Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Sẵn lòng chi trả (WTP) cho đa dạng sinh học ở Châu Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (661.55 KB, 43 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ QUẢN TRỊ KINH DOANH

PHƯƠNG PHÁP CHUYỂN GIAO LỢI ÍCH
(Benefit-transfer Method)

GVHD:
NGUYỄN THÚY HẰNG

NHÓM:
Võ Bảo Ngọc

B1309298

Lại Hoàng Cẩm Tiên

B1309339

Nguyễn Thị Hoàng Hà

B1309263

Nguyễn Thị Thúy Huỳnh B1309269
Lê Thị Thu Thảo

B1309328


Sẵn lòng chi trả (WTP) cho đa dạng sinh học ở Châu Á: phương pháp
chuyển giao lợi ích và phân tích tổng hợp.
------------------------------------------------------------



Phần 1
Kiểm tra phương pháp chuyển giao lợi ích của việc sẵn lòng chi trả cho
việc bảo tồn rùa biển ở Châu Á.
Submitted to EEPSEA
By
Tran Huu Tuan
College of Economics, Hue University, 100 Phung Hung Street, Hue City, Vietnam.

Truong Dang Thuy
Faculty of Development Economics, University of Economics HCMC
1 Bis Hoang Dieu Street, Phu Nhuan District, Ho Chi Minh City, Vietnam.
Jin Jianjun
College of Resources Science & Technology, Beijing Normal University
No.19, Xinjiekouwai Street, Haidian District, Beijing 100875.
Anabeth L Indab
Resources, Environment & Economics, Centre for Studies, Inc. (REECs)
Suite 405, The Tower at Emerald Square, J P Rizal cor Tuazon Streets
Project 4, Quezon City 1109, Philippines.
Orapan Nabangchang
School of Economics, Sukhothai Thammathirat Open University
Chaeng Wattana Rd, Park Ket, Nonthaburi 11120, Thailand.

Date of submission: July 31,2008

2


Nhận xét được gửi về: Trần Hữu Tuấn, College of Economics - Hue
University, 100 Phung Hung Street, Hue City, Vietnam. Tel: +84 54 538332. Fax:

+84 54 529491.
Email:
EEPSEA được thành lập vào tháng 5/1993 nhằm hỗ trợ việc đào tạo và nghiên
cứu trong lĩnh vực kinh tế học môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Mục tiêu là để
nâng cao năng lực địa phương để thực hiện các phân tích kinh tế của các vấn đề và
chính sách môi trường. Nó sử dụng cách tiếp cận mạng, liên quan đến các khóa học,
hội họp, hỗ trợ kỹ thuật, tiếp cận với văn học và cơ hội cho các nghiên cứu so sánh.
Các nước thành viên là Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, Việt Nam,
Campuchia, Lào, Trung Quốc, và Papua New Guinea. EEPSEA được hỗ trợ bởi Trung
tâm Quốc tế Nghiên cứu Phát triển (IDRC), Cơ quan Hợp tác Phát triển Quốc tế Thụy
Điển (Sida) và Cơ quan Phát triển Quốc tế Canada (CIDA).
Những báo cáo của EEPSEA có sẵn miễn phí trực tuyến tại .

3


LỜI CẢM TẠ
Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Dr. Vic Adamowicz, Đại học
Alberta đã đưa ra ý kiến quý báu của ông về nghiên cứu này.
Chúng tôi muốn cảm ơn EEPSEA tài trợ cho nghiên cứu này và đặc biệt là sự
hỗ trợ của Dr. Herminia Francisco và bà Catherine Ndiaye, mà là có giá trị trong
mọi khía cạnh của chủ trương này.
Các phân tích và ý kiến trong báo cáo này là của các tác giả và không nhất
thiết phản ánh quan điểm của EEPSEA. Các tác giả tự mình chịu trách nhiệm cho
bất kỳ sai sót trong báo cáo này.

4


Mục lục

TÓM TẮT………………...................................................................................... 6
1. GIỚI THIỆU.....................................................................................................12
1.1 Bối cảnh.........................................................................................................12
1.2 Mục tiêu nghiên cứu……...............................................................................14
1.3 Cơ sở lý luận của nghiên cứu .......................................................................14
2. PHƯƠNG PHÁP LUẬN...................................................................................15
3. NGUỒN DỮ LIỆU............................................................................................17
3.1 Đặc điểm mẫu………….................................................................................17
3.2 Ước tính WTP trung bình ............................................................................19
4. KẾT QUẢ..........................................................................................................20
4.1 Phân tích hồi quy……...................................................................................20
4.2 Chuyển giao lợi ích.......................................................................................24
4.2.1 Bình đẳng vể chuyển giao giá trị trung bình.............................................25
4.2.2 Bình đẳng về chuyển giao hàm số.............................................................30
4.2.3 Sai số chuyển giao.....................................................................................32
5. KẾT LUẬN…....................................................................................................37
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................39
PHỤ LỤC...............................................................................................................42

5


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Thống kê tóm tắt về đặc điểm vấn đáp
Bảng 2. Ước tính WTP trung bình
Bảng 3. Yếu tố quyết định của việc sẵn lòng chi trả
Bảng 4. Kết quả phân tích tổng hợp của các dữ liệu gộp lại
Bảng 5. Kết quả kiểm định T-test về bình đẳng WTP trung bình giữa các quốc
gia ( một quốc gia với một quốc gia )
Bảng 6. Kết quả kiểm tra tính hợp lệ về chuyển đổi giá trị trung bình dựa trên

kiểm định t-tests ( gộp nhiều quốc gia với một quốc gia )
Bảng 7. Kết quả kiểm tra tính hợp lệ về chuyển giao hàm số dựa trên LR-tests
và Wald-tests ( một quốc gia với một quốc gia )
Bảng 8. Kết quả kiểm tra tính hợp lệ về chuyển giao hàm số dựa trên LR-tests
và Wald-tests ( gộp nhiều quốc gia với một quốc gia )
Bảng 9. Tóm tắt đo lường sai số chuyển giao giá trị đơn vị cho WTP trung bình
Bảng 10. Sai số chuyển giao trong chuyển giao hàm số về sẵn lòng chi trả ( giữa
một quốc gia với một quốc gia).
DANH SÁCH PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Mô hình logit tham số ngẫu nhiên (RPL)

