Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

ĐỊNH GIÁ PHI THỊ TRƯỜNG CỦA GIẢI TRÍ BÃI BIỂN BẰNG CÁCH SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP CHI PHÍ DU HÀNH (TCM)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1017 KB, 79 trang )

ĐỊNH GIÁ PHI THỊ TRƯỜNG CỦA GIẢI TRÍ BÃI BIỂN
BẰNG CÁCH SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP CHI PHÍ DU HÀNH
(TCM) TRONG BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN CỦA THẾ GIỚI:
MỘT ỨNG DỤNG ĐỂ THĂM QUAN BÃI BIỂN NGÓE Ở
KRIBI, CAMEROON

TIMAH PAUL NDE


Giám sát viên: Yves Surry, Đại học Khoa học Nông nghiệp Thụy Điển,
Khoa Kinh tế
Người kiểm tra: Rob Hart, Đại học Khoa học Nông nghiệp Thụy Điển,
Khoa Kinh tế
Credits:30 hec
Cấp độ: Nâng cao E
Tên khóa học: Degree Project in Economics
Mã môn học: EX0537
Chương trình / Giáo dục: Kinh tế Nông nghiệp và Quản lý - Chương trình
Thạc sĩ
Nơi xuất bản: Uppsala
Năm xuất bản: 2011
Bìa ảnh: Một trong vô số các bãi biển ở Kribi (Ảnh từ: www.cameroon.be)
Tên của Series: Degre Project
Số: 704
ISSN: 1401-4084
Ấn phẩm trực tuyến:
Từ khóa: xác định giá trị phi thị trường, chi phí đi lại, thặng dư tiêu dùng,
giá trị giải trí.


Lời Cảm Ơn


Luận án này có thể đã không hoàn thành được mà không có sự nỗ lực kết
hợp của các cá nhân. Tôi thực sự biết ơn sự giúp đỡ chân thành của giám sát viên
của tôi, Giáo sư Yves surry. Kỹ năng tư vấn và giám sát học tập của ông ấy là
một động lực lớn đối với tôi và như vậy đóng góp của ông đối với việc thực hiện
luận án này các này là không thể không nhắc đến. Chuyên môn của ông ấy về sử
dụng phần mềm TSP 5.0 đã giúp ích tôi rất nhiều trong việc hoàn thành luận án
này đạt yêu cầu. Ngoài ra, tôi muốn nói lời cảm ơn đặc biệt đến tất cả các giảng
viên khác trong Cục Kinh tế của Đại học Thụy Điển Khoa học Nông nghiệp và
Đại học Uppsala cho các kỹ năng mà họ đã truyền đạt cho tôi trong các khóa học
của Chương trình thạc sĩ. Rất cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của tất cả các bạn
cùng lớp, đặc biệt là Jordan và Berekat.
Cảm ơn tất cả các bạn rất nhiều vì sự chăm sóc, hỗ trợ và quan tâm của các
bạn.Đặc biệt nhất, tôi cảm ơn Brian Nfornbah, nhóm thanh niên của PCC
Ndombe Kribi, Emmanuel Timah, Kevin Achamukong, Ngufor Sylvie Ngelah,
Abongwa Mirabel, Achiri Daniel, Albertine Dawa, Manga Timah. Đặc biệt cảm
ơn đến Justice NEBA Timah người đã luôn ở đó để truyền cảm hứng, động viên
và ủng hộ tôi. Danh sách những người tôi cảm ơn tới ở đây là không đầy đủ, nên
nhớ rằng tôi đánh giá cao nỗ lực của các bạn, cuộc sống của tôi ở Uppsala sẽ rất
khó khăn nếu không có sự hiện diện và trái tim ấm của các bạn.
Hãy tiếp tục đoàn kết!


Tóm Tắt
Luận án này tập trung vào việc sử dụng phương pháp chi phí du lịch (như
một kỹ thuật định giá phi thị trường) để định giá bãi biển vui chơi giải trí ở một
đất nước đang phát triển (Cameroon), nơi rất ít hoặc không có các nghiên cứu
trước đây của loại hình này đã được tiến hành trước. Các bãi biển Ngoé đã được
sử dụng như là một trường hợp nghiên cứu dựa trên số lượng khách du lịch thực
tế và khách du lịch tham quan bãi biển và cũng vì Kribi là một thị trấn nghỉ mát
nổi tiếng ở Cameroon. Do tính chất của công việc, một cuộc khảo sát tại chỗ là

điều bắt buộc. Các câu hỏi sử dụng cho các cuộc điều tra tại chỗ được thiết kế để
nắm bắt các biến kinh tế - xã hội về khách du lịch (như tuổi tác, thu nhập hàng
tháng, trình độ học vấn, tình trạng việc làm, giới tính, quốc tịch), các biến thành
phần chi phí đi lại (chẳng hạn như vòng chi phí đi lại chuyến đi, thời gian đi lại ,
thời gian ở tại chỗ, chi phí chỗ ở, số lượng các chuyến đi thực hiện trong những
năm qua, chỉ kể một vài tên) và sẵn lòng chi trả (WTP) của khách du lịch (trong
các hình thức tham quan hoặc phí vào cổng). Các dữ liệu số (với cỡ mẫu 242) đã
được tạo ra từ các cuộc khảo sát được mô hình hóa với the left truncated Poisson
and negative binomial models as well as the zero - inflated negative binomial
model..
Các ước lượng kinh tế lượng (thực hiện với việc sử dụng các phần mềm
TSP 5.0) cho thấy mô hình nhị thức âm zero - thổi phồng kết quả tốt hơn và dựa
trên những kết quả kinh tế, thặng dư tiêu dùng (CS) ước tính cho mỗi chuyến đi
mỗi người tham quan mỗi ngày được tính toán cho những loại du khách khác
nhau. Những ước tính CS là tương đương với giá trị giải trí của bãi biển với mỗi
chuyến đi của mỗi du khách mỗi ngày và dao động từ 2,56 € cho 41,51 €. Mặc dù
các ước tính khác nhau CS đã thu được với các loại du khách khác nhau , CS ước
tính cho mỗi chuyến đi mỗi người tham quan mỗi ngày từ 9,86 € cho 37,11 €
được coi là thích hợp hơn và phù hợp với các kết quả của các nghiên cứu khác.
Ngoài ra, một khoản phí đi đến bãi biển là € 2.0 được đề xuất dựa vào phát biểu
của sự sẵn lòng chi trả của du khách. Lý do cho đề nghị này là bãi biển Ngoé là
một bãi biển tham quan mở và nó có thể ước tính một khoản phí để thăm quan là
có khả năng, nên ai đó (có thể là chính quyền thành phố) có suy nghĩ sẽ thực hiện
thu một khoản phí tham quan. Một phát hiện quan trọng là đơn mục đích có xu
hướng chi tiêu cao hơn các loại du khách khác. Ngoài ra, thu nhập của du khách
cho thấy là có một tác động rất nhỏ trên ước tính CS của du khách trong khi


mong muốn nêu chi trả của du khách cho thấy chủ yếu là tương quan với ước
tính CS của họ.

Từ khóa: xác định giá trị phi thị trường, phương pháp chi phí du hành, thặng
dư tiêu dung, giá trị giải trí.

