Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

đảng bộ tỉnh bạc liêu lãnh đạo đoàn thanh niên tu nam 1997 den nam 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (959.14 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

ĐINH XUÂN LÝ

Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu lãnh đạo công tác
đoàn thanh niên từ năm 1997 đến năm 2005

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI, 2007


Mục lục
Mở đầu................................................................................................................. 1
Ch-ơng 1. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bạc Liêu và yêu
cầu đặt ra với công tác đoàn thanh niên từ năm 1997 đến năm 2005 ... 5
1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Bạc Liêu........... 5
1.1.1. Điều kiện tự nhiên ...................................................................................... 5
1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội ........................................................................... 7
1.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bạc Liêu và yêu cầu đặt ra ............ 9
1.2.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bạc Liêu ....................................... 11
1.2.2. Yêu cầu đặt ra đối với thanh niên và công tác đoàn thanh niên tỉnh Bạc
Liêu ............................................................................................................ 17
Ch-ơng 2. Công tác đoàn thanh niên d-ới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Bạc Liêu từ năm 1997 đến năm 2005 ..................................................... 27
2.1. Quan điểm, chủ tr-ơng của Đảng về thanh niên và công tác đoàn thanh niên
trong thời kỳ đổi mới...................................................................................
.................................................................................................................... 27
2.2. Trung -ơng Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đối với công tác Đoàn
thanh niên............................................................... ........................... 32


2.3. Chủ tr-ơng và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu đối với công tác Đoàn
thanh niên... ............... 39
2.4. Quá trình tổ chức thực hiện của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
tỉnh Bạc Liêu về công tác đoàn thanh niên ........ 52
Ch-ơng 3. Kết quả, hạn chế và kinh nghiệm................................................. 59
3.1. Những kết quả ..................... ....59
3.2. Những hạn chế 69
3.3. Một số kinh nghiệm 72
Kết luận... . 83
Danh mục tài liệu tham khảo ......... 87
Phụ lục... ............................... 91


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi
lãnh đạo công tác đoàn thanh niên là một nhiệm vụ trọng tâm. Hội nghị lần thứ
4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (14/1/1993) đã chỉ rõ: “Sự nghiệp
đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng
đáng trong cộng đồng thế giới hay không, phần lớn tùy thuộc vào lực lượng
thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên; công tác đoàn
thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng” [18, tr.82].
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước
những thời cơ và thách thức mới, yêu cầu đặt ra với Đảng ta là phải tăng cường
hơn nữa việc chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo thế hệ trẻ về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp; giải quyết việc làm,
phát triển tài năng và sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích của Đoàn thanh
niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời gian qua, Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu đặc biệt quan tâm lãnh đạo,

xây dựng tổ chức thanh niên, động viên tuổi trẻ hăng hái vươn lên, vượt qua
những khó khăn thử thách, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Đoàn,
xung kích thực hiện thắng lợi các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, an
ninh quốc phòng của Tỉnh. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu
lần thứ XI (11/1997) nêu rõ: “Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là đội dự
bị tin cậy của Đảng, là lực lượng nòng cốt trong các phong trào của thanh niên.
Do đó, cấp uỷ Đảng các cấp cần tăng cường lãnh đạo đối với Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh và công tác đoàn thanh niên theo tinh thần Nghị quyết
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 4 (khoá VII)” [50, tr.58-59].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu, công tác Đoàn và phong
trào thanh niên ngày càng khẳng định vị thế và uy tín tổ chức Đoàn trong xã
hội, hình thành được một lực lượng trẻ luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, tích cực hưởng ứng công cuộc đổi mới, góp phần quan trọng vào việc
thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế, xã hội của tỉnh nhà.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích vẫn còn những hạn chế như: đội
ngũ cán bộ Đoàn một số nơi còn thiếu và yếu về năng lực nghiệp vụ công tác
đoàn thanh niên, phương pháp làm việc đôi lúc còn mang tính hình thức; công
1


tác tập hợp thanh niên vùng tôn giáo, dân tộc còn hạn chế, tỷ lệ đoàn viên còn
thấp so với tổng số thanh niên; một số cơ sở Đoàn thanh niên phong trào chưa
phát triển rộng.
Với mục đích làm rõ vai trò của Đảng bộ Bạc Liêu trong lãnh đạo công
tác đoàn thanh niên, đồng thời qua đó rút ra những kinh nghiệm nhằm góp phần
giáo dục truyền thống, phát huy vai trò xung kích sáng tạo của thế hệ trẻ Bạc
Liêu trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tôi chọn đề tài
“Đảng bộ tỉnh Bạc liêu lãnh đạo công tác Đoàn Thanh niên từ năm 1997 đến
năm 2005” làm Luận văn Thạc sĩ khoa học lịch sử.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Liên quan đến đề tài luận văn đã có những công trình được công bố như
sau:
- Tuổi trẻ Minh Hải những chặng đường vẻ vang, Tỉnh Đoàn Minh Hải,
Nxb. Cà Mau, năm 1991. Nội dung chủ yếu viết về lịch sử cuộc đấu tranh anh
dũng của tuổi trẻ ở vùng đất cuối cùng của Tổ quốc, đã lập nên nhiều chiến
công góp phần làm rạng rỡ thêm truyền thống anh hùng của quê hương Minh
Hải. Đây là tập tư liệu lịch sử, chủ yếu ghi lại những sự kiện lớn của phong trào
dẫn đến sự ra đời của tổ chức Đoàn. Từ đó, nêu lên một số nét khái quát về đặc
điểm, tính chất của phong trào đấu tranh cách mạng của tuổi trẻ Minh Hải trong
thời kỳ chống Pháp.
- Lịch sử Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phong trào tuổi trẻ
Bạc Liêu (giai đoạn 1925 - 2000), Ban Thường Vụ Tỉnh Đoàn Bạc Liêu, 2004.
Đây là một công trình khoa học, được biên soạn công phu, nhằm ghi lại những
cống hiến to lớn của tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và phong
trào tuổi trẻ Bạc Liêu trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Ngoài ra, còn có một số bài đăng trên báo Bạc Liêu, báo Tuổi trẻ, báo
Nhân dân đã đề cập đến công tác đoàn thanh niên Bạc Liêu trong thời kỳ đổi
mới. Cụ thể như: Phát triển Đảng trong thanh niên Vĩnh Lợi của Trần Trọng
Dần, đăng trên báo Nhân Dân ngày 28/8/1999; Thanh niên giúp nhau lập nghiệp
của Trần Doãn Cầm, đăng trên báo Nhân Dân ngày 13/9/1999; Từ các chương
trình tuổi trẻ Bạc Liêu, của Trần Doãn Cầm đăng trên báo Nhân Dân ngày
12/6/2000; Phát huy truyền thống cách mạng, tuổi trẻ Bạc Liêu tiếp tục đẩy
mạnh phong trào tình nguyện, của Bùi Chí Hiếu, báo Bạc Liêu (2002); Tuổi trẻ
2


Bạc Liêu xứng đáng là lực lượng tiên phong, của Lê Ái Nam, Chuyên mục Bạc
Liêu thế và lực trong thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
Các công trình và bài viết kể trên đề cập đến công tác đoàn thanh niên

