Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

tư tưởng chính trị của hồ quý ly

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

LÊ THANH QUÂN

TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA HỒ QUÝ LY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

LÊ THANH QUÂN

TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA HỒ QUÝ LY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Hoài Văn

Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN


Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Thông
tin, số liệu trong luận văn hoàn toàn trung thực, chính xác, các trích dẫn đã được
chỉ rõ nguồn gốc.
Kết quả nghiên cứu của luận văn không trùng với các công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Lê Thanh Quân

1


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Hoài
Văn, người thầy đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo trực tiếp giảng dạy chúng tôi
trong suốt thời gian học tập; Đặc biệt là sự quan tâm giúp đỡ tận tình của Thầy, Cô
giáo Khoa Khoa học Chính trị, Phòng Sau đại học Trường đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội và Phòng Khoa học Công nghệ trường Đại
học Sài Gòn.
Đồng thời, tôi cũng gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè đã giúp
tôi có nguồn động lực để hoàn thành khóa học. Bên cạnh đó, tôi cũng xin bày tỏ
lòng biết ơn đối với ông Trịnh Tiến Huynh, nguyên Trưởng phòng Văn hóa huyện
Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa (nơi Hồ Quý Ly xây dựng thành An Tôn) đã giúp đỡ tôi
trong việc tiếp cận một số tư liệu và khảo sát thực địa.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!

Lê Thanh Quân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................


1

1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................

1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài...................................................

4

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.............................................................

8

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn...........................................

8

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu...................................................

9

6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn.....................................................

9

7. Ý nghĩa của luận văn....................................................................................

9


8. Bố cục của luận văn......................................................................................

9

Chƣơng 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ CỦA
HỒ QUÝ LY...................................................................................................

10

1.1. Cuộc khủng hoảng toàn diện của xã hội Đại Việt thời Trần cuối thế kỷ
XIV...................................................................................................................

10

1.2. Khủng hoảng quyền lực chính trị trong triều đình nhà Trần.....................

24

1.3. Hồ Quý Ly lên ngôi - xác lập vương triều Hồ (1400 -1407).....................

29

Tiểu kết chương 1.............................................................................................

34

Chƣơng 2: NỘI DUNG TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ CỦA HỒ QUÝ LY....

35


2.1. Xây dựng nhà nước quân chủ nho giáo trung ương tập quyền
thống nhất.........................................................................................................

35

2.2. Đề cao độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia..........................................

51

2.3. Chống giáo điều nho giáo, đề cao văn hoá dân tộc...................................

57

2.4. Đề cao pháp trị..........................................................................................

62

Tiểu kết chương 2.............................................................................................

64

Chƣơng 3: BÀI HỌC LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..................................

65

3.1. Trong cải cách đổi mới, cũng như trong chống ngoại xâm phải tôn trọng
tư tưởng chính trị truyền thống Việt Nam là đề cao dân, dựa vào dân để
dựng nước và giữ nước.....................................................................................


65


3.2. Tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly cho thấy cải cách và đổi mới là
đòi hỏi tất yếu mỗi khi đất nước lâm vào khủng hoảng....................................

76

3.3. Hồ Quý Ly là nhà lãnh đạo chính trị có bản lĩnh, quyết tâm thực hiện
mục tiêu đã lựa chọn.........................................................................................

79

Tiểu kết chương 3.............................................................................................

82

KẾT LUẬN......................................................................................................

83

KIẾN NGHỊ.....................................................................................................

90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................

91


PHỤ LỤC.........................................................................................................

95

Phụ lục 1. Bản đồ huyện Vĩnh Lộc, bình đồ khu vực núi Đún..........................

96

Phụ lục 2. Ảnh Thành Nhà Hồ..........................................................................

97

Phụ lục 3. Bản đồ không ảnh Đàn tế Nam giao................................................

100

Phụ lục 4. Một số hiện vật vũ khí bằng đá và kim loại.....................................

101

Phụ lục 5. Hiện vật địa danh xuất hiện trên gạch và vật liệu trang trí............

102

Phụ lục 6. Bản đồ chống giặc Minh..................................................................

103

Phụ lục 7. Thơ của Hồ Quý Ly..........................................................................


107


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam có nội dung nghiên cứu xuất phát từ lịch
sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong cuộc đấu tranh lâu dài đó, lịch sử tư
tưởng chính trị Việt Nam đã hình thành một hệ giá trị có tính phổ biến như: độc lập
tự chủ, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất quốc gia; đoàn kết dân tộc; đề cao dân, dựa
vào dân để dựng nước và giữ nước; xây dựng một Nhà nước trong sạch vững mạnh;
hoà bình hữu nghị với các nước khác. Mỗi khi đứng trước những thử thách lịch sử,
cha ông ta dường như đều trở lại với những tư tưởng chính trị cơ bản đó.
Vào nửa cuối thế kỉ XIV, nhà Trần lâm vào khủng hoảng toàn diện. Chính
quyền trung ương suy yếu trầm trọng, không còn khả năng kiểm soát đối với đất
nước.

biên giới phía Nam, quân Chiêm Thành luôn quấy phá, trong các cuộc

đụng độ với Chiêm Thành, Đại Việt thậm chí đã không đủ sức tự vệ. Chính thể bị
đe dọa từ phía người Chiêm, khi quân đội của họ tiến vào châu thổ sông Hồng và
đánh chiếm Thăng Long nhiều lần. Đặc biệt nghiêm trọng là nhà Minh sau khi
giành được quyền bính, thiết lập nền độc lập và thống nhất trong toàn lãnh thổ
Trung Hoa thì cũng bắt đầu xúc tiến việc xâm lược Viêt Nam. Vấn đề đặt ra với
Việt Nam lúc này cả trên bình diện tư tưởng, lí luận và thực tiễn là phải phấn đấu
cho mục tiêu độc lập dân tộc và bình đ ng với Trung Quốc. Những thách thức cả
bên trong và bên ngoài đất nước càng tăng lên đối với triều Trần và truyền thống
chính trị của nó. Mô hình nhà nước quân chủ quý tộc - với một hệ thống chính trị
lỏng l o mà quyền lực thuộc về các thân vương, quý tộc, tôn thất, dựa trên cơ sở
kinh tế điền trang thái ấp tỏ ra không còn ph hợp nữa.
Trong bối cảnh đó chỉ có sức mạnh của nhà nước tập quyền chuyên chế tuyệt

đối theo Nho giáo mới có thể đáp ứng được yêu cầu của phát triển của xã hội Đại
Việt cuối Trần. Đó là tấn công vào toàn bộ giai cấp quý tộc nh m tước bỏ thế lực
kinh tế - chính trị của giai cấp này và tập trung sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự
vào Nhà nước tập quyền trung ương. Nhanh chóng hình thành chế độ quân chủ tập
quyền do tầng lớp quan lại - nho sĩ nắm. Đó cũng là những giải pháp chính trị căn
bản đưa xã hội cuối Trần ra khỏi khủng hoảng và cứu vãn nền độc lập của dân tộc.
Trong triều đình nhà Trần lúc bấy giờ, Hồ Quý Ly là người có khả năng giải quyết
các vấn đề trên.
1