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU........................................................................................
1.1 Vấn đề nghiên cứu................................................................................................
1.2 Mục tiêu nghiên cứu.............................................................................................
1.3 Giải trí, thư giãn và du lịch trong điều kiện của Cameroon................................
1.4 Tổng quan về khu vực nghiên cứu.......................................................................
1.5 Cở sở của vấn đề nghiên cứu...............................................................................
1.6 Ý nghĩa, phạm vi và giới hạn của nghiên cứu.....................................................
1.7 Khái quát về nghiên cứu......................................................................................
CHƯƠNG 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU VÀ KHUNG LÝ THUYẾT.....................
2.1 các phương pháp tiếp cận khác nhau để định giá phi thị trường.........................
2.2 Khái niệm và khung lý thuyết..............................................................................
2.2.1 Khái niệm về thặng dư tiêu dùng (CS).............................................................
2.2.2 Phương pháp bộc lộ sở thích và chi phí du hành..............................................
2.2.3 Khung nghiên cứu.............................................................................................
2.3 Xem xét tài liệu thực nghiệm...............................................................................
2.3.1 Xem xét tài liệu về phương pháp chi phí du hành............................................
2.3.2 Xem xét các nghiên cứu về định giá chi phí du hành.......................................
CHƯƠNG 3: KHẢO SÁT TẠI CHỖ VÀ MÔ TẢ DỮ LIỆU..................................
3.1 Thiết kế khảo sát..................................................................................................
3.2 Thực hiện khảo sát...............................................................................................
3.3 Tính toán tổng chi phí du lịch (TTC)...................................................................


3.4 Dữ liệu khảo sát và thống kê mô tả.....................................................................
3.5 Sự phân tầng của các bộ dữ liệu..........................................................................
CHƯƠNG 4: MÔ HÌNH KINH TẾ VÀ CÁC THÔNG SỐ KĨ THUẬT CỦA MÔ

HÌNH
4.1 The Possion Model...............................................................................................
4.2 Các mẫu nhị thức âm............................................................................................
CHƯƠNG 5: KẾT QUẢ KINH TẾ LƯỢNG, PHÂN TÍCH VÀ THẢO LUẬN....
5.1 Những kết quả cắt ngắn The Possion Model.......................................................
5.2 Các kết quả cắt ngắn các mẫu nhị thức âm..........................................................
5.3 Kết quả Zero-Inflated Negative Binomial Model...............................................
5.4 Tính toán các ước tính thặng dư tiêu dùng..........................................................
5.5 ước tính và đề xuất của một tham quan và phí vào cửa......................................
5.6 Các mối quan hệ giữa thu nhập, ước tính CS và ước tính SWTP ......................
CHƯƠNG 6: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.............................................................
6.1 Kết luận................................................................................................................
6.2 Kiến nghị..............................................................................................................
TÀI KIỆU THAM KHẢO.........................................................................................
PHỤ LỤC...................................................................................................................

DANH MỤC HÌNH
Hình 1: Vị trí của Kribi- Campoo vùng ven biển......................................................
Hình 2: Một phần của bãi biển Ngoé........................................................................
Hình 3: Các kỹ thuật định giá môi trường / Hàng hóa phi thị trường và dịch vụ.....
Hình 4: Chức năng yêu cầu chi phí du hành và thặng dư tiêu dùng (CS).................
Hình 5: Mô hình minh họa của chi phí du hành mẫu................................................
Hình 6: Bằng chứng của phân bố rộng trong tập hợp dữ liệu...................................


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Tóm tắt Định nghĩa của biến trong các tập dữ liệu......................................
Bảng 2: Thống kê mô tả các biến số chính trong các bộ dữ liệu..............................
Bảng 3: Thống kê mô tả hình mẫu UNL, ENL và NT..............................................
Bảng 4: Kết quả của Mô hình hồi quy cắt ngắn Poisson .........................................

Bảng 5: Kết quả của mô hình hồi quy cắt ngắn mẫu nhị thức âm............................
Bảng 6: Kết quả nhị thức Mô hình hồi quy Zero-thổi phồng ...................................
Bảng 7: Thặng dư tiêu dùng (CS) Ước tính mỗi du khách mỗi chuyến đi...............
Bảng 8: Phát biểu sự sẵn lòng chi trả (SWTP)..........................................................
Bảng 9: Thu nhập của khách du lịch , ước tính CS và SWTP..................................

CÁC TỪ VIẾT TẮT
CBA - Cost Benefit Analysis
CD - Canadian Dollar
CS - Consumer Surplus
CVM - Contingent Valuation Method
ENL - Employed Non - Locals
EUR (€) - The Euro
FCFA - Franc of the Cooperation Français en Afriqué (Local currency in
Cameroon)
FOP - Factors of Production
GBP (£) - Great British Pound
ITCM - Individual Travel Cost Method


Negbin - Negative Binomial
NT – Non - đơn mục đích
OLS - Ordinary Least Squares
PS - Producer Surplus
RM - Malaysian Ringgit
RP - Revealed Preference
RTTC - Round Trip Travel Cost
RUM - Random Utility Model
SP - Stated Preference
TCM - Travel Cost Model

TTC - Total Travel Cost
UNESCO - United Nation’s Education, Scientific and Cultural Organisation
UNL - Unemployed Non-Locals
USD ($) - United States Dollar
WTA - Willingness to Accept
ZIP – Zero - Inflated Poisson
ZTCM - Zonal Travel Cost Method
(S)WTP - (Stated) Willingness to Pay


CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
Ngày nay, kỹ thuật định giá phi thị trường là những căn cứ ngày càng được
xếp vào vị trí hàng đầu của hầu hết các công trình nghiên cứu về kinh tế. Sở dĩ có
điều này là bởi vì 1 số loại hàng hóa, dịch vụ mà dễ dàng có 1 số loại giá trị hoặc
không có trung 1 mức giá thị trường hay giá cả thị trường của hàng hóa, dịch vụ
là không phù hợp với giá trị thực của hàng hóa, dịch vụ đó. Ví dụ về hàng hóa,
dịch vụ bao gồm cả hàng hóa, dịch vụ môi trường như các địa điểm (công viên,
bãi biển, sở thú,…). Do đó định giá phi thị trường là việc tìm kiếm tất cả các cách
để gán giá trị cho hàng hóa, dịch vụ đó; có hoặc không có giao dịch trên thị
trường hay giá không phản ánh đúng giá trị thực của chúng (boardman, 2006).
Tầm quan trọng của định giá phi thị trường không thể được nhấn mạnh quá mức.
Ước lượng thu được từ định giá phi thị trường có thể được sử dụng bởi các cơ
quan nhà nước, ưu tiên cho các dự án của chính phủ cũng như tiến hành các phân
tích lợi ích chi phí. Các ước lượng này cũng có thể cung cấp những manh mối có
giá trị cho các nhà đầu tư là tư nhân và có thể hỗ trợ họ trong việc đưa ra các
quyết định đầu tư. Polasub (2008) thêm 1 nghiên cứu cung cấp các manh mối của
định giá phi thị trường mà có thể được dùng để xác định sự thay đổi tiện nghi môi
trường hoặc thiệt hại tài nguyên, giới thiệu người dùng phí để kiểm soát số khách
cũng như nếu phát triển ở nơi mới.
1.1 Vấn đề nghiên cứu

