các quy
định về quy trình làm việc của đại biểu Quốc hội, như các quy định về việc đại
biểu Quốc hội tham gia vào quy trình lập pháp, quy trình giám sát của Quốc hội;
về các quy tắc tranh luận tại nghị trường, về các hành vi kỷ luật khi không tuân
thủ các quy định của Quốc hội, về các quy tắc ứng xử với các nhóm lợi ích ngoài
Quốc hội…
Như vậy, pháp luật về đại biểu Quốc hội là tổng hợp các quy định của
pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội, về nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu
Quốc hội, về phương thức và biện pháp thực hiện cũng như các biện pháp bảo
đảm thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn đó của đại biểu Quốc hội [48].
Pháp luật về đại biểu Quốc hội là cơ sở pháp lý để đại biểu hoạt động và
có tính bắt buộc đối với đại biểu và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
trong quá trình đại biểu Quốc hội hoạt động với tư cách đại biểu Quốc hội.
Trên cơ sở khái niệm về pháp luật của đại biểu Quốc hội, từ đó ta có thể
hiểu pháp luật về đại biểu Quốc hội trong hoạt động tiếp công dân, tiếp nhận,
chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của

công dân chính là một bộ phận hợp thành khái niệm của pháp luật về đại biểu
Quốc hội, đây thực chất là tổng hợp các quy định của pháp luật về nhiệm vụ của
đại biểu Quốc hội trong việc tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo
dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân, cụ thể hoá nhiệm
vụ của đại biểu Quốc hội đã được Hiến pháp và các luật tổ chức của Quốc hội,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định cụ thể. Pháp luật về đại biểu Quốc hội

18


trong hoạt động này là một bộ phận quy phạm pháp luật quan trọng của chế định
pháp luật về đại biểu Quốc hội trong ngành luật Hiến pháp (luật nhà nước). Dưới
góc độ luật thực định thì pháp luật về đại biểu Quốc hội tiếp công dân, tiếp nhận,
chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của
công dân là văn bản quy phạm pháp luật thuộc văn bản lập pháp và các văn bản
hướng dẫn nghị quyết.
1.1.1.2 Nội dung cơ bản của pháp luậtt về đại biểu Quốc hội tiếp công
dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và
kiến nghị của công dân
a) Thực hiện pháp luật của đại biểu Quốc hội trong việc tiếp công dân
Tiếp công dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên
của đại biểu dân cử nói chung và của đại biểu Quốc hội nói riêng. Đây là một
biện pháp thiết thực nhằm tăng cường mối quan hệ, củng cố lòng tin của nhân
dân vào Đảng, nhà nước. Đồng thời, đây cũng chính là hình thức để công dân
thực hiện quyền làm chủ của mình tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Đại biểu Quốc hội tiếp công dân nhằm hiểu được tâm tư nguyện vọng của
công dân, tiếp nhận các thông tin, kiến nghị, phản ánh góp ý những vấn đề liên
quan đến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước; thu
thập ý kiến, phản ánh của công dân, hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện
quyền khiếu nại, tố cáo và nhận đơn, thư của công dân để chuyển đến cơ quan, tổ

chức có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật; tuyên truyền chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, vận động nhân
dân nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Điều 24 khoản 2 Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại
biểu Quốc hội nêu rõ: “Đoàn đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ tổ chức việc tiếp
công dân của đại biểu Quốc hội, tiếp nhận, chuyển đơn, theo dõi, đôn đốc việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân mà đại biểu Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội đã chuyển đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải

19


quyết; mời đại diện Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân ở địa phương tham dự
các buổi tiếp công dân của đại biểu Quốc hội; trong trường hợp cần thiết thì
mời đại diện cơ quan hữu quan ở địa phương cùng tham dự để tiếp thu, xử lý
những vấn đề liên quan” [13].
Thực tế cho thấy các Đoàn đại biểu Quốc hội trong cả nước đã rất quan
tâm đến hoạt động tiếp công dân. Từ thực tiễn hoạt động tiếp công dân của đại
biểu Quốc hội, cử tri có niềm tin sâu sắc vào các vị đại biểu Quốc hội – người
đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Chính vì vậy, trong các buổi
tiếp công dân của đại biểu Quốc hội, có nhiều công dân đăng ký để được gặp và
trình bày nội dung liên quan đến các vị đại biểu Quốc hội.
Thông qua hoạt động tiếp công dân, các đại biểu Quốc hội không chỉ lắng
nghe công dân trình bày ý kiến, kiến nghị của mình và tiếp thu một cách thụ
động mà đại biểu Quốc hội đã dành thời gian để tuyên truyền, giải thích cho
công dân về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước;
phối hợp với các cơ quan chức năng của địa phương để làm rõ nội dung về tâm
tư, nguyện vọng, kiến nghị, cũng như khiếu nại, tố cáo của công dân.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác này, Đảng và Nhà nước ta
ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về công tác tiếp công dân, tạo cơ sở

pháp lý nhằm đảm bảo thực hiện tốt nhất nhiệm vụ này, cụ thể là:
- Nghị định số 89/1997/NĐ-CP ngày 07/8/1997 của Chính phủ quy định
về công tác tiếp công dân;
- Chương V (từ Điều 74 đến Điều 79) Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998
quy định việc tiếp công dân;
- Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo và các
luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo;
- Nghị quyết số 228/1999/UBTVQH10 ngày 15/11/1999 của Uỷ ban
thường vụ Quốc hộ về việc đại biểu Quốc hội tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển

20


đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công
dân;
- Chỉ thị số 09/CT-TW ngày 06/3/2002 của Ban bí thư Trung ương Đảng
về một số vấn đề cấp bách trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
b) Thực hiện pháp luật của đại biểu Quốc hội trong việc tiếp nhận,
chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của
công dân
Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo
dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Khi tiếp nhận được đơn thư
khiếu nại, tố cáo đại biểu Quốc hội có thể trực tiếp hoặc thông qua Đoàn đại biểu
Quốc hội chuyển đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để xem xét
giải quyết. Yêu cầu này của đại biểu Quốc hội hay Đoàn đại biểu Quốc hội là
không thể từ chối và cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ngoài trách nhiệm
giải quyết khiếu nại, tố cáo còn phải báo cáo lại với đại biểu Quốc hội, Đoàn đại
biểu Quốc hội về việc giải quyết đó trong thời gian luật định (bảy ngày kể từ
ngày ra quyết định giải quyết). Trong trường hợp xét thấy việc giải quyết chưa

thoả đáng, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội còn có quyền yêu cầu
người đứng đầu cơ quan, tổ chức hữu quan xem xét lại hoặc yêu cầu người đứng
đầu của cơ quan, tổ chức cấp trên của cơ quan, tổ chức đó giải quyết. Trong quá
trình giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, Đoàn đại biểu
Quốc hội có thể thành lập Đoàn giám sát để hỗ trợ.
Đối với kiến nghị của công dân, khi nhận được ý kiến, kiến nghị của công
dân, đại biểu Quốc hội xem xét, phản ánh hoặc chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định sau đây:
- Ý kiến, kiến nghị thuộc thẩm quyền xem xét và giải quyết của cơ quan,
tổ chức ở địa phương, tổ chức ở địa phương thì phản ánh hoặc chuyển đến cơ
quan, tổ chức của địa phương.

