Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

đảng cộng sản việt nam lãnh đạo xây dựng phát triển kinh tế tư nhân 1991 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 126 trang )

Đại học quốc gia Hà nội

Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn

-------------------------------------------

Phạm Thị Lương Diệu

Đảng cộng sản việt nam lãnh đạo phát triển
kinh tế tư nhân
thời kỳ 1991-2004

Luận văn thạc sỹ khoa học lịch sử

Hà Nội, 2005


Đại học quốc gia hà nội

trường đại học khoa học xã hội và nhân văn

-------------------------------------------

Phạm thị lương diệu

Đảng cộng sản việt nam lãnh đạo phát triển
kinh tế tư nhân
thời kỳ 1991-2004
Chuyên ngành: Lịch sử đảng cộng sản việt nam
Mã số: 5.03.16


Luận văn thạc sỹ khoa học lịch sử

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Ngô Đăng Tri

Hà Nội, 2005


Bảng quy ước
các chữ viết tắt trong luận văn

1

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

2

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa

3

KTTN


:

Kinh tế tư nhân

4

TBTN

:

Tư bản tư nhân

5

CTCP

:

Công ty cổ phần

6

CTTNHH

:

Công ty trách nhiệm hữu hạn

7


KTQD

:

Kinh tế quốc doanh

8

KTNQD

:

Kinh tế ngồi quốc doanh

9

USD

:

Đơ la Mỹ

10

Nxb

:

Nhà xuất bản


11

CTQG

:

Chính trị Quốc gia


Mục lục
Trang
Mở đầu

2

Chương 1: quan niệm của đảng về kinh tế tư nhân trong những năm
1976-1990 và sự lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân của đảng
giai đoạn 1991-1995

9

1.1 Sơ lược quan niệm của Đảng về kinh tế tư nhân những năm
1976-1990

9

1.2 Đảng lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân giai đoạn
1991-1995

22


Chương 2: Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân trong những năm
1996 – 2004

35

2.1 Đảng lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân giai đoạn
1996-2000
2.2 Đảng lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân trong
những năm 2001-2004
Chương 3: Nhận xét chung và một số kinh nghiệm

3.1 Nhận xét chung
3.2 Một số kinh nghiệm và kiến nghị

35
49
61
61
76

Kết luận

81

Danh mục tài liệu tham khảo

84

Phụ lục


88

1


Mở đầu
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần. Dựa trên cơ sở sự hình thành kinh tế tư nhân; căn cứ vào
quan điểm của Đảng và kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước,
trong luận văn này khái niệm “kinh tế tư nhân” được hiểu là loại hình tổ chức
kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Thành phần của kinh tế tư
nhân gồm: kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế cá
thể là hình thức kinh tế của một hộ gia đình hay một cá nhân hoạt động dựa
trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và lao động của chính hộ cá nhân
gia đình đó, khơng th mướn lao động làm thuê. Kinh tế tiểu chủ là hình
thức kinh tế do một chủ tổ chức, quản lý và điều hành, hoạt động trên cơ sở
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và có sử dụng lao động thuê mướn ngồi
lao động của chủ; quy mơ vốn đầu tư và lao động nhỏ hơn của các hình thức
doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Kinh tế tư bản tư nhân bao gồm các công ty trách nhiệm hữu hạn (do một số
tư nhân làm chủ), doanh nghiệp tư nhân (là do một tư nhân làm chủ) và công
ty cổ phần được thành lập theo Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty.
ở các nước theo kinh tế thị trường, sở hữu tư nhân được coi là một trong
những động lực chủ yếu để phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế tư nhân có
nhiều tác dụng: tạo ra động lực cho sản xuất kinh doanh; duy trì cạnh tranh
giúp nền kinh tế trở nên năng động hơn; đa dạng hoá các chủ thể tham gia thị
trường, góp phần khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn lao động
xã hội… Kinh tế tư nhân gắn với sở hữu tư nhân nên có thể truyền lại cho thế

hệ sau tài sản, kiến thức, kinh nghiệm, từ đó tạo ra động lực phát triển kinh tế
khơng ngừng.
Kinh tế tư nhân có vị trí và tác dụng như vậy, nhưng ở nước ta, có lúc do
nơn nóng, chúng ta đã vội cải tạo và muốn xố bỏ nó trong một thời gian
2


ngắn, nên kinh tế tư nhân đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Từ khi có nhận
thức mới của Đảng ta về nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ
quá độ, thì kinh tế tư nhân đã được thừa nhận, và trên thực tế, thành phần kinh
tế này đã có nhiều đóng góp to lớn cho nền kinh tế của đất nước nhất là trong
thời gian gần đây.
Tuy nhiên, để kinh tế tư nhân ngày càng phát triển mạnh dưới sự lãnh
đạo của Đảng, có nhiều vẫn đề cần tiếp tục được bổ sung, đổi mới. Nghiên
cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với thành phần kinh tế này để thấy được sự tồn
tại tất yếu của nó trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện
nay, nhằm đánh giá đúng vị trí, vai trị của kinh tế tư nhân trong cách mạng
XHCN, tìm hướng phát triển, khắc phục hạn chế, để kinh tế tư nhân tham gia
hiệu quả vào nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam đang là
yêu cầu cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Chính vì những ý nghĩa lý luận và thực tiễn nói trên, tơi chọn đề tài
nghiên cứu “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân
thời kỳ 1991 - 2004” để làm luận văn tốt nghiệp cao học, Chuyên ngành Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam, của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã trải qua một thời kỳ cải tạo theo hướng
xố bỏ, từ khi có đường lối đổi mới nó lại được phục hồi và đẩy mạnh phát
triển. Hình thức kinh doanh của kinh tế tư nhân là phong phú đa dạng, vì vậy
cũng có tình trạng tuỳ tiện, khó kiểm sốt, khó tổng hợp số liệu. Vì thế, việc

nghiên cứu kinh tế tư nhân ở nước ta rất phức tạp và khó khăn nhất là trên góc
độ lịch sử Đảng. Dù vậy, cho đến nay, vấn đề kinh tế tư nhân ở Việt Nam đã
thực sự trở thành một đề tài thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học trong
và ngoài nước.
Từ khi Đảng ta chủ trương chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều
tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các nhà nghiên cứu Việt
3


