Tải bản đầy đủ (.pdf) (214 trang)

Đảng Bộ tỉnh Bạc Liêu lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ năm 1997 đến năm 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.11 MB, 214 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





ĐÀO THỊ BÍCH HỒNG

(Màu M58,4 quyen, 240 trang)



ĐẢNG BỘ TỈNH BẠC LIÊU LÃNH ĐẠO
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2006






LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ














Hà Nội - 2011






I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN




đào thị bích hồng



NG B TNH BC LIấU LNH O
CHUYN DCH C CU KINH T
T NM 1997 N NM 2006




Chuyên ngành : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số : 62 22 56 01



LUN N TIN S LCH S



NGI HNG DN KHOA HC
PGS.TS Hong Hng









H Ni - 2011


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa ……………………………………………………………………

Lời cam đoan …………………………………………………………………….

Mục lục …………………………………………………………………………


Danh mục các chữ viết tắt ………………………………………………………

Danh mục các bảng ………………………………………………………………

MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………
1
Chương 1: BƢỚC ĐẦU LÃNH ĐẠO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
TRONG NHỮNG NĂM 1997-2000……………………………………………

14
1.1. Những yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh Bạc Liêu
và chủ trƣơng của Đảng bộ …………………………………………………….
14
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và cơ cấu kinh tế trước ngày tái lập tỉnh
14
1.1.2. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu …………………
28
1.2. Sự chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng bộ ………………………
42
1.2.1. Chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ………………………………
42
1.2.2. Chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu kinh tế thành phần …
54
Tiểu kết ……………………………………………………………………………
72
Chương 2: TĂNG CƢỜNG LÃNH ĐẠO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH
TẾ TRONG NHỮNG NĂM 2001-2006 ………………………………………

74

2.1. Đƣờng lối của Đảng và chủ trƣơng mới của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu …….
74
2.1.1. Đường lối của Đảng ………………………………………………
74
2.1.2. Những chủ trương mới của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu………………………
80
2.2. Chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế ………………… ….………
88
2.2.1. Chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ……………….………
88
2.2.2. Chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu kinh tế thành phần ….
114
Tiểu kết ………………………………………………………………………….
135
Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ………………………
136
3.1. Nhận xét về sự lãnh đạo của Đảng bộ ……… …………………………….
136
3.1.1. Ưu điểm …………………………………………………………………….
136
3.1.2. Hạn chế …………………………….……………………………………….
151
3.2. Một số kinh nghiệm và vấn đề đặt ra .………….………………………….
162
3.2.1. Một số kinh nghiệm ………………………………………………
162
3. 2.2. Những vấn đề đặt ra ……………………………………………………….
172
Tiểu kết ……………………………………………………………………………
181

KẾT LUẬN ………………………………………………………….…………
183
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ………………………………………………………………….

186
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………
187
PHỤ LỤC ………………………………………………………………………
212

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BBT
BCH
BCHTƯ
BCT
CCKT
CDCCKT
CNH
CNXH
DNNN
FDI
GDP
HĐH
HTX
Nxb
NIEs

ODA


KTTT
KTTN
UBND
USD
XHCN
Ban Bí thư
Ban chấp hành
Ban chấp hành Trung ương
Bộ Chính trị
cơ cấu kinh tế
chuyển dịch cơ cấu kinh tế
công nghiệp hóa
chủ nghĩa xã hội
doanh nghiệp nhà nước
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)
Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)
hiện đại hóa
hợp tác xã
nhà xuất bản
các Nền kinh tế mới công nghiệp hóa (Newly Industrializing
Economies)
Viện trợ phát triển chính thức (Official Development
Assistance)
kinh tế tập thể
kinh tế tư nhân
ủy ban nhân dân
Đô la Mỹ
xã hội chủ nghĩa






DANH MỤ C CÁ C BẢ NG

Trang

Bảng 1.1. Cơ cấu kinh tế ngành tnh Bạc Liêu (1985 – 1996) ………………
26
Bảng 1.2. Kết quả xuất nhập khẩu (1997-2000) ………………………………
50
Bảng 1.3. Cơ cấu kinh tế ngành tnh Bạc Liêu (1997 - 2000) …………
54
Bảng 1.4. Cơ cấu thành phần kinh tế trong tổng sản phẩm (1997-2000) ……
73
Bảng 2.1. Cơ cấu kinh tế ngành tnh Bạc Liêu (2001-2006) ………………….
113
Bảng 2.2. Cơ cấu thành phần kinh tế trong tổng sản phẩm (2001 - 2006)
134
Bảng 3.1. Kết quả chuyển đổi sản xuất nông nghiệp, thủy sản và tốc độ tăng
trưởng kinh tế (1997-2005)

140
Bảng 3.2. Tình hình đời sống dân cư tnh Bạc Liêu (1997-2006) ……………
144
Bảng 3.3. So sánh nhịp độ tăng trưởng của Bạc Liêu với cả nước, vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam và đồng bằng sông Cửu Long ……………

149

Bảng 3.4. Vốn đầu tư phát triển của Nhà nước (theo ngành kinh tế)
151
Bảng 3.5. Lao động làm việc trong các ngành kinh tế …………………………
159
Bảng 3.6. Cơ cấu các thành phần kinh tế trong tổng sản phẩm (1997-2006) …
182


1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Một trong những nội dung cốt lõi của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đẩy
mạnh CNH, HĐH, là sự hình thành và biến đổi CCKT
*
cả nước nói chung và mỗi địa
phương nói riêng.
Đặc trưng cho CCKT của nền kinh tế quốc dân là cơ cấu ngành, cơ cấu thành
phần và cơ cấu vùng , trong đó cơ cấ u ngà nh giữ vai trò quan trọ ng hơn cả . Cơ cấu
ngành và thành phần chỉ có thể được hình thành và phát triển trên phạm vi vùng lãnh
thổ và phạm vi cả nước. Việc phân bố sản xuất trên những vùng lãnh thổ một cách
hợp lý có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển các ngành và thành phần kinh tế.
Để có CCKT hợp lý cần phải có nhận thức đúng và sự lãnh đạo, điều hành một
cách năng động, sáng tạo của Trung ương và các cấp bộ đảng, chính quyền địa
phương, nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, miền. Lực lượng sản
xuất luôn luôn biến động, phát triển trong quá trình tái sản xuất, vì thế CCKT cũng
thường xuyên biến đổi.
Sự hình thành và biến đổi CCKT gắn liền với sự phát triển kinh tế của một
quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ, đồng thời chịu tác động của bối cảnh kinh tế thế giới,
nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập.

Quá trình CDCCKT
*
phụ thuộc vào các yếu tố như quy mô kinh tế, mức độ
mở cửa của nền kinh tế với bên ngoài, dân số của quốc gia, các lợi thế về tự nhiên,
nhân lực, điều kiện kinh tế , văn hó a… Một nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy
CDCCKT là quá trình chuyên môn hó a trong phạm vi quốc gia, mở rộng chuyên môn
hóa quốc tế và thay đổi công nghệ, tiến bộ khoa học, kỹ thuật
**
.