6


TÓM TẮT
Đề tài nghiên cứu “Phương pháp chuyển giao lợi ích và phân tích tổng
hợp” gồm 2 phần chính. Phần đầu tiên là kiểm tra chuyển giao lợi ích (benefit
transfer) của việc sẵn lòng chi trả cho bảo tồn rùa biển tại bốn quốc gia ở châu Á:
Trung Quốc, Philippines, Thái Lan, và Việt Nam. Phần thứ hai của nghiên cứu thực
hiện phân tích tổng hợp (meta-analyses) các nghiên cứu đa dạng sinh học và bảo
tồn thiên nhiên ở Châu Á. Từ phân tích các dữ liệu xuyên quốc gia của việc sẵn
lòng chi trả cho bảo tồn rùa biển tạo thành một phân tích hoàn chỉnh và phân tích
tổng hợp bao hàm một nghiên cứu khác, chúng tôi dẫn chứng kết quả của dự án
nghiên cứu này thành hai báo cáo riêng biệt. Báo cáo đầu tiên có tiêu đề “Kiểm tra
phương pháp chuyển giao lợi ích sẵn lòng chi trả cho Bảo tồn Rùa biển ở
Châu Á” và báo cáo thứ hai “Phân tích tổng hợp về bảo tồn các giá trị tự nhiên
ở châu Á & Châu Đại Dương: Tính không đồng nhất dữ liệu và những vấn đề
chuyển giao lợi ích”.
Báo cáo này trình bày và so sánh kết quả từ một dự án nghiên cứu lớn – Địa
phương sẵn lòng chi trả cho việc bảo tồn các loài rùa biển ở Trung Quốc,

Philippines, Thái Lan, và Việt Nam bằng việc sử dụng công cụ đánh giá ngẫu nhiên
(CV). Những nghiên cứu bao hàm nghiên cứu này đã có sẵn ở những nơi khác (ví
dụ như Jianjun et al. 2006), và họ đã từng mô tả cuộc khảo sát, do đó chúng sẽ
không được mô tả trong nghiên cứu này. Nghiên cứu về phương pháp chuyển giao
lợi ích này kiểm tra tính hợp lệ và độ tin cậy của các giá trị sẵn lòng chi trả cho rùa
biển giữa các quốc gia sử dụng cả 2 phương pháp: chuyển giao giá trị đơn vị (unit
value transfer) và chuyển giao hàm số (functional transfer). Đối với chuyển đổi giá
trị đơn vị và chuyển giao hàm số, chúng tôi so sánh giữa một quốc gia với một
quốc gia và từ nhiều (gộp) quốc gia với một quốc gia như một điểm chính sách.
Nghiên cứu này cố gắng kiểm tra bất kì các phương pháp chuyển giao lợi ích có thể
làm giảm sai số chuyển giao một cách hợp lý giữa các cặp của các quốc gia và giữa
một nhóm các quốc gia với một quốc gia.
7


Trong phân tích hồi quy (regression analysis), chúng tôi sử dụng mô hình logit
nhị phân (binary logit models)cho bốn quốc gia riêng lẻ. Kết quả cho thấy những
biến số là đáng kể và ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng nói “có” đến việc phải chi
trả trong tất cả các mô hình, như mong đợi. Giáo dục là tích cực và quan trọng ở
Việt Nam. Thu nhập có ảnh hưởng một cách tích cực và đáng kể đến khả năng nói
“có” trong tất cả các mô hình, ngoại trừ Thái Lan. Những người đã có gia đình sẵn
sàng trả ít hơn trong trường hợp của Việt Nam. Để trở thành một thành viên của
một tổ chức môi trường là làm gia tăng một cách tích cực và đáng kể khả năng nói
có trong mẫu Philippines. Sau đó chúng tôi gộp lại các dữ liệu từ tất cả các nước
để ước tính một hồi quy độc lập (single regression) trong khi thấy được ảnh hưởng
quốc gia cụ thể với những biến giả (dummy variables). Kết quả hồi quy cho thấy
thu nhập, giáo dục, và các biến thành viên có ảnh hưởng đến quốc gia cụ thể đều
ảnh hưởng đến việc sẵn lòng chi trả. Vì vậy, điều quan trọng là kiểm soát sự khác
biệt trong việc định giá bảo vệ rùa biển giữa các nước. Các tác động khác biệt như
vậy được điều tra trong các bài chuyển giao lợi ích.

Các cuộc điều tra ban đầu sử dụng các mẫu phân tầng (stratified samples) để
xem xét các chương trình bảo tồn khác nhau cho các loài rùa biển (bao gồm cả 2
chương trình: bảo tồn trong khu vực bằng thanh toán bắt buộc và tự nguyện thanh
toán, và chương trình quốc gia) có cùng ước tính sẵn lòng chi trả trong tất cả các
quốc gia riêng lẻ hay không. Chúng tôi nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng
những mẫu con bắt buộc (subsamples of mandatory) và chương trình bảo tồn khu
vực trong tất cả các cuộc điều tra quốc gia. Kết quả cho thấy những mẫu con bắt
buộc và thuộc khu vực không khác biệt đáng kể trong tất cả các mô hình riêng lẻ
ngoại trừ Việt Nam. Sau đó chúng tôi kiểm tra tính hợp lệ và độ tin cậy của việc
chuyển giao lợi ích sử dụng năm đánh giá: (1) mẫu đầy đủ ở tất cả các quốc gia
(full samples in all countries); (2) mẫu con thuộc khu vực ở tất cả các quốc gia
(regional subsamples in all countries); (3) mẫu con bắt buộc trong tất cả các quốc
gia (mandatory subsamples in all countries); (4) mẫu con thuộc khu vực ở Việt Nam
và các mẫu đầy đủ ở các quốc gia khác (regional subsample for Vietnam & full
8


samples in other countries); và (5) mẫu con bắt buộc ở Việt Nam và các mẫu đầy
đủ ở các quốc gia khác (mandatory subsample for Vietnam & full samples in other
countries).
Kết quả của kểm định t-test bình đẳng về giá trị sẵn lòng chi trả trung bình
(equality of mean WTP values) giữa các quốc gia (một quốc gia với một quốc gia)
cho thấy việc đánh giá 3 (bắt buộc sẵn lòng chi trả) có vẻ là một đánh giá tốt. Kết
quả của t-test về bình đẳng của các giá trị trung bình từ nhiều quốc gia với một
quốc gia đưa ra các kết luận tương tự.
Với chuyển giao hàm số, kết quả kiểm tra tính hợp lệ dựa trên kiểm định LRtests và Wald-test của việc tiếp cận giữa một quốc gia với một quốc gia cho thấy
rằng sự lựa chọn của việc đánh giá trong một số trường hợp không phải là rất quan
trọng, có nghĩa là hàm sẵn lòng chi trả tương tự (hoặc khác nhau) giữa các cặp
quốc gia chuyển giao. Ví dụ, chuyển giao hàm số có giá trị giữa Trung Quốc và
Philippines trong tất cả các đánh giá; chuyển giao hàm số đều không hợp lệ giữa