Bạc Liêu ở những khía cạnh và mức độ khác nhau. Nhưng nhìn chung chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và chuyên sâu về sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu đối với công tác Đoàn thanh niên ở tỉnh Bạc Liêu trong
giai đoạn 1997 - 2005.
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
* Mục đích
Làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu đối với công tác đoàn
thanh niên trong giai đoạn (1997 - 2005).
Từ thực tiễn rút ra những kinh nghiệm về lãnh đạo công tác đoàn thanh
niên ở Bạc Liêu, có ý nghĩa tham khảo cho Đảng bộ Tỉnh trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ
Trình bày rõ những yêu cầu đối với công tác thanh niên ở tỉnh Bạc Liêu
giai đoạn 1997 - 2005.
Phân tích chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ Bạc Liêu đối với công
tác đoàn thanh niên từ năm 1997 đến năm 2005.
Làm rõ những hoạt động của phong trào Đoàn thanh niên Bạc Liêu dưới
sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh.
Rút ra một số kinh nghiệm về lãnh đạo công tác tổ chức và phong trào
Đoàn thanh niên ở Bạc Liêu.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu về thanh niên giai đoạn
1997 - 2005;
Sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu đối với công tác đoàn thanh niên.
Những hoạt động chủ yếu về công tác tổ chức và phong trào thanh niên
Bạc Liêu giai đoạn 1997 - 2005.
* Phạm vi nghiên cứu
Những nội dung nghiên cứu trên đây được giới hạn trong phạm vi tỉnh
Bạc Liêu. Tuy nhiên, để làm rõ thực tiễn công tác tổ chúc và phong trào thanh


3


niên ở Bạc Liêu giai đoạn này, tác giả luận văn có đề cập tình hình công tác
đoàn thanh niên ở một vài tỉnh lân cận.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp lịch sử và logic.
Ngoài ra còn kết hợp các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê,
so sánh, điều tra, xã hội học.
6. Đóng góp của đề tài
Luận văn cung cấp có hệ thống các tư liệu về sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Bạc Liêu đối với công tác đoàn thanh niên giai đoạn 1997 - 2005.
Góp phần cung cấp luận cứ cho việc tổng kết công tác đoàn thanh niên ở
tỉnh Bạc Liêu.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu cho việc biên soạn lịch sử truyền
thống của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Bạc Liêu.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm: 3 chương, 9 tiết.

4


Chƣơng 1
SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
Ở TỈNH BẠC LIÊU VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA VỚI CÔNG TÁC ĐOÀN
THANH NIÊN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005
1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Bạc Liêu
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Tỉnh Bạc Liêu được thành lập vào năm 1882 với 2 quận Vĩnh Lợi và Cà

Mau. Đến năm 1904, Bạc Liêu có 4 quận với tổng diện tích 7.050km².
Sau nhiều lần phân chia lại các đơn vị hành chính, đến ngày 1/1/1964 tỉnh
Bạc Liêu được tái lập bằng sắc lệnh số 245/NV, ngày 08/9/1964 (gồm 4 quận cũ
chia thành 5 tổng, 17 xã).
Sau ngày 30/04/1975, tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau sáp nhập thành tỉnh Minh
Hải. Ngày 1/1/1997, tỉnh Bạc Liêu được tái lập, trên cơ sở nguyện vọng, lợi ích
chính đáng của nhân dân và yêu cầu phát triển của tỉnh, dựa vào địa giới hành
chính đã được phân định trước đây.
Tỉnh Bạc Liêu ngày nay có tổng diện tích là 2.541,9km²; tỉnh có 7 đơn vị
hành chính (6 huyện, 1 thị xã) gồm các huyện: Vĩnh Lợi, Phước Long, Hồng
Dân, Giá Rai, Hoà Bình, Đông Hải và thị xã Bạc Liêu. Trong toàn tỉnh có 61 xã,
phường, thị trấn (7 phường, 6 thị trấn), với tổng số 498 ấp và 40 khóm.
Bạc Liêu là một tỉnh ven biển thuộc bán đảo Cà Mau, với bờ biển dài 56
km và có 15.000 km² lãnh hải. Bạc Liêu nằm ở toạ độ địa lý từ 9º02´00" đến
9º38´10" độ vĩ bắc, từ 105º14´15" đến 105º51´54" độ kinh đông. Ranh giới của
tỉnh Bạc Liêu: phía Bắc giáp tỉnh Hậu Giang, phía Bắc và Đông giáp tỉnh Sóc
Trăng, phía Tây Tây Nam giáp tỉnh Cà Mau, phía Tây giáp tỉnh Kiên Giang,
phía Đông giáp biển Đông.
Bạc Liêu là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long với địa hình bằng
phẳng và thấp. Trong đó đất sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản, lâm
nghiệp là 216.180ha, chiếm 84,86% tổng diện tích.
Bạc Liêu chịu tác động của khí hậu nhiệt đới gió mùa, cận xích đạo với
hai mùa rõ rệt trong năm. Mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 11) mùa khô với gió
Đông Bắc. Ở Bạc Liêu gần như không có bão, không ngập lụt như một số tỉnh
khác trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

5


Bạc Liêu có hệ thống kênh, rạch chằng chịt nối với nhau chiếm 2,93%

diện tích và chịu tác động của thuỷ triều biển Đông với độ lệch triều trung bình
2,9m. Đất phù sa mới do biển bồi đắp và thường xuyên chịu tác động của thuỷ
triều biển Đông và vịnh Thái Lan tạo nên hệ động thực vật thích nghi với sự
nhiễm phèn, mặn của thổ nhưỡng. Nguồn sinh vật đa dạng, phong phú gồm các
hệ động thực vật biển Đông ven bờ, hệ động vật nội địa chịu phèn, mặn, nuớc
ngọt đặc biệt là nguồn lợi cá đồng, các hệ sinh thái ngập nước của Bạc Liêu còn
là nơi cư trú sinh sản của các loài chim nước di cư.
Tóm lại, các điều kiện tự nhiên của Bạc Liêu tạo điều kiện thuận lợi cho
phát triển một nền kinh tế nông nghiệp với ngành trồng lúa, nuôi trồng thuỷ sản
xuất khẩu có giá trị và các ngành công nghiệp phục vụ cho công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp. Tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
và nông thôn với các ngành mũi nhọn là thuỷ sản và lương thực là hướng phát
triển bền vững của Bạc Liêu.
- Về dân số, đến cuối năm 2005, toàn tỉnh có 160.314 hộ với tổng số dân
là 811.195 người (nữ 416.645, nam 394.550, dân tộc thiểu số là 84.794 người,
chiếm 10,46%). Thanh niên Bạc Liêu (từ 15 - 35 tuổi) là lực lượng chiếm hơn
42,2% dân số và chiếm gần 56 % lực lượng lao động xã hội.
Xét về quy mô dân số thì Bạc Liêu là một Tỉnh có mật độ dân số vào loại
trung bình so với các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Nhìn chung
quy mô dân số như hiện nay, Bạc Liêu vẫn còn nhiều tiềm năng và sự ưu đãi
của tự nhiên với bình quân diện tích đất tự nhiên/người còn khá cao
(3.282m²/người). Mặt khác trong cơ cấu dân thành thị và nông thôn cũng cho
thấy, Bạc Liêu có dân số tập trung đông ở các vùng nông thôn, với số lượng
năm 2002 là 580.575 người (chiếm 75,46% dân số toàn tỉnh).
Nguồn lao động của tỉnh Bạc Liêu tương đối đồi dào, theo thống kê năm
2005, có 528.493 người, chiếm tỷ lệ 65,15% tổng dân số của tỉnh, trong đó lực
lượng lao động trẻ chiếm 56%. Nguồn lao động hàng năm tăng trung bình
12.000 người. Đây là một thuận lợi trong điều kiện sản xuất nông nghiệp, song
cũng gây khó khăn nhất định trong giải quyết việc làm cho số lao động tăng
thêm này. Hiện tại, Bạc Liêu có 390.979 lao động đang làm việc trong các

ngành kinh tế quốc dân, chiếm tỷ lệ 49,15% dân số của Tỉnh. Nguồn lao động
chưa tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội của tỉnh là khá nhiều (25,97%)
[10, tr.3].
6