*
Theo từ điể n Bá ch khoa Việ t Nam : Cơ cấ u kinh tế “là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan
hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành” [67, tr. 610]. CCKT mang tính khách quan, được hình thành trên cơ sở
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, sự tăng trưởng của các yếu tố cấu
thành nền kinh tế. CCKT là hệ thống động, các yếu tố trong CCKT vận động trong mối quan hệ hữu cơ tác
động qua lại lẫn nhau, giai đoạn sau phát triển cao hơn giai đoạn trước.
*
Chuyể n dị ch cơ cấ u kinh tế “là quá trình cải biến kinh tế - xã hội từ tình trạng lạc hậu, mang nặng tính chất tự
cấp, tự túc, từng bước chuyên môn hoá hợp lý, trang bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại, trên cơ sở đó tạo ra năng
suất lao động cao, hiệu quả kinh tế cao và nhịp độ tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế nói chung. Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế bao gồm việc cải tiến cơ cấu kinh tế theo ngành, theo vùng lãnh thổ và cơ cấu các thành phần kinh
tế” [67, tr. 535].
**
Chuyên môn hó a mở đường cho việc trang bị kỹ thuật hiện đại , áp dụng công nghệ tiên tiến, hoàn thiện tổ
chức, nâng cao năng suất lao động xã hội . Chuyên môn hóa cũng tạo ra những hoạt động dịch vụ và chế biến
mới. Tiến bộ khoa học kỹ thuật , công nghệ lại thúc đẩy quá trình chuyên môn hó a . Điều đó làm tỷ trọng các
ngành truyền thống giảm đi, tỷ trọng các ngành dịch vụ kỹ thuật mới tăng trưởng nhanh chóng và dần dần

2

Bạc Liêu là một tỉnh ven biển, thuộc bán đảo Cà Mau, được tái lập năm 1997
(tách ra từ tỉnh Minh Hải). Nhân dân Bạc Liêu giàu truyền thống yêu nước và cách
mạng, anh dũng trong đấu tranh chống ngoại xâm, cần cù trong lao động sản xuất.
Tỉnh Bạc Liêu có những điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất nông nghiệp, nuôi
trồng thủy sản.
Thực hiện đường lối CNH, HĐH của Đảng, Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu đã lãnh
đạo nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng, từng bước CDCCKT, nhất là kinh tế nông
nghiệp trong tỉnh theo hướng sản xuất hàng hóa, nhằm sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực. Quá trình đó đã đạt được một số kết quả nhất định, góp phần cải thiện đời
sống người lao động, tạo ra những chuyển biến tích cực về mặt xã hội.
Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế chưa phát triển mạnh, lực lượng lao động còn
tập trung quá nhiều trong nông nghiệp, nên quá trình CDCCKT gặp nhiều khó khăn
và tốc độ còn chậm, kể cả cơ cấu ngành nghề, cơ cấu thành phần và cơ cấu vùng, vì
thế, hiệu quả kinh tế của tỉnh vẫn chưa cao.
Trong điều kiện kinh tế Việt Nam nói chung và tỉnh Bạc Liêu nói riêng, sự
CDCCKT phải bắt đầu từ nông nghiệp, và phải đặt nó trong mối quan hệ với công
nghiệp và dịch vụ, nhưng từ nhận thức đến thực tiễn ở mỗi địa phương có những
điểm khác nhau, do những điều kiện lịch sử cụ thể chi phối.
Trước đây, khi làm luận văn cao học, tôi đã bước đầu nghiên cứu đề tài Đảng
bộ tỉnh Bạc Liêu lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn từ năm 1997 đến năm
2003 và nhận thấy một trong những nguyên nhân phát triển của nông nghiệp Bạc
Liêu là có sự lãnh đạo CDCCKT của Đảng bộ tỉnh theo đường lối của Đảng.
Việc nghiên cứu, tổng kết sự lãnh đạo của mỗi đảng bộ địa phương trong quá
trình thực hiện chủ trương của Đảng về CDCCKT, không chỉ góp phần làm rõ một sự
vận động lịch sử đã và đang diễn ra trên mỗi địa bàn, đúc rút những kinh nghiệm của
mỗi địa phương, mà còn có thể cung cấp thêm cơ sở khoa học cho việc giải quyết
những vấn đề về nhận thức lý luận và chỉ đạo hoạt động thực tiễn đối với sự phát
triển kinh tế của đất nước hiện nay.



chiếm ưu thế. Phân công lao động và sự tiến bộ kỹ thuật, công nghệ ngày càng phát triển sâu sắc tạo ra những
tiền đề cho việc phát triển thị trường các yếu tố sản xuất. Ngược lại, việc phát triển thị trường các yếu tố sản
xuất lại thúc đẩy quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế, do vậy làm sâu sắc thêm quá trình CDCCKT.

3
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu lãnh đạo chuyển
dịch cơ cấu kinh tế từ năm 1997 đến năm 2006 để làm luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Là một trong những nội dung chủ yếu của quá trình CNH, HĐH đất nước, vấn
đề CDCCKT luôn được các nhà nghiên cứu và cơ quan nghiên cứu quan tâm.
2.1. Trên phạm vi cả nước đã có nhiều công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học đề cập đến vấn đề này ở những góc độ khác nhau.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI, do TS
Nguyễn Trần Quế làm Chủ biên (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004) đã đi sâu
phân tích và đánh giá một cách tổng quát sự CDCCKT Việt Nam trong những năm
1990-2002, qua đó, rút ra những điểm mạnh, yếu, xu hướng chuyển dịch và các giải
pháp thúc đẩy CDCCKT nhanh hơn. Tác phẩm đã sử dụng những số liệu phong phú
có nguồn gốc từ Tổng cục Thống kê Việt Nam, các báo, tạp chí, cơ quan trong nước,
kết hợp với sự luận giải khoa học, cung cấp một bức tranh tổng quát về CDCCKT của
Việt Nam trong những năm 1990-2002.
Tác phẩm Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam do PGS, TS Bùi Tất
Thắng chủ biên (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2006) được biên soạn dựa trên kết
quả nghiên cứu của đề tài khoa học cấp Nhà nước KX 02-05: “Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (thuộc Chương trình
nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước KX-02: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo
định hướng xã hội chủ nghĩa: con đường và bước đi”). Với cách phân tích cụ thể
hơn, tập trung khảo cứu một chủ đề độc lập, toàn diện và tổng hợp về CDCCKT
ngành, cuốn sách đã trình bày tổng quan một số vấn đề có tính lý luận về CDCCKT
ngành trong thời kỳ CNH, những tiêu chí đánh giá sự CDCCKT, những kinh nghiệm

và bài học rút ra từ CDCCKT trong một số mô hình CNH và quá trình thay đổi nhận
thức trong cách tiếp cận về CNH, HĐH và CDCCKT ngành thể hiện trong các văn
kiện của Đảng qua các thời kỳ. Qua đánh giá quá trình CDCCKT ngành ở Việt Nam
trong thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới, các tác giả đã so sánh với các nhóm NIEs
trong khu vực Đông Á, đồng thời phân tích, đánh giá tác động ảnh hưởng của những
nhân tố mới trên thế giới và trong nước đối với xu hướng CDCCKT Việt Nam…

