LỜI CẢM ƠN
Trước tiên em xin phép được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến Thạc
sĩ Nguyễn Văn Dũng, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em tận tình, chu
đáo để em hồn thành khóa luận tốt nghiệp.
Em xin cảm ơn các thầy, các cô của Khoa Lịch sử Trường Đại học sư
phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu đề tài.
Sự thành công của em ngày hơm nay cịn phải kể đến sự cổ vũ, động
viên và tạo mọi điều kiện của gia đình, người thân và bạn bè.
Do sự hạn chế về thời gian, nên khóa luận tốt nghiệp khơng tránh khỏi
những thiếu sót. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo
và các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 02 tháng 5 năm 2013
Tác giả khóa luận
Đại Thị Hồng
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng em với sự
hướng dẫn của Thạc sĩ Nguyễn Văn Dũng. Các số liệu, dữ liệu, kết quả trong
khóa luận là hồn tồn trung thực. Các nguồn tài liệu trích dẫn có nguồn gốc
và xuất xứ rõ ràng. Em xin cam đoan những điều trên là đúng sự thật.
Hà Nội, ngày 02 tháng 5 năm 2013
Tác giả khóa luận
Đại Thị Hồng
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
.............................................................................................. 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAI CẤP
CÔNG NHÂN VIỆT NAM................................................ 7
1.1.
Quan điểm chung của Đảng Cộng sản Việt Nam về giai
cấp công nhân..................................................................... 7
1.2.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân..... 12
Chương 2. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO XÂY
DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG NHỮNG
NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2011.............................................. 17
2.1.
Quan điểm của Đảng về xây dựng giai cấp công nhân
trước năm 1986................................................................... 17
2.1.1. Nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân của Đảng Cộng
sản Việt Nam........................................................................ 17
2.1.2. Phương thức lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân của
Đảng..................................................................................... 23
2.1.3. Thực trạng giai cấp công nhân khi bước vào thời kỳ đổi
mới....................................................................................... 24
2.2.
Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
giai cấp công nhân từ năm 1986 đến năm 2011............... 27
2.2.1. Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng giai
cấp công nhân từ năm 1986 đến năm 1991..........................
2.2.2. Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng giai
cấp công nhân từ năm 1991 đến năm 2001.......................... 42
2.2.3. Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng giai
cấp công nhân từ năm 2001 đến năm 2011.......................... 58
Chương 3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG NHỮNG NĂM
1986 ĐẾN NĂM 2011......................................................... 71
3.1.
Nhận thức và xác định đúng vai trò của giai cấp cơng
nhân trong q trình đổi mới...........................................
3.2.
71
Nâng cao năng lực lãnh đạo xây dựng giai cấp công
nhân của tổ chức cơ sở Đảng ở các doanh nghiệp........... 74
3.3.
Kịp thời hoạch định, bổ sung và thực hiện có hiệu quả
luật pháp, chính sách đối với cơng nhân.......................... 80
3.4.
Lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân thông qua hoạt
động của tổ chức Cơng đồn............................................. 89
KẾT LUẬN............................................................................................... 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................ 101
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chăm lo xây dựng giai cấp công nhân là vấn đề luôn luôn được Đảng
Cộng sản Việt Nam quan tâm, coi trọng, nhất là trong điều kiện tình hình thế
giới và trong nước có những diễn biến phức tạp.
Trong thời gian qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đất nước
tiến hành công cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung và sự nghiệp
xây dựng giai cấp cơng nhân nói riêng đạt được những thành tựu bước đầu và
có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng giai cấp công nhân
trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng còn những hạn chế nhất
định cần khắc phục. Yêu cầu cấp bách đặt ra hiện nay địi hỏi phải có sự tổng
kết thực tiễn lịch sử về sự lãnh đạo của Đảng, rút ra những kinh nghiệm góp
phần xây dựng và phát huy vai trị của giai cấp cơng nhân vững mạnh trong
những thập kỷ tới, đáp ứng những đòi hỏi của tình hình mới.
Trong những thập kỷ qua, do ứng dụng được những tiến bộ của khoa
học - công nghệ, chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục duy trì được sự phát triển về
kinh tế. Trong khi đó các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu lại
không giành được thắng lợi trong công cuộc cải tổ, cải cách nên bị sụp đổ. Vì
thế, một số thế lực chống đối và bọn phản động quốc tế tìm mọi cách phủ
nhận lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhất là những luận điểm về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp cơng nhân và vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tình
hình đó địi hỏi cần có sự nghiên cứu về giai cấp công nhân nhằm xây dựng
và phát huy vai trị của giai cấp cơng nhân, đưa công nhân trở thành một giai
cấp vững mạnh, tạo cơ sở xã hội vững chắc cho sự phát triển của Đảng Cộng
sản, nhất là ở các nước Đảng Cộng sản nắm chính quyền. Mặt khác, từ khi
1
tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đến nay, giai cấp cơng nhân Việt
Nam có nhiều chuyển biến về cơ cấu, cơng nhân khu vực quốc doanh giảm,
có sự phân tầng trong đội ngũ giai cấp công nhân. Một bộ phận cơng nhân có
cổ phần trong doanh nghiệp, người có cổ phần ít, người có cổ phần nhiều.
