Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

đảng cộng sản việt nam xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất thời kỳ 1945 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 136 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TRẦN LÊ THANH

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO XÂY
DỰNG MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT
THỜI KỲ 1945-1954

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Người hướng dẫn: PGS.TS. Phạm Hồng Chương

Hà nội - 2005


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu.................................................................................................

1

Chương 1. Khái quát quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt
trận dân tộc thống nhất trước năm 1945..................................

5

1.1. Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất thời kỳ
1930-1940.....................................................................................

5



1.2. Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận Việt Minh thời kỳ 1941-1945

18

Chương 2. Đảng lãnh đạo mở rộng và phát triển Mặt trận dân
tộc thống nhất thời kỳ 1945-1954..............................................

29

2.1. Củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất (1945-1951)....

29

2.2. Thống nhất Việt Minh và Liên Việt đưa cuộc kháng chiến đi tới
thắng lợi (1951-1954)...................................................................

57

Chương
3.
Thành
nghiệm..............................................

tựu



kinh


92

3.1. Thành tựu.......................................................................................

92

3.2. Kinh nghiệm..................................................................................

96

Kết luận...............................................................................................

111

Danh mục tài liệu tham khảo............................................................

113

Phụ lục.................................................................................................

120


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

1. Mặt trận dân tộc thống nhất:

MTDTTN

2. Mặt trận Việt Minh:


MTVM

3. Hội Liên Việt:

HLV

4. Mặt trận Liên Việt:

MTLV


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đoàn kết toàn dân trong MTDTTN là vấn đề chiến lược đã được xác
định ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Lịch sử dân tộc Việt Nam
trong hơn 70 năm qua đã chứng minh đây là một nhân tố quan trọng để Đảng
ta đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác: cách mạng
tháng Tám, kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ và những thành
tựu trong công cuộc đổi mới đất nước. Nhận thức rõ vai trò hết sức quan trọng
của MTDTTN trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã chỉ rõ: “Thực hiện đại đoàn kết các
dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa
tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người
đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc
Việt Nam dù sống ở trong nước hay ở nước ngoài. Phát huy sức mạnh của cả
cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường và lòng tự
hào dân tộc, lấy mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất vì dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng; tôn
trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xoá bỏ

mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần,
xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai” [20, tr.45].
Trước âm mưu của các thế lực thù địch và phản động tìm cách chia rẽ,
phá hoại khối đoàn kết dân tộc và trong điều kiện của nền kinh tế thị trường
đang làm nảy sinh những mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa cá nhân với tập thể,
cộng đồng và xã hội đã và đang tác động đến tính bền vững của khối đại đoàn

1


kết dân tộc, Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) đã
ra Nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” nhằm củng cố và tăng
cường khối đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới. Điều đó càng chứng tỏ
tầm quan trọng của MTDTTN trong cả bảo tồn và phục hưng dân tộc theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức rõ ý nghĩa và tính cấp thiết của vấn đề, tôi chọn đề tài:
“Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất
thời kỳ 1945 - 1954” làm luận văn tốt nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vai trò lãnh đạo của
Đảng trong xây dựng MTDTTN và đã được công bố như: Giáo trình Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội; Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam (sơ thảo), tập 1 (1981), NXB Sự thật, Hà Nội; Tổng
kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài học (1996), NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội... Tuy nhiên các công trình trên mới chỉ đề cập ở
trên bình diện chung nhất, chưa đi sâu vào nghiên cứu Đảng lãnh đạo xây
dựng MTDTTN.
Các chuyên khảo về MTDTTN như: Lược sử Mặt trận dân tộc thống
nhất trong cách mạng Việt Nam của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam (1995), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội; Mặt trận dân tộc thống
nhất trong cách mạng Việt Nam của Nguyễn Công Bình (1963), NXB Khoa
học, Hà Nội; Mặt trận Việt Minh của Nguyễn Thành (1991), NXB Sự thật, Hà
Nội… Các công trình này mới đề cập đến vấn đề nghiên cứu ở mức độ khái
quát và chủ yếu là dừng lại ở khía cạnh nghiên cứu làm rõ vai trò của
MTDTTN trong cách mạng Việt Nam.

2


Nhiều bài viết của các nhà khoa học đã được đăng tải trên các tạp chí:
Cộng sản; Lịch sử Đảng; Nghiên cứu lịch sử; Lịch sử quân sự; Thông tin
khoa học xã hội nhân văn quân sự như: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Mặt trận dân tộc thống nhất, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân - những
kinh nghiệm lịch sử của Trần Văn Đăng (2001), Thông tin khoa học xã hội
nhân văn quân sự (số 74); Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam - Sáng tạo độc
đáo của Hồ Chí Minh của Khuất Thị Hoa (2000), Tạp chí Lịch sử Đảng (số
7); Một số vấn đề về xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất trong điều kiện
hiện nay của Phạm Hồng Chương (2001), Thông tin khoa học xã hội nhân văn
quân sự (số 74)… đã nghiên cứu về MTDTTN ở những góc độ khác nhau,
những giai đoạn, thời kỳ khác nhau.
Như vậy, cho đến nay tuy đã có những công trình đi sâu nghiên cứu về
Đảng lãnh đạo xây dựng MTDTTN, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách hệ thống về Đảng lãnh đạo xây dựng MTDTTN thời kỳ 1945 1954.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Góp phần làm rõ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo
xây dựng MTDTTN những năm 1945 - 1954. Qua đó, rút ra một số kinh
nghiệm về chỉ đạo xây dựng MTDTTN trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
* Nhiệm vụ:

Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với MTDTTN trong giai đoạn
1945 - 1954.
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung lãnh đạo được thể hiện trong quan
điểm, chủ trương, đường lối để làm rõ sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng
MTDTTN thời kỳ 1945 - 1954.