Nhiều nghiên cứu định giá phi thị trường đã được tiến hành rỗng rãi ở các
nước phát triển trên thế giới trong suốt 2 thập kỷ qua. Tuy nhiên, có rất ít nghiên
cứu dạng này đã được thực hiện tại các nước phát triển. Điều này có thể là do sự
khan hiếm các dữ liệu ở các nước phát triển và cũng bởi vì mọi người cũng ít
quan tâm đến việc giải trí ở các nước phát triển hoặc do chi phí có liên quan đến
việc thực hiện nghiên cứu này là rất cao. Cameroon là 1 trong những quốc qua
đang phát triển và do đó nó cũng không ngoại lệ. Là 1 quốc gia có thu nhập trung
bình thấp ở phía Tây và Trung Phi. Là nước được ưu đãi với nhiều nguồn tài
nguyên thiên nhiên và thường được gọi là Châu Phi thu nhỏ. Tuy nhiên, những nỗ
lực nhỏ đã được thực hiện theo hướng của định giá các tài nguyên thiên nhiên
(đặc biệt là những người không trực tiếp mua bán trên thị trường). Do nguồn tài
nguyên thiên nhiên rất phong phú và cũng là 1 phần giá trị của những nỗ lực


không đủ, nó sẽ thú vị hơn khi xem xét làm thế nào để những nguồn tài nguyên
có thể được đánh giá cao, đặc biệt là các bãi biển của nước này.
Trong khi thị trường hàng hóa và dịch vụ có giá trị về mắt giá cả của chúng,
thì hàng hóa và dịch vụ phi thị trường khó có thể định giá cũng như chúng không
đòi hỏi 1 mức giá thị trường. Nhiều hàng hóa và dịch vụ bao gồm chất lượng
không khí tốt hơn, dịch vụ tài nguyên môi trường,…. Tuy nhiên, các nhà kinh tế
đã mất nhiều năm để đưa ra nhiều cách khác nhau cho việc ước lượng các giá trị
của hàng hóa và dịch vụ phi thị trường. Trong số các kỹ thuật khác nhau sử dụng
cho định giá phi thị trường là phương pháp giá trị ngẫu nhiên (CVM), phương
pháp chi phí du hành (TCM), giá cả hưởng thụ, chuyển giao lợi ích, phân tích kết
hợp và lựa chọn mô hình. Các địa điểm giải trí như là công viên công cộng và bãi
biển là 1 vài ví dụ của hàng hóa và dịch vụ phi thị trường mà không đòi hỏi 1
mức giá hoặc nếu tất cả họ cùng làm (theo mẫu của lối vào hoặc cổng vào tốn
phí), giá trị của chúng thường xuyên bị đánh giá thấp hoặc coi là bằng 0. Do đó,
nhu cầu cho 1 số loại định giá hoặc giá ảo cho hàng hóa, dịch vụ đó. Khi nói tới
các địa điểm giải trí, thì phương pháp chi phí du hành là từ viết tắt của 1 công cụ

tốt nhất mà định giá phi thị trường sử dụng. Điều này là bởi vì giá trị của 1 địa
điểm giải trí dựa trên sự đánh đổi của con người về thời gian, chi phí vận chuyển
và các chi phí khi đi vào các địa điểm giải trí. Những tiền đề cơ bản đằng sau
phương pháp này là số lần đi đến hoặc các chuyến đi của du khách sẽ được thực
hiện cho 1 địa điểm giải trí giảm khi chi phí du hành tăng (phản ánh bởi khoảng
cách đi lại) (Loomis anh Walsh, 1997; Ward and Beal, 2000).
Bãi biển Ngóe là bãi biển nằm ở trung tâm của thị trấn miền nam Cameroon
của Kribi là 1 địa điểm giải trí không chỉ có rất nhiều người dân địa phương đến
đó và cũng là 1 địa điểm thu hút rất lớn khách du lịch. Thương mại đánh bắt xa
bờ cũng được thực hiện tại khu vực này. Hơn nữa, bãi biển Ngóe là điểm cuối
cùng của đường ống Chad – Cameroon cũng như của tổng thống Lodge. Điều này
làm tăng thêm sự hấp dẫn du lịch của bãi biển. Thật không may, nó là 1 bãi biển
du lịch mở không có lối vào hoặc du lịch tốn phí. Tuy nhiên, các nhà đầu tư tư
nhân đã được phép hoạt động kinh doanh gần các bãi biển ở Kribi. Ví dụ, có rất
nhiều khách sạn sở hữu bãi biển tư nhân ở Kribi (khách sạn Framotel). Khoản
thuế thu từ các doanh nghiệp đó và nghĩa vụ chi trả của ngư dân có thể là cánh để
báo với Ủy ban định giá các bãi biển. Nếu chúng ta đi theo giá trị này, nó là 1 giá
trị đánh giá quá thấp giá trị của các bãi biển. Đây có lẽ là bởi vì tổng số thu từ
thuế, nghĩa vụ và các chi tiêu của du khách đối với hàng hóa và dịch vụ chiếm 1


phần ít trong tổng số các khoản chi tiêu của du khách đến địa điểm du lịch. Mặc
dù bãi biển Ngóe là 1 phần trong việc đánh bắt cá, nó cũng có nhu cầu cao đối với
giải trí. Hàng ngàn du khách từ xa gần đến tham quan bãi biển mỗi năm với mục
đích du lịch. Các du khách này tốn 1 khoản lớn chi phí đi lại, thời gian bị bỏ qua
và các chi phí có liên quan khác mà họ có những lợi ích khác nhau có thể là 1
hoặc nhiều thứ sau đây: tham quan địa điểm, hội họp, bơi lội, dã ngoại hoặc cho
các mục đích thể thao như bóng chuyền bãi biển, bóng đá bãi biển, lướt sóng,…
Nhờ những hy sinh to lớn mà du khách đến bãi biển này thực hiện, đó là bằng
chứng cho thấy rằng bãi biển này có giá trị giải trí đáng kể. Như 1 hệ quả, công

việc này để tìm kiếm 1 phương tiện tốt hơn hoặc phương pháp để ước tính giá trị
giải trí của bãi biển Ngóe. Lĩnh vực nghiên cứu có vẻ thiếu sự chú ý và công nhận
từ các nhà nghiên cứu tại Cameroon. Do đó, cần có nhu cầu để làm cho nó phổ
biến rộng rãi và nhận được sự quan tâm nhiều hơn của các nhà nghiên cứu để
thực hiện công việc nhiều hơn trong lĩnh vực này. Dựa trên những hy sinh to lớn
được thực hiện bởi du khách đến bãi biển Ngóe, nó sẽ có tầm quan trọng sống
còn khi tìm 1 cách làm để việc sử dụng các ưu đãi về sự đánh giá của khách hàng
đi đến các địa điểm , 1 phương pháp nào sẽ mất chi phí vận chuyển, chi phí cơ
hội của thời gian, chi phí tại chỗ và các chi phí khác liên quan đến chuyến đi của
du khách được xem xét. Một phương pháp mà bao gồm tất cả các chi phí đi lại là
phương pháp (TCM) và nó rõ ràng là ứng cử viên tốt nhất trong trường hợp này.
Với sự liên quan và tầm quan trọng của vấn đề thảo luận ở trên, đó là giá trị để
thực hiện nghiên cứu.
1.2 Mục tiêu/ mục đích của nghiên cứu
Mục tiêu chính hoặc cơ bản của nghiên cứu này là để ước tính giá trị cho
mỗi chuyến đi của mỗi du khách, những chuyến đi đến bãi biển Ngóe ở thị trấn
miền nam Kribi, Cameroon. Để làm điều này, chúng ta cần ước lượng hàm cầu
giải trí của du khách khi đến bãi biển và sau đó ước lượng thặng dư tiêu dùng
(CS) của du khách, đó là đại diện các giá trị giải trí của bãi biển.
Các mục tiêu khác của nghiên cứu này bao gồm:

Đề nghị có thể đi vào hoặc lối vào tốn phí dựa vào sự sẵn lòng chi trả (SWTP)
của du khách đến bãi biển Ngóe và những so sánh này được đề xuất lệ phí đi vào
đó được tính tiền tại khách sạn Seme Beachin Limbe, Cameroon.
• Đánh giá tác động của du lịch đối với nền kinh tế ở Kribi
• Đề xuất một số giải pháp giúp cải thiện chất lượng bãi biển và do đó làm cho bãi
biển hấp dẫn hơn với khách du lịch





Kiến nghị các chính sách làm như thế nào để quản lý tốt hơn và hưởng được
nhiều lợi ích từ bãi biển Ngóe cho chính quyền thành phố
1.3 Giải trí, thư giãn và du lịch trong điều kiện của Cameroon

Người dân ở Cameroon có 1 loạt các hoạt động thư giãn và giải trí sẵn sàng
cho họ. Hầu hết giải trí thì tập trung vào các hoạt động thể thao. Hoạt động thể
thao phổ biến bao gồm bóng đá, bóng ném, bóng chuyền, bóng rổ, bóng bàn và
quần vợt sân cỏ. Các hoạt động giải trí khác như đua thuyền độc mộc, các cuộc
thi nhảy và đua ngựa. Tham quan bãi biển là 1 hình thức giải trí phổ biến ở
Cameroon nhưng chỉ có 1 số nhóm người thực hiện hoạt động này. Những nhóm
người này gồm chủ yếu là thanh niên, học sinh và người thất nghiệp. Họ thường
thực hiện các chuyến đi đến bãi biển để gặp gỡ hoặc vì lý do dã ngoại hay ngắm
cảnh thiên nhiên (yêu tự nhiên). Cameroon được xếp vào 1 nước có thu nhập
thuộc loại trung bình thấp với khoảng 39,9% dân số sống dưới mức nghèo (dưới
1,25 USD/ngày) vào năm 2007. Vì vậy nhiều người dân Cameroon đã đấu tranh
để đòi các nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống như là 1 hệ quả, một số người
Cameroon xem các dịch vụ thư giãn và giải trí là các dịch vụ sa xỉ. Có 1 quan
điểm phổ biến rằng ở 1 đất nước mà có nhiều người không có đủ khả năng để lo
cho bữa ăn 1 ngày, đó sẽ là điều khó khăn để nhìn thấy họ bỏ tiền ra cho 1 chuyến
đi chơi. Nhưng điều này không có nghĩa là người Cameroon không thực hiện các
hoạt hoạt động vui chơi và thư giãn. Hầu như các hoạt động nói trên được thực
hiện gần như không hoặc không tốn chi phí. Tuy nhiên, khi nói đến việc bỏ tiền
ra để giải trí như đi du lịch đến 1 thị trấn để nghỉ ngơi hoặc giải trí, nhiều người
sẽ không muốn mạo hiểm. Vì vậy theo truyền thống, việc giải trí tốn kém ở bãi
biển được xem là cái gì đó dành cho những người Cameroon giàu có và quyền
lực. Điều này đặc biệt đúng khi phí vào cổng được tính hay nếu người du lịch đã
đi 1 khoảng cách lớn để đến các địa điểm. Vì vậy chỉ có những người dân đại
phương và cá nhân có thể chi trả được các khoản chi phí liên quan thì mới có thể
ghé thăm các địa điểm giải trí như bãi biển. Điều này đặc biệt đúng với hầu hết

các hộ gia đình ở thành thị khi họ có đủ các nguồn lực tài chính. Tuy nhiên, hầu
hết các gia đình ở nông thôn thì nghèo và không có việc làm. Vì vậy, vấn đề vui
chơi giải trí có thể không phải là lựa chọn cho các hộ gia đình còn phải vật lộn
với cuộc sống để có đủ các nhu cầu cơ bản như chỗ ở, thức ăn và chăm sóc sức
khỏe. Quốc gia này cũng có tỷ lệ thất nghiệp cao và thiếu việc làm. Điều này có
nghĩa rằng các cá nhân sẽ dành nhiều thời gian của họ cho tìm kiếm công việc
thay vì bắt tay vào việc thư giãn hay các chuyến đi chơi.


Bên cạnh những bãi biển, quốc gia này còn có nhiều điểm du lịch như công
viên Waza ở miền bắc (nơi duy nhất ở Cameroon được UNESCO công nhận là di
sản văn hóa thế giới). Cameroon ở khu vực Tây Nam (có ngọn núi cao nhất trong
toàn bộ hệ thống núi của Tây Phi), các khu rừng nhiệt đới cận xích đạo với hệ
động thực vật đa dạng ở khu vực phía Đông. Các thảo nguyên và cung điện nguy
nga ở phí Tây Bắc và Tây, vùng bán sa mạc ở miền Bắc và một số cái tên khác.
Trong thực tế, vì sự đa dạng về dân tộc, văn hóa và địa lý, quốc gia này thường
được gọi là “Châu Phi thu nhỏ”. Do đó sự đa dạng của đất nước là những cơ hội
bất tận cho du khách và người dân địa phương. Trớ trêu thay, nước này lại không
có nhiều khách du lịch vì đó là điều mong đợi của 1 quốc gia có tiềm năng du lịch
phong phú như vậy. Theo bộ trưởng Bộ du lịch là Baba Ahmadou, Châu Phi sẽ
đón khoảng 42,2 triệu du khách quốc tế với doanh thu ước tính 12.000 tỷ FCFA
(18,3 tỷ euro) trong năm 2010 nhưng chỉ có 572.000 du khách quốc tế đến thăm
Cameroon. Con số này là khá nhỏ và không phù hợp với 1 quốc gia với rất nhiều
tài nguyên và môi trường, tiềm năng du lịch cao và được xem như là “Châu Phi
thu nhỏ”. Do đó du lịch và du lịch sinh thái ở Cameroon đã là 1 ngành công
nghiệp nhỏ mặc dù nhiều người cho rằng nó có tiềm năng tăng trưởng và phát
triển. Bộ du lịch đã được thành lập vào năm 1970 để thúc đẩy ngành công nghiệp
này. Tuy nhiên, sau đó hơn 20 năm với những kết quả đạt được của Bộ du lịch ở
dưới mức mong đợi và vẫn còn có rất vấn đề. Đây là lý do tại sao tổng cục du lịch
quốc gia được thành lập vào tháng 7 năm 2009 để tăng cường hơn nữa các hoạt

động của Bộ du lịch. Kể từ đó, Tổng cục đã làm việc chăm chỉ để đưa ngành du
lịch và du lịch sinh thái ở Cameroon đi đầu trong việc mở rộng, tăng trưởng và
phát triển. Sau phiên họp thường kỳ thứ Bảy của ban tổ chức vào ngày 28 tháng
12 năm 2010, Bộ trưởng Baba Hamadou kết luận rằng “ Cameroon có tiềm năng
du lịch đặc biệt và phải làm tất cả để khẳng định vị trí của mình trên thị trường du
lịch phát triển, để góp phần tăng trưởng kinh tế và phát triển”. Vẫn tại phiên họp
thường kỳ thứ bảy này, nó cũng đã được tiết lộ rằng Cameroon có 2.539 khách
sạn (tất cả các loại đều như nhau) trong năm 2010. Tất cả đã chứng minh được
rằng Cameroon đang có gắng để khẳng định vị trí của mình trên thị trường du lịch
phát triển.
1.4 Tổng quan về khu vực nghiên cứu
Hình dưới đây là bản đồ của Kribi biểu diễn bờ biển của Kribi Campo và
các thị trấn lân cận. Các bản đồ của Cameroon được trình bày trong phụ lục 1.