21


- Ý kiến, kiến nghị thuộc thẩm quyền xem xét và giải quyết của bộ, ngành,
cơ quan, tổ chức nào thì phản ánh hoặc chuyển đến bộ, ngành, cơ quan, tổ chức
đó.
- Ý kiến, kiến nghị thuộc thẩm quyền của Chính phủ thì phản ánh hoặc
chuểyn đến Chính phủ xem xét.
- Ý kiến, kiến nghị liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng
luật, pháp lệnh thì phản ánh hoặc chuyển đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem
xét.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân khi nhận được kiến nghị của công dân do đại
biểu Quốc hội chuyển đến có trách nhiệm xem xét, giải quyết, thông báo cho đại
biểu Quốc hội biết kết quả giải quyết và trả lời cho công dân biết.
Trong trường hợp xét thấy việc giải quyết kiến nghị không thoả đáng, đại
biểu Quốc hội có quyền gặp người đứng đầu cơ quan, tổ chức hữu quan để tìm
hiểu, yêu cầu xem xét lại. Khi cần thiết, đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu
người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó giải

quyết; nếu người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ
chức đó không giải quyêt hoặc giải quyết không thoả đáng thì đại biểu Quốc hội
báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm của thực hiện pháp luật về đại biểu Quốc hội
trong việc tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân
1.1.2.1 Khái niệm thực hiện pháp luật về đại biểu Quốc hội trong việc tiếp
công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo và kiến nghị của công dân
Thực hiện pháp luật là hành vi xử sự của con người được tiến hành phù
hợp với yêu cầu của các quy phạm pháp luật. Hành vi xử sự của con người trong
hoạt động thực hiện pháp luật có hai tính chất. Một là, nó mang tính xã hội. Hai
là, nó mang tính pháp lý. Vì vậy, thực hiện pháp luật bao hàm các hành vi (hành

22


động hoặc không hành động) của các cá nhân, các tổ chức phù hợp với các quy
định của pháp luật. Như vậy, thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục
đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống,
tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật.
Thực hiện pháp luật về đại biểu Quốc hội trong việc tiếp công dân, tiếp
nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến
nghị của công dân là một quá trình hoạt động có mục đích của đại biểu Quốc hội
làm cho các quy định của pháp luật về tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn ,
đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân
được hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động khiếu nại, tố
cáo giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của công dân khiếu kiện, kiến nghị
và cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết mà đại biểu Quốc hội đã
gửi đơn thư khiếu kiện đến được hiện thực hoá trong thực tế.

1.1.2.2 Đặc điểm của thực hiện pháp luật về đại biểu Quốc hội trong việc
tiếp công dân, tiếp nhận, chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo và kiến nghị của công dân
a) Đặc điểm chung
Là một bộ phận không thể tách rời trong hệ thống pháp luật về đại biểu
Quốc hội, pháp luật về đại biểu Quốc hội trong việc tiếp công dân, tiếp nhận,
chuyển đơn, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của
công dân cũng mang những đặc điểm chung của pháp luật về đại biểu Quốc hội,
cụ thể
Một là, pháp luật về đại biểu Quốc hội mang tính chính trị - pháp lý cao
Tính chính trị của pháp luật về đại biểu Quốc hội phản ánh đặc trưng của
hệ thống chính trị một đảng duy nhất cầm quyền, thể hiện qua khía cạnh là một
bộ phận cấu thành trong tổng thể hệ thống cán bộ, công chức nhà nước, đại biểu
Quốc hội cũng nằm trong phạm vi lãnh đạo một cách toàn diện của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với cán bộ. Thông qua nhiều phương thức và biện pháp phù

23


hợp, Đảng luôn quan tâm lãnh đạo một cách chặt chẽ, sát sao đối với việc xây
dựng, hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về đại biểu Quốc hội sao cho
hoạ động của các đại biểu Quốc hội ngày càng có hiệu lực và hiệu quả hơn.
Không chỉ đối với các nội dung về hoạt động của đại biểu Quốc hội mà đối với
các nội dung của các bản Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại
biểu Quốc hội trong quá tình soạn thảo cũng thường xuyên được các cấp lãnh
đạo của Đảng như Bộ Chính trị, Ban bí thư… cho ý kiến chỉ đạo. Từ đó, một
thực tế là qúa trình đổi mới và hoàn thiện không ngừng pháp luật về đại biểu
Quốc hội luôn gắn liền với quá trình đổi mới toàn diện đất nước do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo, thể hiện một phần quan trọng tư tưởng về phát huy dân chủ,
về xây dựng và đổi mới hệ thống chính trị của Đảng trong từng thời kỳ cách