3


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, đề tài sử dụng phương
pháp lịch sử, phương pháp lôgíc và các phương pháp liên ngành như phương
pháp lịch đại, đồng đại, so sánh, thống kê, phân tích, tổng hợp... để làm sáng
tỏ nội dung nghiên cứu.

4


6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
lãnh đạo xây dựng MTDTTN thời kỳ 1945 - 1954.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và
giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở nhà trường; chỉ ra những kinh
nghiệm vận dụng vào xây dựng MTDTTN hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành ba chương, 6 tiết.


5


Chương 1
KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO
XÂY DỰNG MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT TRƯỚC NĂM 1945

1.1. Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất thời kỳ
1930-1940
1.1.1. Hình thành Mặt trận dân tộc thống nhất (1930-1935)
Ngày 1-9-1858, thực dân Pháp chính thức nổ súng tiến công xâm lược
Việt Nam. Sau khi đã cơ bản kết thúc giai đoạn vũ trang xâm lược, Pháp bắt
đầu tiến hành khai thác, bóc lột sức người, sức của ở Việt Nam. Việt Nam, từ
xã hội phong kiến độc lập, trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến với 2
mâu thuẫn cơ bản là giữa toàn thể dân tộc với thực dân Pháp và giữa nhân dân
lao động, chủ yếu là giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến.
Trước tình hình đất nước, các giai cấp, tầng lớp nhân dân Việt Nam, kế
thừa truyền thống yêu nước của dân tộc, đã anh dũng, kiên cường đấu tranh
chống lại ách thống trị của thực dân và phong kiến tay sai. Phong trào yêu
nước theo hệ tư tưởng phong kiến, tiêu biểu là phong trào Cần Vương và
phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng dân chủ tư sản, tiêu biểu là các phong
trào Đông du của Phan Bội Châu, Duy tân của Phan Chu Trinh, Đông kinh
nghĩa thục của Lương Văn Can, Nguyễn Quyền... đã diễn ra rất sôi nổi nhưng
cuối cùng đều thất bại. Một nguyên nhân quan trọng là do lãnh tụ của các
phong trào yêu nước chưa thấy rõ vai trò của lực lượng dân tộc và sự cần thiết
phải đoàn kết các lực lượng dân tộc vào hàng ngũ đấu tranh chống đế quốc và
phong kiến tay sai. Đầu thế kỉ XX, cách mạng Việt Nam đứng trước sự bế tắc
về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Trong bối cảnh đó, người thanh niên Nguyễn Tất Thành với lòng yêu
nước nồng nàn đã quyết chí ra đi tìm con đường cứu nước cho dân tộc. Từ


6


tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam và phong
trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa, từ truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân tộc hàng
nghìn năm và những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về lực
lượng cách mạng, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, xây dựng MTDTTN của
Người đã hình thành.
Nội dung của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc đã được thể hiện qua các
bài viết đăng trên các tờ báo “Người cùng khổ”, “Nhân đạo”, “Đời sống công
nhân”, các bài tham luận tại Hội nghị nông dân quốc tế (10-1923), Đại hội
lần thứ V của Quốc tế Cộng sản (6-1924), và đặc biệt là các tác phẩm “Bản
án chế độ thực dân Pháp”, “Đường cách mệnh” của Người... Trong tác phẩm
“Bản án chế độ thực dân Pháp”, Người chỉ rõ “Ở Đông Dương, chúng ta có
đủ tất cả những cái mà một dân tộc có thể mong muốn như: hải cảng, hầm
mỏ, đồng ruộng mênh mông, rừng rú bao la; chúng ta có những người lao
động khéo léo và cần cù. Nhưng chúng ta thiếu tổ chức và thiếu người tổ
chức! Bởi thế công nghiệp và thương mại của chúng ta là một con số
không”[54, tr.132].
Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, tư tưởng của Người về đại đoàn
kết dân tộc và xây dựng MTDTTN được thể hiện rõ hơn: “...cách mệnh là
việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người” [55, tr.261262]. Trong “cả dân chúng” ấy thì “...công nông là gốc cách mệnh; còn học
trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ ...chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông
thôi” [55, tr.266]. Đây là những quan điểm đầu tiên của Người về xây dựng
MTDTTN bao gồm nhiều giai tầng xã hội với công nông làm nòng cốt.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Nguyễn ái Quốc đã được thể nghiệm
qua các hình thức tập hợp quần chúng, như: Hội những người Việt Nam yêu
nước, Hội Liên hiệp thuộc địa, Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức, Hội Việt

Nam cách mạng Thanh niên... Tư tưởng và những hình thức tập hợp quần

7


chúng trên đây của Người đã trở thành nền móng tư tưởng và tổ chức cho
hoạt động lãnh đạo xây dựng MTDTTN của Đảng ta sau này.
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt
lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng,
do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã vạch rõ phương hướng chiến lược của cách
mạng Việt Nam là làm cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất
để tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Trên cơ sở đó, Cương lĩnh xác định rõ đường
lối tập hợp lực lượng, xây dựng MTDTTN của Đảng là: “phải thu phục cho
được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được
dân chúng”, “phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào
hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng”, “phải hết sức liên lạc với tiểu tư
sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô
sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam
chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng
trung lập” [23, tr.4].
Như vậy, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã chủ trương đoàn kết các giai
cấp, các tầng lớp, các đảng phái và các cá nhân trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam nhằm thống nhất dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn đánh đổ đế quốc và
phong kiến tay sai giành độc lập, tự do cho dân tộc, xây dựng xã hội mới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, một cao trào cách mạng đã diễn ra mạnh
mẽ trong những năm 1930-1931, đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh, và từ trong
cao trào, khối liên minh công - nông, nòng cốt của MTDTTN đã hình thành.
Lực lượng công - nông đã sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh chống thực
dân, phong kiến trên khắp 3 miền Bắc, Trung, Nam, đặc biệt là tại Nghệ Tĩnh.
Sức mạnh của liên minh công nông đã làm cho chính quyền địch ở nông thôn

bị tan rã hàng loạt. Từ đó, Chính quyền Xô Viết đã ra đời ở một số địa
phương.