Một bộ phận công nhân chuyển từ doanh nghiệp quốc doanh sang làm việc
trong doanh nghiệp tư nhân. Một bộ phận công nhân phải ra khỏi dây truyền
sản xuất công nghiệp khi đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Sự
phát triển của nền kinh tế thị trường và đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước vừa tác động mạnh mẽ vừa đặt ra yêu cầu cao đối với giai cấp
cơng nhân, địi hỏi giai cấp cơng nhân cần tăng cường về số lượng và chất
lượng. Đồng thời, phát huy vai trị của giai cấp cơng nhân trước tình hình
mới. Điều đó đặt ra cho Đảng nhiệm vụ quan trọng là lãnh đạo xây dựng và
phát huy vai trị của giai cấp cơng nhân, tổng kết những kinh nghiệm từ thực
tiễn xây dựng giai cấp công nhân trong q trình thực hiện cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn đó, tơi chọn đề tài “Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân trong những năm 1986
đến năm 2011” làm đề tài tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về giai cấp công nhân, về phong trào cơng nhân, Cơng đồn
và sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đã được khơng ít các nhà khoa học dành nhiều tâm huyết nghiên cứu.
PGS.TS Nguyễn Phú Trọng trong cuốn Tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng
đối với Cơng đồn, xuất bản năm 2001, đã nêu những biện pháp, cách thức và
nội dung mà Đảng yêu cầu tổ chức Cơng đồn thực hiện nhằm xây dựng giai
cấp cơng nhân trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, phân tích mối
2
quan hệ giữa giai cấp công nhân với Đảng và tổ chức Cơng đồn. Từ đó rút ra
những biện pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với giai cấp cơng nhân và
tổ chức Cơng đồn.
Đề tài khoa học cấp Nhà nước: Những luận cứ khoa học về đổi mới
chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân và thợ thủ công Việt Nam được
nhiều nhà khoa học tham gia nghiên cứu như: Xuân Cang, Thanh Tuyền, Đan
Tâm, GS Văn Tạo, GS Đỗ Nguyên Phương, PGS Cao Văn Lượng, TS Bùi
Đình Bơn… Đề tài đã làm rõ các cơ sở khoa học trong đó có phản ánh thực
trạng giai cấp công nhân Việt Nam vào thời điểm năm 1993 và thực trạng
chính sách xã hội đối với giai cấp cơng nhân từ năm 1954 đến 1992. Đề tài có
đề ra 6 giải pháp Cơng đồn về xây dựng giai cấp cơng nhân.
TS Bùi Đình Bơn trong cuốn Một số vấn đề về giai cấp công nhân Việt
Nam hiện nay, xuất bản năm 1997, đã đề cập đến vị trí, vai trị của giai cấp
cơng nhân. Tác giả khẳng định giai cấp công nhân đang đứng ở trung tâm của
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp cơng nhân có đủ
khả năng, điều kiện để đảm nhận và hoàn thành thắng lợi sứ mệnh lịch sử của
mình trong sự nghiệp đó. Về thực trạng giai cấp công nhân, tác giả đã khái
quát thành 6 đặc điểm và nêu 6 hạn chế yếu kém cần khắc phục nhằm xây
dựng giai cấp công nhân vững mạnh.
Cuốn Xu hướng biến động giai cấp công nhân Việt Nam trong những
năm đầu thế kỷ XXI, xuất bản năm 2001 đã đăng tải nhiều cơng trình nghiên
cứu của các nhà khoa học về giai cấp công nhân Việt Nam.
Trong cuốn Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển của giai
cấp công nhân, do PGS Cao Văn Lượng làm chủ biên, xuất bản năm 2001,
các tác giả đã khẳng định giai cấp công nhân vẫn là lực lượng tiên tiến nhất
trong xã hội tuy cịn ít về số lượng so với dân số và đang có sự phân tầng,
3
phân hóa giàu nghèo. Cũng trong cuốn sách này, các tác giả đã nêu các giải
pháp xây dựng giai cấp cơng nhân, củng cố và tăng cường vị trí giai cấp công
nhân trong xã hội.
GS.TS Trịnh Nhu nghiên cứu về phong trào cơng nhân và Cơng đồn,
tham gia biên soạn bộ sách Lịch sử phong trào công nhân và Công đoàn Việt
Nam, xuất bản năm 2003. Trong tập III của bộ sách, viết về phong trào cơng
nhân và Cơng đồn Việt Nam thời kỳ 1976 – 2000, các tác giả đã tái hiện bức
tranh chân thực về giai cấp công nhân và hoạt động của Tổ chức Cơng đồn
trong hơn hai thập niên cuối thế kỷ XX với nhiều tư liệu phong phú và nhận
định khoa học.
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc từ cách tiếp cận nghiên cứu về vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước cũng
đã đề cập đến vị trí, vai trị của giai cấp cơng nhân. Tác giả khẳng định rằng
trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội
miền Bắc trước đây, trên cả nước từ sau năm 30 - 4 -1975, giai cấp công nhân
Việt Nam trở thành giai cấp làm chủ đất nước và xã hội, phát triển mạnh mẽ
cả về cơ cấu và số lượng, cả về trình độ văn hóa chun mơn và ý thức, bản
lĩnh chính trị.