Trung Quốc và Thái Lan không phân biệt đánh giá nào. Kết quả của việc chuyển
giao hàm số từ nhiều quốc gia với một quốc gia là không hợp lệ không phân biệt
đánh giá.
Trong thử nghiệm độ tin cậy của việc chuyển giao lợi ích, sai số chuyển đổi
của chuyển đổi giá trị đơn vị và chuyển giao hàm số đều được tính toán. Đối với
chuyển đổi giá trị đơn vị, chúng tôi đánh giá chuyển giao giá trị đơn vị đơn giản và
hiệu chỉnh phương pháp chuyển đổi giá trị đơn vị (với độ co giãn thu nhập (income
elasticities) khác nhau). Chúng tôi thấy rằng hiệu chỉnh trung bình sẵn lòng chi trả
cung cấp các sai số trong chuyển giao (transfer errors) thấp hơn so với trung bình
không hiệu chỉnh. Điều này ngụ ý rằng thêm thông tin đang được sử dụng trong
việc thực hiện chuyển giao, chuyển giao sẽ có kết quả tốt hơn.
Trong so sánh giữa các năm đánh giá, đánh giá 3 (WTP bắt buộc) cung cấp
cho các sai số chuyển giao cao hơn so với các đánh giá khác với chuyển giao giá trị
9


đơn vị nhưng nó có sai số chuyển giao thấp hơn so với các đánh giá khác với
chuyển giao hàm số. Đối với các đánh giá khác, kết quả không phải là rất khác
nhau. Điều này tạo ra các quan điểm rằng việc lựa chọn đánh giá trong điều tra sai
sót chuyển giao là không quan trọng; sai số trong chuyển giao là cụm xung quanh
giá trị tương tự từ một nước này sang người khác, hoặc khác nhau tùy thuộc vào độ
co giãn thu nhập (income elasticities) được sử dụng.
Trong so sánh giữa việc sử dụng co giãn thu nhập tại các điểm nghiên cứu(the
study site) và điểm chính sách (policy site), sử dụng co giãn thu nhập tại điểm
chính sách ở tất cả năm đánh giá cung cấp cho các sai số trong chuyển giao thấp
hơn so với sử dụng co giãn thu nhập tại các điểm nghiên cứu. Phát hiện này rất thú
vị, bởi vì trong các bài tập chuyển giao lợi ích thiết thực, chúng tôi sẽ chỉ biết và sử
dụng co giãn thu nhập tại các điểm nghiên cứu, trong khi một lý thuyết đúng sẽ là
co giãn thu nhập tại điểm chính sách.
Trong sự phân biệt giữa chuyển giao giá trị đơn vị và chuyển giao hàm số, kết

quả cho thấy rằng việc chuyển giao hàm số là tốt hơn so với chuyển đổi giá trị đơn
vị. Phát hiện này là phù hợp với kết quả báo cáo trong văn học (ví dụ như Loomis
1992; Parsons và Kealy 1994; Brouwer và Spaninks 1999;. VanderBerg et al 2003).
Sai số chuyển giao trung bình của chúng tôi là 3-217% để chuyển giao giá trị
đơn vị (unit value transfers) và 5-69% đối với chuyển giao hàm số (functional
transfers). Phạm vi này của sai số trong chuyển giao tương tự như kết quả của các
nghiên cứu trước đây. Cho ví dụ, so sánh với các nghiên cứu thử nghiệm tính hiệu
lực và độ tin cậy của chuyển giao lợi ích xuyên quốc gia, Alberini et al. (1997) đã
chuyển giao trong việc ước tính sẵn lòng chi trả (WTP) ở U.S để tránh một phần
của bệnh tật đến Đài Loan, và tìm thấy một sai số chuyển giao trung bình ở 4
chuyển giao có thể khác nhau là 34%. Chestnut et al. (1998) đã chuyển giao ước
tính sẵn lòng chi trả (WTP) trung bình ở U.S đến Bangkok, Thái Lan, và tìm thấy
sai số trong chuyển giao từ 18% đến 35%, tùy thuộc vào các tập sức khỏe kém giá
trị. Barton và Mourato (2003) đã tìm thấy sai số chuyển giao từ 87% đến 130% khi
10


so sánh trung bình trị sẵn lòng chi trả (WTP) để tránh các bệnh tật từ Bồ Đào Nha
đến Costa Rica. Abou-Ali và Belhaj (2006) chuyển giao việc sẵn lòng chi trả
(WTP) cho cải tiến chất lượng không khí giữa Morocco và Ai Cập và tìm thấy sai
số chuyển giao là 60-220%. Ready và Navrud (2006) đã xem xét nghiên cứu
chuyển giao lợi ích xuyên quốc gia (cross-country benefit transfer) để tiến hành
cập nhật và phát hiện ra rằng các sai số chuyển giao trung bình để chuyển giao lợi
ích xuyên quốc gia là trong khoảng từ 20% đến 40%, nhưng sai số trong chuyển
giao độc lập (individual transfer error) cao từ 100- 200%.
Tóm lại, so sánh hiệu suất của hai phương pháp chính của việc chuyển giao
lợi ích thì việc chuyển giao giá trị đơn vị tốt hơn chuyển giao hàm số trong những
điều kiện về sai số trong chuyển giao. Phạm vi của chúng ta về các sai số trong
chuyển giao được đóng lại để kết quả được tìm thấy trong các tài liệu. Trong một
nỗ lực để xem liệu các chương trình bảo tồn khác nhau có ảnh hưởng đến độ tin cậy