Nam đã rất chú ý đến sự phục hồi và phát triển của thành phần kinh tế tư
nhân. Cho tới nay, theo thống kê chưa đầy đủ, đã có hơn 200 đầu sách, bài
viết, các đề tài nghiên cứu, hơn 60 văn bản pháp lý và hơn 30 văn kiện của
Đảng về kinh tế tư nhân hoặc có liên quan đến thành phần kinh tế tư nhân.
Nổi bật nhất là đề tài cấp nhà nước hoàn thành năm 1993: “Phát triển và
quản lý kinh tế ngoài quốc doanh” do PGS. TS. Hoàng Kim Giao làm chủ
nhiệm. Đề tài tiến hành điều tra trên 100 doanh nghiệp tư nhân tại 16 tỉnh,
thành phố khắp cả nước. Với 70 báo cáo và tham luận, 34 chương sách và
một số ấn phẩm khác, đề tài đã phác hoạ một bức tranh phong phú về kinh tế
ngoài quốc doanh ở Việt Nam: vừa đa dạng, vừa linh hoạt, vừa tuỳ tiện với
các tên gọi khác nhau; lẫn lộn giữa cái đăng ký và cái có thật, giữa tên gọi và
thực chất..v..v… rất khó kiểm định. Một thực thể kinh tế được thừa nhận
nhưng chưa định hình, nhiều biến động, nhiều thăng trầm.
Một số cơng trình khác có tính thực tiễn cao như:
- “Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam” do PTS. Nguyễn Hữu Hải chủ biên, đã nghiên cứu vai
trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường, qua đó cho thấy
ở Việt Nam các doanh nghiệp tư nhân đa phần ở quy mô vừa và nhỏ. Từ đó
tác giả rút ra kết luận: phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là phù hợp với trình
độ quản lý của các chủ doanh nghiệp ở Việt Nam và thu hút được nguồn lao
động xã hội.

- “Về việc phát triển khu vực Kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay”
của Trần Thị Hạnh trong luận án tiến sỹ Kinh tế, năm 1994, đã nêu ra được
khái niệm về hoạt động kinh doanh tư nhân, các hình thức tổ chức hoạt động
kinh doanh tư nhân, phân tích q trình phát triển của khu vực kinh tế tư nhân
ở Việt Nam, thực trạng và hạn chế của nó.
- “Kinh tế tư nhân ở Việt Nam từ 1986 đến 1995” của Hồ Sỹ Lộc trong
Luận án Phó tiến sỹ khoa học Lịch sử, Hà Nội, 1996 đã khái quát tình hình
4


kinh tế tư nhân qua các giai đoạn: khôi phục và phát triển (1954 - 1957), giai
đoạn cải tạo kinh tế tư nhân (1958 - 1985) và kinh tế tư nhân ở Việt Nam
trong quá trình đổi mới (từ 1986 - 1995).
- “Kinh tế ngoài quốc doanh, hiện trạng, phương hướng phát triển và
giải pháp” của TS. Lê Văn Toàn đăng trên tạp chí Thơng tin Kinh tế Kế
hoạch năm 1993, đã điều tra hiện trạng và xu hướng phát triển của kinh tế
ngồi quốc doanh trong lĩnh vực cơng thương nghiệp. Từ đó, tác giả đưa ra
những quan điểm và giải pháp cho sự phát triển thành phần kinh tế này.
Ngồi ra cịn rất nhiều cơng trình, bài viết đề cập đến vấn đề này ở những
góc độ khác nhau như: Trang trại gia đình - bước phát triển mới của kinh tế
hộ nơng dân (Nguyễn Đình Điền, Nxb. Nơng nghiệp Hà Nội, 2000), Kinh tế
ngồi quốc doanh thời mở cửa 1991-1995 (Nxb. Thống kê Hà Nội, 1996),
Kinh tế cá thể trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta (Tạp chí hoạt
động khoa học, số 6/1993), Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư
nhân - lý luận và chính sách (TS. Hà Huy Thành chủ biên, Nxb. CTQG, Hà
Nội, 2002), Quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay
(Nguyễn Hữu Thắng, Luận án tiến sỹ kinh tế, Hà Nội, 1999), Đổi mới và phát
triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp (Lê Khắc Triết,
Nxb. Lao động, Hà Nội, 2005), Kinh tế tư nhân và quản lý Nhà nước đối với
kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay (Hồ Văn Vĩnh chủ biên, Nxb. CTQG, Hà

Nội, 2003)…
Các cơng trình nêu trên đã cho thấy hiện trạng sôi động của kinh tế tư
nhân ở nước ta hiện nay. ở từng góc độ, các cơng trình ấy đã cung cấp những
số liệu đáng quan tâm cho các nhà nghiên cứu, có giá trị đối với việc thực
hiện luận văn này.
Tuy nhiên vẫn chưa có cơng trình nào khảo sát một cách có hệ thống các
chủ trương, chính sách về kinh tế tư nhân của Đảng, sự lãnh đạo, chỉ đạo phát

5


triển kinh tế tư nhân của Đảng ở Việt Nam dưới góc độ khoa học lịch sử
Đảng, nhất là những năm gần đây.
Chọn và nghiên cứu đề tài này, chúng tơi hy vọng qua luận văn của mình
sẽ phần nào làm rõ thêm vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển
kinh tế tư nhân từ năm 1991 đến năm 2004 để thấy được sự lãnh đạo của
Đảng đối với thành phần kinh tế kinh tế tư nhân. Trên cơ sở đó, luận văn đi
tới những nhận định, rút ra những bài học kinh nghiệm, đề xuất một số kiến
nghị để góp phần thúc đẩy kinh tế tư nhân ở nước ta phát triển mạnh mẽ hơn
nữa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được ý tưởng nói trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Tìm hiểu và trình bày tiến trình nhận thức, các quan niệm, chủ trương,
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế tư nhân trong thời kỳ cả
nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà đặc biệt là từ năm 1991 đến năm 2004.
- Trình bày những nét cơ bản nhất quá trình vận động, phát triển của kinh
tế tư nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1991-2004, những thành tựu và
hạn chế của thành phần kinh tế này trong khoảng thời gian trên.
- Rút ra những kinh nghiệm chủ yếu về sự lãnh đạo phát triển kinh tế tư

nhân của Đảng trong thời gian qua và nêu lên một vài kiến nghị góp phần
nâng cao sự lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân của Đảng hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam về vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân; chủ trương, chính sách của Đảng về
phát triển kinh tế tư nhân; sự phát triển của kinh tế tư nhân (với 3 bộ phận
kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân) ở nước ta vận hành
trong mối liên hệ với các thành phần kinh tế khác dưới sự lãnh đạo của Đảng
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phạm vi nghiên cứu:
6