Nhìn chung, các nhà khoa học từ những cơng trình nghiên cứu cá nhân
và tập thể đã nghiên cứu về giai cấp cơng nhân Việt Nam dưới nhiều góc độ
khác nhau nhưng chưa có ai hoặc đề tài nghiên cứu chuyên sâu về Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng và phát huy vai trị của giai cấp cơng nhân
Việt Nam trong q trình đổi mới. Tuy vậy, các cơng trình khoa học nêu trên là cơ
sở để cho tôi tham khảo và kế thừa về các mặt: sự kiện lịch sử, nguồn tư liệu…
4
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là làm rõ về sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây
dựng giai cấp công nhân trong những năm từ 1986 đến năm 2011.Từ đó rút ra
những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng giai cấp công nhân.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của đề tài là nghiên cứu sự lãnh đạo xây dựng giai cấp công
nhân của Ban Chấp hành Trung ương và của các cấp bộ Đảng, ngành thuộc
địa phương trong những năm từ 1986 đến năm 2011.
Nghiên cứu việc cụ thể hóa chủ trương xây dựng giai cấp cơng nhân
của Đảng, qua các chính sách của Nhà nước đối với công nhân, lao động và
hoạt động của tổ chức Cơng đồn Việt Nam.
Đánh giá chuyển biến của giai cấp công nhân trên cơ sở nghiên cứu
thực trạng giai cấp công nhân những năm từ 1986 – 2011.
Rút ra những kinh nghiệm bước đầu về Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công
nhân trong 25 năm 1986 – 2011.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đường lối, chủ trương của Đảng và sự chỉ đạo thực hiện chủ
trương xây dựng giai cấp công nhân của Đảng từ năm 1986 đến năm 2011.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu được sử dụng trong khóa luận là các văn kiện Đại hội
Đảng, các Nghị quyết, báo cáo chính trị của Đảng về xây dựng giai cấp công
nhân, các sách báo tuyên truyền về đường lối của Đảng… Ngồi ra có sử
dụng các cơng trình nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngồi nước liên
quan đến vấn đề Đảng lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn
hiện nay.
5
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học lịch sử, chủ yếu
sử dụng kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra cịn sử
dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, tổng kết thực tiễn, thống kê, so sánh
và một số phương pháp khác.
5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận đem đến cho người đọc cái nhìn tồn diện về sự phát triển
của giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm từ 1986 đến năm 2011.
Đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong công tác xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam thông qua việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng.
Từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho sự phát triển của
giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn sau. Đồng thời, góp phần vào sự
nghiệp xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
6. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận gồm có ba chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về giai cấp công nhân Việt Nam
Chương 2: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng giai cấp công
nhân trong những năm 1986 đến năm 2011
Chương 3: Một số kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng giai cấp công nhân
trong những năm 1986 đến năm 2011
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
1.1. QUAN ĐIỂM CHUNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ
GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Vào nửa đầu thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập đến
khái niệm giai cấp công nhân hiện đại. Các thuật ngữ: “giai cấp công nhân”,
“giai cấp công nhân hiện đại”, “giai cấp vô sản”, “giai cấp những người lao
động làm thuê trong thế kỷ XIX”, “giai cấp vô sản công nghiệp”, “giai cấp vô
sản hiện đại”, được C.Mác, Ph.Ăngghen sử dụng như những từ đồng nghĩa.
Hai ông cho rằng công nhân là người làm thuê cho nhà tư bản, họ phải
bán sức lao động để sống. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chia công nhân thành
nhiều hạng, theo ngành nghề, theo trình độ: cơng nhân nơng nghiệp, cơng
nhân cơng nghiệp, cơng nhân khai khống, cơng nhân thủ công, công nhân
công trường thủ công, công nhân đại công nghiệp. Theo Mác – Ăngghen, giai
cấp vô sản là do cuộc cách mạng cơng nghiệp sinh ra và có những đặc trưng
cơ bản là: ra đời gắn với nền đại cơng nghiệp; giai cấp vơ sản khơng có tư liệu
sản xuất phải đi làm thuê và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư; giai cấp vơ
sản được nền đại cơng nghiệp rèn luyện nên có tinh thần cách mạng cao; giai
cấp vô sản đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến. Dù với tên gọi khác
nhau, khi thì nhấn mạnh đến tính chất lao động, khi thì nhấn mạnh đến sở hữu
tư liệu sản xuất, nhưng giai cấp công nhân hay giai cấp vô sản đều gồm những
người lao động vận hành công cụ sản xuất có tính chất cơng nghiệp ngày càng
hiện đại, họ khơng có tư liệu sản xuất nên phải làm thuê cho nhà tư bản, bị
nhà tư bản bóc lột sức lao động nên có mâu thuẫn ngày càng sâu sắc với giai
7
cấp tư sản. Muốn giải phóng mình khỏi bóc lột, bất công, giai cấp công nhân
phải đấu tranh chống lại chế độ tư bản, tiến tới xây dựng chế độ xã hội mới do
chính giai cấp cơng nhân là chủ thể.Trong tác phẩm Tình cảnh giai cấp cơng
nhân Anh, Ph.Ăngghen đã phân tích giai cấp cơng nhân là hệ quả của cuộc
cách mạng công nghiệp. Đại công nghiệp đã làm nảy sinh ra giai cấp công
nhân, công nhân công nghiệp là hạt nhân của phong trào công nhân. Trong tác
phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph.Ănghen đã định nghĩa
giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ sống dựa vào việc bán sức
lao động của mình, chứ khơng phải sống dựa vào lợi nhuận của bất cứ số tư
bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, tồn bộ
sự sống cịn của họ đều phụ thuộc vào yêu cầu về lao động, tức là vào tình
hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, và những sự biến động
của cuộc cạnh tranh khơng gì ngăn cản nổi. Giai cấp vô sản hay giai cấp của
những người vô sản là giai cấp lao động trong thế kỷ XIX.
Đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã phát triển lý luận về giai cấp công nhân
của Mác – Ăngghen trong điều kiện cách mạng tháng Mười Nga thành công,
giai cấp cơng nhân Nga đã giành được chính quyền và trở thành người làm
chủ. Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, Lênin đã nêu về định nghĩa giai cấp
như sau: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người
khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất nhất định trong lịch
sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp
luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ
trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng
thụ và về phần của xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những
tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đồn
khác, do chỗ các tập đồn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã
hội nhất định” [23, tr.17-18].
8
Như vậy, vấn đề có tính bản chất nhất của giai cấp là những tập đoàn
người khác nhau về địa vị trong một hệ thống sản xuất nhất định. Còn về khái
niệm “công nhân”, Lênin khẳng định: Công nhân là những người lao động
làm việc trong nền đại công nghiệp.
Trong điều kiện khoa học kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, nhiều khâu của quá trình sản xuất được tự động hóa, cơng nghệ cao được
ứng dụng ở nhiều nước, kinh tế tri thức phát triển, một bộ phận cơng nhân
được trí thức hóa, đội ngũ đơng đảo các nhà nghiên cứu, chế tạo máy móc,
trang thiết bị công nghiệp, đội ngũ những người làm dịch vụ công nghiệp xuất
hiện. Trước tình hình ấy, có nhiều quan điểm khác nhau về giai cấp cơng
nhân. Có thể chia thành ba loại:
Loại quan điểm thứ nhất cho rằng: khái niệm giai cấp cơng nhân mang
tính lịch sử, những ngun lý, định nghĩa của Mác, Ph.Ăngghen, Lênin về
giai cấp công nhân đến nay khơng cịn nữa.
Loại quan điểm thứ hai khẳng định các quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về giai cấp công nhân vẫn đúng cho điều kiện hiện nay, cần lấy các
quan điểm đó làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu giai cấp công nhân.
Loại quan điểm thứ ba cho rằng: cần kế thừa và phát triển định nghĩa
của Mác, Ph.Ăngghen, Lênin về giai cấp công nhân cho phù hợp với điều
kiện mới.
Giai cấp công nhân Việt Nam là một bộ phận của giai cấp công nhân
thế giới nên khái niệm giai cấp công nhân hiện đại ở Việt Nam cũng có điểm
giống khái niệm giai cấp công nhân hiện đại nêu trên. Tuy nhiên, vấn đề quan
trọng là cần tìm ra những điểm riêng khi định nghĩa về giai cấp cơng nhân
Việt Nam.
Qúa trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam đã hình thành nền kinh tế nhiều
thành phần và đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, điều đó đã làm thay
9
đổi cơ cấu giai cấp công nhân.Vậy giai cấp công nhân hiện nay như thế nào?
Thành phần của nó ra sao? Một số ý kiến cho rằng, giai cấp công nhân Việt
Nam bao gồm người lao động trong các xí nghiệp quốc doanh, các liên doanh,
hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, doanh nghiệp tư nhân. Một số ý kiến khác
quan niệm giai cấp công nhân Việt Nam chỉ bao gồm những người lao động
trong các doanh nghiệp quốc doanh, trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất
của cải vật chất.
Theo kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và theo quan điểm
của Đảng, giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay là một tập đoàn những
người lao động có thu nhập chủ yếu bằng lao động làm công ăn lương, sống
và làm việc gắn với sản xuất, kinh doanh, dịch vụ công nghiệp. Do lao động
trong nền công nghiệp hiện đại và đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến
trong xã hội nên giai cấp công nhân Việt Nam có vai trị đi tiên phong trong
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế thị trường, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đưa ra khái niệm về giai cấp công nhân Việt Nam là để có cơ sở xem xét
thực trạng giai cấp cơng nhân, nghiên cứu các chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước đối với giai cấp công nhân, đề xuất những biện pháp nâng cao
hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng giai cấp công nhân.
Ở Việt Nam, giai cấp công nhân ra đời trong quá trình khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Dưới chế độ thực
dân, phong kiến, công nhân phải làm thuê trong các nhà máy, xí nghiệp, hầm
mỏ để sinh sống. Từ khi cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân thành công, địa
vị của giai cấp công nhân thay đổi, Đảng của giai cấp cơng nhân nắm chính
quyền, giai cấp cơng nhân trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội
thông qua Nhà nước. Trong điều kiện ấy, lao động của cơng nhân khơng chỉ
để sống mà cịn để xây dựng đất nước.