và tính hợp lệ của các bài tập chuyển giao lợi ích hay không, chúng ta xem xét năm
đánh giá bằng cách sử dụng kết hợp khác nhau của việc khảo sát phân chia những
mẫu con. Một phát hiện thú vị được phát sinh ở đánh giá 3 (bắt buộc sẵn lòng chi
trả) trong chuyển đổi giá trị đơn vị mà các bài kiểm tra tính hợp lệ cho thấy một
mức độ cao của khả năng chuyển giao so với các đánh giá khác trong khi các bài
kiểm tra độ tin cậy là ngược lại. Điều này cho thấy rằng việc chuyển giao mang
tính hợp lệ cao về giá trị sẵn lòng chi trả từ một quan điểm mang tính thống kê
không nhất thiết dẫn đến mức sai số chuyển giao thấp. Đối với chuyển giao hàm số
(tiếp cận giữa một quốc gia với một quốc gia và nhiều quốc gia với một quốc qua),
chúng ta thấy rằng đánh giá 3 (bắt buộc sẵn lòng chi trả) cung cấp những sai số
trong chuyển giao trung bình thấp hơn so với những đánh giá khác. Với những
đánh giá khác, kết quả kiểm tra tính hợp lệ cho thấy rằng sự lựa chọn của các đánh
giá không phải là rất quan trọng, có ý nghĩa rằng chuyển giao giá trị và chuyển giao
hàm số sẵn lòng chi trả (WTP) tương tự (hoặc khác nhau) giữa các cặp quốc gia
chuyển giao. Sai số trong chuyển giao là cụm xung quanh giá trị tương tự từ một

11


quốc gia đến những quốc gia khác, hoặc khác nhau tùy thuộc vào độ co giãn thu
nhập được sử dụng.
Khi phải đối mặt với quyết định về việc sử dụng chuyển giao lợi ích hoặc để
tiến hành một nghiên cứu định giá mới trong một điểm chính sách, một sự đánh đổi
phải được thực hiện giữa chi phí và thời gian kết hợp với một nghiên cứu mới, và
cải thiện độ tin cậy của việc sử dụng kết quả chuyển giao lợi ích. Tuy nhiên, không
có quy tắc của ngón tay cái (rule of thumb) trong việc lựa chọn "mức độ chấp nhận
được” sai số chuyển giao trong phân tích chính sách. Sự chấp nhận phụ thuộc vào
mức độ nhạy cảm trong so sánh giữa chi phí và lợi ích của một chính sách. Kết quả
của chúng tôi cho thấy rằng nếu một quyết định chính sách là không nhạy cảm với
sai số chuyển giao khác nhau, từ 3 đến 217%, sau đó độ tin cậy của việc chuyển

giao lợi ích giữa các quốc gia có thể chấp nhận được.

12


1. GIỚI THIỆU
1.1 Bối cảnh
Chuyển giao lợi ích liên quan đến ước tính các giá trị và các thông tin khác
của một tập hợp có ích trong một bối cảnh và chuyển giao đến một bối cảnh mới.
Nói cách khác, các giá trị và các thông tin khác thu thập được từ các điểm có sẵn
(điểm khảo sát) được áp dụng để ước tính giá trị cho các điểm không được khảo sát
(điểm chính sách). Ưu điểm của phương pháp chuyển giao lợi ích là giảm sự khó
khăn cho tiến hành nghiên cứu định giá mới khi một điểm chính sách mới đã được
định giá trước đó. Do hạn chế về thời gian và nguồn lực cần thiết để tiến hành các
nghiên cứu định giá, chuyển giao lợi ích ngày càng được sử dụng để đánh giá tác
động môi trường và sức khỏe trong phân tích chi phí lợi ích (cost-benefit analysis)
của dự án phát triển và chương trình môi trường và chính sách (Navrud và Ready
2007).
Để đánh giá tính khả thi của phương pháp chuyển giao lợi ích, chúng ta cần
phải đánh giá chính xác việc chuyển giao. Bằng cách tiến hành các cuộc khảo sát
tại một loạt các điểm, chúng ta có thể xem mỗi điểm là cả một điểm 'khảo sát' (từ
nơi mà chúng tôi chuyển giao giá trị đến các địa điểm khác) và như là một điểm
'chính sách' (đến địa điểm mà chúng tôi chuyển giao giá trị từ các địa điểm khác).
Bằng cách so sánh các giá trị này chúng tôi có được một ước tính của sai số trong
chuyển giao (tức là chênh lệch giữa giá trị quan sát tại các điểm nghiên cứu và các
giá trị dự đoán tại điểm chính sách). Đánh giá về các sai số chuyển giao cho phép
chúng tôi đưa ra phán đoán, nếu việc chuyển giao là đáng tin cậy và từ nay trở đi
trong tương lai chúng ta có thể chuyển các giá trị từ các điểm nghiên cứu đến các
điểm chính sách mà không cần phải tiến hành nghiên cứu định giá mới có đúng hay
không.

Xem xét các tài liệu cho thấy một số nghiên cứu giá trị chuyển giao lợi ích về
việc giải quyết một phạm vi rộng của hàng hoá môi trường, xem ví dụ Bergland et
al. (1995); Muthke et al. (2004); Alberini và Krupnick (1997); Brouwer và
13


Spaninks (1999); Barton và Mourato (2003) Ready et al. (2004); Brouwer và
Bateman (2005); Krupnick et al. (2006); Abou-Ali và Belhaj (2006). Hai phương
pháp chính đã được sử dụng rộng rãi trong các nghiên cứu chuyển giao lợi ích là
chuyển giá trị đơn vị và chuyển giao hàm số. Các cách tiếp cận trước đây có nghĩa
là 'mượn' giá trị ước tính từ một điểm nghiên cứu và áp dụng nó vào một bối cảnh
điểm chính sách. Cách tiếp cận này giả định rằng sở thích của một cá nhân trung
bình cho các điểm nghiên cứu cũng giống như sở thích của một cá nhân trung bình
trong bối cảnh điểm chính sách. Cách tiếp cận thứ hai thay vì chuyển thông tin từ
điểm nghiên cứu đến các điểm chính sách cần chú ý đến các mối quan hệ giữa sẵn
lòng chi trả (WTP) và các yếu tố giải thích liên quan. Trong khi phương pháp
chuyển giao giá trị đơn vị mang tính đơn giản thì trực giác đưa ra rằng việc chuyển
giao hàm số có thể cung cấp một cách tiếp cận đáng tin cậy hơn (Brouwer và
Bateman 2005).
Nghiên cứu này sử dụng cả chuyển giao giá trị đơn vị và phương pháp chuyển
giao hàm số để điều tra tính hiệu lực và độ tin cậy của phương pháp chuyển giao
lợi ích áp dụng để chuyển giao giá trị WTP cho bảo tồn rùa biển trên khắp bốn
quốc gia bao gồm Trung Quốc, Philippines, Thái Lan, và Việt Nam.
Các cuộc điều tra ban đầu sử dụng các mẫu phân tầng để xem các chương
trình bảo tồn khác nhau cho rùa biển (bao gồm chương trình bảo tồn trong khu vực
bằng thanh toán bắt buộc và tự nguyện thanh toán, và chương trình quốc gia) có
cùng ước tính sẵn lòng chi trả trong tất cả 4 quốc gia riêng lẻ hay không. (xem
Jianjun et al. 2006). Nghiên cứu này điều tra nếu sử dụng mẫu con bắt buộc khảo
sát phân chia có bất kỳ ảnh hưởng nào đến hiệu lực và độ tin cậy của việc chuyển
giao lợi ích hay không. Năm đánh giá được kiểm tra, bao gồm 1) mẫu đầy đủ ở tất