8


Thành công của cao trào 30-31 về tập hợp lực lượng là đã hình thành
được khối liên minh công nông, động lực chính của cách mạng. Tuy nhiên,
qua thực tế cho thấy, nếu chỉ có công nông mà không tập hợp được một lực
lượng thật rộng rãi thì khó có thể đưa cách mạng đi tới thành công. Từ nhận
thức đúng đắn đó, Đảng chủ trương thành lập Hội phản đế đồng minh.
Tháng 10-1930, Hội nghị Trung ương đã ra “Án nghị quyết về vấn đề
phản đế”, trong đó nêu rõ: “Việc tổ chức phản đế là một trách nhiệm cần kíp
của Đảng... phải làm cho hội ấy có tánh chất quần chúng. Phải chiêu tập các
hội công nông, học sanh, binh lính, thanh niên, phụ nữ và các đảng phái cách
mạng khác (như Quốc dân Đảng, v.v.) lại mà tổ chức ra cho thành một hội
phản đế ở Đông Dương” [23, tr.195].
Sau Án nghị quyết, ngày 18-11-1930 Thường vụ Trung ương đã ra Chỉ
thị “Về vấn đề thành lập Hội phản đế đồng minh”. Quán triệt quan điểm đại
đoàn kết dân tộc trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Chỉ thị vạch rõ: công nông “là 2 động lực chính căn bản cho sự bố trí hàng ngũ cách mạng”, nhưng
trong cách mạng tư sản dân quyền, nếu giai cấp vô sản không tổ chức được
toàn dân thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó
thành công. Đảng ta chỉ rõ: “Từ trước các đồng chí chưa rõ vấn đề ấy, mà nay
cũng vẫn mập mờ, nên dù tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông và là
một màu sắc nhất định như: Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Thanh niên đỏ, Sinh
viên đỏ và Cứu tế đỏ; do đó thiếu mặt tổ chức thật quảng đại quần chúng, hấp
thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên hay ở vào
lớp giữa cũng vậy, và cho tới tất cả những người địa chủ, có đầu óc oán ghét
đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia, để đưa tất cả những tầng lớp và
cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp... nên tổ chức Hội phản

đế đồng minh là một công tác cần khẩn” [23, tr.227- 228].
Để triển khai thành lập Hội phản đế đồng minh, Chỉ thị đề ra những
cách thức tổ chức Hội. Căn cứ vào sự phát triển không đều của phong trào ở

9


mỗi địa phương và thái độ chính trị khác nhau của các giai cấp, tầng lớp, Chỉ
thị cho rằng cần phải tiến hành ở mỗi nơi cả 2 cách tổ chức Hội là từ trên
xuống và từ dưới lên. Đối với những nơi phong trào phát triển mạnh như
Nghệ Tĩnh thì tổ chức từ trên xuống. Đảng bộ tỉnh lựa chọn một đồng chí
đứng ra vận động thành lập một Ban chấp hành từ 5 đến 9 người, thảo luận
bản Điều lệ của Hội, đề ra kế hoạch tuyên truyền vận động. Huyện, xã nào có
điều kiện thì thành lập, không nhất thiết huyện trước xã sau hay xã trước
huyện sau. Khi có cơ sở thì mở hội nghị đại biểu, còn Nông hội và các đoàn
thể quần chúng khác thì lấy danh nghĩa đoàn thể gia nhập. Đối với những nơi
phong trào còn thấp thì tổ chức từ dưới lên bằng cách bí mật tổ chức ra các
hội biến tướng như Hội tương trợ, Hội làm ăn, Hội hiếu hỉ... để tập hợp quần
chúng. Làm dần dần, từng bước một, đến khi có lực lượng khá thì tổ chức Hội
nghị đại biểu cao cấp.
Bản Chỉ thị ra đời vào thời điểm hết sức khó khăn của cách mạng,
trước sự đàn áp, khủng bố dã man của kẻ thù. Vì vậy, điều kiện để phổ biến
và triển khai Chỉ thị tới các địa phương rất hạn chế. Trong thực tế, Hội phản
đế đồng minh chưa hình thành. Bản Chỉ thị là văn kiện đầu tiên của Đảng
chuyên về xây dựng MTDTTN, biểu thị sự quan tâm và chứng tỏ sự trưởng
thành của Đảng trong lý luận xây dựng MTDTTN. Đây là tiền đề lý luận để
Đảng tiến tới thành lập những MTDTTN rộng lớn sau này.
Trước sự phát triển của phong trào quần chúng, thực dân Pháp và tay
sai đã thẳng tay đàn áp, khủng bố, hòng dập tắt phong trào cách mạng. Dưới
ánh sáng của bản “Chương trình hành động” của Ban lãnh đạo Trung ương ra

tháng 6-1932, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam từng bước vượt qua
thời kì thoái trào.
Trên cơ sở phong trào cách mạng và hệ thống tổ chức Đảng đã được
khôi phục, Đại hội Đảng lần thứ nhất được tổ chức vào tháng 3-1935, tại Ma
Cao (Trung Quốc) đã vạch rõ nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng là:

10


tranh thủ rộng rãi quần chúng và quyết định thành lập Hội phản đế liên minh.
Đại hội đã đề ra chính sách Mặt trận của Đảng là không chỉ liên hệ với các
đoàn thể cách mạng mà còn phải liên hệ với những đảng phái quốc gia, những
phần tử cách mạng lẻ tẻ “để tăng gia lực lượng phản đế”. Đảng cũng đề ra
sách lược phân hoá, tranh thủ các tổ chức, các đảng phái quốc gia cải lương
kể cả các tổ chức, tầng lớp và tay chân của đế quốc.
Cũng như Hội phản đế đồng minh, Hội phản đế liên minh chưa hình
thành về tổ chức trong thực tế nhưng chính sách Mặt trận trên đây là sự bổ
sung và phát triển thêm một bước lý luận xây dựng MTDTTN của Đảng ta.
1.1.2. Bước phát triển mới của Mặt trận dân tộc thống nhất (1936 -1940)

Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 và nguy cơ một
cuộc khủng hoảng kinh tế mới khiến cho mâu thuẫn xã hội trong các nước tư
bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt hơn. Tại các nước Đức, Ý, Nhật, chủ nghĩa
phát xít ra đời và lực lượng phát xít đã lên cầm quyền, đang tích cực chuẩn bị
chiến tranh để chia lại thế giới, đe dọa trực tiếp tới nền hoà bình, an ninh quốc
tế. Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản, tại Mátxcơva, tháng 7-1935,
trên cơ sở xác định nhiệm vụ trước mắt của nhân dân thế giới là đấu tranh
chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, giành dân chủ và hoà bình đã
chủ trương thành lập mặt trận chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do
cơm áo và hoà bình. Tại Pháp, Mặt trận nhân dân chống phát xít được thành

lập và giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử năm 1936. Chính phủ Mặt
trận nhân dân Pháp lên cầm quyền đã ban hành một số chính sách tiến bộ đối
với các nước thuộc địa.
Tại Đông Dương, đời sống của các giai cấp, tầng lớp nhân dân, kể cả tư
sản, địa chủ hết sức khó khăn. Yêu cầu cải thiện đời sống và được hưởng các
quyền tự do dân chủ đặt ra một cách bức thiết. Hệ thống tổ chức Đảng và
phong trào cách mạng đã được khôi phục.

11


Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản và tình hình Đông
Dương, đồng chí Lê Hồng Phong, sau khi dự Đại hội lần thứ VII của Quốc tế
Cộng sản, đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương tháng 7-1936, tại
Thượng Hải (Trung Quốc). Hội nghị xác định mục tiêu trước mắt của cách
mạng Đông Dương là chống phát xít, chống chiến tranh, chống bọn phản
động thuộc địa, đòi các quyền tự do dân chủ, cơm áo, hoà bình. Để thực hiện
mục tiêu trên, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân
phản đế Đông Dương, nhằm tập hợp các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể
chính trị, các tín ngưỡng, tôn giáo, các dân tộc ở Đông Dương đấu tranh đòi
các quyền tự do dân chủ.
Sau Hội nghị, trong Văn kiện “Chung quanh vấn đề chính sách mới”
ra ngày 30-10-1936, Đảng đã đề ra chính sách Mặt trận là: cần biết phân biệt
đâu là kẻ thù nguy hiểm nhất trong lúc hiện thời để tập trung ngọn lửa đấu
tranh vào chúng. Từ đó, Đảng xác định kẻ thù trực tiếp của cách mạng Đông
Dương lúc này chưa phải là đế quốc Pháp nói chung mà là bọn phản động
thuộc địa, cần tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc đấu tranh chống phản
động thuộc địa, đòi các quyền tự do dân chủ, đồng thời Đảng cũng chỉ rõ
“Nhưng xét tình hình quần chúng vận động hiện thời cả về chính trị và về tổ
chức chưa tới trình độ trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp, lập chính quyền công

nông, giải quyết vấn đề điền địa. Vậy nhiệm vụ lập Mặt trận nhân dân phản đế
rộng rãi chính để bao gồm các giai cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị
và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ Đông Dương để cùng
nhau tranh đấu để đòi những điều kiện dân chủ đơn sơ” [25, tr.144].
Văn kiện chỉ ra hình thức tổ chức bí mật của Mặt trận rất hạn chế đối
với việc gia nhập của quần chúng, do đó, muốn cho Mặt trận có cơ sở quần
chúng rộng rãi thì phải sửa đổi hình thức tổ chức quần chúng theo lối công
khai và bán công khai như Hội tương tế, Hội ái hữu, Hội đồng hương, Hội
học sinh, Hội thể thao, Hội lợp nhà, Hội đưa ma...; về phương pháp tuyên

12


truyền, cần đề ra nội dung tuyên truyền gắn với quyền lợi hàng ngày của đông
đảo quần chúng và của toàn dân tộc.
Như vậy, căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể, Đảng đã điều chỉnh chính sách
và hình thức tổ chức Mặt trận cho phù hợp nhằm mở rộng hàng ngũ Mặt trận,
cô lập kẻ thù. Theo tinh thần đó, từ năm 1936, Đảng đã chỉ đạo xây dựng và
phát triển Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương.
Nắm được việc Quốc hội Pháp quyết định sẽ cử một phái đoàn sang
điều tra tình hình kinh tế, chính trị ở đông Dương, Đảng chủ trương phát động
phong trào “Đông Dương Đại hội”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, một
phong trào quần chúng đã dấy lên sôi nổi trên cả nước. Uỷ ban trù bị Đại hội
Đông Dương được thành lập tháng 8-1936. Các Uỷ ban hành động ra đời
khắp thành thị và nông thôn để vận động quần chúng cử đại biểu tham dự Đại
hội Đông Dương, đưa “dân nguyện”... Đến đây, hình thức Mặt trận thống
nhất nhân dân phản đế Đông Dương đã hình thành bằng một phong trào của
quần chúng đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ. Từ kết quả này cho thấy, chính
sách và hình thức Mặt trận do Đảng đề ra là phù hợp với nguyện vọng của
đông đảo quần chúng nên đã được sự hưởng ứng tích cực của quần chúng.