mạng và biểu hiện trong một lĩnh vực hẹp nhưng rất quan trọng là lĩnh vực hoạt
động của đại biểu Quốc hội.
Tính pháp lý của pháp luật về đại biểu Quốc hội thể hiện qua khía cạnh cụ
thể là: pháp luật về đại biểu Quốc hội bao gồm các quy phạm pháp luật do Quốc
hội ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ pháp lý phát sinh trong quá trình đại
biểu Quốc hội thực hiện vai trò đại biểu của mình, có giá trị bắt buộc và được
Nhà nước bảo đảm thực hiện.
Ngoài tính chính trị - pháp lý của pháp luật về đại biểu Quốc hội còn do
nó điều chỉnh loại hoạt động mang tính chính trị - pháp lý rất cao là hoạt động
của đại biểu Quốc hội.
Hai là, pháp luật về đại biểu Quốc hội thể hiện sự phân công, phối hợp
thực hiện nhiệm vụ trong nội bộ Quốc hội
Đại biểu Quốc hội là một bộ phận cấu thành Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội và trong chừng mực nhất định, có những nhiệm vụ và quyền hạn tương
đối độc lập trong quan hệ với Quốc hội (với tư cách là một tập thể các đại biểu
Quốc hội) cũng như trong quan hệ với các cơ quan của Quốc hội.

24


Tương tự như đối với các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội được
giao thực hiện một phần nhất định những nhiệm vụ, quyền hạn trong tổng thể
các nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Vì vậy, tất yếu phải có sự phân công và
phối hợp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội giữa đại biểu Quốc hội
với các cơ quan của Quốc hội và với kỳ họp Quốc hội. Từ đó, pháp luật về đại
biểu Quốc họi chính là sự cụ thể hoá sự phan công và phối hợp này trên một
bình diện nhất định là hoạt động của đại biểu Quốc hội.
Qua pháp luật về đại biểu Quốc hội, không chỉ thấy được những vấn đề về
hoạt động của đại biểu Quốc hội mà còn thấy được mối quan hệ phân công, phối
hợp giữa đại biểu Quốc hội với các chủ thể khác trong nội bộ Quốc hội.

Ba là, pháp luật về đại biểu Quốc hội phải được xác lập bằng các văn bản
pháp luật có hiệu lực pháp lý cao và ổn định
Nhìn chung, ở hầu hết các nước trên thế giới, thì các vấn đề đại biểu Quốc
hội thường được quy định tại Hiến pháp - văn bản pháp luật cao nhất của mỗi
quốc gia. Như vậy, cho thấy các quy định về đại biểu Quốc hội là những quy
định mang tính hiến định, mọi cơ quan nhà nước, mọi thiết chế quyền lực khác
cũng như mọi văiệt nam bản pháp luật khác không thể quy định khác với quy
định này. Ngoài ra các vấn đề quan trọng về nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu
Quốc hội cũng thường được quy định trong những văn bản pháp luật có hiệu lực
pháp lý cao do Quốc hội ban hành.
Hiện nay, ở nước ta, những vấn đề về đại biểu Quốc hội được quy định
trong các văn bản như: Hiến pháp, luật, nghị quyết (hoặc văn bản ban hành kèm
theo nghị quyết) của Quốc hội, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Đặc
điểm này xuất phát từ chính vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng của đại biểu Quốc
họi mà những vấn đề về hoạt động của đại biểu Quốc hội ở nước ta chỉ có thể
được quy định bằng những hình thức văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực
pháp lý cao, ổn định nhất của nhà nước.

25


×