4
Cuốn sách đã cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn về CDCCKT ngành, một vấn đề cơ
bản nhất trong CDCCKT nói chung.
Cuốn sách chuyên khảo Phát triển kinh tế vùng trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa do TS Nguyễn Xuân Thu và TS Nguyễn Văn Phú đồng chủ biên
(Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006) đã trình bày một cách tổng quan về vùng,
phân vùng kinh tế. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá vùng dưới góc cạnh khác nhau,
các tác giả đã rút ra những nhận định quan trọng về tính đa dạng và phân dị của các
điều kiện và yếu tố phát triển vùng, mức độ và khả năng khai thác nguồn lực của từng
vùng lãnh thổ. Từ đó xác định khả năng và sự nắm bắt, vận dụng khoa học công nghệ
cũng như đường hướng bước đi theo hướng CNH, HĐH trên các kiểu và loại vùng.
Qua đánh giá thực trạng phát triển kinh tế - xã hội từng kiểu và loại vùng khác nhau,
các tác giả đã rút ra những nhận định về việc khơi dậy các tiền năng, thế mạnh của
các vùng (các vùng lớn, các vùng trọng điểm, ngoài trọng điểm, đô thị, nông thôn,
vùng khó khăn). Đồng thời rút ra những xu hướng phát triển của các vùng, đặc biệt về
xu hướng biến đổi cơ cấu lãnh thổ, về chênh lệch vùng, về sự bất bình đẳng giữa các
vùng, về kết hợp cơ cấu ngành, cơ cấu lãnh thổ trên các vùng, về làn sóng di dân từ
nông thôn vào đô thị, về tồn tại nguy cơ bất ổn chính trị ở một số vùng, về ô nhiễm
môi trường và sự suy giảm tài nguyên vùng, về mối quan hệ liên vùng… Thành công
chính của cuốn sách này là đã bước đầu phân tích và luận giải về sự phát triển kinh tế
vùng trong cơ cấu kinh tế chung của cả nước. Tuy nhiên, cuốn sách chỉ tập trung trình
bày một cách khái quát về sự phát triển của các vùng kinh tế trên quy mô cả nước, mà
chưa đi sâu vào nghiên cứu từng vùng kinh tế riêng biệt.

Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006) là một cuốn sách
chuyên khảo do TS Chử Văn Lâm chủ biên. Theo cuốn sách này, ở Việt Nam, KTTT
với những hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là HTX, là hình thức tổ chức kinh
tế mang tính xã hội hóa, là nhân tố quan trọng để xây dựng xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, giáo dục ý thức phát triển cộng đồng… Quá trình đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế và các chính sách khuyến khích phát triển KTTT, đã có tác động mạnh đến
sự đổi mới về tổ chức và nội dung hoạt động của các HTX. Tuy nhiên trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế, trước sức ép cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ và yêu cầu phát
triển nền kinh tế hàng hóa theo hướng CNH, HĐH, KTTT còn nhiều mặt yếu kém:

5
năng lực nội tại còn hạn chế, quy mô HTX còn nhỏ bé, trình độ sản xuất lạc hậu,
năng lực cạnh tranh và khả năng tiếp cận thị trường thấp; KTTT chiếm tỷ trọng thấp
trong tổng sản phẩm xã hội, kém hấp dẫn và phát triển chậm. Với việc khái quát một
số nghiên cứu về sở hữu tập thể trên thế giới và trong nước, các tác giả của cuốn sách
đã cho người đọc thấy rõ được mức độ của vấn đề sở hữu tập thể và KTTT trong nền
kinh tế thị trường ở các nước chuyển đổi. Từ đó, các tác giả cũng đưa ra những quan
điểm nhìn nhận về sự phát triển trong tương lai của HTX ở Việt Nam là một tất yếu
khách quan. Từ kinh nghiệm phát triển HTX trên thế giới và từ thực tiễn sinh động
phát triển HTX của Việt Nam, các tác giả đã làm sáng tỏ một số giải pháp vĩ mô thúc
đẩy phát triển hơn nữa HTX trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Cũng nghiên cứu về sự vận động của các thành phần kinh tế, cuốn sách chuyên
khảo Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam do GS, TS Nguyễn Thanh Tuyền chủ biên (Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2006) lại tập trung nghiên cứu về sở hữu tư nhân và KTTN. Đây là
khu vực kinh tế rất nhạy cảm với những đặc trưng của kinh tế thị trường, có tiềm lực
lớn trong việc nâng cao năng lực nội sinh của đất nước, tăng trưởng kinh tế. Xuất
phát từ thực tiễn sự vận động của KTTN sau hơn mười năm chuyển đổi cơ cấu kinh
tế và cơ chế quản lý, nhất là sau khi Luật Doanh nghiệp 2005 được ban hành, dưới

góc độ của nhà nghiên cứu kinh tế, các tác giả đã nêu rõ những luận cứ khoa học về
tính tất yếu khách quan và sự phát triển lâu dài của sở hữu tư nhân và KTTN ở Việt
Nam, đi sâu phân tích làm rõ KTTN thực sự là một bộ phận cấu thành của kinh tế
XHCN; vai trò, vị trí của KTTN trong thời kỳ quá độ lên CNXH, mối quan hệ của vai
trò chủ đạo của KTNN với vai trò của KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN; vấn đề đảng viên làm KTTN, lợi ích kinh tế - xã hội mà nó mang lại… Trên
cơ sở đó, tập thể tác giả đã đề xuất một số chính sách có tính hệ thống và đồng bộ về
KTTN trong cơ chế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Các chính sách này
xoay quanh tiêu điểm là bảo đảm sự phát triển lâu dài, bình đẳng, công nhận quyền
hợp pháp và không hạn chế đối với KTTN trong mọi lĩnh vực, hướng KTTN đóng
góp tích cực vào công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Từ góc độ khoa học kinh tế, còn có nhiều công trình nghiên cứu như: Chuyển
dịch cơ cấu và xu hướng phát triển kinh tế của nông nghiệp Việt Nam theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ thế kỷ XX đến thế kỷ XXI trong “thời đại kinh tế tri

6
thức” của Lê Quốc Sử, (Nxb Thống kê, TP.Hồ Chí Minh, 2001); Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân do Ngô Đình
Giao (chủ biên), (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003); Các giải pháp phát triển
kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ XXI của Trần Xuân Kiên, (Nxb Thanh niên, Hà Nội,
2003; Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi mới (1986-2006) thành tựu và những vấn đề đặt
ra do PGS, TS Đặng Thị Loan, GS, TSKH Lê Du Phong và PGS, TS Hoàng Văn Hoa
đồng chủ biên (Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2006); Cơ cấu kinh tế, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và nghiên cứu thống kê cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
(Sách chuyên khảo), Phan Công Nghĩa, (Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội,
2007)… Những công trình này cung cấp một cái nhìn khái quát về CDCCKT ở Việt
Nam qua các thời kỳ lịch sử trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, cũng như việc
nghiên cứu thống kê về cơ cấu kinh tế và CDCCKT.
Nhiều luận án tiến sĩ kinh tế cũng có đề cập đến vấn đề CDCCKT như Xu
hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí

Minh, luận án tiến sĩ của Trần Văn Nhưng (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 2001); Thị trường nông thôn với sự phát triển kinh tế hộ nông dân ở
đồng bằng sông Cửu Long, luận án tiến sĩ của Bùi Thị Minh Hồng (Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001)…
Những công trình trên đây tuy không nghiên cứu trực tiếp về sự lãnh đạo
CDCCKT của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu, song cũng đã cung cấp cho tác giả luận án một
cách nhìn tổng thể về sự CDCCKT trên cả nước và phương pháp nghiên cứu một đề
tài liên quan đến lĩnh vực kinh tế.
Những công trình nghiên cứu về lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân có
ý nghĩa rất quan trọng về cả lý luận và thực tiễn:
Chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn sau Nghị quyết 10 của Bộ
Chính trị do PGS, TSKT Lê Đình Thắng chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2000) đã phân tích, xác định vị trí và tầm quan trọng của sản xuất nông nghiệp và
phát triển kinh tế nông thôn ở Việt Nam trong giai đoạn CNH, HĐH từ sau Nghị
quyết 10, từ đó có những kiến nghị về phương hướng, giải pháp để tiếp tục đổi mới,
phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta trong thời gian tới.
Nông nghiệp, nông thôn Nam bộ hướng tới thế kỷ XXI của PGS, TS Lâm
Quang Huyên (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002) đã tạo dựng một bức tranh về

7
nông nghiệp, nông thôn khu vực đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam bộ. Tuy
còn rời rạc, song với nhiều chi tiết phong phú, tác giả đã giới thiệu những thành tựu
về các mặt: sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, quan hệ sản xuất mới, nông
thôn mới ở Nam bộ với những tư liệu phong phú và hình ảnh sống động. Trên cơ sở
đó, tác giả đã phân tích những thuận lợi và khó khăn, những xu hướng chung và riêng
trong nông nghiệp khi bước vào thế kỷ XXI, làm rõ vai trò và nhiệm vụ của nông
nghiệp, nông thôn Nam bộ trong quá trình CNH, HĐH của đất nước. Cuốn sách có đề
cập đến một số nét về tình hình sản xuất nông nghiệp và xã hội nông thôn Bạc Liêu,
nhưng chưa đề cập đến sự CDCCKT của tỉnh.
Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam

của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
(Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003), Biến đổi cơ cấu ruộng đất và kinh tế nông
nghiệp ở vùng châu thổ sông Hồng trong thời kỳ đổi mới của PGS,TS Nguyễn Văn
Khánh (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003)… là những tác phẩm có đề cập đến sự
CDCCKT ngành nông nghiệp nói chung trong cả nước và vùng đồng bằng châu thổ
sông Hồng nói riêng.
Một số Hội thảo khoa học đã đi sâu bàn về CDCCKT như: Hội thảo Những
vấn đề lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp (Do Ủy ban Kế
hoạch Nhà nước và Trường Đại học Kinh tế quốc dân chủ trì, 1995); đề tài Sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn đồng bằng sông Hồng theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, thực trạng và giải pháp (Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, 1998 ); Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng
Đồng bằng sông Hồng giai đoạn 1995 - 2000 (Do Bộ Khoa học Công nghệ và Môi
trường, nay là Bộ khoa học công nghệ, chủ trì); Thực hiện đường lối phát triển nông
nghiệp, nông thôn của Đảng ở đồng bằng sông Cửu Long trong những năm đổi mới
(Do Phân viện Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
chủ trì, 2002)…
Nghiên cứu về CDCCKT còn có những luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ khoa
học lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, như: Đảng bộ tỉnh
Thanh Hoá lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, luận án tiến sĩ của
Nguyễn Văn Vinh (Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội,
2010); Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công

8
nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 1997-2003 của Đào Thị Vân (Trung tâm Đào tạo,
Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học Quốc gia Hà nội, 2004); Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ năm 1997 đến năm 2003 của Đặng
Kim Oanh (Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học Quốc
gia Hà nội, 2005); Đảng bộ huyện Từ Sơn chỉ đạo quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế những năm 1999-2005 của Chu Thị Thanh Tâm (Trường Đại học Khoa học Xã hội

và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà nội, 2006)… Những luận án, luận văn này đã đề
cập đến sự CDCCKT trong một tỉnh, hoặc một vùng, cung cấp về ý tưởng và cách
tiếp cận nghiên cứu CDCCKT trên địa bàn mỗi địa phương, gắn với những hoàn cảnh
và điều kiện lịch sử cụ thể, đặc biệt đã làm rõ sự lãnh đạo của đảng bộ mỗi địa
phương về CDCCKT.
Những công trình nghiên cứu trên đây đã khẳng định tính tất yếu của sự
CDCCKT và hiệu quả của nó đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Mặc dù chưa
có công trình nào đề cập trực tiếp đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu đối với
quá trình CDCCKT của tỉnh, nhưng đã cung cấp những tri thức cần thiết, nhất là về
mặt phương pháp, tạo điều kiện thuận lợi để đi sâu nghiên cứu đề tài này.
2.2. Đến nay, đã có một số công trình đề cập đến tình hình kinh tế tỉnh Bạc
Liêu, ít nhiều có liên quan đến CDCCKT nông nghiệp và nông thôn trong tỉnh.
Thực trạng kinh tế - xã hội tỉnh Bạc Liêu 1997-2000 của Phạm Quốc Sử (Cục
Thống kê tỉnh Bạc liêu phát hành, năm 2002) giúp cho người đọc một cái nhìn tổng
quát về sự phát triển kinh tế - xã hội Bạc Liêu trong những năm 1997-2001. Qua số
liệu thống kê hàng năm, tác giả đã bước đầu nêu lên những thuận lợi, khó khăn trong
quá trình Bạc Liêu tiến hành CNH, HĐH. Trước làn sóng người dân chuyển đổi sản
xuất từ trồng lúa sang nuôi trồng thủy sản một cách nhanh chóng, vượt mức quy
hoạch của tỉnh, cuốn sách đã chỉ ra rằng, mặc dù trước mắt lợi nhuận từ con tôm
mang lại là đáng kể, song còn nhiều bất cập: người nông dân chưa được chuẩn bị tốt
về kiến thức cơ bản trong quy trình nuôi tôm, cơ sở hạ tầng chưa chuẩn bị kịp để đáp
ứng nhu cầu chuyển đổi, môi trường và hệ sinh thái bị tàn phá do nuôi tôm tràn lan và
không theo quy hoạch, hiện tượng nông dân mất đất ngày càng tăng… Cuốn sách đã
đề cập một số nội dung liên quan đến CCKT Bạc Liêu như nông - lâm - thủy sản,
công nghiệp, thương mại - dịch vụ, các thành phần kinh tế, dân số, việc làm, nguồn
nhân lực… Tuy nhiên, chỉ với hơn 50 trang nội dung, và đề cập đến nhiều vấn đề, nên

9
cuốn sách chưa làm rõ được sự chuyển biến của CCKT Bạc Liêu, mà chỉ dừng lại ở
một vài nhận định chung chung về CDCCKT Bạc Liêu.