1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội
* Tình hình kinh tế
- Cơ sở hạ tầng: Hiện nay, hầu hết các xã nông thôn ở Bạc Liêu đều có
giao thông đường bộ thông suốt tới trung tâm xã, nhiều xã đã có đường ô tô đến
trung tâm xã và đường giao thông bộ ấp liền ấp; 100% xã có lưới điện về trung
tâm xã.
Tuy vậy, Bạc Liêu là tỉnh cách xa trung tâm kinh tế, xã hội của cả nước
nên việc giao lưu gặp nhiều khó khăn. Kinh tế của Tỉnh trên một số mặt phát
triển còn chậm; cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội còn nhiều mặt thấp kém.
- Cơ cấu các ngành nghề, kinh tế tỉnh Bạc Liêu với cơ cấu nông nghiệp công nghiệp - dịch vụ - thương mại và du lịch.
Nông nghiệp gồm 3 ngành: trồng trọt (lúa là cây quan trọng nhất), chăn
nuôi (lợn, gà, vịt) và nuôi trồng đánh bắt thủy sản. Công nghiệp gồm có: công
nghiệp chế biến hàng nông sản, thủy hải sản; sản xuất hàng công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp nhất là hàng thực phẩm tiêu dùng; Các hoạt động dịch vụ
thương mại - du lịch… theo hướng phục vụ cho quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, phát triển sản xuất và hội nhập khu vực, quốc tế của Tỉnh. Chuyển dịch
cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Tỉnh đang làm thay đổi cơ cấu sử dụng đất và
cơ cấu lao động giữa các ngành. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Bạc Liêu là
gạo (37.627 tấn), thuỷ sản (11.851 tấn).
Từ năm 1997 đến nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế Bạc Liêu luôn giữ được
ở mức bình quân 15,8%. Chỉ tính riêng năm 2005, giá trị tổng sản phẩm trên địa
bàn (giá trị thực tế) ước đạt 8.180 tỷ đồng [10, tr.3]; thu nhập bình quân đầu
người khoảng 650 USD, vượt mức bình quân chung của khu vực Đồng bằng
Sông Cửu Long và cả nước.

* Tình hình xã hội
Đặc điểm dân cư, vùng đất Bạc Liêu mới hình thành trên 200 năm. Do
điều kiện đất đai và cấu tạo cư dân ban đầu, Bạc Liêu không giống các tỉnh
miền Trung, miền Bắc. Dân cư không hình thành từ “lũy tre làng” “cha truyền
con nối”. Dân cư Bạc Liêu đa số là dân “xiêu tán” (phiêu bạt đi mỗi người một
nơi), “nghèo khổ”, “tha phương cầu thực”, họ định cư rải rác trên các gò đất
cao, trên các bờ sông, các kênh rạch. Người Kinh, người Khmer, người Hoa ở
đan xen nhau, sống tương trợ đoàn kết khi hoạn nạn, chân thành cởi mở, thích

7


“làm ăn lớn”. Phong cách ứng xử người dân Bạc Liêu mang tính cách nông dân
thôn dã, chất phác, bộc trực.
Về dân tộc, tỉnh Bạc Liêu có 3 dân tộc chính sinh sống, trong đó dân tộc
Kinh có 139.002 hộ, với 702.465 người, chiếm 89,53% dân số; dân tộc Khmer
có 12.171 hộ, với 61.995 người, chiếm 7,9% dân số; dân tộc Hoa có 3.802 hộ,
với 25.285 người, chiếm 3,22% dân số; các dân tộc khác có 68 hộ, 457 người,
chiếm 0,06% dân số [10, tr.4-5].
Ở Bạc Liêu có 3 dòng văn hóa đan xen nhau: văn hóa Việt, văn hóa
Khmer, văn hóa Hoa. Hàng năm trên vùng đất Bạc Liêu có rất nhiều lễ hội.
Người Kinh có lễ hội Cung đình, thờ thần hoàng có công với nước. Ngoài ra
còn có Đại lễ Kỳ yên (còn gọi là lễ Thượng điền) giữa tháng 5 âm lịch, lễ Thắp
miếu (còn gọi là Lễ Hạ điền vào tháng 12 âm lịch) hàng năm.
Đồng bào Khmer có lễ hội vào năm mới (Chol Chnăm Thmây) vào giữa
tháng 4 dương lịch, lễ hội Chào mặt trăng (Oóc - Om - Boóc) vào rằm tháng 10
âm lịch, lễ hội Don - ta nhằm thực hiện xá tội vong nhân theo đạo lý nhà Phật.
Đồng bào Hoa có lễ cúng Thanh minh vào tháng 3 âm lịch, lễ Thí giàng
vào tháng 7 âm lịch.
Về tôn giáo, trong tỉnh có 4 tôn giáo chính, là Thiên chúa giáo, Phật giáo,

Cao đài và Tin lành, trong đó:
Thiên chúa giáo: có 18 họ đạo, với 16 cơ sở thờ tự (11 nhà thờ, 5 nhà
nguyện) với 17 linh mục, 24 tu sĩ, 17 nữ tu và 15.246 tín đồ.
Phật giáo: có 2 phái Bắc tông và Nam tông. Phái Bắc tông có 76 cơ sở
thờ tự, 81 tăng ni và 49.055 phật tử; Phái Nam tông (người Khmer) có 22 chùa,
6 xà la tel, 275 sư sãi (1 hòa thượng, 2 thượng tọa, 20 đại đức, 15 phó đại đức,
77 tỳ khưu, 160 sadi) và hơn 60 ngàn phật tử.
Cao đài: có 5 hệ phái với 27 cơ sở thờ tự , 40 chức sắc và 4.521 đạo hữu.
Tin lành: có 2 hệ phái với 3 cơ sở thờ tự, 3 mục sư và 1.019 tín đồ.
Tóm lại: “Bạc Liêu là vùng đất mới, được khai phá muộn hơn so với quá
trình dựng nước của dân tộc, nhưng lại là một trong những địa phương được ảnh
hưởng khá sớm của chủ nghĩa Mác - Lê nin và các phong trào trong hoạt động
của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Đặc trưng cơ bản của con người Bạc
liêu là cần cù, sáng tạo trong lao động, hào hiệp, phóng khoáng và chất phác
trong quan hệ giao tiếp, năng động, nhạy cảm trong suy nghĩ và hành động;

8


luôn chịu thương, chịu khó trong mọi hoàn cảnh, nhưng rất cương quyết trước
kẻ thù. Phát huy truyền thống của quê hương bao lớp thế hệ trẻ Bạc Liêu đã và
đang ra sức chiến đấu, lao động, học tập và cống hiến, góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng. Chính từ đây, đã cổ vũ, động viên, tạo
nguồn sức sống mãnh liệt cho thế hệ trẻ vững bước tiến vào thế kỷ XXI, góp
phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá quê hương
đất nước” [46, tr.11].
1.2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bạc Liêu và yêu cầu đặt ra