10
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng nêu rõ vai trị của giai
cấp cơng nhân là “giai cấp tiên phong, giai cấp lãnh đạo sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội” [5, tr.152]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
(12/1986) đã khẳng định vị trí quan trọng của giai cấp cơng nhân: “Đối với
giai cấp cơng nhân, Đảng cần có những biện pháp cụ thể nhằm nâng cao giác
ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ hiểu biết mọi mặt để xứng đáng với vị trí
giai cấp tiên phong của cách mạng, đồng thời chăm lo đời sống vật chất và
văn hóa, tạo ra những điều kiện cần thiết để giai cấp cơng nhân hồn thành sứ
mệnh lịch sử của mình” [7, tr.115].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) nhấn mạnh
vấn đề liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nơng dân và trí thức. Báo cáo
chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại đại hội nêu rõ:
“Giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức nước ta vốn
gắn bó khăng khít. Đó là vì cùng chung một cảnh ngộ mất nước trước đây, vì
đa số trí thức là con em cơng nông, được đào tạo dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa, có nhiều trí thức xuất thân từ các giai cấp khác, nhưng trong quá trình
cách mạng tự nguyện đứng về lập trường cơng nhân; trí thức nước ta có lịng
u nước nồng nàn và nhiệt thành cống hiến cho sự nghiệp dân giàu nước
mạnh. Sự nghiệp xã hội chủ nghĩa địi hỏi mở rộng nền tảng của khối liên
minh cơng nông thành liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và
tầng lớp trí thức”.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã khẳng định vị trí quan
trọng của giai cấp công nhân Việt Nam trong xã hội từ đó xác định vai trị, sứ
mệnh của giai cấp công nhân.
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CƠNG NHÂN
Lịch sử xã hội lồi người, kể từ khi có giai cấp và đấu tranh giai cấp, đã
chứng minh rằng: ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất định, đều có các giai cấp trung
11
tâm đóng vai trị quyết định tiến trình phát triển của lịch sử. Một trong những
công lao to lớn của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học là phát hiện ra
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng: Sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân không phải là do ý muốn chủ quan của giai cấp công nhân, của
Đảng Cộng sản, cũng không phải là do ý muốn chủ quan của các ông hay bất
cứ một cá nhân nào muốn là có được, mà sứ mệnh lịch sử ấy trước hết là do
những điều kiện khách quan, chủ yếu là do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp
công nhân quy định. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và nhiều tác
phẩm khác, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã luận chứng rằng:
Do địa vị kinh tế - xã hội khách quan, giai cấp công nhân là giai cấp
gắn với lực lượng sản xuất tiên tiến nhất dưới chủ nghĩa tư bản và với tính
cách như vậy, nó là nhân tố quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Sau khi giành chính quyền, giai cấp cơng nhân với tư cách là đại biểu
cho phương thức sản xuất mới trở thành lực lượng duy nhất có khả năng lãnh
đạo xã hội, xây dựng cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mới trong sự
kết hợp thống nhất biện chứng của chúng. Đây cũng là một trong những đặc
trưng cơ bản quy định tính triệt để cách mạng của giai cấp cơng nhân, xuất
phát từ vị trí cơ bản của nó trong lực lượng sản xuất.
Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến cho giai cấp công
nhân trở thành giai cấp cách mạng triệt để nhất, mà cịn tạo cho họ khả năng
làm việc đó. Trong giai cấp cơng nhân, tính tiên tiến, triệt để cách mạng, tính
tổ chức kỷ luật, tinh thần đồn kết, dân tộc và yêu nước, tinh thần quốc tế vô
sản trong sáng là những phẩm chất nổi bật.
Như vậy, có thể khẳng định: Giai cấp công nhân là giai cấp mà vị trí,
vai trị của nó ngày càng tăng khơng phải do ý muốn chủ quan, mà bắt nguồn
từ vai trị khách quan của đại cơng nghiệp, của lực lượng sản xuất do nó đại
12
biểu. Đại công nghiệp là cơ sở vật chất mà thơng qua đó, giai cấp cơng nhân
tác động vào tiến trình phát triển xã hội như một lực lượng chủ đạo.Tuy
nhiên, địa vị kinh tế - xã hội khách quan không đem lại cho giai cấp công
nhân ý thức về vai trị và sứ mệnh lịch sử của nó một cách tự phát. Giai cấp
công nhân chỉ nhận thức được vị trí, vai trị của nó trong xã hội khi được chủ
nghĩa xã hội khoa học soi sáng. Do đó, để phát huy được những điều kiện
khách quan thuận lợi giai cấp cơng nhân phải tiến tới trình độ tự giác và nó
chỉ đạt đến trình độ tự giác khi tiếp thu lý luận khoa học cách mạng của mình.
Chính C.Mác và Ph.Ăngghen và sau này là Lênin là những nhà khoa học và
cách mạng thiên tài đã tìm ra và cung cấp lý luận khoa học ấy cho giai cấp
công nhân, biến giai cấp công nhân từ giai cấp “tự nó” thành giai cấp “vì nó”
mà cái mốc đánh dấu là sự ra đời của Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản là sản
phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân. Giai cấp công nhân chỉ thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử
của mình một khi có chính Đảng. Thơng qua chính Đảng của mình, giai cấp
cơng nhân đề ra cương lĩnh cách mạng, đường lối chiến lược, sách lược,
phương pháp và hình thức cách mạng đúng đắn, từ đó lơi cuốn, tập hợp được
đơng đảo quần chúng nhân dân lao động (nịng cốt là liên minh cơng nhân nơng dân - trí thức) đi theo mình làm cách mạng.
C.Mác, Ph.Ăngghen và Lênin là những người đã phát hiện ra chân lý về
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đã đấu tranh không mệt mỏi để đưa
chân lý ấy vào thực tiễn ở châu Âu từ giữa thế kỷ XIX đến những năm đầu
thế kỷ XX. Ở Việt Nam, người đầu tiên tiếp thu và đưa chân lý ấy vào thực
tiễn cách mạng, không ai khác là Hồ Chí Minh.