cả các quốc gia (full samples in all countries); (2) mẫu con thuộc khu vực ở tất cả
các quốc gia (regional subsamples in all countries); (3) mẫu con bắt buộc trong tất
cả các quốc gia (mandatory subsamples in all countries); (4) mẫu con thuộc khu vực
ở Việt Nam và các mẫu đầy đủ ở các quốc gia khác (regional subsample for
Vietnam & full samples in other countries); và (5) mẫu con bắt buộc ở Việt Nam và
14


các mẫu đầy đủ ở các quốc gia khác (mandatory subsample for Vietnam & full
samples in other countries).
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính của nghiên cứu là thử nghiệm các kiểm định thay thế để thực
hiện chuyển giao lợi ích các giá trị sẵn lòng chi trả (WTP) cho bảo tồn rùa biển ở
Trung Quốc, Philippines, Thái Lan, và Việt Nam. Chúng tôi xem xét các loại hình
chuyển giao giá trị đơn vị (đơn giản (naïve), co giãn thu nhập ngoại sinh
(exogenous income elasticities), mô hình dựa trên co giãn thu nhập (model-based
income elasticities)) và chuyển giao hàm số, với hai loại nhóm: giữa một quốc gia
với một quốc gia và nhiều quốc gia với một quốc gia, và năm đánh giá của việc sử
dụng mẫu con khảo sát phân chia khác nhau. Cụ thể hơn, nghiên cứu này nhằm
mục đích (ii) để kiểm tra tính hợp lệ và độ tin cậy của chuyển giao các giá trị WTP
cho rùa biển giữa bốn quốc gia này; và (ii) để tính toán sai số chuyển giao bằng
cách chuyển giao các giá trị WTP giữa bốn quốc gia.
1.3 Cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu
Việc sử dụng chuyển giao giá trị cho phân tích chính sách đã tăng lên nhanh
chóng với sự sử dụng rộng rãi phân tích chi phí lợi ích (CBA) cho nhiều dự án của
chính phủ trong suốt thập kỷ gần đây (Brookshire and Chermak 2007; Navrud and
Ready 2007). Những thuận lợi là các nhà nghiên cứu có thể ước tính giá trị lợi ích
bằng cách sử dụng thông tin hiện đã có, phương pháp chuyển giao lợi ích là một
công cụ hữu ích cho các chính sách và quyết định khi một nghiên cứu định giá mới
là không thực tế hoặc không khả thi do hạn chế thời gian hoặc các nguồn lực

(Shrestha and Loomis 2003; Brookshire and Chermak 2007; Rosenberger and
Phipps 2007).
Hiện nay chuyển giao giá trị được sử dụng rộng rãi trong kinh tế môi trường.
Tuy nhiên, vẫn còn một số câu hỏi về phương pháp luận về chuyển giao lợi ích (ví
dụ điều kiện môi trường nào thì chuyển giao lợi ích có giá trị và đáng tin cậy), mặc
dù nghiên cứu có sự tiến bộ hơn trong phương pháp phức tạp, từ chuyển giao giá trị
đơn vị đến chuyển giao hàm số đến MA để chuyển giao lợi ích và về các phương
15


pháp Bayesian (Navrud và Ready 2007; Moeltner et al 2007).. Nghiên cứu này sẽ
điều tra tính hợp lệ và độ tin cậy của hai cách tiếp cận khác nhau chuyển giao lợi
ích (giá trị đơn vị và hàm lợi ích) của giá trị WTP cho rùa biển ở các nước châu Á.
Nghiên cứu này sẽ đóng góp vào tài liệu về định giá theo cách nó là nghiên
cứu đầu tiên kiểm tra tính hợp lệ và độ tin cậy của việc chuyển giao lợi ích của giá
trị WTP bảo tồn rùa biển trong một bối cảnh xuyên quốc gia.
2. PHƯƠNG PHÁP
Chuyển giao lợi ích được định nghĩa là việc áp dụng các giá trị và các thông
tin khác từ một điểm nghiên cứu có dữ liệu đến một điểm khác (điểm chính sách)
với rất ít hoặc không có dữ liệu (Rosenberger và Loomis 2000a).
Nghiên cứu này được áp dụng kỹ thuật chuyển giao lợi ích để kiểm tra tính
hợp lệ và độ tin cậy của các lợi ích chuyển giao. Việc kiểm tra tính hợp lệ nghiên
cứu mức độ mà các giá trị và hàm số WTP được chuyển giao từ một quan điểm
theo thống kê (còn gọi là kiểm tra tính hợp lệ theo thống kê). Độ tin cậy đề cập đến
mức độ mà các giá trị dự đoán và các giá trị ban đầu là giống nhau, điều mà được
đo lường về mặt sai số chuyển giao; xem Brouwer and Bateman (2005); Krupnick
et al. (2006).
Trong nghiên cứu này, chúng tôi xem xét hai loại chuyển giao: chuyển giá trị
đơn vị và chuyển giao hàm số, với hai nhóm: giữa một quốc gia với một quốc gia
và nhiều quốc gia (ngoại trừ quốc gia chúng tôi đang chuyển giao đến, tức là n-1

phương pháp) với một quốc gia.
Chuyển giao đơn vị giá trị: thực hiện cả chuyển giao giá trị không hiệu
chỉnh và hiệu chỉnh. Các giả thuyết thống kê được thử nghiệm là:
Giả thuyết 1: Bình đẳng về sẵn lòng chi trả (WTP) trung bình không hiệu chỉnh

H :WTP = WTPS
0
p
Giả thuyết 2: Bình đẳng về sẵn lòng chi trả (WTP) trung bình hiệu chỉnh

16


WTPp là sẵn lòng chi trả (WTP) trung bình ở điểm chính sách, WTP S là sẵn
lòng chi trả (WTP) trung bình ở điểm nghiên cứu, WTPp là sẵn lòng chi trả (WTP)
trung bình được ước tính tại điểm chính sách bằng cách điều chỉnh thu nhập, Yp là thu
nhập trung bình ở điểm chính sách, Ys là thu nhập trung bình ở điểm nghiên cứu, và ε
là độ co giãn thu nhập của WTP.
Các sai số chuyển giao được tính toán bằng cách sử dụng các công thức dưới
đây.