Tháng 6/1996, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành Đại hội đại biểu tòan
quốc lần thứ VIII. Đại hội đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng

lần thứ VII và 10 năm đổi mới. Xuất phát từ kết quả 10 năm đổi mới, từ những
tiền đề đã được tạo ra, Đảng ta nhận định: “Nước ta đã bước sang thời kỳ phát
triển mới, thời kỳ đẩy manh cộng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục tiêu của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ
sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần
cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội” [20, tr.19].
Đại hội VIII xác định mục tiêu đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp: Lực lượng sản xuất đạt trình độ
tương đối hiện đại, phần lớn lao động thủ công đã được thay thế bằng lao động
sử dụng máy móc, điện khí hóa cơ bản được thực hiện trong cả nước, năng suất
lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao.
Về quan hệ sản xuất: chế độ sở hữu, cơ chế quản lý và chế độ phân phối
gắn kết với nhau, phát huy được các nguồn lực, tạo ra động lực mạnh mẽ thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội.
Về đời sống vật chất và văn hóa: nhân dân có cuộc sống no đủ, có mức
hưởng thụ văn hóa khá, có điều kiện về học hành, chữa bệnh. Quan hệ xã hội
lành mạnh, lối sống văn minh.
Để thực hiện mục tiêu trên, quan điểm chỉ đạo công nghiệp hoá, hiện đại
hoá được nêu trong Văn kiện Đại hội là:
Giữ vững độc lập, tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế, đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi
đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.
9


Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển

nhanh và bền vững.
Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát
triển, lựa chọn dự án đầu tư vào công nghệ.
Kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh.
Tổng kết quá trình 15 năm đổi mới đất nước, 10 năm thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991 - 2000), Đại hội IX của Đảng
(4/2001) chủ trương: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên
phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo
định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ
nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh,
có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng
bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện đồng bộ và
công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã
hội với tăng cường quốc phòng, an ninh” [28, tr.89].
Từ chủ trương chung, Đại hội IX đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 10 năm (2001 - 2010) nhằm đưa nước ta khỏi tình trạng kém phát triển,
nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân. Tạo nền tảng
để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng,
tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản. Vị thế của nước
ta trên trường quốc tế được nâng cao.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 - 2005) có ý nghĩa quan
trọng trong việc thực hiện chiến lược 10 năm (2001 - 2010) nhằm tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch
mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nâng cao rõ rệt
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo

chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy
10


nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xóa đói, giảm hộ nghèo; đẩy lùi
các tệ nạn xã hội; tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; hình
thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
1.2.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bạc Liêu
Quán triệt quan điểm của Đảng, xuất phát từ tình hình và đặc điểm của
địa phương, Đại hội lần thứ XI của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu (11/1997) xác định
nhiệm vụ tổng quát của Đảng bộ và quân dân Bạc Liêu từ năm 1997 đến năm
2000 là: Nhanh chóng ổn định và hoàn chỉnh tổ chức bộ máy các cấp, đẩy mạnh
công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành phù hợp với cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa“Tiếp tục giữ vững ổn định về chính trị, nắm
bắt thời cơ, vượt qua khó khăn thử thách, tập trung mọi nguồn lực, đẩy mạnh
tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá bảo đảm sự phát triển toàn diện, bền vững và nâng cao tích lũy từ
nội bộ nền kinh tế, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ hơn về văn hóa, xã hội, cải
thiện đời sống nhân dân, bảo vệ vững chắc quốc phòng, an ninh, nâng cao năng
lực lãnh đạo của Đảng và sự quản lý điều hành của bộ máy Nhà nước… Trong
đó ưu tiên cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, đặc biệt là cơ sở hạ
tầng cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, góp phần cùng cả nước
thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu thời kỳ 1996 - 2000 do Đại hội VIII của Đảng
đề ra, tạo tiền đề cho bước phát triển mới cao hơn vào đầu thế kỷ 21” [49, tr.1819].
Thực hiện nhiệm vụ nêu trên đòi hỏi Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu phải khơi
dậy và huy động mọi nguồn lực của nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển lực
lượng sản xuất, đổi mới tổ chức quản lý, nâng cao hiệu quả kinh tế. Đồng thời

mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết kinh tế, tạo môi trường thuận lợi thu
hút vốn đầu tư nước ngoài; coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ, sử dụng có hiệu quả nguồn năng lực và trí tuệ hiện có cho sự phát
triển; xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động, kết hợp
hài hòa mục tiêu tăng trưởng kinh tế, hiệu quả, bền vững với tiến bộ xã hội và
bảo vệ an ninh quốc phòng; tạo điều kiện để các vùng kinh tế trong Tỉnh đều

11


phát triển, ưu tiên đầu tư vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn, hạn chế
chênh lệch quá xa về nhịp độ tăng trưởng giữa các vùng.
* Định hướng phát triển kinh tế
- Đẩy mạnh nhịp độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Phát triển nhanh, vững chắc và toàn diện nông - ngư - lâm nghiệp theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên cơ sở gắn chặt với thị trường và quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội của Tỉnh. Khẩn trương rà soát năng lực
công nghiệp trong nông nghiệp để xây dựng các dự án, chương trình về công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và kinh tế nông thôn với những bước đi cụ thể, đặc biệt
là phát triển dịch vụ nông nghiệp như dịch vụ ứng dụng sinh học, cơ khí nông
nghiệp… nhằm tăng năng suất lao động, kết hợp với công nghiệp chế biến, mở
rộng ngành nghề để thu hút lao động nông nhàn, giải quyết triệt để vấn đề
nghèo khó ở nông thôn, nhất là do thiếu đất hoặc không có đất sản xuất trong
nông dân.
Về lâu dài, cần xác định thuỷ sản là thế mạnh, là ngành kinh tế mũi nhọn
tạo ra giá trị xuất khẩu lớn cho Tỉnh. Do đó phải có sự chỉ đạo và đầu tư tương
xứng cho phát triển toàn diện cả khai thác, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu
thuỷ sản. Phát triển chế biến đa dạng các sản phẩm thuỷ sản phục vụ cho xuất
khẩu và tiêu dùng nội địa. Đổi mới thiết bị và công nghệ, nâng cao chất lượng

sản phẩm, tìm đối tác đầu tư và thị trường tiêu thụ ổn định. Sớm khắc phục tình
trạng kinh doanh kém hiệu quả.
Phát triển nhanh, vững chắc và có hiệu quả các ngành công nghiệp phù
hợp với điều kiện thực tế, gắn chặt với quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế
nông thôn của Tỉnh và nhu cầu thị trường. Chú ý phát triển công nghiệp chế
biến và phục vụ sản xuất, đáp ứng nhu cầu chế biến nguyên liệu tại chỗ, giải
quyết nhiều việc làm, kích thích tăng trưởng kinh tế - xã hội nông thôn.
Để hình thành và phát triển nhiều lĩnh vực và ngành nghề sản xuất công
nghiệp, phải quy hoạch các cụm công nghiệp.
Xây dựng kết cấu hạ tầng là điều kiện cần thiết hàng đầu cho phát triển
kinh tế-xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ sở hạ tầng của tỉnh
đang ở điểm xuất phát thấp, do đó nhiệm vụ xây dựng kết cấu hạ tầng rất nặng
nề: đường, điện, nước sạch, bệnh viện, trường học, trạm xá đều có nhu cầu đầu
tư rất lớn.
12