Có thể nói, Hồ Quý Ly là người có tư tưởng tiến bộ nhất trong số các đại thần
của vương triều Trần cuối thế kỷ XIV, ở vị trí cao của quyền lực đã ý thức được trách
nhiệm lịch sử, nỗ lực đưa đất nước vượt qua khó khăn. Những tư tưởng và hoạt động
thực tiễn của ông vượt ra ngoài những chuẩn mực và truyền thống chính trị của triều
Trần, mang tính đột phá nh m đổi mới triều đại và đổi mới đất nước. Với mong
muốn củng cố và xây dựng một Nhà nước mạnh, có đủ tiềm lực cả kinh tế và quốc
phòng để “chống giặc Bắc” - k th truyền thống của dân tộc, Hồ Quý Ly đã khởi
xướng và tổ chức thực hiện nhiều chính sách cải cách. Vì thế trong lịch sử dân tộc,
Hồ Quý Ly được biết đến trước hết là một nhà cải cách.
Tìm hiểu tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly không thể không đề cập đến công
cuộc cải cách của Hồ Quý Ly. Nói cách khác, những nội dung cơ bản của tư tưởng
chính trị của Hồ Quý Ly như độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia; xây dựng Nhà
nước mạnh, trung ương tập quyền thống nhất, tuyệt đối theo Nho giáo; đề cao văn
hoá dân tộc, chống giáo điều Nho giáo; thực hiện Pháp trị… đã được thể hiện qua
các chính sách cải cách cụ thể của Hồ Quý Ly. Những chính sách cải cách của Hồ
Quý Ly được đánh giá là dũng cảm, táo bạo, mạnh mẽ và tâm huyết đối với vận
mệnh quốc gia và vận mệnh triều đình lúc đó.
Sự nghiệp chính trị của Hồ Quý Ly chưa trọn vẹn và công cuộc cải cách của
ông cũng thất bại cùng với sự kết thúc của vương triều Hồ vào năm 1407, sau khi

thất bại nhanh chóng trước quân Minh. Trong lịch sử dân tộc, các tư tưởng cải cách
đều xuất hiện mỗi khi đất nước lâm vào trì trệ, khủng hoảng, hoặc trải qua khủng
hoảng sâu sắc, kết quả và thành bại cũng không giống nhau nhưng đặc điểm chung
nổi bật của những tư tưởng đó là đều mong muốn đổi mới để phát triển đất nước, tự
cường dân tộc. Tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly cũng phản ảnh tính khách quan
đó, trong những điều kiện lịch sử của dân tộc ta thời Hậu Trần cuối thế kỷ XIV và
một số năm đầu thế kỷ XV, trong thời gian tồn tại ngắn ngủi của vương triều Hồ
(1400 - 1407). Mặc dù công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly chưa đạt được kết quả
trên thực tế và cuộc kháng chiến chống quân Minh do nhà Hồ lãnh đạo đã thất bại
nhưng tinh thần đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của Hồ Quý Ly
là không thể phủ nhận. Hồ Quý Ly đã có những đóng góp nhất định đối với yêu cầu
đổi mới cũng như yêu cầu cải cách để phát triển đất nước trong những thời điểm cần
2


thiết khi thực tiễn đòi hỏi đối với một nhà lãnh đạo tầm quốc gia, đặc biệt đối với
người đứng đầu đất nước.
Việc tìm hiểu tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly để rút ra những bài học kinh
nghiệm là điều cần thiết và có ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện
nay. Có thể nói, thất bại lớn nhất hay bài học lớn nhất rút ra từ tư tưởng chính trị Hồ
Quý Ly là bài học mất lòng dân. Hồ Quý Ly đã không thấy được những hậu quả trái
chiều do cuộc cải cách mang lại đã làm bất lợi cho đoàn kết dân tộc và tập hợp lực
lượng, như Nguyễn Trãi đã chỉ ra từ đầu thế kỷ XV: Nhà Hồ mất nước là vì mất
dân. Nói cách khác, sai lầm trong tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly là đã không
thực hiện di huấn chính trị trước đó một thế kỷ, khi Hưng đạo vương Trần Quốc
Tuấn đã nói với vua Trần vào năm 1300 trước lúc mất: Khoan thư sức dân, thực
hiện kế sâu rễ bền gốc. Đó là thượng sách để giữ nước.
Chứng kiến sự suy thoái của triều Trần, rồi thất bại của nhà Hồ và sau đó trực
tiếp c ng với nhân dân làm nên thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Minh,
Nguyễn Trãi đã tổng kết: Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật - Hoạ phúc như cặp môi đi

liền nhau, không phải một ngày sinh ra và Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ - Sức dân
như nước, chở thuyền là dân lật thuyền cũng là dân. Có thể nói về phương diện lý
luận, Nguyễn Trãi là người đầu tiên chỉ ra chính xác nguyên nhân dẫn đến thất bại
của nhà Hồ, cũng như sai lầm lớn nhất trong tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly.
Ngày nay, đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ
động hội nhập quốc tế. Để làm được điều đó, đều phải phát huy sức mạnh của nhân
dân, được nhân dân ủng hộ thì mới thành công. Bên cạnh những thành tựu, trong
gần 30 năm đổi mới vẫn còn những hạn chế, yếu kém trong một số mặt của kinh tế xã hội. Đặc biệt gần đây, chủ quyền quốc gia bị xâm phạm, đất nước phải đối mặt
với thách thức gay gắt, có mặt nghiêm trọng. Những yếu kém, khuyết điểm, nhược
điểm nổi lên là bản lĩnh, năng lực và phẩm chất, phương thức lãnh đạo của một
Đảng cầm quyền, là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ
phận cán bộ đảng viên dẫn đến những căn bệnh như quan liêu, cửa quyền, xa dân,
không tôn trọng dân, vô cảm trước những hành động vi phạm đến quyền dân chủ và
lợi ích chính đáng của nhân dân, cá nhân chủ nghĩa, nạn tham nhũng, tham quyền,
nhóm lợi ích. Tình hình đó nói lên sức chiến đấu của Đảng đang giảm sút, lòng tin
3


của dân đối với Đảng ngày một phai nhạt. Đây là thử thách lớn nhất đối với Đảng
và Nhà nước ta. Đúng như Chủ tịch nước Trương Tấn Sang gần đây đã viết:
“Chúng ta không sợ bất cứ một thế lực nào, dù là hung bạo nhất. Chúng ta chỉ sợ
nhân dân mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước, chế độ ta” (Tạp chí Cộng Sản điện tử
ngày 10/08/2014). Vì vậy, bài học mất lòng dân rút ra từ sai lầm trong tư tưởng
chính trị của Hồ Quý Ly cách đây hơn 600 năm vẫn còn nguyên giá trị và tính thời
sự của nó.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu di sản tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly nh m cung
cấp một cứ liệu khoa học, làm rõ hơn những nội dung quan trọng của lịch sử tư
tưởng chính trị Việt Nam, đặc biệt là tư tưởng đại đoàn kết dân tộc; tư tưởng đề cao
dân, dựa vào dân để dựng nước và giữ nước - góp phần xây dựng đất nước phát
triển nhanh và bền vững như tinh thần Đại hội lần thứ XI của Đảng ta đã chỉ ra.

Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn như trên, tác giả chọn đề tài: “Tư tưởng
chính trị của Hồ Quý Ly” để làm luận văn thạc sĩ Chính trị học của mình.
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ nửa cuối thế kỷ XX đến nay, đề tài về Hồ Quý Ly đã thu hút sự quan tâm
của nhiều học giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Các công trình nghiên cứu
này thể hiện dưới dạng sách chuyên khảo, bài đăng tạp chí, luận văn, luận án của các
tác giả với quan điểm, cách tiếp cận khác nhau.
Trước đây, những đóng góp tích cực của nhà Hồ, mà đặc biệt là Hồ Quý Ly
với tiến trình phát triển lịch sử dân tộc đã bị phủ định hoặc đánh giá chưa đầy đủ
với những quan điểm khác nhau. Sau khi tạp chí Nghiên cứu lịch sử (1961) mở cuộc
hội thảo đánh giá lại vai trò của Hồ Quý Ly và những cải cách của ông theo quan
điểm sử học mới, thì việc nghiên cứu về nhân vật lịch sử Hồ Quý Ly đã mang tính
khách quan và khoa học hơn nh m trả lại cho Hồ Quý Ly vị trí xứng đáng trong lịch
sử dân tộc.
Cũng từ đây nhiều tác giả đã công bố những công trình nghiên cứu trực tiếp
hoặc liên quan đến con người và sự nghiệp của Hồ Quý Ly. Đặc biệt khi viết về lịch
sử Việt Nam thời trung đại, d ở bất cứ cuốn sách tham khảo nào, chúng ta cũng tìm
thấy một phần mà các nhà nghiên cứu dành sự quan tâm của mình để viết về Hồ
Quý Ly.

4


Đã có những cuộc tranh luận trên các tập san chuyên ngành, trong đó tập trung
chủ yếu ở chuyên san Nghiên cứu lịch sử (1961) và chuyên san Nghiên cứu lịch sử
(số 6, năm 1990) về Hồ Quý Ly. Trong các bài viết của mình, nhiều tác giả đã đánh
giá cao vai trò của Hồ Quý Ly, xem ông là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo tài năng,
đại biểu cho tầng lớp phong kiến tiến bộ muốn canh tân đất nước. Chính sách cải
cách của ông được đánh giá là tiến bộ, đáp ứng được yêu cầu thực tế của lịch sử, có tác
dụng thúc đẩy xã hội phát triển. Đồng thời các nhà sử học Mác - xít đã đi vào giải thích

nguyên nhân thất bại của cải cách này.
Bên cạnh đó, cũng không ít các tác giả không đồng tình với ý kiến trên như các
nhà sử học Hoàng Tuyên, Đào Duy Anh... Các tác giả này cho r ng Hồ Quý Ly
sống và hành động theo chủ nghĩa cá nhân và cuộc cải cách của ông không đáp ứng
được yêu cầu phát triển của xã hội.
Trong thời gian này tại Pháp, nhà sử học Lê Thành Khôi trong cuốn Nước Việt
Nam lịch sử và văn minh nói về cuộc cải cách của Hồ Quý Ly, tác giả này nhận
định Hồ Quý Ly đã đưa ra chính sách có tính đột phá, đổi mới và xuất phát từ một
động cơ đúng đắn tiến bộ - cố gắng giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội lúc
đó. Ngược lại nhà sử học Pháp Jean chernaux trong cuốn Góp phần vào nghiên cứu
lịch sử Việt Nam lại cho r ng Hồ Quý Ly là một k thoán đoạt, ông ta cai trị tàn
bạo, tăng thuế khóa và binh dịch.
Năm 1970, các nhà nghiên cứu lịch sử Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Đức
Nghinh tiếp tục phân tích sâu sắc hơn về cuộc cải cách của Hồ Quý Ly. Trong cuốn
Lịch sử Việt Nam hai tác giả này đã dành riêng một chương nói về chính sách cải
cách của Hồ Quý Ly, đặc biệt đã làm rõ hơn về chính sách hạn điền, hạn nô.
Các nhà sử học Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn trong tác phẩm Khởi nghĩa Lam
Sơn (1977) đã đánh giá Hồ Quý Ly là con người mạnh dạn, tiến bộ nhưng cải cách
của Hồ Quý Ly đã thất bại c ng với cuộc kháng chiến chống quân Minh của triều
Hồ vì không được nhân dân ủng hộ.
Năm 1989, sử gia Liên Xô là Maxlov trong cuốn Việt Nam phong kiến cuối thế
kỷ XIV đầu thế kỷ XV đã đánh giá cao Hồ Quý Ly và cuộc cải cách, coi ông là nhà
cải cách điển hình ở thời phong kiến của Việt Nam.

5


Đến những năm 1991 - 1992 tạp chí Nghiên cứu lịch sử lại mở cuộc hội thảo
mới đánh giá lại vai trò Hồ Quý Ly c ng những cải cách của ông theo quan điểm
đổi mới mà Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, trong đó có đổi mới tư

duy chính trị. Với cách nhìn mới, các nhà khoa học mong muốn trả lại cho Hồ Quý
Ly vị trí xứng đáng của ông trong lịch sử dân tộc.
Cuốn Hồ Quý Ly (1997) của PGS.TS Nguyễn Danh Phiệt, trong cuốn sách này
tác giả đã đưa ra các nguồn sử liệu tin cậy có nói về Hồ Quý Ly, về vương triều Hồ
để dựng lại bức tranh toàn diện về thân thế Hồ Quý Ly, bối cảnh xã hội Việt nam
thời cuối Trần, những hoạt động và vai trò của Hồ Quý Ly ở vương triều Trần từ
năm 1370 tới năm 1400. Hồ Quý Ly lập ra triều Hồ c ng với những cải cách của
ông và cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược, trong thời kì cuối thế kỉ XIV
đầu thế kỉ XV.
Tác giả Nguyễn Đăng Thục trong tác phẩm Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập 5
(1998) đã trình bày một số nội dung có liên quan tới nhân vật Hồ Quý Ly như:
Hoàn cảnh xã hội - chính trị cuối thời Trần; Tư tưởng pháp trị của Hồ Quý Ly và
công cuộc cải cách của ông, trong đó có nội dung đánh giá về sự hình thành của tư
tưởng cải cách Hồ Quý Ly.
Cuốn sách Họ Hồ và Hồ Quý Ly trong lịch sử (nhiều tác giả) do NXB Sài
Gòn và Tạp chí Xưa và Nay phát hành năm 2003, đây là tập hợp các bài viết nghiên
cứu về nhân vật Hồ Quý Ly đã in trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử từ năm 1960
đến trước thời điểm xuất bản cuốn sách. Mục đích của cuốn sách giúp những người
quan tâm có cái nhìn tổng quan về những đóng góp của Hồ Quý Ly. Qua đó, các
nhà sử học đã trả lại đúng vị trí mà lịch sử không thể phủ nhận đối với những đóng
góp của ông.
Vào năm 1997, cuốn sách Thể chế chính trị, hành chính và pháp quyền trong
cải cách Hồ Quý Ly của tác giả Trương Thị Hòa, do NXB Chính trị Quốc gia phát
hành, trong đó nêu và làm rõ những tư tưởng cải cách mới m của Hồ Quý Ly trong
việc thay đổi bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền và củng cố pháp
trị nh m ổn định và phát triển xã hội bấy giờ.
Tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh viết năm 1999 đã dựa
vào những tư liệu lịch sử về nhà Hồ và nhân vật Hồ Quý Ly. Cuốn tiểu thuyết lịch