Kribi là 1 trung tâm ven biển là nơi nổi tiếng với nhiều bãi biển cát trắng,
cuộc sống về đêm, con người thân thiện với có số lượng lớn các khách du lịch
hay du khách đến từ các thị trấn khác của Cameroon và các nước khác. Kribi nằm
ở khu vực phí Bắc của Cameroon và có đường bờ biển dài ở Đại Tây Dương, từ
đó cung cấp những bãi biển tự nhiên. Nó có dân số ước tính vào khoảng 60.000
người và là trụ sở chính của của các đại dương. Mặc dù có mạng lưới giao thông
kém trong việc kết nối Kribi với các thủ đô trong khu vực (Ebolowa), kế hoạch
đang được tiến hành để xây dựng con đường trải nhựa nối liền 2 thị trấn chính ở
khu vực phía Nam của Cameroon. Điều này đã được tiết lộ bởi Tổng thống Paul
Biya trong bài phát biểu của mình tại lễ khai mạc chương trình Ebolawa Agro –
Pastoral vào ngày 17/1/2011.
Hình 1: Vị trí bờ biển của Kribi – Campo

Nguồn: Lưu trữ của 'Mission d'Études đổ l'AMENAGEMENT de l'Océan, Kribi


Mặc dù vậy, không có những con đường nhựa tốt để nối liền Kribi đến các
thủ đô chính trị và kinh tế (tương ứng là Yaoundé và Douala) của Cameroon.


Tính trung bình, phải mất khoảng 3 giờ lái xe từ Yaoundé để đến Kribi và 2 giờ
từ Douala để đến Kribi bằng phương tiện giao thông công cộng. Do đó Kribi có
rất nhiều khách đến từ 2 thủ đô của thành phố này. Mặc dù tai nạn xe và ùn tắc
giao thông đang rình rập dọc theo đường cao tốc Douala - Yaoundé, trên quãng
đường từ Edea đến Kribi khó có thể chứng kiến các tai nạn và ùn tác như vậy.
Tuy nhiên, luôn luôn có một số tắc nghẽn giao thông vào các ngày lễ và cuối
tuần, hầu hết các du khách đến với Kribi cũng vào những ngày này. Ngoài ra còn
có đường cao tốc Edea – Kribi thì ít tắc nghẽn hơn so với các đường cao tốc liên
tỉnh khác ở Cameroon. Các phương tiện vận chuyển chủ yếu từ các thị trấn khác
đến Kribi là vận chuyển liên tỉnh. Tuy nhiên, 1 số lượng hạn chế các cá nhân sử
dụng phương tiện giao thông (xe cá nhân) để tham quan các thị trấn riêng (một).
Transcam và La Kribi Enne là những công ty xe buýt nổi bật chạy trên tuyến
đường cao tốc Yaoundé – Kribi. Dọc theo đường cao tốc Douala-Kribi, có các
công ty xe buýt nổi tiếng như Trung Voyage, Jakoand Transcamare; mặc dù cũng
chạy trên đường cao tốc nhưng những công ty xe buýt ít được biết đến. Hầu hết
các công ty xe buýt đều hoạt động trong 1 điều kiện tương tự nhau như quan sát
thấy trong 1 thị trường cạnh tranh hoàn hảo (tức là họ tính giá vận chuyển giống
nhau). Tuy nhiên, một số công ty xe buýt có thể tính giá cao hơn một chút tùy
thuộc vào chất lượng của xe và các dịch vụ mà họ làm. Trong phạm vi của Kribi,
đó cũng là 1 mạng lưới giao thông tốt với con đường nhựa và đất nối liền các nơi
khác nhau. Tuy nhiên, xe máy là phương tiện giao thông chủ yếu ở thị trấn như 1
số con đường đất dẫn vào các khu là không dễ dàng để xe đi lại. Bên cạnh đó, vận
chuyển bằng xe máy là khá hợp lý và ít tốn kém hơn so với vận chuyển bằng taxi.
Về mặt kinh tế, Kribi là 1 thị trấn đang phát triển nổi tiếng ở Cameroon là
nơi có cuộc sống với chi phí cao. Nó thường được xem như là một trung tâm du
lịch, giải trí và thư giãn. Nông nghiệp, thương mại, đánh bắt thương mại, xây

dựng và du lịch là những ngành chính của người dân ở khu vực này. Đánh cá và
du lịch một mình thu hút rất nhiều người ở bên ngoài Kribi. Ví dụ, việc tiếp thị cá
tươi mỗi thứ Tư tại bãi biển Ngoé. Douala và Yaoundé là những thị trường chính
cho cá đánh bắt tại Kribi mặc dù 1 số lượng đáng kể cá cũng được tiêu thụ tại địa
phương. Cách Kribi vài km là thác nước Lobe, đây là 1 địa điểm thu hút rất lớn
đối với khách du lịch. Thác nước Lobe thì rất độc đáo bởi vì nó là thác nước duy
nhất ở Cameroon đổ trực tiếp vào đại dương. Đây là lý do tại sao có những kế
hoạch đang diễn ra để đăng ký nó vào danh sách Di sản thế giới của UNESCO.
Nhiều cuộc họp tham vấn và nhạy cảm đã được tổ chức giữa Bộ Văn hóa và Du
lịch với người dân địa phương trong khu vực thác nước Lobe này cho đến cùng.


Kribi cũng là nơi nổi tiếng với cuộc sống về đêm. Sự nổi tiếng "Carrefour
Kinge" ở Kribi là có nhiều quán bar, nhà nghỉ và các hoạt động diễn ra suốt hai
mươi bốn giờ. Vì vậy hầu hết các khách du lịch và du khách có thể dễ dàng được
phát hiện ra xung quanh các quán bar và nhà nghỉ. Bên cạnh các quán bar và nhà
nghỉ, Kribi cũng là nơi có nhiều nhà hàng, câu lạc bộ đêm, nhà trọ và khách sạn.
Hầu hết các khách sạn ở đây là khách sạn 2 hoặc 3 sao. Theo số liệu thống kê
hằng năm, ở năm 2009 từ Viện thống kê Cameroon, đã có hơn 25 khách sạn ở
Kribi (xem phụ lục 2). Lĩnh vực ngân hàng cũng được tổ chức tốt ở Kribi với 1
vài ngân hàng có máy rút tiền. Điều này làm cho việc sử dụng thẻ tín dụng là có
thể, do đó làm giảm các nguy hiểm liên quan đến du lịch với khoản tiền lớn.
Như đã đề cập phía trước, Kribi là nơi có nhiều bãi biển cát trắng. Bãi biển
lớn Batanga, bãi biển Mbuamanga và bãi biển Ngoé là một số trong những bãi
biển nổi tiếng nhất của thị trấn. Trong tất cả các bãi biển, Bãi biển Ngóe là có
nhiều khách tham quan nhất. Điều này là do có 3 lý do chính. Một là, bãi biển
nằm gần trung tâm của thị trấn (cách trung tâm của thị trấn vài trăm mét) và thứ 2
là nó khá rộng rãi với nhiều không gian mở. Cuối cùng là, bãi biển thì gần với
điểm cuối của đường ống Chad – Cameroon cũng như nhà ở tổng thống (2 điểm
tham quan khác cho du khách). Bãi biển Ngóe trải dài hơn 1,5km và do đó hầu