Mở rộng các loại hình dịch vụ và kinh tế đối ngoại: tỉnh Bạc Liêu có điều
kiện tương đối thuận lợi để đẩy mạnh phát triển dịch vụ và du lịch, có địa bàn
nông thôn vừa rộng lớn vừa tiếp giáp với biển và đang trên đà phát triển là điều
kiện tốt để mở rộng, nâng cao chất lượng hoạt động của các ngành dịch vụ phục
vụ sản xuất và đời sống. Phát triển mạnh các loại dịch vụ, nhất là dịch vụ nông
nghiệp, thuỷ sản, dịch vụ vận tải hành khách, hàng hoá và dịch vụ thông tin, tư
vấn về pháp luật, tài chính, bảo hiểm, ngân hàng, dịch vụ văn hoá… phù hợp
với nhu cầu sản xuất, đời sống và mức sinh hoạt của nhiều tầng lớp dân cư.
Kinh tế đối ngoại có vị trí quan trọng tác động mạnh mẽ đến sự phát
triển, nhất là đối với việc khai thác tiềm năng, thế mạnh của Tỉnh và đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
Khẩn trương đào tạo đội ngũ cán bộ làm kinh tế đối ngoại, chuẩn bị tốt các dự
án, lựa chọn đối tác đầu tư, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến tinh, củng cố thị

trường truyền thống, tìm thị trường và khách hàng mới, tăng nhanh xuất nhập
khẩu trực tiếp. Nhanh chóng tiếp cận và nắm được cung cách quản lý hiện đại
để sớm hoà nhập với thị trường thế giới, trước hết là trong khu vực.
Phát huy đúng mức tiềm năng các thành phần kinh tế cho sự phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa:
Tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần, tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế, các loại hình sản
xuất phát triển. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng và củng cố cơ
chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa: xoá bỏ triệt để những tàn dư
có hại của cơ chế quản lý hành chính, tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành
đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường: xây dựng đồng bộ các loại thị
trường, trong đó coi trọng phát triển thị trường tư liệu sản xuất, bất động sản,
hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu và dịch vụ đảm bảo hàng hoá lưu thông thông
suốt. Đồng thời phải tăng cường kiểm tra, kiểm soát nhằm lành mạnh hoá thị
trường.
Về công tác kế hoạch hoá: Nhiệm vụ quan trọng của kế hoạch hoá là: cụ
thể hoá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước phù hợp
với điều kiện thực tế của Tỉnh; xây dựng qui hoạch và các chương trình, dự án
phát triển đủ cơ sở khoa học; làm tốt công tác dự đoán, dự báo. Phát huy vai trò
13


của hệ thống tài chính, tiền tệ, giá cả, đây là công cụ điều tiết vĩ mô nhạy bén
đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế và tốc độ tăng
trưởng kinh tế - xã hội.Tăng cường năng lực và nâng cao hiệu lực quản lý kinh
tế của Nhà nước.
* Phương hướng phát triển văn hoá - xã hội
Giải quyết việc làm và các vấn đề xã hội vừa có tính chiến lược lâu dài,

vừa cấp thiết trước mắt và cũng là một trong những động lực rất quan trọng để
thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài
là động lực trực tiếp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.Thực hiện xã hội hoá
công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Mở rộng phong trào thể dục thể thao, rèn luyện thân thể trong toàn dân.
Định hướng khoa học - công nghệ và môi trường, tập trung thực hiện
Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) và Nghị quyết của Tỉnh uỷ lâm thời về
định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000.
Định hướng củng cố quốc phòng, an ninh. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực
hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Tăng cường sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp
của Đảng đối với các lực lượng vũ trang và các hoạt động pháp luật. Giữ vững
và phát huy bản chất cách mạng, bản chất giai cấp và lý tưởng xã hội chủ nghĩa
cho lực lượng vũ trang.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị: nâng cao
hiệu quả hoạt động của Mặt trận và các tổ chức đoàn thể nhân dân. Nâng cao
hiệu lực quản lý điều hành của Nhà nước các cấp, thực hiện tốt cải cách nền
hành chính Nhà nước. Tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ các cấp, tăng cường lãnh đạo Đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Đại hội XII của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu (12/2000) xác định “Tiếp tục đẩy
mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, tập trung khai thác tiềm năng và lợi thế kinh
tế của tỉnh trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá kinh tế nông nghiệp và nông thôn, đảm bảo đạt tốc độ tăng trưởng
nhanh và bền vững với chất lượng và hiệu quả trên một đơn vị sản xuất ngày
càng cao; tăng tích lũy đáng kể từ nội bộ nền kinh tế và nâng mức thu nhập

14



trong dân cư, cải thiện rõ rệt đời sống nhân dân, giải quyết có hiệu quả những
vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái…” [50, tr.37].
Từ mục tiêu tổng quát, Đại hội xác định những nhiệm vụ cơ bản cần phải
quyết tâm phấn đấu thực hiện: về cơ cấu kinh tế, nông nghiệp - công nghiệp dịch vụ - thương mại và du lịch. Với cơ cấu đó phải nhanh chóng quy hoạch cụ
thể các vùng, ngành sản xuất, gắn chặt sản xuất với chế biến và tiêu thụ sản
phẩm, đảm bảo khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh kinh tế của tỉnh; đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng kinh tế nông nghiệp và nông thôn, nhất là phát triển đúng
mức các ngành nghề nuôi trồng đánh bắt, chế biến xuất khẩu thuỷ sản, kiên
quyết trong một vài năm tới đưa ngành thuỷ hải sản thành ngành kinh tế mũi
nhọn của tỉnh. Cần tập trung triển khai thực hiện nhanh quy hoạch cây trồng, vật
nuôi trong từng vùng sản xuất cụ thể.
Đối với vùng thích nghi trước hết cần ưu tiên phát triển mạnh sản xuất
tôm - lúa, đi đôi với mở rộng từng bước diện tích nuôi tôm công nghiệp và bán
công nghiệp; đồng thời đầu tư, sắp xếp lại ngành nghề để nâng cao hiệu quả
khai thác hải sản xa bờ; nuôi một số loại thuỷ hải sản phù hợp và có hiệu quả
kinh tế cao ở các bãi biển, gắn với phát triển rừng phòng hộ, bảo vệ nguồn lợi
thuỷ sản và môi trường sinh thái. Tập trung mở rộng quy mô, đổi mới công
nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm đối với các nhà máy chế biến các mặt hàng
nông sản, thủy hải sản hiện có nhằm nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường thế
giới; phát triển mạnh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nhất là sản xuất hàng
thực phẩm tiêu dùng; hoàn thành cơ bản chương trình điện khí hoá nông thôn.
Mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động các dịch vụ thương mại - du
lịch, tài chính tín dụng, giao thông, bảo hiểm, khoa học công nghệ và tin học…
phục vụ đắc lực cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất và
chủ động hội nhập khu vực, quốc tế của tỉnh, tạo động lực mạnh mẽ cho các
ngành kinh tế phát triển theo 2 khả năng từng bước nhảy vọt tuỳ theo điều kiện
cụ thể của từng ngành. Tập trung xây dựng, phát triển con người một cách toàn
diện, ưu tiên phát triển về trí tuệ, đi đôi với thực hiện công bằng, dân chủ, văn
minh xã hội, trên sơ sở xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) và

kế hoạch thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 của Ban chấp hành đảng bộ tỉnh
khoá XI.

15


Giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội bức xúc, nhất là việc làm, xoá
đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện chính sách đối với
người có công, ngăn chặn đẩy lùi các tệ nạn xã hội, đặc biệt là ma tuý; đồng
thời đẩy mạnh các hoạt động văn hoá - văn nghệ, báo chí, xuất bản, thể dục thể thao để nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân và tuyên truyền phục vụ
tốt việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đảng bộ. Đảm bảo an ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hội; đẩy mạnh phòng chống tội phạm, đặc biệt là hoạt động
“Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên cơ sở thực hiện tốt Nghị
quyết 08 của Bộ Chính trị và chương trình quốc gia phòng chống tội phạm và
ma tuý của Chính phủ. Triển khai xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận
an ninh nhân dân vững mạnh. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với
củng cố quốc phòng, an ninh; xây dựng các lực lượng vũ trang từng bước chính
quy, hiện đại, đảm bảo sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu đạt hiệu quả cao, bảo vệ
vững chắc chủ quyền lãnh thổ, vùng biển, vùng trời. Tăng cường xây dựng cơ
sở hạ tầng phục vụ đồng bộ và thiết thực cho việc phát triển kinh tế - xã hội và
bảo vệ an ninh quốc phòng, trước hết hoàn thành cơ bản giai đoạn 01 các tuyến
đường giao thông quan trọng của Tỉnh; từng bước nâng cấp các tuyến đường
huyện và giao thông nông thôn; nâng cao chất lượng các tuyến giao thông nội
thị; xây dựng một số đê sông quan trọng, bảo đảm ngăn mặn vững chắc theo
quy hoạch; xây dựng hoàn chỉnh mạng lưới điện theo chương trình điện khí hoá;
hình thành thêm một số nhà máy sản xuất công nghiệp; thi công hoàn chỉnh các
cụm du lịch sinh thái; đẩy nhanh tiến độ xây dựng hệ thống cấp nước tập trung.
Nối mạng, các trường học, bệnh viện, trạm y tế, các cơ sở văn hoá, thể dục thể
thao, khu hành chính của tỉnh và nhà ở cho cán bộ, công chức, viên chức.
Đi đôi với phát triển cơ sở hạ tầng, nhất là giao thông, thuỷ lợi, đồng thời