6



sử này nh m giới thiệu với người đọc những nét khái quát về một thời kỳ lịch sử và
một nhân vật lịch sử khá nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.
Đồng thời, cũng đã có một số cuộc hội thảo khoa học về Hồ Quý Ly, trong đó
phải kể đến hội thảo khoa học Hồ Quý Ly và nhà Hồ do Ban Nghiên cứu và biên
soạn lịch sử Thanh Hóa kết hợp với Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức năm
1992.
Ngoài ra, trên các tạp chí chuyên ngành, mà đặc biệt là Tạp chí Nghiên cứu
lịch sử đã có nhiều bài viết sâu sắc của các học giả, nhà nghiên cứu như: Văn Tạo
với Từ Hồ Quý Ly nhìn nhận lại một số cải cách trong lịch sử, Trương Hữu Quýnh
với Nhìn lại vấn đề Hồ Quý Ly trong lịch sử, Lê Tạo với Mấy ý kiến xung quanh
việc xây dựng Tây Đô, Nguyễn Danh Phiệt có bài viết Hồ Quý Ly - Một nhân cách
anh hùng,....
Trong Tập bài giảng Chính trị học, của tập thể tác giả Viện Khoa học chính
trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, GS. Hồ Văn Thông (chủ biên), NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, ở chương Lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam,
các tác giả cho r ng: năm 1400, nhà Hồ thay thế nhà Trần. Hồ Quý Ly lập ra một
triều đại mới, trong lúc nhà nước trung ương Trần đã hoàn toàn suy yếu, không còn
đủ khả năng điều hành đất nước. Hồ Quý Ly đã tiến hành một cuộc cải cách sâu
rộng nh m khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, đổi mới đất nước và tích cực
chuẩn bị chống quân Minh. Điều đó chứng tỏ ông là một người yêu nước, một nhà
cải cách lớn của lịch sử Trung đại Việt Nam. Nhưng cuộc kháng chiến do nhà Hồ
lãnh đạo đã thất bại, kéo theo sự sụp đổ của vương triều Hồ và kết thúc công cuộc
cải cách đang dở dang của Hồ Quý Ly. Đến nửa cuối thế kỷ XV, công cuộc cải cách
ấy được Lê Thánh Tông tiếp tục và hoàn chỉnh.
Bước sang thế kỷ XXI, năm 2006, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm đã ấn hành
cuốn sách Mười cuộc cải cách đổi mới lớn trong lịch sử Việt Nam của tác giả Văn
Tạo. Khi bàn về các cuộc đổi mới trong lịch sử, tác giả đã đánh giá cao về tư tưởng
cải cách của Hồ Quý Ly và vai trò của ông trong lịch sử cải cách của nước nhà,

cuốn sách cũng nói lên ý nghĩa của tư tưởng cải cách Hồ Quý Ly đối với các tư
tưởng cải cách và đổi mới sau này của nước ta. Từ năm 2006 đến nay, việc nghiên
cứu về Hồ Quý Ly và công cuộc cải cách của ông vẫn được tiếp tục.

7


Đánh giá tổng quan về một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
luận văn:
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về Hồ Quý Ly được các nhà nghiên cứu
thực hiện trong một thời gian dài, với nhiều tác giả tên tuổi gắn với Hồ Quý Ly như:
Nguyễn Danh Phiệt, Võ Xuân Đàn, Trương Hữu Quýnh, Văn Tạo, Nguyễn Xuân
Khánh,... Các nghiên cứu được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau như: sử học,
văn học sử, pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu vắng các công trình nghiên cứu về
Hồ Quý Ly dưới góc độ của Khoa học chính trị nói chung và Chính trị học nói
riêng. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu về Hồ Quý Ly dưới góc độ của Chính trị học
một cách có hệ thống là hết sức cần thiết, đáp ứng yêu cầu lý luận và thực tiễn công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
D chưa có công trình nào trực tiếp hoặc đi sâu nghiên cứu tư tưởng chính trị
của Hồ Quý Ly, nhưng những nguồn tài liệu phong phú của nhiều nhà nghiên cứu,
nhà khoa học đã trình bày ở trên là hết sức quan trọng để tác giả luận văn có điều
kiện tham khảo, kế thừa kết quả nghiên cứu của những người đi trước và sử dụng
cho đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích nghiên cứu của luận văn
Làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly thông
qua các chính sách cải cách trên nhiều lĩnh vực mà Hồ Quý Ly trực tiếp thực hiện.
Từ đó rút ra bài học lịch sử và ý nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới ở Việt
Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly.
+ Làm rõ những nội dung trong tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly.
+ Bài học lịch sử và ý nghĩa của của nó đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam
hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về tư tưởng chính trị
của Hồ Quý Ly thông qua các chính sách cải cách trên nhiều lĩnh vực mà Hồ Quý
Ly trực tiếp thực hiện.
8


- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu chủ yếu vào giai đoạn
lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIV thời cuối nhà Trần và những năm đầu thế kỷ
XV dưới triều Hồ (1400 - 1407) gắn với hoạt động của Hồ Quý Ly.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị và con người chính trị.
Trên cơ sở đó, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử - lôgíc, đồng
thời kết hợp với các phương pháp khác như: phân tích tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp hệ thống, khái quát hoá.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Là luận văn thạc sĩ Chính trị học đầu tiên nghiên cứu về tư tưởng chính trị của
Hồ Quý Ly. Luận văn góp phần nhận diện một cách cụ thể và đầy đủ hơn về tư
tưởng chính trị của Hồ Quý Ly, đồng thời nêu lên những bài học lịch sử cũng như ý
nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Góp phần nghiên cứu về lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam, đặc biệt là tư
tưởng cải cách đổi mới đất nước đã xuất hiện khá sớm trong lịch sử Việt Nam.
- Đưa ra một cách nhìn nhận, đánh giá khách quan về Hồ Quý Ly, một nhân

vật lịch sử và một nhà cải cách có tư tưởng đổi mới tự cường dân tộc từ thế kỷ XIV.
- Luận văn có thể được d ng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy về lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam và khoa học chính trị nói chung.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn
gồm có 3 chương và 10 tiết.

9


Chƣơng 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ
CỦA HỒ QUÝ LY
1.1. CUỘC KHỦNG HOẢNG TOÀN DIỆN CỦA XÃ HỘI ĐẠI VIỆT
THỜI TRẦN CUỐI THẾ KỶ XIV
1.1.1. Kinh tế
Kể từ thế kỷ X, sau khi thoát khỏi sự thống trị của phương Bắc, một nhà
nước phong kiến dân tộc ở nước ta đang dần được hình thành và phát triển qua các
triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần. Chính sự ra đời của nhà nước theo mô hình
Nho giáo được các triều đại tiếp thu và xây dựng đã giúp cho việc quản lý, xây
dựng và bảo vệ quốc gia trở nên hiệu quả hơn. Cơ sở của mô hình nhà nước này
được xác lập dựa trên chế độ sở hữu về ruộng đất của nhà nước. Đây cũng chính là
đặc điểm phương Đông mà Mác kh ng định “Nhà nước ở đây là người sở hữu tối
cao về ruộng đất. Chủ quyền ở đây là chế độ sở hữu ruộng đất tập trung ở quy mô
cả nước [02, tr.11].
Nhận xét trên chỉ là những nét chủ đạo và chung nhất, tuy nhiên nếu đi vào
trường hợp một quốc gia cụ thể như Đại Việt, thì cũng có những nét riêng trong chế
độ sở hữu tư nhân về ruộng đất. Ngay từ thế kỷ X, ruộng tư đã bắt đầu phát triển và
kéo theo đó là sự mua bán, trao đổi, cầm cố và được xuất phát từ nhu cầu của thị
trường. Thời Lý, chỉ trong vòng có 10 năm (1135 - 1145) Nhà nước đã 3 lần xuống
chiếu để điều chỉnh những vấn đề liên quan tới tranh chấp ruộng đất. Bước sang