+ Về không gian: nghiên cứu sự lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân của
Đảng theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
+ Về thời gian: từ năm 1991 đến năm 2004. Chọn mốc bắt đầu nghiên
cứu là năm 1991, vì đây là năm có Đại hội Đảng lần VII với chủ trương tiếp
tục đường lối đổi mới tồn diện của Đại hội VI (trong đó có chủ trương phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần…), cũng là năm kinh tế tư nhân
bắt đầu có chuyển biến mạnh sau kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm (19861990); chọn mốc kết thúc nghiên cứu là năm 2004 bởi đến thời điểm này,
nguồn tài liệu chính phục vụ cho cơng trình đã được thống nhất về ý kiến
đánh giá, có tương đối đầy đủ về số liệu thống kê, đây cũng là năm kinh tế tư
nhân có những thành tựu to lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng, là năm cơ bản
hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001-2005) theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội IX.

5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
- Nguồn tư liệu chủ yếu để nghiên cứu đề tài này bao gồm:
+ Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin liên quan đến sở

hữu tư nhân và kinh tế tư nhân.
+ Các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta về chủ trương, đường lối, chính
sách đối với kinh tế tư nhân, nhất là trong những năm 1991-2004, đây là
nguồn tư liệu quan trọng nhất.
+ Niên giám thống kê của Tổng cục thống kê từ năm 1975 đến 2004.
+ Các công trình nghiên cứu vấn đề này trên các góc độ khác nhau
- Phương pháp thực hiện đề tài này là phương pháp lịch sử, phương pháp
lôgic và sự kết hợp giữa hai phương pháp đó. Ngồi ra cịn sử dụng các
phương pháp khác như thống kê toán học, lịch đại, đồng đại, so sánh…

6. Đóng góp của luận văn
Thực hiện đề tài này có thể có những đóng góp sau:
7


- Làm rõ quá trình phát triển về nhận thức và chỉ đạo phát triển kinh tế tư
nhân của Đảng trong những năm 1991-2004.
- Hệ thống hoá tư liệu và nêu lên một cách có hệ thống thực trạng phát
triển kinh tế tư nhân theo sự chỉ đạo của Đảng trong những năm 1991-2004.
- Đưa ra một số nhận xét khái quát, nêu lên những thành tựu, hạn chế của
kinh tế tư nhân từ 1991 đến 2004, rút ra một số kinh nghiệm và kiến nghị
nhằm góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác lãnh đạo phát triển kinh
tế tư nhân của Đảng trong thời gian tới.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn có ba
chương:
Chương 1: Quan niệm của Đảng về kinh tế tư nhân trong những năm
1976-1990 và sự lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân của Đảng giai
đoạn 1991-1995
Chương 2: Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân trong những năm

1996 -2004
Chương 3: Nhận xét chung và một số kinh nghiệm chủ yếu

8


Chương 1
Quan niệm của đảng về kinh tế tư nhân
trong những năm 1976-1990
và sự lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế
tư nhân của Đảng giai đoạn 1991-1995

1.1 Sơ lược quan niệm của Đảng về kinh tế tư nhân trong
những năm 1976–1990
1.1.1 Quan niệm của Đảng về kinh tế tư nhân và tình hình
kinh tế tư nhân ở nước ta trong 10 năm đầu cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội (1976–1985)
Sau khi hồn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam (30/4/1975) và
thống nhất Tổ quốc về mặt nhà nước (25/4/1976), Đảng ta lãnh đạo nhân dân
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn cõi Việt Nam. Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IV của Đảng (12/1976) đã nêu bật sự tất yếu và tầm quan trọng của
việc đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội: “Ngày nay, Tổ quốc ta đã hồn tồn
độc lập thì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một”, vì “Chỉ có CNXH
mới thực hiện được ước mơ lâu đời của nhân dân lao động và vĩnh viễn thoát
khỏi cảnh bị áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, để sống một cuộc đời no
cơm, ấm áo, ngày mai được đảm bảo một cuộc đời văn minh, hạnh phúc… Có
chủ nghĩa xã hội, Tổ quốc ta mới có kinh tế hiện đại, văn hố, khoa học tiến
tiến, quốc phịng vững mạnh; do đó đảm bảo cho đất nước ta vĩnh viễn độc
lập, tự do và ngày càng phát triển phồn vinh” [32, 289].
Đại hội đã vạch ra đường lối chung của cách mạng XHCN ở nước ta

trong giai đoạn mới là “Nắm vững chun chính vơ sản, phát huy quyền làm
chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng:
cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư
tưởng và văn hoá…”, và đường lối xây dựng nền kinh tế XHCN ở nước ta là
“Đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
9


nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa…”
Đường lối chung của cách mạng XHCN và đường lối xây dựng kinh tế
XHCN ở nước ta trong thời kỳ quá độ do Đại hội IV đề ra dựa trên cơ sở kinh
nghiệm của cách mạng XHCN ở miền Bắc (1954 - 1975), đồng thời xuất phát
từ đặc điểm tình hình đất nước và thế giới trong giai đoạn mới. Trong đó, đặc
điểm đất nước vừa trải qua sự tồn tại khá dài hai miền Nam Bắc với hai chế
độ chính trị, kinh tế, văn hoá và tâm lý xã hội khác nhau là đặc điểm có tính
chất rất đặc biệt ảnh hưởng đến việc hoạch định đường lối và biện pháp cách
mạng cụ thể.
Thực chất quá trình cách mạng XHCN ở nước ta là quá trình kết hợp
giữa cải tạo và xây dựng, vừa xoá bỏ cái cũ, vừa xây dựng cái mới. Trong đó,
nhiệm vụ xây dựng cái mới (lực lượng sản xuất mới, cơ sở kinh tế mới, kiến
trúc thượng tầng mới, đời sống vật chất mới và đời sống tinh thần, văn hoá
mới…) là chủ yếu.
Đảng ta chủ trương đến hết năm 1980 thì hồn thiện về cơ bản cải tạo xã
hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc. Cụ thể là, hoàn thành việc cải tạo các thành phần kinh
tế phi xã hội chủ nghĩa thành các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, tức là
đưa nền kinh tế nhiều thành phần thành nền kinh tế hai thành phần, gồm kinh
tế quốc doanh (nhà nước) và kinh tế tập thể (hợp tác xã).
Chủ trương cải tạo chủ nghĩa xã hội trên cả nước thời kỳ này là theo cách

thức như ở miền Bắc trước 1975. Miền Bắc đã cải tạo các thành phần kinh tế
phi xã hội chủ nghĩa từ năm 1958, tức là khi vừa kết thúc thời kỳ khôi phục
kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Cách thức cải tạo là dùng mệnh lệnh
hành chính, buộc tất cả các thành phần kinh tế ngồi hai hình thức trên phải đi
vào con đường làm ăn tập thể, sở hữu công hữu về tư liệu sản xuất.
Với mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung - bao cấp, kinh tế tư nhân
khơng được thừa nhận, nó là đối tượng cải tạo và xoá bỏ. Từ năm 1959, miền
Bắc đã cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh.
khu vực kinh tế tư nhân được chuyển dần sang hình thức doanh nghiệp cơng
10


tư hợp doanh và hợp tác xã. Mục tiêu đã định là xoá bỏ tận gốc chế độ sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất của thành phần kinh tế này. Các biện pháp cải tạo
XHCN như trên cũng được áp dụng đối với kinh tế tư nhân ở miền Nam sau
ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Có một thực tế là việc cải
tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp trên cả nước đã diễn ra không được
như mong muốn. ở miền Bắc, càng đưa hợp tác xã lên quy mơ lớn thì sản xuất
nơng nghiệp càng sút kém. ở miền Nam, không đưa được nhân dân vào làm
ăn tập thể theo kế hoạch, các tập đồn sản xuất nơng nghiệp cũng rời rạc, kém
hiệu quả.
Hội nghị lần thứ 6 BCHTƯ khoá IV đã họp vào tháng 8 năm 1979 đánh
giá về thực trạng đất nước và tập trung bàn về phương hướng phát triển hàng
tiêu dùng, phát triển công nghiệp địa phương, nhằm khắc phục tình trạng khan
hiếm nghiêm trọng các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu. Hội nghị này đã thông
qua Nghị quyết số 20-NQ/TƯ Về tình hình và nhiệm vụ cấp bách nêu ra các
nhiệm vụ phải thực hiện từ năm 1979 đến năm 1981… Riêng ở miền Nam,
cải tạo nông nghiệp phải đảm bảo đúng các nguyên tắc tự nguyện, cùng có
lơi, chống chủ quan, cưỡng ép; thừa nhận các thành phần kinh tế quốc doanh,
tập thể, công tư hợp doanh, cá thể, kể cả kinh tế của tư sản được kinh doanh

hợp pháp. Tiến tới cải tiến một bước cơ bản các chính sách lưu thơng phân
phối trong cả nước nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển theo hướng kết hợp lợi
ích tập thể, cá nhân và lợi ích Nhà nước. Hội nghị cịn thơng qua Nghị quyết
21-NQ/TƯ Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển hàng công nghiệp tiêu
dùng và công nghiệp địa phương tạo sự bảo đảm quyền chủ động sản xuất
kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của cơ sở, thực hiện chế độ kế hoạch
hố bao cấp và kết hợp kế hoạch hoá với sử dụng quan hệ thị trường, gợi mở
việc phát huy hết năng lực chủ động trong sản xuất và kinh doanh.
Tinh thần của hai Nghị quyết trong Hội nghị 6 BCHTƯ (khoá IV, 1979)
là nhằm tháo gỡ từng bước những ràng buộc của cơ chế quản lý kinh tế lúc
đó, mở hướng cho sản xuất “bung ra”, kích thích lực lượng sản xuất phát
triển, đáp ứng yêu cầu bức xúc của đời sống xã hội.

11


Kết quả là đến giữa năm 1979, chúng ta đã căn bản hoàn thành việc
chuyển các cơ sở tư bản tư doanh trong các ngành công nghiệp, thương
nghiệp, vận tải, xây dựng và dịch vụ quan trọng thành các xí nghiệp quốc
doanh, công tư hợp doanh, đồng thời sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở đó theo
quy hoạch từng ngành.
Tuy nhiên, các Nghị quyết của Đảng ta trong năm 1979 cũng chỉ là các
giải pháp tình thế, điều chỉnh được một số khâu quan trọng trong hoạt động
kinh tế của đất nước chưa có được một cách cụ thể những cách thức vượt ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Nên nền kinh tế quốc dân thời lúc này có
mức độ tăng trưởng rất thấp, thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể
phát triển chậm, các thành phần kinh tế ngồi quốc doanh trong đó có kinh tế
tư nhân vẫn được cải tạo theo mệnh lệnh hành chính, do đó cũng khơng đóng
góp được bao nhiêu cho thu nhập xã hội, kết quả là nền kinh tế nước ta bị mất
cân đối nghiêm trọng, cung cầu không hợp lý, lạm phát tăng, đời sống nhân

dân không được cải thiện, công bằng xã hội bị vi phạm...
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982) khẳng định tiếp
tục đường lối chung của cách mạng XHCN và đường lối xây dựng kinh tế
XHCN trong thời kỳ quá độ do Đại hội IV đề ra. Nhưng Đại hội V cũng đã có
sự bổ sung điều chỉnh trong đường lối xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ.
Từ sau Đại hội V, Đảng ta đã có những bổ sung, phát triển, cụ thể hoá cho
từng chặng đường, từng giai đoạn phù hợp với những điều kịên lịch sử cụ thể.
Tuy nhiên, khu vực kinh tế tư nhân nói riêng tiếp tục được cải tạo một cách
triệt để trong kế hoạch 5 năm 1981-1985 với chủ trương cho chặng đường
trước mắt (những năm đầu của thập kỷ 80) là: hồn thành cơng cuộc cải tạo
xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả
nước.
Việc xác định thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam trải qua nhiều
chặng đường, việc nêu nội dung của chặng đường đầu tiên, và kế hoạch “sắp
xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo XHCN nền kinh tế quốc dân” là những
chuyển biến về nhận thức lý luận của Đại hội V. Song, Đại hội vẫn chưa thấy
12