như không có tắc nghẽn xảy ra. Hơn nữa, nước ở bờ biển khá là nông, làm cho
việc bơi lội ở bờ biển là khá dễ dàng, an toàn và thú vị. Nó cũng không có các vụ
tấn công từ cá mập và những nguy hiểm khác từ đại dương/sinh vật biển. Có rất ít
cơ sở hoặc tiện nghi tại bãi biển nhưng Hội đồng đô thị ở Kribi đã đẩy mạnh việc
làm sạch tại bãi biển. Một vài chỗ công cộng có thể được tìm thấy tại một số điểm
xung quanh các bãi biển. Các đội cứu hộ không ở trong vị trí của họ và có vẻ là
không có quản trị viên phụ trách công việc quản lý tại bãi biển. Vì lý do chất
lượng hay tình trạng của các bãi biển là đôi khi đáng trách và điều này có thể có 1
số tác động tiêu cực tới các quyết định tiếp theo của du khách. Để có một cái nhìn
tổng quan về bãi biển Ngoé, xem hình ảnh của bãi biển Ngoé được trình bày dưới
đây.
Hình 2: Một phần của bãi biển Ngóe (thông báo của Tổng thống Lodge có
ánh sáng nền).
Ảnh chụp bởi: Timah paul Nude


1.5 Cở sở của vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu này tập trung vào các phương pháp chi phí du hành như là 1 kỹ
thuật định giá phi thị trường để ước tính giá trị giải trí của bãi biển Ngoé tại thị
trấn du lịch của Kribi ở khu vực phía Nam của Cameroon. Du khách đến bãi biển
Ngóe thưởng phỉa bỏ ra khoản chi phí cho việc đi lại, chi phí cơ hội về thời gian
và chi phí liên quan khác khi đến tham quan thị trấn.
Theo Shaw và Rogers (2005), phương pháp chi phí du hành là 1 phương
pháp xác định giá trị phi thị trường cơ bản trong đó ước tính sở thích cho biết
bằng cách so sánh các chi phí đi lại của du khách hay người tham gia vào một địa
điểm hoặc một sự kiện đặc biệt (giải trí). Họ cũng nói rằng kỹ thuật này là thích
hợp khi các địa điểm hay sự kiện với 1 tỷ lệ phần trăm cao du khách hoặc người
tham dự là người đến từ những nơi khác nhau với những khoảng cách khác nhau
đến các địa điểm hay vị trí của sự kiện. Tuy nhiên, nếu đa số khách đi đến các địa
điểm là người dân địa phương, rất có khả năng rằng các ước tính về chi phí du

hành thu được sẽ bị sai lệch.
Phương pháp chi phí du hành (TCM) có thể xác định từ rất lâu vào năm
1947 khi Harold Hotelling đã viết 1 bức thư cho giám đốc công viên Quốc gia


của Hoa Kỳ, đề xuất các biện pháp về kinh tế như thế nào cho các công viên công
cộng có thể được ước tính (Arrow và Lehmann, 2005). Theo đó, Clawson (1959)
sẽ thực hiện 1 số nghiên cứu nghiêm ngặt bằng cách sử dụng các biến nằm trong
thư của Hotelling. Như 1 hệ quả, phương pháp chi phí du hành phải nhiều hơn
nữa để được công nhận là của Clawson. Đây là lý do tại sao 1 số tác giả khác gọi
nó là phương pháp Clawson (Common, 1973). Kể từ đó, các phương pháp chi phí
du lịch đã được sử dụng nhiều cho đến ngày hôm nay, hầu hết các nhà kinh tế
đồng ý rằng nó là phương pháp thích hợp nhất trong việc đánh giá các điểm địa
thư giãn hoặc giải trí. Điều này dường như đúng với các tài liệu về phương pháp
chi phí du hành. Các nhà nghiên cứu và học giả đã ngày càng sử dụng nhiều
phương pháp này với các hình thức khác nhau để định giá các loại hoạt động giải
trí (sự kiện) hoặc các địa điểm khác nhau.
1.6 Ý nghĩa, phạm vi và giới hạn của nghiên cứu.
Các kết quả của nghiên cứu này sẽ đặc biệt hữu ích cho các đô thị và hội
đồng ở Kribi cũng như các hội đồng khác trên cả quốc, về việc cung cấp và quản
lý các nguồn lực công, sửa chữa khách sạn và dịch vụ ăn uống. Kết quả thu được
từ nghiên cứu này có khả năng phục vụ như một hướng dẫn cho việc sử dụng phí
tham quan hoặc lối vào cho hầu hết các địa điểm giải trí tại Cameroon. Nghiên
cứu cũng có ý nghĩa ở chỗ là nó làm mọi nỗ lực để bộc lộ các tiềm năng về du
lịch của đất nước. Ngoài ra, có rất ít hoặc không có công trình nghiên cứu về loại
hình này đã được thực hiện trong nước trước đây (dựa trên tất cả các tài liệu được
xem xét), đó là điều mong đợi rằng sẽ có nhiều công trình nghiên cứu liên quan
đến lĩnh vực nghiên cứu này trong tương lai. Nghiên cứu này đã có những hạn
chế riêng của nó là việc tính toán các giá trị sử dụng để giải trí của bãi biển Ngoé.
Các giá trị khác của bãi biển như là giá trị của đánh bắt cá thương mại, giá trị của

các đường ống dẫn Chad - Cameroon và của các cảng biển nước sâu có ý định
không được đưa vào xem xét. Cứ cho rằng các giá trị của bãi biển nằm ngoài tính
giải trí, nó đòi hỏi tốn nhiều thời gian và nguồn lực tài chính để thực hiện một
nghiên cứu trong đó sẽ mang lại các lợi ích khác của bãi biển. Vấn đề thời gian và
nguồn lực tài chính có thể không được đưa vào khuôn khổ của nghiên cứu này.
Do đó, một nghiên cứu rộng lớn hơn sẽ là phù hợp để nắm bắt tất cả những giá trị
này. Nó cũng đáng chú ý rằng các thông tin thu được từ khách du lịch tại chỗ của
nghiên cứu trong tháng 2 và 3 năm 2011. Do đó điều này có nghĩa rằng kết quả
có thể khác nếu các thông tin thu được trong những khoảng thời gian khác nhau,


như tháng 12 hoặc mùa hè đó là thời gian cao điểm cho du lịch. Hơn nữa, điều
này có thể không tránh được đối với khung thời gian cho nghiên cứu này.
7

Khái quát về nghiên cứu
Công việc này bao gồm 6 chương. Chương đầu tiên là chương giới thiệu.
Nó giới thiệu công việc, xem xét vấn đề thư giãn và du lịch trong điều kiện của
Cameroon và cung cấp 1 cơ sở cho khu vực nghiên cứu cũng như lĩnh vực nghiên
cứu. Nó cũng trình bày vấn đề nghiên cứu, mục tiêu và tầm quan trọng của
nghiên cứu cũng như phạm vi và giới hạn của nghiên cứu. Chương 2 là dành cho
việc xem xét các tài liệu có liên quan và chương 3 là tập trung vào khảo sát tại
chỗ và mô tả dữ liệu. Chương 4 xem xét các mô hình kinh tế khác nhau được sử
dụng trong bài nghiên cứu và các kỹ thuật của chúng. Trọng tâm của chương 5 là
các kết quả của ước tính kinh tế lượng. Nó cũng bao hàm các tính toán khác nhau
về thặng dư tiêu dùng (CS) và sự sẵn lòng chi trả (SWTP) của du khách cũng như
các phân tích được thực hiện dựa trên các kết của của kinh tế lượng. Cuối cùng,
chương 6 đưa ra kết luận chung và 1 số kiến nghị dựa trên các kết quả nghiên
cứu.