thời Trần, những tranh chấp về ruộng đất và đã diễn ra phổ biến c ng với xu hướng
tư nhân hóa ruộng đất ngày càng tăng.
Nửa sau thế kỷ XIV, nước Đại Việt cuối vương triều Trần đã lâm vào một
cuộc khủng hoảng toàn diện trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế.
Sự bất mãn của dân chúng đã lên tới đỉnh điểm bởi những xung đột quanh việc
chiếm đoạt đất đai của triều đình. Nhà Trần đã chiếm một lượng ruộng đất của nông
dân hoặc của công xã để cho các vương hầu lập thái ấp, ngoài ra chính các vương
hầu này cũng lợi dụng uy quyền của mình để chiếm đoạt thêm những ruộng đất mà
họ có thể lấy được từ tay nông dân. Sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất trong
giai đoạn này đã dẫn đến sự phát triển của thành phần địa chủ bình dân, chính vì
vậy đã xuất hiện mối quan hệ nông nô - tá điền. So với những mối quan hệ trước
10


như quan hệ địa chủ quý tộc và người sản xuất, thì mối quan hệ nông nô - tá điền có
những điểm tiến bộ nhất định. Một là người sản xuất (tá điền) đã được tự do hơn, họ
ít bị ràng buộc về thân thể. Hai là sự năng động, tự chủ của người sản xuất đã được
cải thiện, do đó năng suất lao động được nâng cao và làm ra được khối lượng sản
phẩm nhiều hơn trước.
Với hai hình thức sở hữu c ng tồn tại - công và tư - nhưng sở hữu tư có
chiều hướng gia tăng. Do vậy, mâu thuẫn kinh tế cơ bản trong xã hội bấy giờ là mâu
thuẫn về ruộng đất giữa công hữu và tư hữu. Mâu thuẫn này thể hiện trên hai
phương diện: thứ nhất là mâu thuẫn giữa sở hữu toàn quốc (trên danh nghĩa là Nhà
nước) với sự chiếm dụng của những tập thể công xã; thứ hai là mâu thuẫn giữa chế
độ sở hữu công xã với sở hữu tư nhân. Chính những mâu thuẫn tuy không mang
tính đối kháng gay gắt này, nhưng đã khiến chính quyền trung ương tập quyền nhà
Trần phải có những giải pháp ph hợp để duy trì sự tồn tại của triều đình. Một trong
những thách thức của chính quyền nhà Trần bấy giờ khi giải quyết vấn đề ruộng đất
tư nhân lúc này đã trở thành hàng hóa trao đổi, nó sẽ phá vỡ kết cấu phân chia
ruộng đất truyền thống, điều đó kéo theo hàng loạt biến động của xã hội.

Vào năm 1254, đời vua Trần Thái Tông, nhà nước “bán ruộng công, mỗi
diện là 5 quan tiền, cho nhân dân mua làm của tư” [07, tr.464]. Sau đó, vào năm
1266, vua Trần Thánh Tông đã “xuống chiếu cho vương hầu, công chúa, phò mã,
cung tần chiêu tập dân phiêu tán không có sản nghiệp làm nô tỳ để khai khẩn ruộng
hoang lập làm điền trang. Vương hầu có trang thực bắt đầu từ đấy” [07, tr.482]. Từ
hai văn bản của hai vị vua Trần kể trên, đã cho thấy ruộng đất tư và chế độ điền
trang phát triển và một tầng lớp địa chủ không chỉ có vương hầu mà còn có cả địa
chủ không quan tước và địa chủ nhà ch a, hai thành phần này không phải là ít.
Chính vì vậy, vào khoảng giữa thế kỷ XIII, hầu hết ruộng đất truyền thống đều có
sự thay đổi về cơ cấu, trong đó dựa trên chế độ sở hữu chủ yếu do Nhà nước quản lý
bao gồm ruộng đất Nhà nước quản lý trực tiếp, ruộng đất phong cấp và ruộng đất
công do làng xã quản lý; ngoài ra cũng có một lượng ruộng đất mới của giai cấp địa
chủ và tiểu nông - đây là những giai tầng rất năng động và nhạy bén trong vấn đề
ruộng đất.

11


Thời Trần, diện tích ruộng đất được mở rộng chủ yếu dựa trên hai yếu tố,
một là khai hoang lấn biển, hai là mở rộng lãnh thổ về phương Nam. Và trong đó,
sự thay đổi trong cơ cấu giữa sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân luôn có sự thay
đổi và biến động, nhưng đều theo xu hướng ruộng đất thuộc sở hữu của Nhà nước
dần bị thu hẹp và ruộng đất do tư nhân quản lý ngày một tăng lên. Tuy nhiên, ngay
cả ruộng đất thuộc quyền sở hữu của Nhà nước cũng có sự biến đổi, từ chỗ ruộng
đất công chiếm đa số, nay đã chuyển dần cho làng xã quản lý. Việc thay đổi cơ cấu
trong sở hữu Nhà nước và tư nhân ở vấn đề ruộng đất thời Trần là do những ruộng
đất của Nhà nước được phong cấp cho những vương hầu, tư nhân mua hoặc cá nhân
tự lấn chiếm và tất nhiên những ruộng đất tư nhân này chủ yếu tập trung ở trong tay
giai cấp địa chủ.
Với sự thay đổi trong cơ cấu ruộng đất như trên, người nông dân trong xã hội

thời Trần nói chung và cuối Trần nói riêng khi sản xuất trên ruộng công được phân
chia và phải có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước mà người trực tiếp thu thuế là bộ
máy quản lý làng xã, hoặc nộp tô cho địa chủ. Bộ phận khác trong tay không có
ruộng thì trở thành nông nô - nô tỳ và những người này chịu sự bóc lột trực tiếp của
Nhà nước hoặc địa chủ, họ bị giai cấp thống trị bóc lột giá trị thặng dư dưới các
hình thức tô thuế, địa tô và một số hình thức không điển hình khác.
Từ những chuyển biến, thay đổi trong vấn đề đất đai và ruộng đất của thời
Trần, nên cuối thế kỷ XIV, Nhà nước đã gặp phải nhiều khó khăn, thách thức: một
là kinh tế của Nhà nước trở nên suy kiệt, hai là nông dân ngày càng nghèo dẫn tới
mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, vì vậy các cuộc khởi nghĩa nông dân và nô tỳ nổ
ra như là hệ quả tất yếu. Những khó khăn này không dễ giải quyết trong hoàn cảnh
triều đình phong kiến trung ương lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Để giải
quyết vấn đề khủng hoảng, nhất là giải quyết sự khó khăn, đói kém của dân nghèo,
triều đình phong kiến cuối thời Trần đã phải kêu gọi nhà giàu ở các địa phương đưa
thóc ra phát chẩn cho dân nghèo và những nhà giàu này được Nhà nước trả b ng
tiền tương đương với lượng thóc, điều này khiến lượng tiền đưa vào lưu thông trong
xã hội cũng tăng cao, dẫn đến nguy cơ đồng tiền mất giá, kinh tế lạm phát. Năm
1362 “lại hạ chiếu cho các nhà giàu dâng thóc để phát chẩn cho dân nghèo, ban
chức tước cho họ theo thứ tự khác nhau” [07, tr.646].