được sự cần thiết phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ
quá độ, chưa xác định được những quan điểm cụ thể về kết hợp kế hoạch với
thị trường, công tác quản lý lưu thông, phân phối vẫn một chiều do kế hoạch
Nhà nước quyết định, chưa có những chính sách, giải pháp cụ thể và đồng bộ
để giải phóng các lực lượng sản xuất trong nơng nghiệp.
Hội nghị Trung ương 3 khố V (12/1982) đã xác định phương hướng
nhiệm vụ kinh tế - xã hội và đặt mức phấn đấu cụ thể cho những năm 1983 1985. Nhưng vấn đề làm thế nào để giải phóng sức sản xuất, tận dụng tối đa
những đóng góp của các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân nhằm
thúc đẩy kinh tế - xã hội tiến lên thì Hội nghị vẫn chưa đề cập đến. Hội nghị
Trung ương 7 (12/1984) đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu là tập trung cho mặt trận

nông nghiệp, coi đó là hàng đầu, nhưng lại chưa chỉ rõ những chính sách thiết
thực để tập trung cho nơng nghiệp. Những Hội nghị tiếp theo của Trung ương
Đảng khoá V đã tập trung tìm nhiều cách để tháo gỡ cho cục diện chung về
kinh tế - xã hội những năm cuối của kế hoạch 5 năm (1981-1985) như cải
cách về giá - lương - tiền, cải cách về phân phối - lưu thơng, thực hiện cơ chế
khốn sản phẩm trong nơng nghiệp… nhưng đó cũng chỉ là những biện pháp
tình thế, có ý nghĩa và hiệu quả ở một mức độ nhất định.
Kế hoạch 5 năm (1981-1985), nhân dân ta đã đạt được những thành tựu
và tiến bộ quan trọng: trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chặn được
đà giảm sút ở những năm 1976-1980, có được hàng trăm cơng trình tương đối
lớn và hàng nghìn cơng trình vừa và nhỏ, trong đó có những cơ sở quan trọng
về điện và dầu khí, xi măng, cơ khí, dệt, đường, thuỷ lợi, giao thơng… đặt
nền móng cho cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, đại bộ phận nông dân Nam
Bộ đi vào con đường làm ăn tập thể thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ
nghĩa, đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên đã có nhiều tiến bộ trong việc xây
dựng đời sống mới..v..v..
Nhưng, đến hết năm 1985, đất nước vẫn phải đối mặt với cuộc khủng
hoảng kinh tế - xã hội: sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế
hạch 5 năm không đạt được, tài nguyên bị lãng phí, phân phối lưu thơng rối
ren, nhiều người lao động chưa có việc làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở
13


và điều kiện vệ sinh thiếu thốn. Đặc bịêt, việc cải tạo xã hội chủ nghĩa nền
kinh tế miền Nam rất chật vật và có một hậu quả kép: bản thân mơ hình kế
hoạch hố tập trung khơng đẩy sự phát triển kinh tế lên được và cơ chế thị
trường cũng bị bóp méo.
Mười năm (1975-1985) Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng lại đất nước
trong bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã giành được
những thành tựu căn bản về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Nhưng cũng

bộc lộ những hạn chế, yếu kém, thể hiện rõ nhất ở chất lượng nhiệm vụ phát
triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.
Cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo của đế quốc Mỹ kéo dài đến giữa
năm 1975 và cuộc chiến tranh vi phạm ngang nhiên chủ quyền lãnh thổ ở biên
giới phía Bắc, ở biên giới phía Tây Nam diễn ra (1975-1979) đã gây nên
những tổn thất và hậu quả nặng nề trên đất nước ta.
Đảng ta phải dồn sức cho chiến tranh, vì sự sống cịn của dân tộc. Chặng
đầu của thời kỳ cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội cũng chính là bước đi ban
đầu. Kinh nghiệm 3 năm khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh
(1956-1958) và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất (1961-1965) chưa tích luỹ được bao nhiêu.
Khơng đổ lỗi cho khách quan, nhưng xây dựng lại đất nước theo chủ
nghĩa xã hội với hai miền Nam Bắc có những đặc điểm riêng khác biệt, miền
Bắc vừa trải qua thời kỳ vừa sản xuất vừa chiến đấu, vừa huy động tối đa cho
tiền tuyến và miền Nam vừa thoát khỏi chế độ thực dân mới của Mỹ là một
mơ hình chưa có tiền lệ.
Đất nước giầu tiềm năng, nhân dân sẵn lịng theo Đảng, Đảng khơng
thiếu sự kiên trì và quan tâm, nhưng xây dựng đất nước theo chủ nghĩa xã hội
trong chặng đường mười năm đầu (1975-1985) với bối cảnh trên địi hỏi phải
có một bước đi cụ thể thật khoa học vừa phù hợp với hiện thực cuộc sống vừa
chắc chắn và sáng tạo về lý luận.
Nhìn lại diễn biến và kết quả của quá trình cách mạng trong mười năm
(1975-1985) thấy có vấn đề thuộc đường lối lãnh đạo. Đó là tư tưởng duy ý
14


chí. Tư tưởng này quy định những quan niệm và chủ trương, làm xa rời cách
nghĩ biện chứng, vừa không sát thực tiễn, vừa lơi lỏng lý luận. Biểu hiện rõ
nhất của tư tưởng duy ý chí trong những năm này là yêu cầu triệt để đối với
mục tiêu cách mạng quan hệ sản xuất và thái độ lý tưởng hóa sức mạnh của