Chuyển giao hàm số: Phương pháp này chuyển giao hoàn toàn ước tính hàm
số giá trị từ điểm nghiên cứu đến điểm chính sách. Các giả thuyết thống kê là:
Giả thuyết 3: Bình đẳng về hàm số WTP

β là vector các hệ số và σ2 là ma trận phương sai-hiệp phương sai.
Các sai số chuyển giao được tính bằng công thức sau đây:

17



là ước lượng WTP trung bình ở điểm chính sách,

là dự đoán

WTP trung bình ở điểm chính sách dựa trên dựa trên ước lượng hàm WTP (αˆ

ˆ
và β s ) ở điểm nghiên cứu, và

s

là vector giá trị trung bình của những biến số mang

tính giải thích ở điểm chính sách.
Giả thuyết 1 và 2 có thể được kiểm định bằng t-test hoặc Z-test. Kiểm định ttest cho rằng sự phân loại cơ bản của mẫu dân số là bình thường, trong khi kiểm
định về con số thống kê has a student distribution. Đối với những mẫu lớn, kiểm
định về con số thống kê cho ra 2 kiểm định giống nhau (Brouwer and Bateman
2005).

3. NGUỒN DỮ LIỆU
Nghiên cứu này sử dụng kết quả từ dự án nghiên cứu rộng – Mức sẵn lòng chi
trả của địa phương cho việc bảo tồn những loài có nguy cơ tuyệt chủng ở Châu Á.
Dự án được thực hiện bởi một nhóm các nhà nghiên cứu EEPSEA bao gồm Jianjun
(từ Trung Quốc), Indab (Philippines), Nabangchang (Thái Lan), và Thủy (Việt
Nam) , bởi Jianjun và các đồng nghiệp . (2006 ) . Họ đo WTP của các chương trình
bảo tồn rùa biển, loài có nguy cơ tuyệt chủng trầm trọng, họ sử dụng phương pháp
CV. Năm cấp độ của bids được sử dụng , trong đó có 3 bid phổ biến. Một cuộc
khảo sát drop-off với 3.670 hộ gia đình ở 5 thành phố lớn: Bắc Kinh ( Trung Quốc),
thành phố Davao ( Philippin), Băng Cốc ( Thái Lan), Hồ Chí Minh và Hà Nội

( Việt Nam). Các bảng câu hỏi tương tự cũng được sử dụng trong tất cả các nước
tham gia.

18


Như vậy, phương pháp chuyển giao lợi ích này kiểm tra chất lượng và độ
tin cậy của kết quả CV ( giá trị WTP ) cho những loài tương tự nhau (rùa biển )
giữa các quốc gia bằng việc sử dụng các công cụ câu hỏi giống nhau. Chúng tôi so
sánh cả chuyển giao giá trị đơn vị và chuyển giao hàm số. Đối với chuyển giao giá
trị đơn vị và chuyển giao hàm số, chúng tôi so sánh chúng giữa một quốc gia với
một quốc gia và từ nhiều quốc gia với 1 quốc gia.
3.1 Đặc điểm của mẫu:
Bảng 1 trình bày thống kê mô tả của những đáp viên cho cuộc điều tra của 4 nước:
Bảng 1: Tóm tắt sự thống kê theo những đặc điểm của đáp viên:
Đặc điểm đáp
Trung Quốc
Philippin
viên
Trung Bình(SD) Trung bình(SD)
Quy mô hộ gia
3.32(1.32)
5.60(2.45)
đình (số thành
viên của hộ gia
đình)
Tuổi (độ tuổi
43.16(14.58)
42.18(12.82)
trung bình của

người trả lời)
Giới tính (tỷ lệ
0.51(0.50)
0.36(0.48)
nam)
Giáo
13.00(3.49)
10.92(2.94)
dục(không đến
trường)
Thu nhập
562(450)
165(147)
(thu nhập hàng
tháng của hộ
gia đình, USD)
Thu nhập
2.134(1,471)
533(475)
(PPP- hiệu
chỉnh, USD)
Kết hôn (%
thành viên
trong gia đình
đã kết hôn)
Thành viên (%
được xem như
là một thành

Thái Lan

Trung bình(SD)
4.41(1.74)

Việt Nam
Trung bình(SD)
4.70(2.07)

38.28(10.00)

38.13(13.79)

0.45(0.50

0.46(0.50)

13.97(3.25)

12.49(4.21)

592(528)

212(166)

1,715(1,531)

987(773)

0.20(0.40)

0.82(0.39)


0.61(0.49)

0.68(0.47)

0.08(0.27)

0.12(0.32)

0.03(0.18)

0.03(0.17)

19


viên của tổ
chức môi
trường)
Phản đối (phần
trăm người
phản đối)
Số quan sát

0.23(0.42)

0.32(0.47)

0.37(0.48)


0.22(0.42)

600

847

789

1,444

Chú ý: bảng này được sao chép từ Jianjun và các cộng sự. (2006).
Đối với thu nhập, khi nhìn vào báo cáo thu nhập hộ gia đình hàng tháng từ
các cuộc điều tra, có 2 nhóm nước có mức thu nhập tương tự nhau: Trung Quốc và
Thái Lan trong nhóm có thu nhập cao; Việt Nam và Philippin trong nhóm có thu
nhập thấp. Tuy nhiên, nếu chúng ta sử dụng PPP được điều chỉnh về thu nhập cho 4
quốc gia, thu nhập hộ gia đình với các điều chỉnh PPP của mẫu Philippin là khoảng
một nửa mẫu của Việt Nam và một phần tư của mẫu Thái Lan và Trung Quốc (PPP
được điều chỉnh về thu nhập được tính bằng cách nhân báo cáo thu nhập hộ gia
đình hàng tháng với các yếu tố điều chỉnh, khi các yếu tố điều chỉnh được điều
chỉnh bằng PPP- điều chỉnh GDP/đầu người GDP danh nghĩa/đầu người; nguồn
IMF 2006.)
3.2 Ước tính WTP trung bình
Để tính toán ước tính WTP trung bình, phương pháp tiếp cận tham số được
sử dụng. Cụ thể hơn, chúng ta sử dụng mô hình tuyến tính độc lập (mô hình tuyến
tính độc lập gồm bid và intercept, giá trị trung bình và trung tuyến là bằng nhau); 1
mô hình hữu dụng ngẫu nhiên (RUM) với 1 hàm hữu dụng tuyến tính (Trong
trường hợp hàm hữu dụng tuyến tính và một sự cân đối, sai số trung bình là 0, giá
trị trung bình và trung tuyến là bằng nhau) ( mô hình tuyến tính ngắn gọn ); và 1
mô hình tuyến tính logarit hữu dụng ngẫu nhiên (RUM log linear) trong thu nhập
(Haab and McConnell 2002)