12


Lúc này, đồng tiền có tác động rất lớn đối với kinh tế và xã hội, nó làm thay
đổi số phận và địa vị của con người trong xã hội, “Đời Minh Tông, Ngô Dẫn - trại
chủ xã Đại Lãi bắt được viên ngọc rết rất lớn đem đến Vân Đồn. Các chủ thuyền
buồm tranh nhau mua. Một chủ thuyền muốn có được vật lạ đó, dốc hết của cải để
mua. Ngô Dẫn trở nên giàu có. Minh Tông đem con gái là công chúa Nguyệt Sơn gả
cho Ngô Dẫn” [07, tr. 647]. Như vậy, một nông dân đã bỗng chốc biến thành quý
tộc nhờ vào sức mạnh của đồng tiền. Mặt khác, một ông vua Trần đã coi trọng đồng

tiền hơn con gái mình thì người ta cũng dễ dàng hình dung ra xã hội cuối Trần và
triều đình nhà Trần đã không còn giữ được nề nếp và trật tự của nó nữa. Nhà Trần
vốn có luật lệ không gả con gái cho người ngoài gia tộc Trần.
Vào thời điểm này, ngoại thương cũng phát triển nhưng chủ yếu là b ng đường
biển. Vì người nước ngoài lúc này vào nước ta chủ yếu là mua sản vật như ngọc trai
hay sản vật lạ và bán cho Nhà nước những hàng hoá xa xỉ đáp ứng nhu cầu ăn chơi,
hưởng thụ xa hoa lãng phí của vua quan chứ không phải mục đích phát triển giao
thương kinh tế. Nhà nước Trần đại diện cho giai cấp phong kiến quý tộc của nó lúc
này đang đi vào thời kỳ suy thoái trầm trọng, không còn tạo ra động lực hay cơ may
nào để phát triển xã hội. Những cuộc nổi dậy của nông dân và nô tỳ liên tiếp nổ ra
càng làm cho xã hội thêm bất ổn.
1.1.2. Chính trị - xã hội
Kinh tế luôn là yếu tố quyết định cho phát triển chính trị - xã hội, khi nền
kinh tế khủng hoảng, khi mâu thuẫn trong kinh tế phát sinh nếu không được giải
quyết thì tất yếu sẽ dẫn đến những khủng hoảng trong chính trị và xã hội. Vì sự thay
đổi của nền kinh tế d tích cực hay tiêu cực bao giờ cũng kéo theo sự biến động
trong xã hội của một quốc gia - điều này đã được thể hiện rõ nét trong thời nhà Trần
cuối thế kỷ XIV, mà ở đây là dấu hiệu suy vong và sụp đổ của triều Trần.
Mâu thuẫn xã hội sâu sắc, loạn lạc trộm cướp, khởi nghĩa b ng nổ khắp nơi,
sự bất công trong xã hội ngày càng rõ rệt. Một tầng lớp quý tộc vương triều giàu có,
ăn chơi sa đọa; dân chúng thì c ng cực, cơ hội cho một tầng lớp địa chủ, quan lại
tham ô hối lộ, dựa cớ bóc lột nhân dân. Thời cuối Trần có tình trạng trớ trêu là Nhà
nước nghèo, kho tàng ngân quỹ trống không, dân đói khổ nhưng tầng lớp phú hộ,
địa chủ và các quan chức vẫn dư thừa một khối tài sản và lương thực rất lớn. Trong

13


những năm 1354, 1362, Nhà nước đứng đầu là vua xuống chiếu khuyến khích nhà
giàu ở các lộ bỏ thóc ra chẩn cấp cho dân nghèo và số thóc bỏ ra của địa chủ được

trả b ng tiền.
Như vậy, Nhà nước nghèo nhưng có một bộ phận địa chủ quan lại giàu có.
Do không có khả năng cứu nổi dân nghèo, nên Nhà nước phải dựa vào tầng lớp có
nhiều lương thực là địa chủ. Đầu tiên Nhà nước còn trả họ b ng tiền sau thì trả b ng
chức tước. Lúc này ở xã hội thời Trần thể hiện rõ mâu thuẫn giữa hai giai cấp - địa
chủ và nông dân. Giai cấp địa chủ gồm có địa chủ quý tộc, địa chủ quan lại và địa
chủ không quan tước.
Bộ phận địa chủ quý tộc là lớp người có nhiều đặc quyền đặc lợi trong xã
hội. Họ được sử dụng hai loại ruộng đất để khai thác làm giàu: ruộng đất thái ấp do
vua ban không phải là của riêng của quý tộc tôn thất, do đó không có quyền thừa kế.
Loại thứ hai là điền trang được nhà vua cho phép quý tộc tôn thất triệu tập dân
phiêu tán để khai khẩn ruộng hoang và ruộng đất do mua bán. Tầng lớp địa chủ này
đã dần nắm mọi cương vị chủ chốt ở triều đình, đó là các quan hàm: Thái sư, Thái
phó, Thái bảo.
Bộ phận địa chủ quan lại: do phải tăng cường quản lý bộ máy nhà nước mà
nhà Trần mở rộng sử dụng người ngoài tôn thất giữ chức vị. Bộ phận này không
được phép lập điền trang, nhưng vẫn có ruộng đất. Bộ phận địa chủ không quan
tước chiếm giữ một số lượng ruộng đất lớn, mỗi địa chủ ước chừng 4 mẫu trở lên.
Họ có mặt trong hàng ngũ chức sắc của làng xã, có uy thế về kinh tế - chính trị ở địa
phương.
Giai cấp nông dân gồm có: nông dân, nô tỳ, gia nô. Giai cấp này bị bóc lột
thặng dư lao động thông qua các hình thức tô thuế, địa tô và những hình thức kinh
tế khác.
Hai giai cấp này có mâu thuẫn với nhau, đó là mâu thuẫn giữa một bên đi
bóc lột và một bên bị bóc lột. Mâu thuẫn giữa một bên chiếm số ít lại nắm giữ hết tư
liệu sản xuất và của cải của xã hội và một bên đa số người lao động không có tư liệu
sản xuất bị áp bức. Theo quy luật xã hội có áp bức thì có đấu tranh, trong những
năm cuối thời Trần, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của nông dân và nô tỳ liên tiếp
nổ ra.


14


Bên cạnh là mâu thuẫn giữa các tầng lớp quan lại trong giai cấp địa chủ. Đó
là sự cách biệt giữa quý tộc tôn thất và quý tộc quan lại - tầng lớp quan lại không
xuất thân từ thành phần quý tộc mới gia nhập vào hệ thống quyền lực Nhà nước nhờ
phấn đấu học tập và đỗ đạt cao trong các kỳ thi Nho học. Quý tộc tôn thất được
hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi hơn quý tộc quan lại. Sự cách biệt về trí tuệ và sự
cống hiến giữa hai tầng lớp này cũng là nguyên nhân gây mất ổn định trong xã hội
và phát sinh ra những mâu thuẫn. Đồng thời trong triều đình nhà Trần, c ng với
việc ăn chơi xa xỉ, những cuộc tranh dành quyền lực giữa các phe nhóm quý tộc đã
làm suy yếu quyền lực của chính quyền trung ương. Nhà vua như Trần Dụ Tông
yếu đuối đến nỗi không giữ được ấn triện, bỏ mặc triều đình chỉ biết ăn chơi:
“Tháng 6, vua ngự thuyền nhỏ đến chơi nhà thiếu úy Trần Ngô Lang ở
hương Mễ Sở thuộc huyện Đông Yên, tỉnh Hưng Yên, đến canh ba mới về. Khi tới
sông Chử Gia (huyện Văn Giang, Bắc Ninh), bị cướp mất ấn báu, gươm báu. Vua tự
biết mình không sống lâu, càng thả sức chơi bời” [07, tr.650].
Vua quan chơi bời vô độ, khiến triều đình bạc nhược, trộm cướp không từ ai,
cướp bóc của dân nghèo đã đành còn ngang nhiên cướp bóc của vua. Quan tham
nhũng không chỉ trong nước mà còn diễn ra ở cả những vụ việc ngoại giao với nước
ngoài gây nên những mâu thuẫn giữa nước nhà với Chiêm Thành thời cuối Trần:
“Chúa Chiêm là Chế Bồng Nga đem 10 mâm vàng để dâng. Tử Bình giấu lấy
làm của mình, lại nói dối là Bồng Nga ngạo mạn vô lễ nên đem quân đánh. Vua
giận lắm quyết ý thân chinh” [07, tr.673]. Quyền thần lừa dối cả vua, nịnh thần
hoành hành, hiền thần bất lực:
“Dụ Tông thích chơi bời, lười chính sự, bọn quyền thần nhiều người làm
trái phép nước. An can Dụ Tông không nghe, dâng sớ xin chém 7 k nịnh thần…
vua không trả lời, An bèn treo mũ về quê” [07, tr.661].
Trong xã hội Việt Nam dưới chính thể Nho giáo truyền thống, khi mà giai
cấp thống trị vì lợi ích của nó, ngày càng xa dân, quay lưng lại với dân tộc và nhân