Nhưng sau đó, trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng, chính
quyền thực dân đã ra lệnh giải tán các Uỷ ban hành động. Vì vậy, chủ trương
của Đảng là thành lập một tổ chức thống nhất trên toàn quốc của phong trào
“Đông Dương Đại hội” đã không thể thực hiện được.
Qua thực tiễn hoạt động của Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế
Đông Dương, Đảng nhận thấy rằng, còn thiếu sự quan tâm đến các lực lượng
quần chúng khác ngoài công nông, chưa có đường lối liên minh đúng đắn với
các tầng lớp trên và các đảng phái chính trị. Do vậy, ngày 16-11-1936, trong
Thư gửi các Đảng viên của Đảng và các Đoàn Thanh niên Cộng sản Nam Kỳ,
Đảng xác định: “Chúng ta phải làm việc một cách tích cực để thực hiện một
Mặt trận nhân dân nhằm làm nổi bật ý đồ của chúng ta đoàn kết tất cả các lực

13


lượng đấu tranh cho hoà bình, tự do và cơm gạo” [25, tr.172]. Từ đó, chủ
trương thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương của Đảng đã dần dần hình
thành: “Đảng chúng tôi thành thực tuyên bố rằng trong giai đoạn lịch sử hiện
thời ở Đông Dương, chúng tôi lấy việc lập Mặt trận dân chủ chống thế lực
thuộc địa phản động, đòi các quyền tự do dân chủ đơn sơ cho toàn xứ Đông
Dương là nhiệm vụ cao hơn hết” [25, tr.260].
Căn cứ vào yêu cầu phát triển của cách mạng Đông Dương và những
tiền đề cho sự thành lập Mặt trận dân chủ, Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương tháng 3-1938 tiếp tục chỉ rõ vấn đề lập Mặt trận dân chủ thống nhất là
một nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta trong giai đoạn hiện tại và quyết định tên
gọi của Mặt trận là Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương (gọi tắt là Mặt
trận dân chủ Đông Dương). Hội nghị chủ trương huy động toàn lực của Đảng
và sử dụng mọi phương pháp để hình thành cho được Mặt trận dân chủ Đông
Dương. Để Mặt trận có cơ sở rộng rãi, Hội nghị lưu ý Đảng phải hết sức chú ý
tới công tác vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, đồng thời đề

ra chính sách liên hiệp với các tầng lớp khác như tiểu chủ, tư sản nhỏ...
Tháng 6-1938, Đảng gửi thư kêu gọi các đảng phái, các tầng lớp nhân
dân đoàn kết để thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương: “Hỡi các đảng
phái, không phân biệt màu da, không phân biệt giai cấp ! Hỡi quốc dân đồng
bào, hãy khăng khít đoàn kết nhau lại, trừ bọn phản động và bọn khiêu khích
Tờrốtkít ra! hãy bước tới thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương” [25,
tr.400-401].
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, đông đảo các tầng lớp nhân dân đã
tích cực tham gia Mặt trận. Từ hình thức phôi thai trong phong trào Đông
Dương đại hội, Mặt trận đã tham gia tích cực vào các hoạt động báo chí, tranh
cử và phong trào đấu tranh của quần chúng... Thông qua các hoạt động đó,
Mặt trận ngày càng được mở rộng, thu hút đông đảo các lực lượng tham gia

14


như công nhân, nông dân, trí thức, thợ thủ công, tiểu thương, thanh niên, phụ
nữ, các đảng phái ...
Trong tác phẩm “Tự chỉ trích”, đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ
đã rút ra những kinh nghiệm lớn về công tác Mặt trận dân chủ của Đảng
những năm 1936-1939. Đó là, muốn lập Mặt trận dân chủ, Đảng cần liên
minh với các đảng phái dân chủ và tiến bộ thuộc tầng lớp trên, nhưng trước
hết phải thực hiện được sự liên minh của quần chúng, chủ yếu là phải xây
dựng khối liên minh công nông, lấy đây làm cơ sở của Mặt trận. Đối với các
lực lượng đồng minh, nhất là đồng minh thuộc tầng lớp trên, một mặt, cần
nhân nhượng nhất định với họ, mặt khác, phải đấu tranh khắc phục những tiêu
cực của họ để tăng cường đoàn kết. Đối với các đảng phái cải lương, cần phải
tranh thủ họ đấu tranh cho dân sinh, dân chủ, nhưng Đảng phải giữ vững độc
lập về chính trị và tổ chức, phải nắm vững quyền lãnh đạo của Đảng. Muốn
mở rộng Mặt trận dân chủ, Đảng phải biết vận dụng sách lược mềm dẻo nhằm

lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, tranh thủ tất cả các lực lượng có
thể tranh thủ được để cô lập cao độ kẻ thù trước mắt, tập trung lực lượng đánh
bại chúng.
Vào đầu năm 1939, đồng chí Nguyễn Ái Quốc gửi về nước “Những
Chỉ thị mà tôi còn nhớ và truyền đạt”, chỉ rõ sách lược của Đảng ta trong đấu
tranh giành các quyền tự do, dân chủ, hoà bình là: “ra sức tổ chức Mặt trận
dân tộc dân chủ rộng rãi” [57, tr.138]. Mặt trận này bao gồm cả những người
Pháp tiến bộ và giai cấp tư sản dân tộc, và “để phát triển và củng cố lực
lượng, mở rộng ảnh hưởng và hành động có hiệu quả”, Mặt trận dân chủ
Đông Dương phải có liên hệ chặt chẽ với Mặt trận nhân dân Pháp. Đối với
Đảng, muốn làm được nhiệm vụ trên, Đảng phải củng cố tổ chức, tư tưởng,
nâng cao trình độ đảng viên và đặc biệt là “Đối với bọn Trôtkít không thể có
thoả hiệp nào, một nhượng bộ nào. Phải dùng mọi cách để lột mặt nạ chúng