cơ chế quản lý theo kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp. Kéo theo nó là một
loạt quan niệm không được chặt chẽ và những biện pháp, chủ trương tương
ứng cịn sai sót.
Quan niệm rằng phải xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ
nghĩa, vì nó xây dựng trên cơ sở tư hữu về tư liệu sản xuất, là mầm mống của
chế độ tư bản chủ nghĩa, chế độ người bóc lột người. Quan niệm rằng muốn
phát triển kinh tế và điều hành việc phân phối sản phẩm trong xã hội được
công bằng phải do một kế hoạch tập trung, quan liêu, bao cấp.
Hai quan niệm bao trùm đời sống chính trị lúc đó dẫn đến kết quả là làm
“đẻ non” quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, kéo tụt năng xuất lao động, thu
nhập quốc dân, và, tạo ra cho xã hội căn bệnh quen thụ động, ỷ lại, trông chờ,
thủ tiêu nhiều tiềm năng, sáng tạo và trách nhiệm cơng dân của người lao
động.
Vì duy ý chí mà trở nên phiến diện trong lý luận. Chính các nhà sáng lập
chủ nghĩa Mác đã chỉ ra rằng “kinh tế tư nhân - với tư cách là những “mảnh”
của các phương thức sản xuất trước chủ nghĩa xã hội sẽ còn chung sống với
các “mảnh” xã hội chủ nghĩa mới được khai sinh và lớn dần lên trong một xã
hội quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chừng nào mà trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất chưa cho phép “xã hội chủ nghĩa hố” tồn bộ các quan hệ sản
xuất, thì kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân cịn tồn tại và phát triển. Q trình
chuyển hố nó cũng diễn ra dần dần, thông qua việc cải tạo để cho các
“mảnh” tiền xã hội chủ nghĩa ngày càng chứa nhiều yếu tố xã hội chủ nghĩa
hơn; chứ không phải thủ tiêu nó thơng qua mệnh lệnh hành chính” [45, 174].
Trong thời kỳ quá độ tồn tại nền kinh tế quá độ, đặc trưng cơ bản nhất
của nền kinh tế quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần. Tính quy luật đó diễn
ra trong lịch sử phát triển của các nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ
15


nghĩa xã hội. V.I.Lênin còn hướng dẫn: ở các nước đi lên chủ nghĩa xã hội,

phổ biến có ba thành phần kinh tế cơ bản: kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư
bản chủ nghĩa và kinh tế sản xuất hàng hố nhỏ.
Cũng chính vì duy ý chí mà sa vào bảo thủ. Chỉ chấp nhận sở hữu toàn
dân (nhà nước) và sở hữu tập thể, nên suốt 10 năm, kinh tế tư nhân luôn là đối
tượng cải tạo. Nó khơng được xem xét ngay từ cách đặt vấn đề cũng như
trong sự tính đến mối quan hệ với lịch sử, địa lý, con người, tập quán.
Các hậu quả không lành mạnh về kinh tế, xã hội trong mười năm (19751985) do những quan niệm chưa thấu đáo dẫn đến những chủ trương, biện
pháp sai sót mang tính lịch sử. Bản thân sự tự điều chỉnh và cách mạng trong
nhận thức để có một bước đi đúng đắn hơn là một quy luật tất yếu.

1.1.2 Nhận thức mới của Đảng về kinh tế tư nhân và tình
hình kinh tế tư nhân ở nước ta trong 5 năm 1986-1990
Trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986), khu
vực kinh tế tư nhân là đối tượng cải tạo XHCN, khơng được luật pháp bảo vệ
và khuyến khích phát triển. Nhưng vì khu vực kinh tế quốc doanh và kinh tế
tập thể không đủ thoả mãn nhu cầu mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội của
đất nước, nên khu vực kinh tế tư nhân còn cần thiết cho nền kinh tế, vì vậy
vẫn âm thầm tồn tại dưới dạng kinh tế phụ gia đình (của các hộ cán bộ công
nhân viên nhà nước và các hộ xã viên hợp tác xã). Các tổ hợp tác, tổ hợp sản
xuất núp bóng doanh nghiệp nhà nước hoặc hợp tác xã (thực chất là những
loại hình kinh tế tư nhân khác nhau) để hoạt động vì lợi ích dân sinh. Tuy
mức độ và phạm vi hoạt động còn hạn chế nhưng các hình thức kinh tế tư
nhân cũng đã thực sự góp phần tăng thu nhập, cải thiện đáng kể đời sống cho
một bộ phận lớn cán bộ, công nhân viên, xã viên các hợp tác xã, giảm bớt
căng thẳng cho nền kinh tế thời bấy giờ.

16


Một vấn đề đặt ra là cần xem xét lại vị trí, thực chất và mối quan hệ của

các thành phần kinh tế này để có những quyết sách phù hợp hơn trong nhiệm
vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI (1986) đã ghi vào văn
kiện:“Trong nhận thức cũng như trong hoạt động, chúng ta chưa thật sự thừa
nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời
gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất”, do
đó“đã có những biểu hiện nơn nóng muốn xố bỏ ngay các thành phần phi xã
hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư nhân thành quốc doanh” [19, 23].
Có thể nói, tư tưởng đổi mới đã manh nha từ Hội nghị TƯ lần thứ 6
(khoá IV, 1979), khi Đảng ta thấy được những trở ngại, khó khăn, lực cản của
cơ chế cũ đối với sự tăng trưởng kinh tế và tới việc nâng cao mức sống của
nhân dân. Nhưng lúc đó, chủ yếu mới là đổi mới trong sự kiểm điểm, trong
những mong muốn, những bước thử nghiệm vạch lối tìm đường.
Đến Đại hội VI của Đảng, việc phát triển kinh tế tư nhân mới chính thức
được chấp nhận, và được khuyến khích đầu tư phát triển thơng qua các chính
sách được ban hành tiếp theo. Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời nhìn nhận,
đánh giá lại và chấp nhận sự phát triển của kinh tế tư nhân như một tất yếu
khách quan, kịp với xu thế chung của khu vực và thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam, bằng trí tuệ và quyết tâm của Đại hội VI đã
quyết định đổi mới nền kinh tế của đất nước. Công cuộc đổi mới này nhằm
đưa nền kinh tế thốt khỏi tình trạng suy thoái, bế tắc và khủng hoảng. Thực
chất của sự đổi mới kinh tế là chuyển kinh tế từ mô hình kế hoạch hố tập
trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nội dung của
công cuộc đổi mới kinh tế là thừa nhận một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần,
khôi phục và cho phép các thành phần kinh tế phát triển. Đại hội đã chỉ ra sai
lầm trong việc xoá bỏ thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và các thành phần
17