chú ý quy hoạch và tiến hành từng bước việc điều chỉnh lại dân cư; trước hết
tiến hành khảo sát và xây dựng dự án phát triển đô thị của tỉnh đến năm 2010,
trong đó, giai đoạn 2001 - 2005 tiếp tục đầu tư xây dựng thị xã Bạc Liêu thành
trung tâm đô thị của Tỉnh, trước hết là đẩy mạnh tiến độ xây dựng các công
trình đã được quy hoạch. Phấn đấu rút ngắn rõ nét sự chênh lệch giữa nông thôn
với thành thị.
1.2.2. Yêu cầu đặt ra đối với thanh niên và công tác đoàn thanh niên
tỉnh Bạc Liêu
- Đặc điểm thanh niên tỉnh Bạc Liêu

16


Sau khi tỉnh Bạc Liêu được tái lập (1/1/1997), toàn tỉnh có hơn 294.000
thanh niên tuổi từ 15 - 35, chiếm 35% dân số của tỉnh và trên 52% lực lượng lao
động xã hội. Đây là nguồn lực trẻ dồi dào, góp phần quan trọng trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nét nổi bật của thanh niên Bạc Liêu là có truyền thống cách mạng, cần
cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu. Trong
công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, thanh niên Bạc
Liêu đã tích cực, phấn đấu lao động, học tập, công tác, góp phần quan trọng vào
việc thực hiện các mục kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh.
Là một Tỉnh vùng sâu, vùng xa (xa trung tâm kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật của cả nước…), lại là Tỉnh mới tái lập vốn đã khó khăn (năng suất lao
động và trình độ dân trí thấp, kinh tế kém phát triển, cơ sở hạ tầng thấp kém và
không đồng bộ…) lại càng khó khăn hơn (phải mau chóng sắp xếp tổ chức bộ
máy, bố trí nhân sự… trong khi nhân lực vừa thiếu, lại vừa yếu về trình độ,
năng lực và chuyên môn nghiệp vụ…). Đó là những khó khăn, thử thách rất lớn
đối với nhân dân Bạc Liêu nói chung và Đoàn thanh niên nói riêng. Do vậy, đòi
hỏi sự nổ lực phấn đấu và quyết tâm cao của Đoàn thanh niên trong việc tổ
chức, triển khai thực hiện các phong trào và chương trình hành động của

Đoàn…
Đến năm 2002, tổng số thanh niên tỉnh Bạc Liêu tuổi từ 15 - 35 tuổi có
320.000 chiếm 42% dân số trong đó:
Thanh niên nông thôn: số lượng là 188.454 người, chiếm 64,10% thanh
niên toàn tỉnh; là lớp lực lượng cần cù, tích cực xây dựng nông thôn mới. Tuy
nhiên, thanh niên nông thôn cũng có nhu cầu bức xúc hiện nay là đầu ra của sản
phẩm, vốn sản xuất, chuyển giao và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
nhất là việc chuyển dịch cơ cấu chưa ổn định, hệ thống thủy lợi của tỉnh chưa
hoàn thiện làm ảnh hưởng đến sản xuất, nuôi trồng.
Thanh niên công nhân, viên chức: số lượng là 23.814 người, chiếm 8,10
% thanh niên toàn Tỉnh. Đây là lực lượng được đào tạo, có điều kiện tiếp thu
ứng dụng những tiến bộ khoa học - công nghệ; năng động và sáng tạo trong lao
động. Tuy nhiên, nhu cầu về học tập, thu nhập, nhà ở, điều kiện nâng cao tay
nghề ngày càng cao… đang là mối quan tâm lớn đối với thanh niên công nhân
và viên chức.

17


Thanh niên học sinh, sinh viên: số lượng là 34.692 người, chiếm 11,80%
thanh niên toàn Tỉnh. Họ có nhiều cố gắng vươn lên trong học tập và rèn luyện;
có ước mơ hoài bão, tích cực học thêm nghề và tham gia hoạt động xã hội.
Nhiều học sinh, sinh viên đạt được các giải thưởng trong kỳ thi khu vực và toàn
quốc. Là lớp người năng động, sôi nổi, nhạy cảm, luôn mong muốn được khẳng
định và cống hiến nhiều hơn nữa. Nguyện vọng của học sinh, sinh viên là muốn
được hỗ trợ tốt hơn trong học tập, rèn luyện, giải quyết các nhu cầu vui chơi giải
trí lành mạnh… Vấn đề bức xúc hiện nay là phải có định hướng kịp thời không
để việc lo toan trong cuộc sống sinh viên trở thành cách nghĩ và cuộc sống thực
dụng.
Thanh niên lực lượng vũ trang (cả dân quân tự vệ): số lượng là 11.760

người, chiếm 4% thanh niên toàn Tỉnh; là lực lượng luôn giữ vững và phát huy
bản chất tốt đẹp của thế hệ cha anh đi trước, khắc phục mọi khó khăn, có ý thức
bảo vệ Tổ quốc; có ý thức học tập rèn luyện nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến
thuật đáp ứng nhu cầu xây dựng lực lượng chính quy tinh nhuệ, từng bước hiện
đại. Mong muốn của họ là được học tập giao lưu và có việc làm ổn định sau khi
xuất ngũ.
Thanh niên dân tộc, tôn giáo: số lượng là 35.280 người, chiếm 12% thanh
niên toàn Tỉnh; họ tích cực tham gia các hoạt động xã hội từ thiện. Nhu cầu hiện
nay là được tiếp tục quan tâm tạo điều kiện cho họ được cống hiến và trưởng
thành.
Bên cạnh những mặt tích cực, sự tác động của cơ chế thị trường cũng đã
làm cho một bộ phận thanh thiếu niên chạy theo lối sống thực dụng, xem nhẹ
các giá trị văn hóa tinh thần, thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội, sống
buông thả, sa vướng vào các tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật. Tổ chức Đoàn
chưa có những biện pháp hữu hiệu để làm tốt chức năng chăm lo bảo vệ quyền
lợi chính đáng cho thanh thiếu niên. Chế độ chính sách của cán bộ Đoàn chưa
được cải thiện; Cơ sở vật chất phục vụ công tác Đoàn và phong trào thanh niên
còn nhiều khó khăn.
Tại Đại hội Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Bạc Liêu lần
thứ VI (8/1997), Lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh đã chỉ rõ:
“Bên cạnh những thành tích đạt được, hoạt động của Đoàn và phong trào
thanh niên tỉnh nhà vẫn còn một số mặt hạn chế cần được đánh giá đầy đủ và
sớm khắc phục. Vấn đề quan tâm nhất hiện nay là năng lực của đội ngũ cán bộ
18