15


làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị” [57,
tr.138].
Đây là Văn kiện quan trọng và toàn diện nhất mà đồng chí Nguyễn Ái
Quốc đã chỉ đạo Đảng xây dựng MTDTTN. Đó là những vấn đề có tính
nguyên tắc xây dựng Mặt trận và những yêu cầu đối với Đảng ta.
Tháng 9-1939, chiến tranh thế giới II bùng nổ. Thực dân Pháp tăng
cường các hoạt động đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng Đông Dương.
Thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương đến đây kết thúc để chuyển sang thời
kỳ phát triển mới.
Mặt trận dân chủ Đông Dương là sự kế thừa, phát triển Hội phản đế
đồng minh những năm 1930 - 1931. Nếu như vấn đề thành lập Hội phản đế
đồng minh, trước đó, mới chỉ dừng lại ở chủ trương, chưa hình thành trong
thực tế, thì tiếp nối chủ trương đó, một mặt trận mới đã ra đời và ngày càng

phát triển vào những năm 1936 - 1939, đó là Mặt trận dân chủ Đông Dương.
Từ nền tảng chủ yếu là khối liên minh công nông, Mặt trận dân chủ Đông
Dương đã tập hợp được nhiều lực lượng mới như tiểu tư sản, tư sản dân tộc,
địa chủ tiến bộ... để hình thành nên một MTDTTN rộng lớn. Đồng thời từ
công tác lãnh đạo, tổ chức Mặt trận đã để lại cho Đảng ta những kinh nghiệm
về xây dựng MTDTTN như xây dựng khối liên minh công nông vững chắc
làm cơ sở của Mặt trận; liên hiệp rộng rãi với các tầng lớp, cá nhân khác; đề
ra hình thức tổ chức Mặt trận phù hợp và các mục tiêu đấu tranh, đáp ứng với
yêu cầu, nguyện vọng của nhiều tầng lớp trong xã hội..., chuẩn bị cho sự ra
đời của Mặt trận Việt Minh sau này.
Ngày 1-9-1939, phát xít Đức bất ngờ tiến đánh Ba Lan. Hai hôm sau,
ngày 3-9, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức, cuộc chiến tranh thế giới II
chính thức bắt đầu. Sau khi thôn tính được Ba Lan, phát xít Đức đánh chiếm
một loạt các nước Tây Âu như Đan Mạch, Na Uy, Bỉ, Hà Lan, Lúcxămbua và

16


Pháp. Ngày 22-6-1940, Chính phủ Pháp kí hiệp ước đầu hàng. Chính phủ bù
nhìn, tay sai của phát xít Đức do Pêtanh đứng đầu đã gạt Đảng Cộng sản ra
ngoài vòng pháp luật, tiến hành khủng bố Mặt trận nhân dân Pháp, các tổ
chức và cá nhân dân chủ, tiến bộ.
Tại Đông Dương, nhân cơ hội đó, thực dân Pháp đã thi hành chính sách
cai trị thời chiến. Chúng tấn công vào phong trào cách mạng nhằm tiêu diệt
Đảng Cộng sản và các tổ chức quần chúng do Đảng lãnh đạo, thủ tiêu mọi
quyền tự do dân chủ mà nhân dân ta đã giành được trong thời kỳ 1936 - 1939,
ban bố lệnh tổng động viên và thực hiện chính sách “Kinh tế chỉ huy” nhằm
vơ vét sức người sức của để phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc. Chính sách
phản động trên đây của Pháp làm cho tình hình chính trị Đông Dương hết sức
ngột ngạt và đời sống nhân dân ngày càng thêm điêu đứng. Tháng 9-1940,

phát xít Nhật vào Đông Dương. Thực dân Pháp đã đầu hàng và câu kết với
Nhật để áp bức, bóc lột nhân dân ta. Từ đây, nhân dân ta bị đẩy vào tình cảnh
“1 cổ 2 tròng”. Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế
quốc phát triển gay gắt, trở thành mâu thuẫn chủ yếu, đòi hỏi phải được giải
quyết. Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), khởi nghĩa Nam kì (23-111940) và binh biến Đô Lương (13-1-1941) càng cho thấy rõ việc giải quyết
mâu thuẫn trên đây là yêu cầu bức bách của toàn thể dân tộc.
Tháng 11-1939, Hội nghị Trung ương 6 của Đảng họp tại Hóc Môn
(Gia Định). Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị
quyết định đặt nhiệm vụ đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng Đông Dương,
làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập lên hàng đầu: “Bước đường sinh tồn
của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con
đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng
hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập” [25, tr.536].
Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế
Đông Dương nhằm đoàn kết tất cả các dân tộc Đông Dương, các giai cấp, các