kinh tế tư nhân khác. Quan điểm và chính sách nhiều thành phần kinh tế là
một nội dung trọng tâm của đổi mới kinh tế. Đảng ta chấp nhận quy luật tăng
thêm giá trị, vận dụng nó trong một nền kinh tế thị trường, là một tiến trình
kinh tế mà trong đó có sự xuất hiện sống động của kinh tế tư nhân.
Đại hội lần thứ VI của Đảng là mốc son lịch sử đánh dấu nước ta bước
vào thời kỳ đổi mới, trong đó đổi mới đường lối phát triển kinh tế được coi là
nhiệm vụ quan trọng nhất. Đảng ta đã “xuất phát từ thực tế nước ta và sự vận
dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần là một đặc
trưng của thời kỳ quá độ” [19, 56] để nhìn nhận, đánh giá vai trị, vị trí của
thành phần kinh tế tư nhân, nghiên cứu khái quát những chủ trương cải tạo và
sử dụng thành phần kinh tế này nhằm phát huy tiềm năng sức mạnh to lớn của
nó trong nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng ta.
Đây là sự đổi mới từ quan niệm, đổi mới tư duy. Bước đổi mới tư duy
chiến lược này đã làm thay đổi hẳn diện mạo của nền kinh tế của đất nước, cải
thiện rất nhanh đời sống của nhân dân. Từ sự đột phá từ tư tưởng của Đại hội
VI, Đảng ta có những bước đi vững chắc về đường lối, nhận thức, gắn lý luận
với thực tiễn, xây dựng lý luận từ chính cơ sở lý luận kinh điển của chủ nghĩa
Mác – Lênin, có xem xét, so sánh, chọn lọc những giá trị thiết thực của lý
luận trước đó.
Tại Đại hội VI, Đảng ta đã chỉ rõ:“Muốn đưa nền kinh tế sớm thốt khỏi
tình trạng rối ren, mất cân đối, phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc
dân theo cơ cấu hợp lý, trong đó các ngành, các vùng, các thành phần kinh
tế, các loại hình sản xuất có quy mơ và trình độ khác nhau phải được bố trí
cân đối, liên kết với nhau, phù hợp với điều kiện thực tế, đảm bảo cho nền
kinh tế phát triển ổn định” [44, 989]. Đồng thời coi “cải tạo xã hội chủ nghĩa
là nhiệm vụ thường xuyên liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù

18



hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, ln có tác dụng thúc
đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất” [44, 58].
Cơ cấu kinh tế là tổng thể những mối quan hệ chủ yếu cả về chất và
lượng giữa các bộ phận hợp thành, bao gồm cả kinh tế kỹ thuật và kinh tế xã
hội. Những bộ phận đó phải nhất thiết gắn bó hữu cơ với nhau, tác động phụ
thuộc lẫn nhau, làm điều kiện trực tiếp cho nhau trong sản xuất và gián tiếp
trong lưu thông.
Kinh tế tư nhân theo Đại hội VI xác định gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng
hoá (tiểu thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh
dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tự cung tự cấp trong một số bộ
phận đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây nguyên và các vùng núi khác. Đó là
một bộ phận hợp thành trong một chỉnh thể cơ cấu kinh tế trong cả nước.
Đảng và Nhà nước đã thừa nhận một cách khoa học về vai trị và vị trí
của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc dân, xoá bỏ những thành kiến phân
biệt đối xử, gây khó khăn cho những người sản xuất kinh doanh trong khu
vực này. Để phát huy tiềm năng của kinh tế tư nhân, Đảng đã sửa đổi bổ sung,
cơng bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với từng thành phần kinh tế. Những
quy định có tính chất ngun tắc đã cụ thể hoá thành luật để mọi người yên
tâm, bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh.
Nghị quyết 29 của HĐBT (3-1988) ban hành chính sách đối với kinh tế
gia đình trong hoạt động sản xuất và dịch vụ.
Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (4-1988) quyết định đổi mới quản lý
kinh tế nông nghiệp. Đảng ta đã kiểm điểm sâu sắc sự lãnh đạo đối với nông
nghiệp, chỉ rõ tư tưởng chủ quan nóng vội trong cải tạo, gị ép nơng dân vào
hợp tác xã, vào tập đoàn sản xuất, tập thể hoá tư liệu sản xuất một cách triệt
để trong khi chưa đủ điều kiện là những hạn chế rất căn bản làm cho nông
nghiệp chậm phát triển trong khi đất nước ta rất có tiềm năng về tài nguyên
đất và sức lao động trong nông nghiệp. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khố
19