dân thì xã hội cũng đi vào bất ổn, kéo theo khủng hoảng kinh tế - xã hội làm cho
những mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội phong kiến ngày càng trở nên sâu sắc
đưa xã hội vào loạn lạc, khởi nghĩa nông dân nổ ra, cao nhất là khủng hoảng triều
chính - khủng hoảng về quyền lực Nhà nước. Xã hội Đại Việt thời cuối Trần cũng

15


vậy, khi đó Nhà nước rơi vào tình trạng khủng hoảng quyền lực, hệ thống chính
quyền từ trung ương đến địa phương mất khả năng kiểm soát xã hội, Nhà nước
không còn giữ được chức năng thống trị của nó như trước nữa.
1.1.3. Văn hoá - tư tưởng
Dưới các triều đại phong kiến, ngoài Nho giáo là ý thức hệ tư tưởng của Nhà
nước phong kiến, còn có Phật giáo và Đạo giáo giữ vai trò quan trọng trong đời
sống tinh thần dân tộc. Đạo Phật được truyền trực tiếp vào nước ta từ đầu công
nguyên. Trụ sở quận Giao Chỉ, làng Luy Lâu (Thuận Thành - Bắc Ninh) đã sớm trở
thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Từ khi giành độc lập, Phật giáo tiếp tục phát
triển. Dưới triều vua Đinh khi kinh đô còn ở Hoa Lư, Ngô Chân Lưu được vua Đinh
phong làm Tăng Thông ngang hàng Tể tướng. Sư Vạn Hạnh nổi tiếng là nhà tiên tri
được vua coi trọng s ng bái mời vào hỏi ý kiến. Bắt đầu từ thời nhà Lý, Phật giáo
phát triển đến giai đoạn hưng thịnh, được coi là quốc giáo. Nhà ch a có những
quyền lợi to lớn về chính trị và kinh tế. Nhiều cao tăng được tham gia triều chính.
Sư Đa Bảo được vua Lý mời vào hỏi han chính sự trong triều.
Về kinh tế, các cao tăng đều có những tu viện to lớn tương tự như các điền
trang của vương hầu quý tộc. Các nhà sư được Nhà nước công nhận thì được rút tên
khỏi tướng tịch và miễn sưu thuế, lao dịch. Như vậy nhà sư ở thời bấy giờ được
ngang hàng với vương hầu quý tộc cả về kinh tế lẫn chính trị. Lúc này, tầng lớp sư
sãi tăng lên rất nhiều, có nhiều nhà sư xuất thân từ tầng lớp quý tộc, quan liêu; các
vua dưới thời Lý - Trần khi thôi việc triều chính thường lên ch a đi tu. Các vua
Thái Tông, Thánh Tông đều viết sách nghiên cứu sâu về Phật học, vua Nhân Tông

trở thành người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm và trở thành Phật hoàng Trần Nhân
Tông nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo và lịch sử dân tộc.
Hầu hết các ngôi ch a lớn thời Lý - Trần đều do nhà vua hoặc vương hầu
quý tộc xây dựng. Bia ch a Linh Xứng ghi:
"Từ khi đạo Phật truyền sang nước ta đến nay đã được 2000 năm, mà sự
phục thờ ngày càng thêm mới. Hễ chỗ nào núi cao cảnh đẹp đều mở mang để lập
ch a chiền".
Phật giáo từ khi du nhập vào nước ta có tác dụng thống nhất nhân tâm, qua
đó tạo điều kiện cho nhà nước quân chủ phát triển cho đến thế kỷ XIV. Do vậy, Phật

16


giáo có ảnh hưởng sâu rộng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống dân tộc. Đáp ứng
được yêu cầu củng cố địa vị của giai cấp cầm quyền, được giai cấp thống trị khai thác
và đưa lên làm quốc giáo qua nhiều đời vua. Sử chép:
Nghệ Tông lên ngôi, vua từng nói “triều trước dựng nước, tự có pháp độ,
không theo chế độ nhà Tống, là vì Nam Bắc đều chủ nước mình, không phải noi
nhau” [07, tr.659].
Như vậy, đến thời điểm này thì Phật giáo vẫn giữ vai trò rất quan trọng trong
đời sống chính trị - xã hội. Theo Phan Huy Chú, đời Lý, đời Trần đều tôn chuộng
Phật giáo và Đạo giáo, cho nên buổi ấy chọn người muốn được thông cả hai giáo
ấy, d là chính đạo hay dị đoan, đều tôn chuộng, không phân biệt. Trong những
công trình nghiên cứu về lịch sử, văn hoá thời Lý Trần, GS Trần Quốc Vượng gọi
Nhà nước thời Lý Trần là Nhà nước quân chủ Phật giáo.
Nho giáo là học thuyết bao gồm các quan niệm về triết học, luân lý, chính trị
- xã hội có nguồn gốc Trung Hoa. Nho giáo vào nước ta theo dấu chân quân xâm
lược phương Bắc. Suốt trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc và ngót một thế kỷ sau
khi đất nước ta giành được độc lập tự chủ, Nho giáo vẫn chưa có vai trò gì đáng kể
trong xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, từ thời Lý, Nhà nước đã chính thức hoá việc học,

việc thi Nho giáo. Năm 1070, nhà Lý xây Văn miếu, năm 1075 mở khoa thi Nho
học đầu tiên, năm 1076 lập Quốc tử giám. Các sự kiện này có ý nghĩa to lớn đối với
lịch sử văn hoá, tư tưởng của dân tộc, mở ra một thời kỳ mới của Nho học, Nho
giáo ở nước ta. Đến đây, Nho giáo mới trở thành cái bản địa, được Nhà nước Đại
Việt sử dụng và trân trọng. Sang thời Trần, nhất là cuối thời Trần, Nho giáo ngày
càng chiếm ưu thế. Vào năm 1253, Trần Thái Tông “lập Quốc học viện, tô tượng
Khổng Tử, Chu Công và

thánh, vẽ tượng 72 người hiền để thờ, xuống chiếu cho nho

sỹ trong nước đến Quốc tử viện giảng học Tứ thư, Ngũ kinh . Năm 1281, Nhân Tông
lập thêm nhà học ở Thiên Trường. Năm 1397 bắt đầu có chức học quan và tổ chức việc
học tập ở cấp châu huyện để hàng năm tiến cử người ưu tú cho triều đình.
Tuy nhiên, trước khi Nho giáo chiếm ưu thế tuyệt đối vào cuối thời Trần,
trong xã hội Đại Việt thời Lý - Trần đã diễn ra một quá trình phủ định và phê phán
Phật giáo. Chủ yếu là ý kiến chỉ trích, bài bác Phật giáo của giới Nho sỹ đang lên,
đỗ đạt cao được Nhà nước trọng dụng. Ngay từ thời Lý, Đàm Dĩ Mông đã lên án
Phật giáo:
17