Đoàn, nhất là ở cơ sở vẫn còn yếu và chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ
của công tác Đoàn và phong trào thanh niên đặt ra; phương thức vận động, tập
hợp thanh niên chậm đổi mới…”; “Đối với tình hình thanh niên cũng còn nhiều
điều đáng lo ngại, một bộ phận thanh niên do thiếu giáo dục, rèn luyện nên đã

hư hỏng, suy thoái về đạo đức, một bộ phận khác có biểu hiện lệch lạc mơ hồ về
lý tưởng, bàng quan thiếu trách nhiệm với xã hội, trốn tránh nghĩa vụ lao động
và bảo vệ Tổ quốc; một số chỉ thích hưởng thụ, sống ích kỷ, buông thả, thậm chí
vi phạm pháp luật…” [44, tr.12-13].
- Yêu cầu đặt ra đối với công tác đoàn thanh niên tỉnh Bạc Liêu
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh trong điều kiện kinh tế thị
trường đã tác động đến các đối tượng thanh niên; cơ cấu xã hội, nghề nghiệp,
việc làm của thanh niên sẽ có sự thay đổi theo hướng tăng lao động ở đô thị và
các khu công nghiệp. Dịch vụ, khu vực nông nghiệp sẽ giảm về số lượng nhưng
quy mô sản xuất phát triển mạnh theo hướng công nghiệp hoá ngày càng cao sẽ
tác động đến đời sống, trình độ của thanh niên trong tỉnh.
Trong điều kiện của kinh tế thị trường, dưới sự tác động của tình hình
trong nước và quốc tế, tình hình thanh niên nước ta cũng như trong tỉnh sẽ tiếp
tục có những biến đổi sâu sắc về mọi mặt:
Sự phân hoá về thu nhập, mức sống trong xã hội đã tác động đến lối sống
và định hướng giá trị trong thanh niên.
Đã có sự xuất hiện, biến đổi và phát triển đa dạng hơn về hệ thống các
nhu cầu của thanh niên. Nhu cầu về việc làm, thu nhập; về học tập nâng cao
trình độ văn hóa, nghề nghiệp; về hoạt động văn hóa tinh thần, nghỉ ngơi, giải
trí; về giao tiếp tình bạn, tình yêu hôn nhân gia đình…
Những vấn đề về xã hội như: bạo lực, tội phạm, ma tuý, mại dâm, lây
nhiễm HIV/AIDS, tham nhũng… đang là những vấn đề bức xúc của xã hội và
đã đang tác động đến thanh niên.
Những vấn đề trên đặt ra cho Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
những nhiệm vụ nặng nề và cấp thiết. Tại đại hội Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh tỉnh Bạc Liêu lần thứ XII (10/2002), lãnh đạo Đảng bộ Tỉnh nhấn
mạnh: “Phải tăng cường hơn nữa công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục
truyền thống yêu quê hương đất nước và đạo đức cách mạng cho đoàn thanh
niên; Tiếp tục đẩy mạnh, phát huy hơn nữa hiệu quả các phong trào hành động
cách mạng và hoạt động tình nguyện của tuổi trẻ trên tất cả các lĩnh vực; vấn đề

19


giải quyết việc làm và thu nhập cho thanh niên; về xây dựng và củng cố nâng
cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đoàn, Hội” [50, tr.13-23].
Mặc dù từ sau khi tái lập tỉnh Bạc Liêu (1/1/1997) công tác Đoàn và
phong trào thanh thiếu niên có điều kiện thuận lợi để phát triển, song công tác
đoàn thanh niên vẫn còn những khó khăn, thử thách lớn như: nhận thức của một
bộ phận thanh thiếu niên còn nhiều lệch lạc, xu hướng coi trọng đồng tiền, chạy
theo lợi ích kinh tế đơn thuần, xem nhẹ các giá trị văn hóa, đạo đức… còn tồn
tại và có chiều hướng gia tăng. Nhiều vấn để bức xúc của thanh thiếu niên như:
học tập, việc làm, phát triển nghề nghiệp, vui chơi giải trí lành mạnh… chưa
được đáp ứng. Định biên và chính sách dành cho cán bộ Đoàn - Hội - Đội chưa
hợp lý… Việc quy hoạch đào tạo cán bộ Đoàn nhất là ở cơ sở chưa chủ động,
dẫn đến thiếu ổn định. Đoàn chưa có những biện pháp thực sự làm tốt chức
năng đại diện và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho thanh thiếu niên.
Vì vậy, yêu cầu đặt ra là:
Không ngừng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, tạo cơ chế
phối hợp giữa các cấp, các ngành, gia đình và xã hội để chăm lo, bồi dưỡng và
giáo dục tuổi trẻ, đưa công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu niên ngày càng
phát triển vững chắc.
Đẩy mạnh các hoạt động giáo dục về truyền thống, làm cho cán bộ đoàn
viên, thanh thiếu niên nhận thức sâu sắc truyền thống của dân tộc, của Đảng,
của Đoàn, của quê hương và khơi dậy trong tuổi trẻ hoài bão và lòng tự hào dân
tộc, ý chí tự lực, tự cường không cam chịu đói nghèo lạc hậu, phấn đấu vì quê
hương giàu mạnh.
Đổi mới và mở rộng các loại hình tuyên truyền, giáo dục chú trọng giáo
dục công dân, giáo dục đạo đức cách mạng, nếp sống, lối sống mới cho thanh
thiếu niên trong điều kiện mới giúp cho thanh thiếu niên biết phát huy và giữ
gìn bản sắc văn hóa, dân tộc.

Mở rộng các loại hình đoàn kết tập hợp thanh niên và đẩy mạnh các
phong trào hành động cách mạng của Đoàn, thông qua đó mà giáo dục tư tưởng
đối với thanh niên. Chú trọng các loại hình giáo dục, tính tình nguyện, tính xung
kích sáng tạo của tuổi trẻ. Phối hợp chặt chẽ và phát huy vai trò tác dụng tích
cực của các phương tiện thông tin đại chúng và thông tin của Đoàn trong công
tác giáo dục thanh thiếu niên, không chỉ đơn thuần là công cụ giáo dục mà cần

20


phải thực sự là diễn đàn, nói tiếng nói và suy nghĩ của tuổi trẻ; là người bạn,
người hướng dẫn thanh thiếu niên đi theo lý tưởng cách mạng.
Trong công tác giáo dục, các cấp bộ Đoàn cần quán triệt sâu sắc quan
điểm: Thanh niên vừa là khách thể, vừa là chủ thể của quá trình giáo dục, do đó:
Đoàn cần triệt để phát huy khả năng tự giáo dục tính tự chủ và sáng tạo của
thanh thiếu niên, hình thành lý tưởng cách mạng, lối sống lành mạnh phù hợp
với nhu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Bằng nhiều loại hình đa dạng và phong phú, tổ chức sinh hoạt chính trị rộng rãi
trong cán bộ đoàn, thanh thiếu niên, qua đó tạo điều kiện cho đoàn viên, thanh
thiếu niên phấn đấu, có lý tưởng cao đẹp và ý thức trách nhiệm công dân, có
đạo đức cách mạng, có tri thức, có sức khỏe và lao động tốt, sống có văn hóa và
giàu tình nghĩa, giàu lòng yêu quê hương, đất nước.
Về nội dung và biện pháp cơ bản:
Với mục tiêu bồi đắp niềm tin, lý tưởng, đạo đức cách mạng cho thanh
niên góp phần xây dựng lớp công dân “vừa hồng, vừa chuyên” đáp ứng được
yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần phải:
Tập trung giáo dục lý tưởng cho tuổi trẻ, giáo dục về chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng;
giáo dục nâng cao nhận thức về tình hình và nhiệm vụ mới; nâng cao cảnh giác
cách mạng và tạo sức đề kháng cho đoàn viên thanh niên chống âm mưu “Diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch; Giáo dục truyền thống cách mạng vẻ