17


đảng phái, các cá nhân đấu tranh chống đế quốc, giành độc lập hoàn toàn cho
các dân tộc Đông Dương. Trên cơ sở lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, nhằm
tăng cường lực lượng cho Mặt trận, Hội nghị quyết định chỉ đề ra khẩu hiệu
tịch thu ruộng đất của đế quốc và những địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc và
thành lập Chính phủ Cộng hoà dân chủ là hình thức Chính phủ chung cho tất
cả các tầng lớp nhân dân. Về hình thức tổ chức quần chúng, Đảng chỉ rõ: phải
biết lợi dụng những tổ chức công khai như tương tế, ái hữu, phường hội, hiếu
hỉ, văn hoá, thể thao... để thu phục quảng đại quần chúng, đồng thời chú trọng
thành lập những hội bí mật như Công hộ i, Nông hội, Hội phản đế... Tuỳ theo
trình độ quần chúng mà tổ chức hình thức cho phù hợp. Các tổ chức quần
chúng dù tên gì, hình thức gì phải trên cơ sở quyền lợi thiết thực mà giác ngộ

cho quần chúng tinh thần đấu tranh đánh đổ đế quốc, giành độc lập dân tộc.
Như vậy, căn cứ vào nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng cụ thể của thời kỳ
mới, Đảng đã chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế
Đông Dương thay thế cho Mặt trận dân chủ Đông Dương trước đây. Mặt trận
mới là Mặt trận rộng lớn hơn, là sự liên hiệp các dân tộc, các giai cấp, các
đảng phái, các cá nhân có tinh thần chống đế quốc. Còn Mặt trận trước đó là
sự liên hiệp các giai cấp, các đảng phái đòi cải cách xã hội và hoà bình.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức của Mặt trận thống nhất dân tộc
phản đế Đông Dương đã dần dần hình thành ở nhiều tỉnh và phát triển nhất là
các tỉnh ở Nam kì. Số lượng hội viên của Mặt trận lên đến hàng vạn người.
Phong trào đấu tranh và cuộc vận động cách mạng phản đế phát triển rầm rộ
trên khắp ba kỳ.
Tháng 11-1940, Hội nghị Trung ương 7 của Đảng họp tại Đình Bảng
(Bắc Ninh). Hội nghị đã có phần Nghị quyết riêng về MTDTTN phản đế và
cho rằng “Chiến thuật của Đảng ta trong lúc này là tập trung hết thảy những
lực lượng phản đế, phản phong ở Đông Dương, dùng hết thảy những lực
lượng ấy, dù nhỏ, dù yếu, liên hiệp các lực lượng ấy thành một Mặt trận dân

18


tộc thống nhất phản đế, ráng sức đập thẳng vào kẻ thù chính và các hạng tay
sai của chúng” [26, tr.77].
Hội nghị đã giải quyết về cả khái niệm, tổ chức của Mặt trận, vấn đề
Đảng lãnh đạo Mặt trận và chỉ rõ rằng “Mỗi đoàn thể phản đế đều có Đảng
đoàn của Đảng ở trong đó” và “Những ý kiến của Đảng được thực hiện trong
Mặt trận bằng hai cách công tác: a) bằng cách vận động của các đảng viên ở
trong mỗi đoàn thể phản đế (công tác ở hạ tầng); b) bằng cách đề nghị của
Đảng đoàn trong các uỷ ban của Hội và của Mặt trận” [26, tr.78].
Hội nghị cũng đề ra Chương trình của Mặt trận, chỉ rõ phương pháp

tuyên truyền cổ động, hình thức đấu tranh mở rộng và liên hiệp của Mặt trận
nước ta với Mặt trận kháng Nhật ở Trung Quốc.
Theo tinh thần đó, MTDTTN được tiếp tục phát triển. Các tổ chức phản
đế nhanh chóng hình thành và ngày càng mở rộng trong nhiều tầng lớp nhân
dân. Các hội viên tích cực của các tổ chức phản đế đã được lựa chọn để tổ
chức các đội tự vệ và nhân dân cách mạng quân.
1.2. Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận Việt Minh thời kì 1941-1945
1.2.1. Chủ trương của Đảng
Bước sang năm 1941, tình hình thế giới và trong nước có những
chuyển biến mới. Sau khi chiếm đóng nước Pháp và phần lớn lục địa châu
Âu, phát xít Đức gấp rút chuẩn bị tiến công Liên Xô. Ở trong nước, Pháp
Nhật tăng cường vơ vét, bóc lột làm cho đời sống của các giai cấp, tầng lớp
trong dân tộc hết sức cơ cực.
Nắm bắt được tình hình, sau 30 năm xa Tổ quốc, Hồ Chí Minh đã kịp
thời về nước để cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo cách mạng. Sau một thời
gian chuẩn bị, dưới sự chủ trì của Người, Hội nghị Trung ương 8 của Đảng
được tổ chức từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941 tại Pắc Bó (Hà Quảng, Cao
Bằng). Hội nghị quyết định giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc:

19


“Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử,
tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được
vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc,
thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà
quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được” [26,
tr.113].
Để tập trung giải quyết nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Hội nghị chủ
trương tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân

cày” thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia
cho dân cày, chia lại ruộng đất công, giảm tô, giảm tức.
Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng
nước ở Đông Dương và quyết định thành lập ở mỗi nước một MTDTTN. Ở
Việt Nam, nhằm tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc vào nhiệm vụ cứu
nước, giải phóng dân tộc, Đảng ta chủ trương phải vận dụng một phương
pháp hiệu triệu hết sức thống thiết, làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc
xưa nay trong nhân dân. Cho nên Mặt trận phải đề ra cái tên khác cho có tính
dân tộc hơn, có một mãnh lực để hiệu triệu hơn và có thể thực hiện trong tình
hình hiện tại. Theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị quyết định
thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là MTVM). Phù hợp
với mục đích trên hết của cách mạng lúc này là cứu nước, các hội quần chúng
trong Mặt trận được thống nhất lấy tên là các “hội cứu quốc” như Công nhân
cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, Quân
nhân cứu quốc...
Hội nghị đề ra cách thức tổ chức Mặt trận: Việt Minh lấy làng, đường
phố, nhà máy làm cơ sở tổ chức. Trong một làng có hai tổ chức cứu quốc trở
lên được thành lập Việt Minh làng. Trên cấp làng là tổng, rồi lên cấp phủ
(huyện, châu), tỉnh, xứ, toàn quốc. Đoàn thể cứu quốc ở cấp nào phải tham gia
Việt Minh cấp đó. Việt Minh chỉ có hệ thống ngang không có hệ thống dọc.