“Hiện nay số sư sãi đã gần ngang với số phu dịch. Tự kết bè lũ lập càn thủ lĩnh,
tụ họp thành bầy làm nhiều việc xấu hoặc ở nơi giới trường tịnh xá mà công nhiên rượu
thịt, hoặc ở chốn tăng phòng tịnh mà riêng tư gian dâm. Ngày ẩn tối ra như phường
cáo chuột, bại hoại phong tục, phương hại giáo lý dần dần đã thành thói quen. Nay
không cấm đi lâu ngày càng tệ” [19, t.1, tr.526].
Những nho sỹ nổi tiếng thời Trần đều chỉ trích Phật giáo một cách mạnh
mẽ, xem Phật giáo là một thứ tà giáo dị đoan. Tiêu biểu là Trương Hán Siêu và Lê
Quát. Năm 1354, Trương Hán Siêu phê phán Phật giáo, đề cao Nho giáo:
“Ch a bỏ rồi lại dựng, ch ng phải ý ta. Bia dựng mà khắc, ta biết nói gì?

Hiện nay thành triều muốn truyền phong hóa nhà vua, để chữa phong tục đồi bại, dị
đoan dáng truất bỏ, thánh đạo nên phục hưng. Làm k sỹ đại phu, không phải đạo
Nghiêu, Thuấn không bày tỏ, không phải đạo Khổng, Mạnh không trước thuật...”
[07, tr.636].
Năm 1370 thời Nghệ Tông, Lê Quát đã hết lời ca ngợi Nho giáo - đạo của
thánh nhân:
“Nhà Phật lấy họa phúc để cảm động lòng người, sao mà được người tin
theo sâu bền như thế!… Chỗ nào có người tất có ch a Phật, bỏ đi rồi lại dựng lên,
nát đi rồi lại sửa lại, lâu đài chuông chống chiếm đến nửa phần so với dân cư…”.
Còn Khổng giáo thì càng kêu ca thì chưa được tôn s ng như ý: “... Đạo của thánh
nhân để giáo hóa người ta mà rốt cuộc chưa có thể được tin theo ở một hướng… Do
đó ta rất lấy làm xấu hổ với tín đồ nhà Phật...” [07, tr.663].
Đến thế kỷ XIV, bất chấp thế lực nhà ch a và Phật giáo còn rất mạnh, kinh
điển Nho giáo Trung Hoa vẫn tiếp tục củng cố vị trí của nó. Nền giáo dục thời Trần
đã tạo ra một đội ngũ trí thức nho học ngày càng đông và có ảnh hưởng ngày càng
lớn đến triều đình và giới quý tộc. Trong những thập kỷ tiếp theo của nửa đầu thế
kỷ XIV, dưới đời vua Minh Tông, nhiều người đỗ đạt đã giành được ân huệ của vua
và thăng tiến rất nhanh. Mặc d nho sĩ đã được d ng nhiều dưới thời Minh Tông
nhưng phải đến thời Dụ Tông, Nho giáo mới thực sự chiếm địa vị cao với việc
Phạm Sư Mạnh được Dụ Tông phong chức Nhập nội Hành khiển tri khu mật viên
sự vào năm 1358. Đến năm 1370, Nghệ Tông đưa Chu Văn An vào thờ trong Văn
Miếu. Đó là những sự kiện chứng tỏ Nho giáo đã lấn át Phật giáo và biểu thị sự đề
cao của Nhà nước đối với Nho giáo.
18


Để kh ng định vị trí độc tôn của Nho giáo, giới nho sỹ đang lên được Nhà
nước khuyến khích đã công kích mạnh mẽ vào Phật giáo vì lợi ích giai cấp mà họ
phục vụ. Trong bối cảnh đó, với nhãn quan chính trị vượt trội, Hồ Quý Ly mặc d là
đại quý tộc, họ ngoại của vua Trần, d không xuất thân khoa bảng nhưng đã nhận

thức được vai trò của tư tưởng chính trị Nho giáo - bệ đỡ tinh thần của Nhà nước
quân chủ tập quyền chuyên chế. Đồng thời đây là thời điểm thuận lợi để Hồ Quý Ly
quyết tâm đẩy nhanh quá trình Nho giáo hoá Nhà nước và xã hội, cũng như đề cao
và khuyến khích Nho giáo, Nho học.
1.1.4. Khởi nghĩa nông dân và giặc ngoại xâm
1.1.4.1. Khởi nghĩa nông dân
Lúc này, trong xã hội Trần, giai cấp nông dân như: nông dân, nô tỳ, gia nô
bị bóc lột thặng dư lao động thông qua các hình thức tô thuế, địa tô và những hình
thức siêu kinh tế khác của giai cấp địa chủ và quý tộc. Hai giai cấp này có mâu
thuẫn với nhau, đó là mâu thuẫn giữa một bên bóc lột và một bên bị bóc lột. Mâu
thuẫn giữa một bên chiếm số ít lại nắm giữ hết tư liệu sản xuất và của cải xã hội và
một bên đa số người lao động không có tư liệu sản xuất bị áp bức nặng nề, bất công.
Bởi vậy, trong những năm cuối thời Trần, khắp lãnh thổ Đại Việt, hàng loạt cuộc
khởi nghĩa của nông dân và nô tỳ đã nổ ra. Đó chính là kết quả của khủng hoảng
kéo dài của kinh tế nông nghiệp. Cuộc khủng hoảng này dẫn tới các cuộc đấu tranh
giai cấp công khai, tức là các cuộc khởi nghĩa nông dân, báo hiệu sự suy thoái của
vương triều Trần.
Tháng 2 năm 1344, b ng nổ cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ quê ở Trà Hương
(Hải Dương ngày nay) [07, tr.627]. Sau 16 năm, cuộc khởi nghĩa mới bị dập tắt.
Đây là một trong những cuộc khởi nghĩa đầu tiên và kéo dài nhất thời kỳ này. Ngô
Bệ tập hợp lực lượng trên núi Yên Phụ, lấy đó làm căn cứ của cuộc khởi nghĩa. Phải
sau hơn một năm rưỡi, vào cuối năm 1345, quân triều đình mới đàn áp được. Tuy
nhiên, Ngô Bệ đã chạy thoát tiếp tục chống lại triều đình. Năm 1358, Ngô Bệ tập
hợp được lực lượng của mình và trở lại núi Yên Phụ. Ngô Bệ tự xưng tước vị, dựng
cờ trên núi. Ông ra lệnh yết bảng khắp nơi nói rõ mục đích cuộc khởi nghĩa là để
cứu giúp dân nghèo, vì thế cuộc khởi nghĩa đã lôi cuốn được nhiều người hưởng
ứng và kiểm soát được một v ng rộng lớn. Phải đến tháng 3 năm 1360, triều đình
mới đàn áp được cuộc khởi nghĩa. Ngô Bệ bị bắt và bị giết tại kinh đô.
19



×