CHƯƠNG 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
Chương này tập chung xem xét các tài liệu liên quan đến việc định giá, giá
trị hàng hóa, dịch vụ phi thị trường nói chung và giải trí nói riêng. Chính xác hơn,
một cái nhìn tổng quan về các kỹ thuật định giá khác nhau của hàng hóa phi thị
trường sẽ được trình bày. Khái niệm về thặng dư tiêu dùng (CS) được áp dụng
trong nghiên cứu định giá phi thị trường sẽ được xem xét lại. Ngoài ra, xem xét
kỹ lưỡng của TCM sẽ được thực hiện cũng như các cách khác nhau, trong đó thời
gian đi lại và thời gian dành cho chỗ có giá trị trong nghiên cứu TCM. Chương
này cũng được dành cho việc xem xét lại các cơ sở lý thuyết mà dựa vào đó TCM
được neo cũng như một số công trình thực nghiệm đã được tiến hành bởi các nhà
nghiên cứu khác.
2.1. Các phương pháp tiếp cận khác nhau để định giá phi thị trường
Kỹ thuật định giá phi thị trường thường rơi vào hai loại lớn ( phương pháp
bộc lộ sở thích (RP) và phương pháp phát biểu sở thích (SP)), mặc dù phương
pháp chuyển giao lợi ích và phương pháp xác định giá trị hỗn hợp dường như là
các công cụ định giá phi thị trường thú vị khác. Phương pháp bộc lộ sở thích
thường tập trung vào làm thế nào để định giá hàng hóa và dịch vụ phi thị trường
dựa trên hành vi quan sát được từ các cá nhân hoặc người tiêu dùng hàng hóa và
dịch vụ đó. Boardman et al. (2006) nhà nước thêm rằng căn cứ xác định giá trị về
hành vi quan sát là quan trọng bởi vì các cá nhân tiết lộ sở thích của họ mà không
cần phải hỏi. Do đó điều này có khả năng giảm thiểu thiên vị kết hợp với nghiên
cứu của thiên nhiên này. Phương pháp bộc lộ sở thích được sử dụng phổ biến để
xác định giá trị phi thị trường bao gồm giá cả hưởng thụ, chi phí đi lại và phương
pháp tính giá thị trường. Mặt khác, phương pháp phát biểu sở thích nói rõ sử dụng
quan sát để tìm ra thông tin từ các cá nhân liên quan đến chi phí và lợi ích.
Phương pháp phát biểu sở thích nói rõ là chủ yếu được sử dụng để định giá một
số hàng hóa công cộng mà có rất ít hoặc không có sự tín nhiệm của thị trường. Vì
lý do này, các phương pháp phát biểu sở thích nói rõ sử dụng bảng câu hỏi để tìm
ra thông tin kể từ khi được hỏi đều không thực sự cần thiết để chi trả cho việc

định giá hàng hóa và dịch vụ (Boardman et al., 2006). Hơn nữa, Shaw và Rogers
(2005) cho rằng "phương pháp phát biểu sở thích nói rõ thường trực tiếp yêu cầu
cá nhân để ghi giá trị của họ cho một chuyến thăm đến một hồ nước, bãi biển,
một sự thay đổi môi trường ở biển hay hồ, hoặc sự tồn tại của một sự kiện".
Thông thường phát biểu sở thích bao gồm đánh giá ngẫu nhiên, mô hình hóa sự
lựa chọn đã nêu và các kỹ thuật phân tích kết hợp.


Chuyển lợi ích và phương pháp phân tích dựa rất nhiều vào kết quả thu
được bằng cách sử dụng phát biểu sở thích nói rõ và phương pháp bộc lộ sở thích
kể từ khi họ chỉ đơn giản là sử dụng các kết quả đó cho giá trị hàng hóa và dịch
vụ phi thị trường tương tự. Tóm lại, Shaw và Rogers (2005) đặt nó rằng phương
pháp truyền tải những lợi ích là một phương pháp thứ hai của định giá phi thị
trường mà là dựa vào tài liệu hiện có. Mặt khác phương pháp xác định giá trị liên
quan đến một hỗn hợp pha trộn của RP và SP kỹ thuật. Trong các đoạn tiếp theo,
các phương pháp bộc lộ sở thích về định giá phi thị trường sẽ được làm sáng tỏ
với sự nhấn mạnh vào phương pháp chi phí du hành (TCM), vì nó là phương
pháp chính được sử dụng trong công việc này.
Hình 3 tóm tắt các kỹ thuật định giá phi thị trường khác nhau đã thảo luận ở
trên.
Hình 3: Các kỹ thuật định giá của môi trường / phi thị trường hàng hóa và
dịch vụ.


Preferences

Revealed Preference
Techniques

Market Based

Techniques

FOP

CS and
PS

Stated Preference
Techniques

Surrogate Markets
Methods

Defensive
Expenditures

Hedonic
Pricing

CV

Choice
Experiments

Conjoint
Analysis

TCM

Zonal

TCM

Individual
TCM

Benefit
Transfer
Method

Source: Adapted from www.csc.noaa.gov/coastal/economies/envvaluation.htm
Notes: CV = Contingent Valuation, FOP = Factors of Production, CS =
Consumer Surplus, PS = Producer Surplus and TCM = Travel Cost Method.
2.2 Khái niệm và lý thuyết Framework.
Như đã đề cập trước đó trong các đoạn trên, kỹ thuật định giá phi thị trường
thường được phân loại thành hai loại, cụ thể là phương pháp bộc lộ sở thích và
phát biểu sở thích. Trong phần này, làm nổi bật phần nào các kỹ thuật bộc lộ sở
thích vì đây là mối bận tâm lớn của công việc này. Vì vậy, xem xét lại các khái
niệm và lý thuyết liên quan đến kỹ RP sẽ là cần thiết.
2.2.1 Khái niệm về thặng dư tiêu dùng (CS).
Ý tưởng về thặng dư tiêu dùng (CS) là một nguyên lý trung tâm của phương
pháp chi phí du hành. Tầm quan trọng của CS trong TCM nằm trong thực tế rằng
nó thực sự đại diện cho bao nhiêu khách tham quan, giá trị một chuyến đi hoặc


tham quan địa điểm giải trí. Vì vậy không làm thay đổi các CS đại diện cho giá trị
sử dụng của giải trí gắn liền với địa điểm giải trí. Sohngen et al. (1999) cho rằng
thặng dư của người tiêu dùng là giá trị phụ trên chi phí du lịch cá nhân có được
bằng cách tham quan địa điểm giải trí (bãi biển) mỗi mùa (năm). Trong điều kiện
kinh tế bình thường, thặng dư tiêu dùng là sự chênh lệch giữa giá trị thực tế bạn
phải trả cho một số hàng hóa và giá trị tối đa mà bạn sẽ sẵn sàng chi trả cho nó