VI) vạch rõ: “Tiếp tục hồn thiện cơ chế khốn sản phẩm cuối cùng đến nhóm
hộ và hộ xã viên. Trong trồng trọt, về cơ bản khoán đến hộ và nhóm hộ xã
viên, bảo đảm cho người nhận khốn ổn định canh tác trong khoảng 15 năm.
Khuyến khích phát triển kinh tế gia đình trong cơng nhân, viên chức, xã viên
HTX nông nghiệp sản xuất trồng trọt chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, làm tiểu
thủ công nghiệp, dịch vụ để cung ứng thêm nhiều sản phẩm hàng hoá cho xã
hội và tăng thêm thu nhập cho gia đình. Hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ”.
Tiếp theo đó, ngày 15/7/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 16-NQ/TƯ
về đổi mới chính sách và cơ chế đối với các cơ sở sản xuất thuộc thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh. Nghị quyết xác định cụ thể một hệ thống chính
sách bao gồm các quy hoạch, kế hoạch, chính sách vật tư và trang bị kỹ thuật,
chính sách lao động và chính sách tài khố, kế tốn và tín dụng áp dụng riêng
cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, và cho phép các cơ sở kinh tế tư nhân
quy mô nhỏ được hoạt động trong các ngành sản xuất cơng nghiệp, xây dựng,
vận tải, dịch vụ, làm hình thành “cái cốt” của môi trường kinh doanh theo cơ
chế thị trường.
Ngày 29/3/1989, Hội nghị TƯ 6 (khoá VI) đã nêu rõ quan điểm: “Các
hình thức kinh tế tư nhân, cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân vẫn cần thiết
lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu của nền kinh tế hàng hoá đi lên
chủ nghĩa xã hội”.
Ngày 10/11/1998 của Bộ Chính trị lại có nghị quyết khuyến khích “kinh
tế hộ gia đình ở nơng thơn..., khuyến khích phát triển mơ hình trang trại nơng
nghiệp, phổ biến là các trang trại gia đình, thực chất là kinh tế hộ sản xuất
hàng hố với quy mơ lớn hơn...”
Năm 1990, Quốc hội ban hành Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân,
Luật Thuế doanh thu… tạo hành lang pháp lý cho kinh tế tư nhân hoạt động.
Luật Công ty đã đẩy mạnh việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn
vốn, lao động và tài nguyên của đất nước, tạo thêm việc làm, bảo vệ hợp pháp

20


tài sản và quyền lợi của người góp vốn đầu tư, đẩy mạnh tốc độ về phát triển
kinh tế. Luật Công ty được coi là bước đột phá quan trọng vào thành trì của
cơ chế quan liêu bao cấp - cơ chế “xin, cho” trước đây.
Tóm lại sự đổi mới trong tư duy kinh tế từ sau Đại hội VI (12-1986) của
Đảng là sự đổi mới về chất. Đổi mới từ cách đặt vấn đề. Vẫn trung thành với
với các nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác – Lênin, vẫn trung thành với lý
tưởng xã hội chủ nghĩa của Hồ Chí Minh, nhưng Đảng phải sáng tạo trong
bước đi của mình, khơng trệch quỹ đạo, cũng khơng máy móc, giáo điều bản
vị, chú tâm vào hiệu quả, đẩy nhanh chất lượng của nền kinh tế và sự tiến bộ
xã hội, phù hợp với quy luật lịch sử, với bối cảnh quốc tế và trong nước.
Tinh thần đổi mới đường lối xây dựng đất nước trong Đại hội VI được
thể chế hố trong các chính sách của Đảng đã tạo ra cơ sở cho việc chuyển
nền kinh tế kế hoạch hố tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước.
Từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường,
các thành phần kinh tế tư nhân sau nhiều năm bị ràng buộc, nay được tự do
trong sản xuất kinh doanh, đã trở thành người bạn đồng hành trong nền kinh
tế hàng hố nhiều thành phần. Nó mau chóng được tổ chức dưới hình thức
doanh nghiệp tư nhân, cơng ty tư nhân và hộ cá thể. Số liệu của Tổng cục
Thống kê cho thấy từ năm 1986 đến năm 1990, tỷ trọng KTTN so với kinh tế
quốc doanh (KTQD) trong tổng sản phẩm xã hội tăng lên rõ rệt: KTQD là
34,95%, kinh tế ngoài quốc doanh (KTNQD) là 65,1%, đến năm 1988, KTQD
là 30%, KTNQD là 69,5% và tới năm 1990: KTQD là 36,3%, KTNQD là
63,7%. Số lao động thuộc thành phần KTNQD cũng tăng đều đặn: năm 1986
chiếm 85,3%, năm 1989 lên 85,8%, năm 1990 lên 88%. Ngân sách thu được
từ khu vực KTTN cũng đáng chú ý năm 1987: 17,7%, năm 1988: 21,4%, năm
1990: 22%.


21


Các số liệu trên chứng tỏ Nghị quyết của Đảng đã đi vào cuộc sống.
Năm năm đầu đổi mới (1986-1990), nền kinh tế nước ta đã dần dần ổn định,
khu vực kinh tế tư nhân đã tham gia thị trường, cạnh tranh lành mạnh với
kinh tế quốc dân, kinh tế tập thể, và bản thân nó cũng đang tự khẳng định.
Dễ nhận thấy nhất là thương nghiệp tư nhân sau 30 năm kìm hãm, nay
được phép cùng hoạt động bình đẳng và tự tin trong cuộc chạy đua với
thương nghiệp quốc doanh. Thương nghiệp quốc doanh vừa là đối thủ cạnh
trạnh vừa là bạn đồng hành cùng góp phần ổn định và làm lành mạnh hoá thị
trường xã hội.
Khởi sắc nhất là sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (4/1988) về đổi mới
công tác quản lý nông nghiệp, các hợp tác xã và tập đồn sản xuất nơng
nghiệp chuyển sang làm chức năng dịch vụ cho kinh tế hộ, ruộng đất được
giao lâu dài cho nông dân, hộ trở thành đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn. Khi
hộ xã viên được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ thì trong lịng các hợp tác
xã và tập đồn sản xuất nơng nghiệp ở các địa phương đã xuất hiện nhiều mơ
hình tổ chức sản xuất theo kiểu trang trại gia đình, gắn với các tổ hợp kinh tế
hợp tác giản đơn theo phạm vi gia tộc, dịng họ hoặc bà con làng xóm có cùng
mục đích. Kinh tế cá thể, tiểu chủ ngày càng chiếm ưu thế về tư liệu sản xuất
nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Bộ mặt nông thôn càng đổi mới, niềm tin
đối với Đảng càng vững bền.

1.2 Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân trong 5
năm 1991-1995
1.2.1 Chủ trương phát triển kinh tế tư nhân của Đại hội VII
của Đảng (6/1991)
Trong 5 năm đầu đổi mới (1986-1990), Nghị quyết Đại hội VI và các

Nghị quyết Trung ương sau đó được thực thi, thể hiện sức mạnh trí tuệ của
Đảng và khả năng cách mạng của quần chúng. Nhưng nền kinh tế nước ta vẫn
chưa thốt ra khỏi tình trạng khủng hoảng.
22


×