Với lịng u nước nồng nàn được bắt nguồn từ truyền thống của dân
tộc, lại trực tiếp chứng kiến cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân lầm than, khổ
cực. Hồ Chí Minh sớm nung nấu ý chí cứu nước, cứu dân. Trước những phong
13
trào yêu nước sôi động của dân tộc trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX, Người rất khâm phục tinh thần yêu nước, tinh thần bất khuất của các
văn thân, sĩ phu yêu nước nổi tiếng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,
Hoàng Hoa Thám… Và mặc dù chưa hiểu hết, chưa tự giải thích ngay được,
nhưng Người vẫn cảm nhận rằng con đường cứu nước, cứu dân của các vị tiền
bối sẽ không thể đem lại cho dân, cho nước độc lập tự do thật sự. Thất bại từ
các cuộc vận động cứu nước của các sĩ phu theo cách thức phong kiến và các
cuộc vận động cách mạng theo xu hướng tư sản đương thời, càng thơi thúc
Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, dù lúc đó, Người chưa hình dung
ngay được con đường cứu nước, cứu dân ấy như thế nào. Trải qua những năm
tháng đầy gian khổ, bôn ba qua nhiều châu lục, làm nhiều việc khác nhau để
sống và hoạt động cách mạng, Người đã dần tích lũy được một vốn tri thức sâu
rộng nhiều mặt về cuộc đấu tranh của các dân tộc bị nô dịch và của giai cấp
công nhân Âu, Mỹ. Những hoạt động thực tế trong phong trào công nhân Pháp,
trong Đảng Xã hội Pháp và sự tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp tại Đại
hội Tua (12/1920) đã làm cho Người ngày càng trưởng thành về giác ngộ chính
trị và tạo cơ sở để Người đến được với chủ nghĩa Mác – Lênin.
Tiếp nhận ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga và Luận cương
của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã tạo ra bước ngoặt trong cuộc
hành trình tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh. Người đã hiểu được vị trí xã hội
và vai trị lịch sử của giai cấp công nhân. Tại Đại hội lần thứ nhất Quốc tế
nơng dân (13/10/1923), trong tham luận của mình, Hồ Chí Minh đã khẳng
định: Trong thời đại hiện nay, giai cấp cơng nhân là giai cấp độc nhất và duy
nhất có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng, bằng
cách liên minh với giai cấp nông dân. Sự kiện này chứng tỏ rằng: Trên quan
điểm, lập trường của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai
trị của giai cấp cơng nhân trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng
xã hội chủ nghĩa được xác lập.
14
Khơng dừng lại ở nhận thức cho mình, bằng sự cố gắng nỗ lực phi
thường của bản thân, Hồ Chí Minh cùng với những người cách mạng Việt
Nam yêu nước đã bắt tay vào việc tổ chức, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin
vào Việt Nam, tạo ra cho cách mạng Việt Nam một luồng sinh khí cách mạng
mới theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Phong trào yêu nước, phong trào
cơng nhân trong nước đã có những bước chuyển biến rõ rệt. “Từ năm 1924
trở đi, phong trào cách mạng ở Việt Nam ngày càng lên cao, công nhân ta đã
có nhiều cuộc đấu tranh liên tiếp, từ đấu tranh kinh tế lên đấu tranh chính trị”.
Sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào yêu nước, phong trào công
nhân đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930
(3/2/1930). Đây là cái mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển của giai cấp
công nhân Việt Nam từ tự phát lên tự giác.
Qua các văn kiện của Đảng từ năm 1930, các tác phẩm của Hồ Chí
Minh và kinh nghiệm thực tế của cách mạng nước ta đã chứng minh rằng: giai
cấp cơng nhân Việt Nam có vai trị to lớn, quyết định đến tiến trình phát triển
của cách mạng Việt Nam. Giai cấp cơng nhân Việt Nam, thơng qua Đảng của
mình, có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành thắng lợi và chỉ có
giai cấp cơng nhân Việt Nam mới có đủ tư cách lãnh đạo cách mạng nước ta
đến toàn thắng.
15
Tiểu kết chương 1
Giai cấp công nhân là một giai cấp ra đời và phát triển cùng với những
điều kiện lịch sử đã sinh ra nó: đó là nền sản xuất cơng nghiệp, đó là sự phân
chia giai cấp trong xã hội. Và cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, cùng với
sự phát triển của xã hội trong điều kiện lịch sử mới, giai cấp công nhân luôn
phát triển và được bổ sung thêm những phẩm chất và đặc trưng mới. Đó cũng
là một lẽ tất nhiên. Lịch sử đã và đang trải qua những biến động sâu sắc,
những thay đổi lớn lao, nhưng giai cấp công nhân vẫn là lực lượng xã hội cơ
bản, chủ yếu, đóng vai trò quyết định sự phát triển của lịch sử.
Là một bộ phận của giai cấp công nhân hiện đại, do đó, ngồi những
đặc trưng bản chất của giai cấp cơng nhân hiện đại, giai cấp cơng nhân Việt
Nam cịn có những nét đặc thù do điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở Việt
Nam quy định. Chính vì vậy, xét trong tương quan lực lượng xã hội, giai cấp
công nhân Việt Nam là giai cấp tiên tiến nhất, giác ngộ nhất, cách mạng nhất.