Kinh tế trang trại tiềm năng và phát triển do Nguyễn Trường Giang chủ biên
(Ủy ban Nhân dân tỉnh Bạc liêu phát hành, 2004, lưu hành nội bộ) đã khảo cứu sự
hình thành và phát triển một mô hình kinh tế mới trong nông nghiệp, nông thôn - mô
hình kinh tế trang trại. Kinh tế trang trại Bạc Liêu hình thành và phát triển cùng với
quá trình Bạc Liêu tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Qua số liệu thống
kê, tập thể tác giả đã làm nổi bật hiệu quả của mô hình kinh tế này đối với sự phát
triển chung của tỉnh: “… quá trình hình thành và đi lên của kinh tế trang trại là quá
trình chuyển biến từ sản xuất nhỏ, manh mún lên sản xuất hàng hóa trong nông - lâm
- ngư nghiệp. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc tích lũy để công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông thôn. Kinh tế trang trại phát triển không chỉ góp phần tăng thu nhập cho
người nông dân, mà quan trọng hơn là tạo ra tiền đề bên trong để phát triển công
nghiệp và dịch vụ ngay trên địa bàn nông thôn, nâng cao dân trí, tay nghề cho lao
động ở nông thôn [271, tr. 28]. Song bên cạnh mặt tích cực, các tác giả cũng chỉ ra
những khó khăn của kinh tế trang trại: phát triển tự phát, trình độ quản lý của các chủ
trang trại thấp, khả năng tự tìm thị trường tiêu thụ kém, thiếu vốn trong sản xuất và
khả năng tích tụ ruộng đất ngày càng tăng cùng với xu hướng phát triển quy mô của
các trang trại… Trên cơ sở làm rõ lợi ích và những khó khăn của mô hình kinh tế
trang trại, tập thể tác giả khẳng định: “Hình thành và phát triển trang trại là một trong
những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường. Song để tồn tại và phát triển đòi hỏi các
chủ trang trại phải có chí, có tâm, có vốn và có kỹ thuật” [271, tr. 25]. Cuốn sách đã
cung cấp những luận cứ quan trọng để tiếp tục nghiên cứu sự CDCCKT thành phần ở
Bạc Liêu.
Kỷ niệm 10 năm tái lập tỉnh, Cục Thống kê tỉnh Bạc liêu biên soạn cuốn Bạc
Liêu mười năm xây dựng và phát triển (1997-2006), năm 2006. Đây là một trong
những tài liệu đánh giá tương đối toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội của tỉnh
Bạc Liêu trong 10 năm (1997-2006). Ngoài những phân tích khái quát, tài liệu còn
cung cấp các thông tin bằng số, nhằm lượng hóa những gì đạt được và chưa đạt được
của chặng đường 10 năm. Với khối lượng thông tin phong phú và đa dạng, được thu
thập, xử lý và tập hợp một cách khoa học bởi những chuyên viên thống kê của tỉnh,
cuốn sách đã làm rõ những chuyển biến đáng kể về kinh tế, xã hội của tỉnh Bạc Liêu.


10
Kinh tế nông thôn thực trạng và triển vọng của Nguyễn Văn Bế (chủ biên),
Phạm Quốc Sử cùng Tổ chuyên viên Cục Thống kê, do Uỷ ban Nhân dân tỉnh Bạc
Liêu phát hành, năm 2007, (Lưu hành nội bộ) được biên soạn khá công phu, đã mô tả
tương đối toàn diện về kinh tế nông nghiệp và nông thôn Bạc Liêu kể từ khi tái lập
tỉnh, tập trung nhiều trong những năm 2000-2006. Trên cơ sở làm rõ đặc điểm kinh tế
- xã hội Bạc Liêu, các tác giả nêu bật vai trò quan trọng của nông nghiệp, nông thôn
đối với nền kinh tế Bạc Liêu; bước đầu đề cập đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề
ở vùng nông thôn và những tác động tích cực của chuyển biến kinh tế đối với xã hội
nông thôn… Nội dung cuốn sách đã bao quát được những nét tổng thể về kinh tế - xã
hội nông thôn Bạc Liêu.
Ngoài ra, những bài báo mang tính chất thông tin về kinh tế Bạc Liêu cũng
được đăng trên các báo hàng ngày như báo Bạc Liêu và một số tờ báo khác.
Những công trình nghiên cứu về kinh tế tỉnh Bạc Liêu nói chung, về CDCCKT
của tỉnh Bạc Liêu nói riêng tuy còn ít về số lượng, khái quát về nội dung, nhưng đã
cung cấp những tư liệu quý, những gợi ý quan trọng cho sự nghiên cứu đề tài luận án.
Nhìn chung, tình hình nghiên cứu vấn đề cho thấy, những công trình đã công
bố đều xuất phát từ góc độ kinh tế lả chủ yếu, có một số công trình đề cập từ góc độ
lịch sử, với nhiều mức độ khác nhau đã không chỉ cung cấp những cơ sở cần thiết về
lý luận và thực tiễn mà cả về phương pháp để đi sâu nghiên cứu đề tài luận án.
Tuy nhiên, dưới góc độ lịch sử Đảng, cho đến nay vẫn chưa có một công trình
nghiên cứu chuyên biệt và có hệ thống về quá trình Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu lãnh đạo
chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ năm 1997 đến năm 2006.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu: Từ góc độ Lịch sử Đảng, luận án này nhằm làm
sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu trong quá trình CDCCKT từ năm
1997 đến năm 2006; làm rõ quá trình thực hiện sự lãnh đạo của Đảng bộ và những kết
quả cụ thể của sự CDCCKT ở tỉnh Bạc Liêu; bước đầu rút ra một số kinh nghiệm lịch
sử từ sự lãnh đạo CDCCKT của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân kỳ lịch sử, trình bày và phân tích các sự kiện lịch sử một cách có hệ
thống theo trình tự thời gian, gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong mỗi giai đoạn;
làm rõ bước phát triển trong sự lãnh đạo CDCCKT của Đảng bộ.

11
- Đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu trong quá
trình lãnh đạo CDCCKT.
- Trình bày và đánh giá đúng những kết quả cụ thể về CDCCKT diễn ra dưới
sự lãnh đạo của Đảng bộ qua những khoảng thời gian khác nhau, bao gồm cả những
thành tựu và hạn chế.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các chủ trương và biện pháp của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu về CDCCKT trên
địa bàn tỉnh.
- Quá trình hiện thực hóa những chủ trương của Đảng bộ về CDCCKT, thể
hiện qua hoạt động của các cấp bộ đảng, chính quyền, ban ngành chức năng ở địa
phương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về CDCCKT trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH.
- Những điều kiện về tự nhiên và xã hội của tỉnh Bạc Liêu có ảnh hưởng đến
việc xác định và thực hiện chủ trương CDCCKT của tỉnh.
- Những biện pháp tổ chức thực hiện của các cấp bộ đảng, chính quyền và các
ban, ngành trong tỉnh Bạc Liêu về CDCCKT.
- Diễn biến thực tế của sự CDCCKT, bao gồm CDCCKT ngành, CDCCKT
vùng và CDCCKT thành phần, mà chủ yếu là CDCCKT ngành.
- Thời gian của đề tài là từ năm 1997 đến năm 2006. Năm 1997 là thời điểm
tỉnh Bạc Liêu và Đảng bộ tỉnh được tái lập trên cơ sở chia tách tỉnh Minh Hải. Năm
2006 chỉ là mốc thời gian có ý nghĩa tương đối vì đó là thời điểm xác định đề tài luận

án, chứ không phải là thời điểm kết thúc sự CDCCKT. Tuy nhiên, trong quá trình
nghiên cứu, luận án cũng đề cập đến tình hình CDCCKT trên địa bàn các huyện, thị
thuộc tỉnh Bạc Liêu trước ngày tái lập tỉnh, cũng như những sự kiện sau năm 2006 để
có thêm cơ sở khoa học cho những đánh giá, nhận xét về sự lãnh đạo CDCCKT của
Đảng bộ.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu

12
- Các văn kiện của Đảng và Nhà nước Việt Nam về phát triển kinh tế và
CDCCKT.
- Các văn kiện đại hội, hội nghị BCH Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, UBND
tỉnh Bạc Liêu, các cấp bộ đảng, chính quyền và ban, ngành trong tỉnh.
- Các sách đã xuất bản, các bài báo, tạp chí, luận văn có liên quan đến đề tài.
- Tài liệu lưu trữ tại Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Chi cục thống kê Bạc Liêu, các sở,
ban ngành chuyên môn
- Tài liệu khảo sát thực tế ở địa phương, khai thác bằng quan sát thực địa, hoặc
thông qua các cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân đã trực tiếp tham gia hoặc
chứng kiến quá trình CDCCKT.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án dựa trên cở sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đặc biệt chú ý quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể,
tôn trọng thực tế khách quan, “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự
thật”.
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử nhằm trình bày một
cách khách quan, khoa học các sự kiện có liên quan đến sự lãnh đạo CDCCKT của
Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu.
- Phương pháp lôgíc, nhằm khái quát, rút ra những kết luận về ưu điểm, hạn
chế trong quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu và một số kinh nghiệm lịch

sử.
- Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số phương pháp khác như thống kê, so
sánh, phân tích và tổng hợp để làm rõ sự phát triển.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
Luận án được chia thành ba chương:
Chương 1: Bước đầu lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong những năm
1997-2000
Chương 2: Tăng cường lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong những năm
2001-2006
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm

13







Chương 1
BƢỚC ĐẦU LÃNH ĐẠO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
TRONG NHỮNG NĂM 1997-2000

1.1. Những yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh Bạc Liêu
và chủ trƣơng của Đảng bộ
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và cơ cấu kinh tế trước ngày tái lập tỉnh
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội
Tỉnh Bạc Liêu được tái lập từ ngày 1-1-1997 trên cơ sở chia tách từ tỉnh Minh
Hải thành hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu. Sau khi được tái lập, Bạc Liêu gồm 7 đơn vị

hành chính (thị xã Bạc Liêu và 6 huyện: Vĩnh Lợi, Phước Long, Hồng Dân, Giá Rai,
Đông Hải, Hòa Bình) với tổng số 61 xã, phường, thị trấn.
Về tự nhiên, Bạc Liêu là một tỉnh ven biển thuộc bán đảo Cà Mau, miền đất cực
Nam của Tổ quốc, có diện tích tự nhiên 2582 km
2
, chiếm 1/16 diện tích đồng bằng
sông Cửu Long; có bờ biển dài 56 km, với các cửa biển như Gành Hào, Cái Cùng,
Nhà Mát, là những nơi trung chuyển hàng hóa của nhiều cơ sở kinh tế trong và ngoài
tỉnh. Thềm lục địa khu vực tỉnh Bạc Liêu nhiều khả năng có dầu và khí thiên nhiên,
một tài nguyên chiến lược của đất nước.
Bạc Liêu là tỉnh duy nhất ở đồng bằng sông Cửu Long có Quốc lộ 1A chạy song
song và cách bờ biển không xa, chia Bạc Liêu thành 2 khu vực rõ rệt. Khu vực Bắc
Quốc lộ 1A có địa hình tương đối thấp , cao độ trung bình từ 0,20 đến 0,30 mét. Khu
vực Nam Quốc lộ 1A cao hơn khu vực phía Bắc trung bình từ 0,40 đến 0,80 mét.
Những giồng cát ở ven biển tạo nên hướng nghiêng từ biển vào nội địa, hình thành
những vùng trũng, mùa mưa nước ngập sâu, mùa khô nước rút muộn hơn các nơi
khác trong tỉnh.

14
Địa hình trên tạo điều kiện thuận lợi cho việc tận dụng thủy triều đưa nước mặn
vào ruộng phục vụ nuôi trồng thủy sản, song cũng tạo thành những vùng trũng cục
bộ, nhất là đối với các khu vực chuyển đổi sản xuất ở các huyện Phước Long, Hồng
Dân, Giá Rai.
Những cơ sở kinh tế quan trọng và những địa điểm có khả năng phát triển kinh
tế của tỉnh đều nằm trên các trục đường thủy và đường bộ chính, nối Bạc Liêu với các
tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long và các địa bàn khác . Nhờ vậ y các ngành nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ có khả năng phát triển một cách hài hòa, hỗ trợ qua
lại lẫn nhau.
Đất đai của tỉnh là đất phù sa mới do biển bồi đắp, thường xuyên chịu tác động
của thủy triều biển Đông và Vịnh Thái Lan nên hệ động thực vật thích nghi với sự

nhiễm phèn, mặn của thổ nhưỡng.
Toàn tỉnh Bạ c Liêu có 1.497 km sông, rạch, trong đó có 9 sông lớn với tổng
chiều dài 253 km, 24 kênh trục và kênh cấp 1 với tổng chiều dài 354 km, 143 kênh
cấp 2 và kênh vượt cấp với tổng chiều dài 325 km và kênh cấp 3 với tổng chiều dài
565 km. Là một trong những tỉnh có hệ thống sông rạch nhiều nhất so với cả nước ,
Bạc Liêu có tiềm năng lớn để phát triển vậ n tải biển và du lịch, cùng với những vườn
cây ăn trái, xen những cánh rừng phòng hộ ven biển tạo nên sự hấp dẫn cho du lịch
sinh thái. Tuy nhiên, hệ thống sông rạch cũng tạo sự chia cắt địa bàn, gây khó khăn
cho giao thông đường bộ.
Khí hậu tỉnh Bạc Liêu mang những đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, cận
xích đạo; đồng thời chịu ảnh hưởng rõ rệt của biển, một năm chia làm 2 mùa: mùa
mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 dương lịch, với lượng
mưa trung bình 1.867,8 mm/năm, mùa mưa chiếm trên 90% lượng mưa cả năm. Do
nằm ở vĩ độ thấp (9
0
00 vĩ Bắc) nên tỉnh Bạc Liêu ít bị ảnh hưởng của bão và áp thấp
nhiệt đới.
Bạc Liêu không bị ảnh hưởng trực tiếp của lũ lụt hệ thống sông Cửu Long ,
nhưng chịu ảnh hưởng của chế độ thủ y triều biển Đông và một phần chế độ nhật triều
biển Tây. Nhờ vậy nửa diện tích Bắc Quốc lộ 1A có thể chuyển đổi để nuôi trồng
thủy sản mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Do những điều kiện về thổ nhưỡng , thủy văn và các đặc trưng về thời tiết , khí
hậu, Bạc Liêu có khả nă ng sử dụng 83,58% diện tích đất tự nhiên để trồng lúa , cây