Bảng 2 đưa ra ước tính WTP trung bình (bắt nguồn từ bốn mô hình trên) từ
kết quả khảo sát của 4 quốc gia. Những giá trị được chuyển đổi sang 2006 US$
Bảng 2. Ước tính WTP trung bình WTP
20


Mô hình đơn

Trung
quốc
1.22

Philippin

Thái Lan

Việt Nam

0.30

1.06

0.28

Mô hình tuyến tính

1.30

0.32


1.06

0.30

Mô hình tuyến tính logarit hữu
dụng ngẫu nhiên

1.50

0.06

1.29

0.26

Kết quả từ bảng 2 cho thấy 3 mô hình trên cho ra nhiều kết quả gần như nhau.
Trong phần tiếp theo, chúng ta sử dụng đánh giá WTP bắt nguồn từ các mô hình
tuyến tính trong phân tích của chúng ta.
4. KẾT QUẢ
4.1. Phân tích hồi quy
Mô hình logit nhị phân (chúng tôi cũng đã sử dụng mô hình lôgit tham số
ngẫu nhiên (RPL) để kiểm tra tính không đồng nhất trong sở thích của các đáp
viên. Mô hình RPL cho thấy được những đáp viên có sự không đồng nhất về giá cả
ở nghiên cứu Việt Nam (phụ lục). Kết quả mô hình RPL cho thấy những mức độ
của các hệ số về độ lớn, biểu hiện,ý nghĩa rất giống nhau so với những điều này ở
mô hình logit. Thêm vào đó, pseudo R2 ở mô hình RPL không cao hơn nhiều so với
mô hình logit. Do đó, để dễ hiểu mô hình logit được sử dụng cho phân tích ở tương
lai) được sử dụng trong phân tích hồi quy cho bốn quốc gia riêng lẻ (với mẫu đầy
đủ ở tất cả các nước)
Bảng 3 cho thấy biến số là có ý nghĩa và ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng chi

trả trong tất cả các mô hình, như mong đợi. Ở Việt Nam, ngành giáo dục giữ vai trò
quan trọng và đáng kể. Thu nhập có ảnh hưởng một cách tích cực và đáng kể đến
khả năng chi trả trong tất cả các mô hình (ngoại trừ Thái Lan). Ở Việt Nam, những
người đã lập gia đình sẽ có mức sẵn lòng chi trả ít hơn. Để trở thành một thành viên

21


của một tổ chức môi trường là tích cực và có ý nghĩa để gia tăng khả năng nói có ở
mẫu Philippines.
Bảng 3. Quyết định của việc sẵn lòng chi trả

Biến

Trung quốc
Hệ số
-0.608
-0.445***
-0.004
-0.111
0.036
0.001***
0.427
0.560

Hằng số
Bid
Tuổi
Giới tính
Giáo dục

Thu nhập
Kết hôn
Thành viên
Thống kê sơ lược
Log-310.13
likelihood
Pseudo-R2
23
Không quan
599
sát

Philippin
Hệ số
0.313
-0.424 ***
-0.011
0.124
-0.023
0.002***
0.063
0.775***

Thái Lan
Hệ số
-0.188
-0.500***
0.002
0.020
0.036

0.0001
0.034
0.463

Việt Nam
Hệ số
-0.446*
-0.510***
0.005
0.066
0.034***
0.0002**
-0.358**
0.239

-505.60

-475.74

-860.15

10
839

12
789

11
1432


Ghi chú: Bảng này được thu thập từ Jianjun et al. (2006).
*** Mức ý nghĩa 1%
** Mức ý nghĩa 5%
*Mức ý nghĩa 10%
Sau đó chúng tôi nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng các mẫu con bắt
buộc và các chương trình bảo tồn khu vực trong tất cả các cuộc điều tra quốc gia
riêng lẻ. Chúng tôi sử dụng một biến giả như một công cụ để đánh giá số liệu bắt
buộc và khu vực mẫu có bất kỳ ảnh hưởng đến việc sẵn lòng chi trả trong tất cả các
cuộc điều tra quốc gia riêng lẻ. Kết quả cho thấy mẫu con bắt buộc và thuộc khu
vực không có sự khác nhau đáng kể trong tất cả các mô hình riêng lẻ trừ Việt Nam.
Theo nghiên cứu ở Việt Nam, cả hai biến bắt buộc và thuộc khu vực có ý nghĩa tích
cực ở mức 1%. Trong các phần sau, chúng ta sẽ kiểm tra tính hợp lệ và độ tin cậy
của việc sử dụng năm đánh giá dưới đây:
22


1.
2.
3.
4.

Mẫu đầy đủ ở tất cả các quốc gia
Mẫu con thuộc khu vực ở tất cả các quốc gia
Mẫu con bắt buộc ở tất cả các quốc gia
Mẫu con thuộc khu vực ở Việt Nam và mẫu đầy đủ ở các quốc

gia khác
5.