vang của Đảng, của dân tộc, của Đoàn, của quê hương Bạc Liêu, tăng cường
giáo dục các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và định hướng trong việc
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại cho thanh thiếu niên.
Giáo dục đạo đức cách mạng và lối sống văn hóa, góp phần xây dựng một
thế hệ trẻ nhân ái, trung thực, vì tập thể, vì cộng đồng, giáo dục pháp luật và ý
thức công dân cho thanh thiếu niên, nhất là những luật liên quan đến thanh thiếu
niên góp phấn hình thành nếp “sống văn hóa và làm việc theo hiến pháp và
pháp luật” cho thanh thiếu niên.
Phát huy tính chủ động, sáng tạo của cán bộ, đoàn viên trong việc xây
dựng Đoàn vững mạnh về chính trị - tư tưởng. Tăng cường sắp xếp bộ máy, bố
trí cán bộ, đáp ứng ngang tấm yêu cầu nhiệm vụ công tác giáo dục của Đoàn
trong thời kỳ mới; thường xuyên đổi mới phương thức giáo dục, phát triển các
loại hình sinh hoạt văn hóa lành mạnh, lồng ghép với công tác tuyên truyền,
21


giáo dục như: các đội “Tuyên truyền ca khúc cách mạng”, Câu lạc bộ hát với
nhau, Câu lạc bộ đờn ca tài tử, hội thi, về nguồn, dã ngoại… tập trung tổ chức
và tăng cường cung cấp thông tin cho cơ sở; nhân rộng mô hình giáo dục có
hiệu quả, thu hút và tăng thêm tính thuyết phục đối với đoàn viên, thanh thiếu
niên. Bên cạnh đó, Đoàn các cấp phải chú trọng khai thác các nguồn lực xã hội
phục vụ công tác giáo dục; phối hợp đi vào chiều sâu với các ngành, đoàn thể,
cơ quan liên quan và các lực lượng cộng tác viên khác trong công tác giáo dục
thanh thiếu niên. Phấn đấu mỗi thanh niên trước khi vào Đoàn được học tập lý
luận chính trị, mỗi đoàn viên được học chính trị hàng năm theo nội dung rèn
luyện đoàn viên; cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ít nhất có trình độ sơ cấp chính trị;
cán bộ chủ chốt cấp huyện, thị và tỉnh có trình độ trung cấp chính trị trở lên.
Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của phong trào đoàn nhằm
đáp ứng yêu cầu mới.
Những vấn đề bức xúc đối với thanh niên là lao động - việc làm - thu

nhập, nâng cao tay nghề và thiếu các điều kiện vui chơi giải trí lành mạnh sau
những thời gian lao động mệt nhọc. Trong khi nội dung và phương thức hoạt
động của Đoàn thanh niên các cấp, đặc biệt là cơ sở chậm đổi mới, biện pháp
tập hợp chưa có sức lôi cuốn thanh niên, chất lượng đoàn viên và tổ chức cơ sở
Đoàn chưa cao, hình thức giáo dục còn xơ cứng, các phong trào hành động cách
mạng còn thể hiện ở bề nổi, thiếu chiều sâu, mang tính hình thức. Do vậy, việc
đổi mới phương thức hoạt động của Đoàn thanh niên là vấn đề cấp thiết, đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của tổ chức Đoàn và các phong trào thanh niên. Yêu
cầu của đổi mới đó phải được triển khai và thực hiện trên các mặt sau:
Một là, đổi mới phương thức giáo dục của Đoàn thanh niên:
Công tác bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho đoàn viên thanh thiếu niên
cần được các cấp bộ Đoàn quan tâm và đẩy mạnh các hình thức giáo dục như:
giáo dục về truyền thống, giáo dục chính trị, giáo dục về đạo đức, lối sống, nếp
sống, giáo dục pháp luật bằng nhiều nội dung thiết thực, sát hợp và phải được
thực hiện một cách thường xuyên liên tục; cần phải biết phối kết hợp với Trung
tâm bồi dưỡng chính trị, Ban Tuyên giáo huyện thị mở các lớp bồi dưỡng nâng
cao trình độ lý luận chính trị và nghiệp vụ công tác đoàn thanh niên cho cán bộ
Đoàn - Hội các cấp.
Tổ chức các hoạt động giáo dục truyền thống cách mạng vẻ vang của
Đảng, Đoàn, của dân tộc và quê hương cho đoàn viên thanh niên bằng cách lồng
22


ghép với tuyên truyền ý nghĩa các ngày lễ lớn, thông qua các hình thức phong
phú, đa dạng như: Mít-tinh, liên hoan các đội tuyên truyền ca khúc cách mạng,
họp mặt, dã ngoại về nguồn, Hội trại, diễn đàn, tọa đàm…để thu hút ngày càng
đông đảo đoàn viên thanh niên tham gia.
Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên phải được
nâng lên cả về chiều sâu và bề rộng. Muốn vậy, Đoàn phải kết hợp với các
ngành liên quan mở nhiều lớp tập huấn cho cán bộ Đoàn, các đội tuyên truyên

viên học tập các luật có liên quan đến thanh thiếu niên như: Luật thanh niên,
Luật nghĩa vụ quân sự, Luật hôn nhân gia đình; Luật bảo vệ chăm sóc trẻ em,
Pháp luật dân số; Luật phòng chống ma túy. HIV/AIDS để làm cơ sở cho việc
tuyên truyền phổ biến sâu rộng trong quần chúng thanh niên.
Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao phải được đẩy mạnh
để góp phần nâng cao thể chất và tinh thần cho thanh thiếu niên; các hoạt động
giáo dục lối sống, nếp sống văn hóa cho đoàn viên thanh niên cần phải được
quan tâm hơn; các cấp bộ Đoàn phải thường xuyên tổ chức các diễn đàn “Tuổi
trẻ sống đẹp”, “Cần kiệm là nếp sống đẹp trong thanh niên”, “Tiếp lửa truyền
thống - Mãi mãi tuổi hai mươi”, tổ chức các Hội diễn nghệ thuật quần chúng;
tuyên truyền 3 mục tiêu: Dân số - Sức khỏe - Môi trường; Tuyên truyền phòng
chống các tệ nạn xã hội như: mại dâm, ma túy, số đề… Xây dựng đời sống văn
hóa cơ sở, vận động các gia đình trẻ không sinh con thứ ba, góp phần xây dựng
khóm, ấp văn hóa, gia đình văn hóa.
Thực hiện tốt việc đổi mới phương thức tuyên truyền giáo dục sẽ góp
phần bồi dưỡng, nâng cao nhận thức lý tưởng cách mạng và lối sống lành mạnh
cho thanh niên, khơi dậy niềm tự hào dân tộc và ý thức trách nhiệm của tuổi trẻ
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, đổi mới phong trào hành động cách mạng của Đoàn:
Cùng với tiến trình đổi mới của đất nước, các phong trào hành động cách
mạng của tuổi trẻ cũng được đổi mới và thực hiện ngày càng đạt hiệu quả. Từ
hai phong trào lớn “Thanh niên lập nghiệp và tuổi trẻ giữ nước”, nay là phong
trào “Thi đua tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” đã được các cấp bộ
Đoàn cụ thể hóa thành các chương trình và triển khai phù hợp với điều kiện
thực tế ở cơ sở được đông đảo đoàn viên thanh niên tích cực hưởng ứng và đạt
được những kết quả rất đáng khích lệ. Yêu cầu mới cần phải được đẩy mạnh đổi
mới các chương trình hành động:
23



×