15
hàng năm , cây lâu năm ; đất trồng rừng , nuôi tôm, làm muối là 13,49%; đất sông,
kênh rạch khoảng 2,9%.
Tỉnh Bạc Liêu có 152.000 ha đất tự nhiên dần được ngọt hóa theo tiến độ thực
hiện Chương trình ngọt hóa Quản lộ Phụng Hiệp của Trung ương với 176.000 ha đất
sản xuất nông nghiệp, trong đó có 70.000 ha đất sản xuất lúa trong vùng ngọt hóa [38,

tr. 4].
Nhìn chung điều kiên tự nhiên của Bạc Liêu có nhiều thuận lợi cho việc phát
triển một nền nông nghiệp toàn diện. Vùng Bắc Quốc lộ 1A là khu vực ngọt hoá. Phía
Đông - Bắc thích hợp với trồng lúa, màu và cây nông nghiệp. Phía Tây thích nghi cho
nuôi trồng thủ y sản và lúa - tôm. Vùng Nam Quốc lộ 1A phù hợp với nuôi trồng thủ y
sản, làm muối, trồng rừng ngập mặn và phát triển du lịch biển.
Về kinh tế, khi mới được tái lập, điểm xuất phát về kinh tế của tỉnh Bạc Liêu rất
thấp. Kết cấu hạ tầng lạc hậu, toàn tỉnh chỉ có 25/48 xã, phường có đường bộ đến
trung tâm xã. Thu nhập bình quân đầu người năm 1997 là 2,45 triệu đồng, bằng 2/3
mức thu nhập bình quân của tỉnh Cà Mau. Giá trị tổng sản phẩm chỉ chiếm 0,65% của
cả nước, trong khi đó mật độ dân số lại cao gấp 1,4 lần so với cả nước. Bạc Liêu có
nguồn lao động dồi dào (346.600 người), nhưng trình độ kỹ thuật và tay nghề rất
thấp
*
.
Năm 1997, toàn tỉnh có 30 cơ sở sản xuất đường thủ công từ cây mía, phần lớn
tập trung ở huyện Hồng Dân, 277 cơ sở xay xát chế biến gạo, trong đó có 4 nhà máy
có khả năng chế biến gạo xuất khẩu, số còn lại là những cơ sở xay xát nhỏ của cá
nhân hộ gia đình, thiết bị cũ kỹ, lạc hậu.
Trong 22 năm trước ngày tái lập lập tỉnh, sản lượng lúa hàng năm trên vùng đất
Bạc Liêu tuy ở mức khá cao, dao động từ 600 đến 700 ngàn tấn/năm, diện tích canh
tác hơn 116 ngàn ha, nhưng toàn là lúa tiêu dùng nội địa và chủ yếu là để đáp ứng
nhu cầu về lương thự c cho tỉnh . Đặc điểm nổi bật củ a nền kinh tế lúc đó là độc canh
cây lúa, năng suất không cao, giá nông sản bấp bênh, khó tiêu thụ, làm cho đại bộ
phận nông dân phải cam chịu cảnh nghèo túng triền miên, tỷ lệ hộ nghèo chiếm trên


*
Năm 1996, có 19.610 lao động trong công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, trong đó lao động có trình độ đại
học, cao đẳng, chuyên nghiệp chỉ chiếm 0,5%, công nhân kỹ thuật 9-10%, trên 89% còn lại là công nhân tay

nghề bậc thấp và chưa qua đào tạo…[238, tr. 3]. Đội ngũ cán bộ quản lý vừa thiếu, vừa yếu về chuyên môn,
nghiệp vụ, tác động không nhỏ đến điều hành sản xuất, kinh doanh và tìm kiếm thị trường [238, tr. 12-15].

16
23% tổng số hộ (gần 40 ngàn hộ). Sở dĩ hạt lúa của Bạc Liêu mấy chục năm dài sau
giải phóng không vươn xa được, đơn giản là vì không chế biến, xuất khẩu.
Hoạt động thương mại - dịch vụ của Bạc Liêu khi tái lập tỉnh còn rất nhiều khó
khăn. “Chất lượng hàng xuất khẩu thấp, mẫu mã đơn điệu, công nghệ lạc hậu mang
nhiều tính chất sơ chế nên hiệu quả kinh tế thấp” [238, tr. 16].
Về xã hộ i , Tỉnh Bạc Liêu có dân số 795.323 người (1997), với mật độ 317
người/km
2
, thấp hơn mức bình quân chung của đồng bằng sông Cửu Long. Dân số
khu vực thành thị chiếm 24%, nông thôn 76%. Nếu chia theo nông nghiệp và phi
nông nghiệp thì tỷ lệ tương ứng là 79% và 21%. Tỷ lệ này chứng tỏ một bộ phận khá
đông dân số ở thành thị vẫn sống bằng nghề nông.
Thành phần dân tộc ở Bạc Liêu chủ yếu là người Kinh (chiếm 89,5%), người
Hoa chiếm 2,5%, người Khơme chiếm gần 8%. Dân cư trong tỉnh phân bố không đều,
thường tập trung ở thị xã, thị trấn, ven kênh rạch [238, tr. 1-2].
Sinh sống trên mảnh đất lịch sử giàu truyền thống yêu nước và cách mạng ,
ngườ i dân Bạ c Liêu mang né t đặ c thù là cần cù , thông minh , sáng tạo , hào hiệp ,
phóng khoáng. Cùng với phong trào cách mạng chung của cả nước , Đả ng bộ và nhân
dân Bạ c Liêu đã có nhữ ng đó ng gó p quan trọ ng và o sự nghiệ p đấ u tranh giả i phó ng
dân tộ c, thố ng nhấ t Tổ quố c và xây dự ng CNXH.
Những điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hộ i khá thuận lợi chí nh là nguồ n nội lực
để Bạc Liêu tiến hành CDCCKT , đẩy mạnh CNH, HĐH. Tuy nhiên trong quá trình
đó, Bạc Liêu phải vượt qua không ít khó khăn do kết cấu hạ tầng còn yếu kém, nhất
là hệ thống giao thông đường bộ chưa phát triển ở nông thôn; nguồn lao động chủ yếu
vẫn là lao động phổ thông. Nền kinh tế còn mang nặng tính thuần nông, sản xuất
hàng hóa chưa phát triển. Điều đó cũng quy định CDCCKT ở Bạc Liêu phải bắt đầu

từ nông nghiệp.


- Cơ cấu kinh tế trước ngày tái lập tỉnh
Với tinh thần đổi mới toàn diện , bắt đầu từ đổi mới tư duy kinh tế , Đại hội VI
(12-1986) của Đảng chỉ rõ : “Muốn đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng rối ren, mất
cân đối, phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý, trong đó
các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại sản xuất có quy mô và trình độ

17
kỹ thuật khác nhau phải được bố trí cân đối, liên kết với nhau, phù hợp với điều kiện
thực tế, đảm bảo nền kinh tế phát triển ổn định” [41, tr. 47].
Trong bố trí CCKT, Đại hội chủ trương phải đưa nông nghiệp lên mặt trận hàng
đầu, tập trung thực hiện ba chương trình kinh tế lớn: lương thực - thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Đây là sự cụ thể hoá nội dung chính của CNH XHCN
trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH, là bước đột phá trong tư
duy và nhận thức đổi mới về CDCCKT trong thời kỳ mới của Đảng.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, ngày 5-4-1988 BCT (khoá VI) ra Nghị quyết 10 -
NQ/TW Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, coi HTX như đơn vị kinh tế tự quản,
hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ, nhận khoán với HTX. BCT chỉ rõ: đổi
mới quản lý kinh tế nông nghiệp nhằm khắc phục các nhược điểm, sai lầm trong các
chính sách lớn đối với nông nghiệp và phải đạt các yêu cầu: 1- Thực sự giải phóng
sức sản xuất; gắn sắp xếp, tổ chức lại sản xuất với cải tạo XHCN; tăng cường cơ sở
vật chất - kỹ thuật và đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp; phát huy được
mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế; 2- Giải quyết đúng đắn các mối quan hệ về
lợi ích, nhất là bảo đảm lợi ích chính đáng của người sản xuất, trước hết là đối với
người trồng lúa . . .; 3- Mở rộng dân chủ, đề cao pháp chế, xây dựng nông thôn mới
XHCN; 4- Đổi mới về tổ chức và cán bộ phù hợp với CCKT và cơ chế quản lý mới.
Nghị quyết 10 của BCT đánh dấu bước chuyển biến về chất, góp phần quan
trọng xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, tạo tiền đề cần thiết cho sự