Mẫu con bắt buộc ở Việt Nam và mẫu đầy đủ ở các quốc gia


khác
Trong phần này, dữ liệu từ tất cả các nước được gộp lại để ước tính một hồi
quy độc lập trong khi thu giữ ảnh hưởng của quốc gia cụ thể với biến giả.
Trong một số mô hình, biến độc lập được tương tác với các quốc gia giả định
để điều tra xem liệu các biến độc lập có tác dụng tương tự giữa các quốc gia hay
không.
Mô hình 1 chỉ chứa biến giả của quốc gia. Kết quả bảng 4 cho thấy rằng Thái
Lan, quốc gia mặc định, có mức sẵn lòng chi trả cao hơn Philippin và Việt Nam
nhưng không khác đáng kể so với Trung Quốc.
Mô hình 2 bao gồm các đặc điểm kinh tế xã hội trong mô hình ảnh hưởng cố
định (quốc gia giả). Kết quả cho thấy rằng giáo dục, thu nhập, và thành viên bị ảnh
hưởng một cách đáng kể bởi xác suất sẵn lòng chi trả ( mức đáng kể 5% hoặc ít
hơn). Một điều đáng chú ý là các biến này là không thường xuyên có ý nghĩa giữa
các quốc gia. (Xem bảng 3)
Mô hình 3 giả định rằng không có ảnh hưởng của quốc gia cụ thể trong mô
hình. Kết quả cho thấy rằng biến giáo dục, thu nhập, và thành viên thì liên kết cao
đáng kể và tích cực với mức sẵn lòng chi trả. Những kết quả này cho thấy rằng các
quốc gia có một mô hình phổ biến của các yếu tố ảnh hưởng đến mức sẵn lòng chi
trả, không bị ảnh hưởng bởi sự khác biệt các quốc gia cụ thể (và không quan sát
được).

23


Từ mô hình 4 đến mô hình 9, chúng ta sử dụng những điều khoản tương tác
của các biến quan trọng (giáo dục, thu nhập, và thành viên) để xem liệu các biến
này có khác nhau giữa các nước hay không.
Mô hình 4 và 5 kiểm tra thu nhập và không có một tác động mẫu cố định quốc
gia cụ thể nào. Mô hình 4 cho thấy thu nhập có ảnh hưởng cao đến mức sẵn lòng

chi trả ở Trung Quốc và Philippin, nhưng dường như không được như vậy đối với
trường hợp của Việt Nam. Việt Nam và Thái Lan có ảnh hưởng thu nhập giống hệt
nhau về mặt thống kê mức sẵn lòng chi trả. Thu nhập là không có ý nghĩa khi cho
phép ảnh hưởng quốc gia cụ thể, nhưng khi loại bỏ quốc gia giả định ở mô hình 5,
thì nó có ý nghĩa.
Mô hình 6 và 7 điều tra xem việc giáo dục có tác động trên mức sẵn lòng
chi trả có và không có mô hình ảnh hưởng quốc gia cụ thể.

Giáo dục rất quan

trọng đối với riêng nó nhưng khi chúng ta cho phép những ảnh hưởng quốc gia cụ
thể, nó không còn ý nghĩa lâu dài (trong mô hình 6). Giáo dục trở nên quan trọng
khi chúng ta ấn định các rào cản giữa các quốc gia trong mô hình 7.
Bảng 4: Kết quả phân tích hồi qui của các dữ liệu gộp:
Biến

Mô hình 1

Mô hình 2

Mô hình 3

Mô hình 4

Mô hình 5

Mô hình 6

Mô hình 7


Mô hình 8

Mô hình 9

Intercept

0.457***

-0.103***

-0.189

-1.062***

-0.061

89.929

-0.201

-78.616

-0.202

Bid

-0.447***

-0.459***


-0.452***

-0.468***

-0.463***

-0.460***

-0.459***

-0.060***

-0.459***

0.118

0.044

-0.919***

-65.710*

-6.441

Philipin

-0.291***

0.022


-0.879***

3.138

-237.863

Việt Nam

-0.360***

-0.166*

-0.552**

-28.534

319.707

Trung Quốc

Tuổi

-0.005*

-0.004

-0.004

-0.005*


-0.004

-0.005*

-0.005*

-0/005*

Giới tính

0.072

0.060

0.066

0.068

0.066

0.072

0.073

0.072

Giáo dục

0.026**


0.025**

0.026**

0.029***

0.003

0.026*

0.026**

0.026**

Thu nhập

0.0002***

0.0002***

0.0006

0.0002***

0.0002***

0.0002***

0.0002***


0.0002***

-0.016

-0.039

-0.012

-0.001

-0.036

-0.016

-0.015

-0.016

0.580***

0.621***

0.581***

0.564***

0.588***

0.581***


0.542

0.580***

Inc_T.Quốc

0.0003***

0.0008**

Inc_Phil

0.0004***

0.001

Kết hôn
Thành viên

24


Inc_Viet

0.0001

-0.0002

Edu_TQuốc


0.064*

0.0004

Edu_Phil

-0.003

0.0002

Edu_Viet

0.028

-0.0001*

Memb_TQuoc

0.0006

0.0004

Memb_Phil

0.238

0.0002

Memb_Viet


-0.320

-0.0001*

Thống kê sơ lược
Loglikelihood

-2222

-2172

-2175

-216

-2169

-2170

-2172

-2171

-2172

Pseudo R2

.11

.12


.12

.13

.12

.12

.12

.12

.12

3679

3659

3659

3659

3659

3659

3659

3659


3659

Không quan
sát

Chú ý: ***mức ý nghĩa 1%, ** mức ý nghĩa 5%, * mức ý nghĩa 10%.
Mẫu 8 và 9 là kết quả của ảnh hưởng biến thành viên đến việc sẵn lòng trả.
Với những biến giả của quốc gia cụ thể ở mô hình 8, biến thành viên không có ý
nghĩa, cho thấy được không có sự chứng minh việc ảnh hưởng của biến thành viên
về giá trị sẵn lòng trả bởi các quốc gia.
Điều thú vị để thấy rằng trong thu nhập, giáo dục và thành viên có ý nghĩa
bởi chính nó (ở mô hình 3 – một mô hình chuẩn ), khi cho phép ảnh hưởng của một
quốc gia cụ thể những điều này trở trên vô nghĩa ( lần lượt ở mô hình 4, 6 và 8).
Tóm lại, chúng ta không thể loại bỏ giả thuyết về biến thu nhập, giáo dục
và thành viên từ một quốc gia cụ thể có tác động ảnh hưởng đến việc sẵn lòng chi
trả. Do đó, điều này quan trọng để hạn chế sự khác nhau về việc định giá bảo tồn
rùa biển giữa các quốc gia. Phần tiếp theo chúng tôi sẽ kiểm tra về hàm ý của sự
khác nhau trong các bài tập về chuyển giao lợi ích.
4.2 Chuyển giao lợi ích:
Theo các tài liệu chuyển giao lợi ích thì một bài nghiên cứu vượt qua kiểm
định tính hợp lệ và có sai số chuyển giao thấp thì thích hợp hơn là một bài nghiên
cứu chỉ đạt được 1 yếu tố trên hoặc không đạt được yếu tố nào. Nhưng trong nhiều
trường hợp, giá trị thống kê cao có thể có các sai số chuyển giao cao, và giá trị
25


×