Kết hợp chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công
nhân, giai cấp cơng nhân Việt Nam đã mau chóng trưởng thành, vươn lên
nắm quyền độc tôn lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Cách mạng Việt Nam từ
khi có Đảng lãnh đạo đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; giành độc lập
dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đưa nước ta phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
16
Chương 2
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG NHỮNG NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2011
2.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG
NHÂN TRƯỚC NĂM 1986
2.1.1. Nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam
- Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam xứng đáng là giai cấp lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, lực lượng đi đầu trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi thành lập, đã xác định một trong
những nhiệm vụ của Đảng là làm cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp
lãnh đạo. Trong “Sách lược vắn tắt” do Hồ Chí Minh soạn thảo, được thơng
qua tại Hội nghị thành lập Đảng, năm 1930, ghi rõ: “Đảng là đội tiên phong
của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải
làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng” [4, tr.4].
Tháng 2 năm 1951, trong Báo cáo “Bàn về cách mạng Việt Nam” tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đồng chí Trường Chinh đã
khẳng định: Giai cấp công nhân Việt Nam chưa được thuần túy vơ sản lắm
nhưng chỉ có giai cấp cơng nhân Việt Nam mới đủ sức lãnh đạo cách mạng
Việt Nam đến thành công.
Năm 1960, khi tổng kết, đánh giá hoạt động của Đảng về vai trị của
giai cấp cơng nhân Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Việc thành lập
Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt
Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo
cách mạng. Chỉ có giai cấp cơng nhân là dũng cảm nhất, ln ln gan góc
đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiền phong và
kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân đã tỏ ra là
người lãnh đạo xứng đáng nhất và tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam.
17
Vai trị lãnh đạo cách mạng của giai cấp cơng nhân Việt Nam được
quyết định trước hết do giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến, cách mạng
nhất trong xă hội. Giai cấp công nhân Việt Nam sau khi đã cùng các lực
lượng dân tộc thực hiện thắng lợi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiếp
tục đảm nhận trọng trách lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm xây
dựng một xã hội văn minh tiến bộ, dân giàu, nước mạnh, công bằng và dân
chủ. Tuy nhiên, vốn sinh trưởng trong ở một nước thuộc địa nửa phong kiến,
cơng nghiệp cịn chậm phát triển, đa số cơng nhân xuất thân từ nông dân nên
công nhân Việt Nam còn bị ảnh hưởng nhiều của tư tưởng tư hữu, sản xuất
nhỏ, tác phong lao động chậm chạp, khả năng chấp hành quy trình quy phạm
trong sản xuất cịn hạn chế. Vì vậy, xây dựng giai cấp cơng nhân đáp ứng
được đòi hỏi của thực tiễn cách mạng Việt Nam luôn được Đảng đề ra.
Năm 1974, khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng sau chiến tranh
phá hoại của đế quốc Mỹ, đồng chí Lê Duẩn đã viết: “Phải có đầy đủ ý thức
rằng giai cấp cơng nhân đã là giai cấp nắm chính quyền, giai cấp lãnh đạo
Nhà nước là giai cấp đi tiên phong trong sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới” [2, tr.543].
Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng thơng qua chính đảng
của giai cấp mình, bằng tinh thần triệt để cách mạng, tính tiên phong và hành
động gương mẫu. Cho nên, xây dựng giai cấp cơng nhân địi hỏi phải xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh. Xây dựng Đảng của giai cấp cơng nhân có bản
lĩnh chính trị vững vàng, tầm nhìn sâu rộng, tổ chức, kỷ luật chặt chẽ, nghiêm
minh, có năng lực lãnh đạo, có khả năng đề ra và chỉ đạo thực hiện đường lối,
chính sách đúng đắn, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tranh thủ thời cơ, đẩy
mạnh phát triển kinh tế, đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
Cán bộ, đảng viên của Đảng phải vừa giác ngộ sâu sắc về tư tưởng, vừa
có kiến thức và năng lực chuyên môn cao, gương mẫu, sáng tạo, cần kiệm
18
trong lao động sản xuất và trong sinh hoạt, biết tổ chức và vận động nhân dân
thực hiện tốt đường lối chính sách của Đảng.
Đảng thường xun làm tốt cơng tác phát triển đảng, đặc biệt chú trọng
phát triển Đảng trong công nhân, Đảng đặc biệt chú trọng tăng cường bản
chất giai cấp công nhân của Đảng, trung thành và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hồn cảnh cụ thể, đề ra
được các chính sách, đường lối đáp ứng nhu cầu thực tiễn.
Để làm cho Đảng trong sạch, Đảng cần loại bỏ những phần tử thối
hóa, tham ơ biến chất, tham nhũng, Đảng kết nạp những quần chúng ưu tú,
chọn lọc từ những phong trào quần chúng vào tổ chức Đảng.
- Nâng cao ý thức giác ngộ giai cấp và khả năng quản lý xã hội của
giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân chỉ trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng và hoàn
thành sứ mệnh lãnh đạo cách mạng khi mỗi thành viên ngày càng giác ngộ
sâu sắc về tư tưởng cách mạng, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình và được
tổ chức chặt chẽ.