20


Khắc phục những hạn chế trong cách thức tổ chức Mặt trận trước đó,
Đảng chỉ rõ, phải hạ thấp Điều lệ của Mặt trận xuống cho dễ thu phục hội
viên và cho các đoàn thể phát triển hơn. Cần tránh bệnh cô độc, quen lối lựa
chọn quá kỹ lưỡng và đưa ra điều kiện quá cao làm cho các đoàn thể phát
triển khó khăn. Điều cốt yếu hơn hết là những người gia nhập đoàn thể phải
có tinh thần cứu nước, giải phóng dân tộc. Phương pháp tổ chức phải hết sức

mềm dẻo, thích hợp từng lúc, từng nơi, không quá chú trọng về hình thức.
Việc tuyên truyền cũng phải mềm dẻo, tránh những lối tuyên truyền khô khan
để thức tỉnh tinh thần yêu nước mạnh mẽ của nhân dân.
Chỉ thị “về công tác” của Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 1-121941 đã đề ra nguyên tắc tổ chức và hệ thống tổ chức của Mặt trận phản đế.
Về nguyên tắc tổ chức: giới nào phải có tổ chức của giới ấy để cho người
trong một giới dễ gần gũi nhau, dễ làm việc với nhau; những tổ chức quần
chúng cần phải rộng rãi. Ngoài những đoàn thể cứu quốc, cần phải tổ chức ra
nhiều đoàn thể đơn sơ, không điều lệ, những tổ chức nhẹ nhàng, bán công
khai hoặc công khai; những hình thức tổ chức quần chúng phải tuỳ theo hoàn
cảnh, tuỳ theo phong trào lên hay xuống, cao hay thấp mà thay đổi. Nhất định
những tổ chức quần chúng không nên dập một kiểu cho mọi lúc, mọi nơi. Về
hệ thống tổ chức: trong một làng hay một xí nghiệp có hai đoàn thể cứu quốc
trở lên, thì hai đoàn thể ấy phải cử đại biểu họp thành Uỷ ban Việt Minh. Uỷ
ban Việt Minh làng hay xí nghiệp do các đại biểu các đoàn thể cứu quốc trong
làng hay xí nghiệp họp thành. Uỷ ban Việt Minh tổng do các đại biểu các ban
Tổng uỷ các đoàn thể cứu quốc họp thành. Uỷ ban Việt Minh tỉnh do các đại
biểu các ban Tỉnh uỷ các đoàn thể cứu quốc họp thành... Tóm lại, Uỷ ban Việt
Minh cấp nào do đại biểu các ban chấp hành các đoàn thể cứu quốc cấp ấy
họp thành.
MTVM là sự kế thừa, phát triển của các Mặt trận từ năm 1930, trực tiếp
là Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương. Đó là Mặt trận thống

21


nhất thật sự của dân tộc Việt Nam mà các Mặt trận trước đó đề cập chưa thật
đầy đủ. Điều đó cho thấy, sau từng thời kỳ, Đảng đã có những bước trưởng
thành rõ rệt trong lãnh đạo xây dựng Mặt trận thống nhất dân tộc.
1.2.2. Xây dựng Mặt trận Việt Minh
Để có cơ sở thực tiễn và kinh nghiệm cho việc thành lập MTVM, trước

Hội nghị Trung ương 8 của Đảng, Hồ Chí Minh đã tổ chức lớp huấn luyện
chính trị cho 43 cán bộ ở Tĩnh Tây (Quảng Tây, Trung Quốc). Các học viên
được trang bị những hiểu biết về tình hình thế giới và trong nước, phương
pháp, kĩ năng tổ chức, tuyên truyền quần chúng... Phương pháp huấn luyện
đối với học viên là kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, học đi đôi với
hành nhằm giúp cho học viên dễ dàng vận dụng những điều đã học để tuyên
truyền, giác ngộ quần chúng. Những bài giảng ở lớp huấn luyện, sau đó, được
in thành sách “Con đường giải phóng” để làm tài liệu huấn luyện cho cán bộ.
Kết thúc khoá học, các học viên trở về nước.
Tại Cao Bằng, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, các cán bộ,
sau khi được huấn luyện, đã trở thành nòng cốt để xây dựng thí điểm các đoàn
thể cứu quốc của MTVM. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, nhiều tổ chức cứu
quốc đã ra đời ở Cao Bằng như Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc,
Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc...
Căn cứ vào kết quả bước đầu đó, Hội nghị cán bộ tỉnh Cao Bằng đã họp
để rút kinh nghiệm. Hội nghị khẳng định chủ trương thành lập MTVM của
Đảng là hoàn toàn đúng đắn, đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng và
nguyện vọng của toàn dân. Đây là cơ sở thực tiễn hết sức quan trọng để Hội
nghị Trung ương 8 của Đảng đi đến quyết định thành lập MTVM.
Để triển khai thực hiện quyết định của Hội nghị Trung ương 8, Đảng ta
và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng nhiều hình thức kêu gọi, tuyên truyền,
vận động nhân dân gia nhập MTVM. Ngày 6-6-1941, đồng chí Nguyễn Ái

22


×