hình thành nền nông nghiệp hàng hóa. Nghị quyết chủ trương sắp xếp và tổ chức lại
sản xuất nông nghiệp theo hướng chuyên môn hóa kết hợp với kinh doanh tổng hợp;
gắn trồng trọt với chăn nuôi; gắn nông - lâm - ngư nghiệp với công nghiệp chế biến
và các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn… Đây là những bước đột phá
mở đầu cho CDCCKT theo hướng sản xuất hàng hóa.
Tháng 3-1989, Hội nghị lần thứ sáu BCHTƯ (khóa VI) khẳng định những
chuyển biến rõ rệt trong CDCCKT nông nghiệp từ khi thực hiện Nghị quyết 10 của
BCT, đồng thời làm rõ thêm tư tưởng đổi mới, thể hiện ở ba quan điểm lớn: 1- Mọi tổ
chức sản xuất kinh doanh do người lao động tự động góp vốn, góp sức và được quản
lý theo nguyên tắc dân chủ, không phân biệt quy mô, trình độ kỹ thuật, mức độ tập
thể hóa là HTX; 2- HTX và tập đoàn sản xuất là các đơn vị kinh tế hợp tác với nhiều
hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất; 3- Gia đình xã viên trở thành những đơn vị kinh

18
tế tự chủ, ngoài việc nhận khoán sử dụng ruộng đất, thực hiện các hợp đồng với HTX,
còn chủ động phát triển sản xuất kinh doanh dưới nhiều hình thức, khuyến khích xã
viên làm giàu; đồng thời có chính sách, biện pháp cụ thể để giúp các hộ nghèo có
thêm điều kiện để vươn lên làm ăn tốt.
Hội nghị còn chỉ rõ những phương hướng và cụ thể hóa đổi mới cơ chế quản lý
vĩ mô của Nhà nước nhằm kiên quyết xóa bỏ bao cấp, xác lập đầy đủ chế độ tự chủ
trong sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế, xóa bỏ độc quyền trong kinh doanh,
tạo môi trường và hành lang pháp lý cho các đơn vị sản xuất kinh doanh năng động.
Đại hội VII của Đảng (6 -1991) tổng kết thành tựu 5 năm đổi mới, khẳng định
những kết quả thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế “gắn liền với
những chuyển biến tích cực trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư và bố trí lại cơ cấu
kinh tế” [43, tr. 19-20]. Đại hội đề ra những định hướng lớn trong chính sách kinh tế,
trong đó có quan điểm phải đảm bảo tăng trưởng kinh tế gắn liền với quá trình xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, CDCCKT theo hướng từng bước CNH, thoát khỏi tình
trạng nông nghiệp lạc hậu. “Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp
chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình

hình kinh tế - xã hội; tăng tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp, mở rộng kinh tế dịch
vụ theo hướng huy động triệt để khả năng sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu;
đẩy mạnh thăm dò khai thác, chế biến dầu khí và một số loại khoáng sản; lựa chọn để
phát triển một số ngành công nghiệp, ưu tiên phát triển điện, giao thông, thuỷ lợi và
thông tin liên lạc”. [43, tr. 120]. Trong quá trình CDCCKT, nền kinh tế quốc dân sẽ
gồm nhiều ngành, nghề, nhiều quy mô, nhiều trình độ công nghệ. Phát triển nông -
lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu. Đẩy mạnh công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất
khẩu, mở rộng kinh tế đối ngoại, phát triển kinh tế dịch vụ, xây dựng đồng bộ kết cấu
hạ tầng. Xây dựng nền công nghiệp với bước đi thích hợp, trước hết là các ngành trực
tiếp phục vụ nông nghiệp. Thực hiện chuyên môn hoá và liên kết kinh tế giữa các
vùng, các địa phương. Xây dựng các trung tâm kinh tế của từng vùng, tạo điều kiện
liên kết công nghiệp với nông nghiệp, thành thị với nông thôn, phát triển giao lưu
hàng hoá.
Đại hội chủ trương: tập trung đầu tư cả chiều rộng lẫn chiều sâu, tạo chuyển
biến rõ nét về CCKT, trước hết đối với những ngành và vùng trọng điểm, có hiệu quả

19
cao. Trong phương hướng phát triển kinh tế ngành và vùng, Đại hội nhấn mạnh:
“Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện
kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn
định tình hình kinh tế - xã hội. Xây dựng phương án tổng thể trên từng vùng, hình
thành cơ cấu kinh tế hợp lý về nông, lâm, ngư, công nghiệp phù hợp với sinh thái
vùng, bảo vệ tài nguyên, gắn phát triển sản xuất nông-lâm-ngư nghiệp với phát triển
ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp chế biến bằng công nghệ thích hợp;
xây dựng các điểm kinh tế - kỹ thuật - dịch vụ ở từng vùng và tiểu vùng; xây dựng
kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết cấu hạ tầng xã hội ở nông thôn ” [43, tr. 62-63].
Để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn, Hội nghị lần
thứ năm BCHTƯ Đảng (khoá VII) (6-1993) ra Nghị quyết về Tiếp tục đổi mới và
phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Hội nghị đánh giá thực trạng nông nghiệp, nông

thôn Việt Nam, xác định mục tiêu, quan điểm đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội
nông thôn từ năm 1993 đến năm 2000, đồng thời đề ra phương hướng và giải pháp cụ
thể để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế xã hội nông thôn, xây dựng nông thôn mới
theo định hướng XHCN.
Hộ i nghị xác định mục tiêu : Một là, phát triển nhanh, vững chắc nông - lâm -
ngư, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn, nâng cao chất lượng và
hiệu quả kinh doanh để thu hút đại bộ phận lao động dư thừa, tăng năng suất lao
động, giải quyết vững chắc nhu cầu lương thực thực phẩm; đáp ứng nhu cầu nguyên
liệu cho công nghiệp và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, bảo vệ môi trường sinh
thái. Hai là, cải thiện một bước đời sống văn hoá của nông dân, tăng diện giàu và đủ
ăn, xoá đói giảm nghèo. Ba là, xây dựng nông thôn mới.
Trên cơ sở xác định các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nông thôn trong thời
kỳ mới, Hội nghị đề ra phương hướng và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội nông
thôn, thể hiện trên những điểm chủ yếu là: 1- Đặt sự phát triển của kinh tế nông
nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá trong quá trình CNH, HĐH đất
nước. Đổi mới CCKT nông nghiệp theo hướng coi trọng đúng mức sản xuất lương
thực; tăng nhanh sản lượng, năng suất, nâng cao chất lượng sản xuất và chế biến
lương thực; tăng tỷ trọng chăn nuôi trong giá trị sản phẩm nông nghiệp; thâm canh
mở rộng diện tích một số cây công nghiệp, mở rộng phát triển cây ăn quả và xây
dựng thủy sản thành ngành kinh tế mũi nhọn… CDCCKT nông thôn theo hướng phát

×