Theo Hồ Chí Minh, cần xây dựng một đội ngũ cơng nhân có giác ngộ
cao, có lịng u nước và u chủ nghĩa xã hội nồng nàn, có tinh thần làm chủ
tập thể, thực sự có trình độ văn hóa và khoa học, kỹ thuật. Người căn dặn:
Nhiệm vụ của cán bộ Cơng đồn là làm cho cơng nhân hiểu mình làm chủ xí
nghiệp, chủ nước nhà, hiểu lao động là vẻ vang, phải giữ gìn của cơng, chống
tham ơ, lãng phí, bảo vệ kỷ luật lao động, phải thi đua làm tốt, nhiều, mau, rẻ.
Cải thiện sinh hoạt phải dựa trên cơ sở tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm.
Tháng 12 năm 1976, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
đã nêu rõ quan điểm của Đảng về xây dựng giai cấp cơng nhân. Đó là: “Chăm
lo xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh về số lượng
và chất lượng, xứng đáng với vai trò là giai cấp tiên phong, giai cấp lãnh đạo
19
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải hoàn thiện và thực hiện đầy đủ
những quy chế nhà nước, đảm bảo cho cơng nhân tham gia tích cực và có hiệu
quả vào việc quản lý xí nghiệp, quản lý kinh tế, quản lý xã hội” [5, tr.152].
Tháng 3 năm 1982, Đại hội Đảng lần thứ V khẳng định: “Giai cấp công
nhân nước ta lớn mạnh hơn nhiều. Đội ngũ công nhân tăng thêm 24%, công
nhân kỹ thuật đạt tới 1,7 triệu người. Trình độ chính trị, văn hóa và nghề
nghiệp của cơng nhân được nâng cao một bước.Trước khó khăn lớn về sản
xuất và đời sống, giai cấp công nhân ta vẫn tỏ rõ bản chất cách mạng, giữ vững và
phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội” [6, tr.119].
Để tăng cường khả năng quản lý, tổ chức sản xuất và nâng cao chất
lượng giai cấp công nhân, Đảng chú trọng đào tạo công nhân lành nghề. Nghị
quyết Đại hội nêu rõ: “Sắp xếp lại các trường lớp dạy nghề của các Bộ, các
địa phương và các cơ sở, cải tiến công tác tuyển sinh, nâng cao chất lượng và
hiệu quả đào tạo. Xác định quy mô đào tạo công nhân hợp với yêu cầu phát
triển sản xuất, rất chú trọng việc đào tạo cơng nhân kỹ thuật có tay nghề cao”
[14, tr.69].
-Phát huy vai trị của tổ chức cơng đồn nhằm thực hiện tốt đường lối
vận động công nhân của Đảng
Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, xuất bản năm 1927, Hồ Chí Minh
đã viết về mục đích của cơng hội ở Việt Nam: “Trước là để cho công nhân đi
lại với nhau cho có cảm tình; hai là để nghiên cứu với nhau; ba là để sửa sang
cách sinh hoạt cho công nhân cho khá hơn bây giờ; bốn là để giữ gìn quyền
lợi cho cơng nhân; năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới” [26, tr.302].
Tại Hội nghị Trung ương tháng 10 năm 1930, Đảng đã nêu rõ: “Việc tổ
chức công hội cho vững bền và công tác cách mạng trong công hội để lãnh
đạo thợ thuyền tranh đấu là cơng việc cốt yếu và cần kíp của Đảng”[4, tr.132].
Bởi vì, cơng hội là một tổ chức tất cả thợ thuyền trong sản xuất công nghiệp.
20
Nếu cơng hội khơng tổ chức rộng rãi thì đấu tranh khơng được thắng
lợi”[4,tr136].
Đảng khẳng định rằng, Cơng đồn là tổ chức rộng lớn của giai cấp cơng
nhân. Cơng đồn khơng chỉ tập hợp đồn kết cơng nhân mà cịn giáo dục, giác
ngộ cơng nhân. Cơng đồn giúp cho người công nhân, viên chức và lao động
biết tham gia quản lý sản xuất, quản lý xí nghiệp, quản lý các công việc xã hội.
Ngày 18 tháng 7 năm 1969, trong buổi làm việc với các đồng chí lãnh
đạo Tổng Cơng đồn Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Cơng
đồn cần tập trung vào việc phát huy mạnh mẽ vai trị làm chủ tập thể của
cơng nhân viên chức trong việc tham gia quản lý xí nghiệp, quản lý kinh tế,
quản lý Nhà nước để thực hiện ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản
xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng văn hóa.
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng giai cấp cơng nhân, Đảng ln tơn
trọng tính độc lập về tổ chức của Cơng đồn, lãnh đạo xây dựng giai cấp cơng
nhân thơng qua hoạt động của Cơng đồn.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Cơng đồn đã tập hợp, vận động, giáo dục,
tổ chức cơng nhân tham gia tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
- Liên minh giai cấp cơng nhân, nơng dân và đội ngũ trí thức làm nịng
cốt cho khối đại đồn kết tồn dân tộc
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định tính tất yếu của liên minh công –
nông và các tầng lớp lao động khác, coi đó là vấn đề chiến lược, vấn đề sinh
tử của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng cơ bản ấy đã được vận dụng vào
Việt Nam, trở thành chủ trương, đường lối và nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam. Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã chủ trương: “liên lạc với
các giai cấp”, “thu phục cho được đại bộ phận dân cày”, và “hết sức liên lạc
với tiểu tư sản trí thức”[4, tr.4]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định:
21