hơn là không có nó (Ndichia, 2007). Alfred Marshall elucidates làm sáng tỏ điều
này bằng cách nói rằng “Giá mà một người phải trả cho một việc có thể chưa bao
giờ và rất ít khi đi đến đó mà ông sẽ sẵn sàng trả tiền chứ không cần đi đến đó, vì
vậy mà sự hài lòng anh ta nhận được từ nó thường vượt qua việc ông ta từ bỏ việc
trả tiền cho giá trị đó; và do đó ông xuất phát từ việc mua một sự hài lòng thặng
dư. Việc dư thừa của giá mà anh sẽ sẵn sàng trả tiền chứ không phải đi mà không
có điều, qua đó mà ông thực sự trả tiền, là biện pháp kinh tế của sự hài lòng thặng
dư này. Nó có thể được gọi là thặng dư của người tiêu dùng "(Ndichia, 2007). Sự
sáng tỏ của định nghĩa này đã được đề cặp ở trên bởi Ndichia và lời giải thích
ngắn gọn bởi Marshall, và trong tình huống của TCM, sau đó có thể được phát
biểu một cách chủ quan rằng CS là sự khác biệt giữa tổng chi phí đi lại hoặc chi
phí phát sinh bởi một người đến một địa điểm giải trí và số tiền tối đa mà họ đã
(hoặc sẽ) sẵn sàng chi tiêu để chuẩn bị cho chuyến thăm hay chuyến đi. Để minh
họa cho các khái niệm của CS, hãy xem hình 4.
Hình 4: Hàm cầu chi phí đi lại và thặng dư tiêu dùng
TTC (price per trip per visitor)
0
1

t

Travel cost demand function
Consumer surplus
t0

A

Visitor’s expenditure

Number of trips per visitor per year

Source: Adapted from Sohngen et al. (1999:12).

N0


Từ các con số trên, chúng ta nhận ra rằng thặng dư của người tiêu dùng là
các vùng được đại diện bởi At0t1. Khu vực này có thể dễ dàng tính toán, sử dụng
các phép tính đơn giản (tức là hội nhập). Ngoài ra, CS có thể được tính bằng cách
sử dụng các công cụ của các phép tính nếu chức năng nhu cầu chi phí du lịch theo
thông số thông qua một hình thức chức năng phù hợp. Giả sử chúng ta có một
hàm cầu chi phí đi lại của hình thức chức năng:
TIJ = f (Pi, Yi, Zj) (1)
Ti là số lượng các chuyến đi thực hiện bởi cá nhân i tới địa điểm giải trí
trong vòng mười hai tháng qua (năm ngoái), Pi là tổng chi phí du lịch (giá) cho
khách viến thăm i, Yi mức thu nhập của khách i và Zj là chất lượng của các địa
điểm giải trí.
Từ phương trình (1), CS có thể được tính bằng cách lấy giá trị của hàm số
nhu cầu i.e.
CS = (2)
Phương pháp này tính toán CS được thảo luận ở trên chỉ có thể được áp
dụng khi dữ liệu là một trong những phương pháp đó là hồi quy OLS hay bất kỳ
biện pháp ước lượng thích hợp khác có thể được áp dụng trực tiếp để có được các
chức năng nhu cầu chi phí đi lại. Tuy nhiên, trong một số trường hợp (chẳng hạn
như các ứng dụng của Poisson cắt ngắn hoặc không thổi phồng và các mô hình
nhị thức âm) mà số lượng các chuyến đi là một hàm mũ của các chi phí đi lại và
các biến khác, CS cho mỗi chuyến đi được tính như sau.
CS = -1/ β
(3)
β là hệ số của tổng chi phí đi lại (TTC) biến đạt được khi ước lượng khả
năng tối đa được áp dụng cho các mô hình TCM sau.

Lưu ý rằng các dấu hiệu của β nên tiêu cực vì nó phải phù hợp với mong đợi
trong một mô hình theo yêu cầu (Bilgic và Florkowski, 2007). Do đó điều này có
nghĩa rằng ước tính cho mỗi chuyến đi CS nên luôn dương.
2.2.2 Phương pháp bộc lộ sở thích và Phương pháp chi phí du hành
(TCM)
Phương pháp bộc lộ sở thích là phương pháp tiếp cận hàng hóa phi thi
trường mà nó có thể được sử dụng để định giá địa điểm giải trí ( như là công viên
và bãi biển công cộng) và giải trí hoặc sự kiện văn hóa dựa trên thông tin sở thích
của khách du lịch về địa điểm và sự kiện.
Kỹ thuật bộc lộ sở thích là ứng dụng tốt trong tình huống mà ở đó hoạt động
chắc chắn hoặc sở thích của cá nhân cung cấp thông tin đầy đủ để được định giá
hàng hóa hoặc dịch vụ khác. Phương pháp bộc lộ sở thích được chia ra hai loại là
phương pháp định giá hưởng thụ và chi phí du hành vùng(TCM). Tuy nhiên,


trọng tâm của công tác này là TCM rất nhiều trong những cuộc thảo luận trong
công việc này sẽ được dành cho việc TCM.
Nhiều năm qua, nhiều nhà kinh tế học có báo trước TCM là công cụ định
giá tốt nhất khi nó trở thành giá trị của địa điểm và sự kiện giải trí từ khi cải tiến
kỹ thuật bộc lộ sở thích ở trên của du khách (như Bateman, 1993; Day, 2000;
Curtis, 2003; Earnhart, 2003; Anderson, 2010 nhưng chỉ đề cặp đến một vài tên).
Như một hệ quả, kỹ thuật này đã được sử dụng rộng rãi bởi môi trường, giải trí,
vui chơi giải trí, du lịch và các nhà kinh tế văn hóa và các nhà nghiên cứu trong
nhiều thập kỷ qua để đánh giá hoạt động giải trí khác nhau.
Garrod và Willis (1999) đưa ra ý kiến rằng phương pháp này chủ yếu được
sử dụng để ước tính nhu cầu hoặc đường cong xác định giá trị biên cho các địa
điểm giải trí.Họ đều nhớ lại rằng mặc dù cổng vào nhiều địa điểm giải trí thường
là miễn phí, du khách đến địa điểm đó như là mua hàng hóa tư nhân như vận tải
để đạt được quyền đến địa điểm đó.Các chi phí về hàng hóa tư nhân có liên quan
sau đó có thể được sử dụng như người thụ hưởng để đánh giá các địa điểm. Kể từ

khi TCM trở thành phương pháp nổi bậc, nó đã trải qua những tác động mạnh mẽ
và sàng lọc các điều khoản của ứng dụng của nó và các mô hình làm việc. Cụ thể
hơn, Sohngen et al. (1999) ủng hộ quan điểm này bằng cách nói rằng trong hai
mươi lăm (25) năm qua, các nhà kinh tế đã được áp dụng và cải tiến các kỹ thuật
chi phí du hành để đánh giá giá trị kinh tế của một loạt các nguồn tài nguyên công
cộng như rừng, chất lượng nước, nước mặn và bãi biển nước ngọt cũng như di
sản văn hóa. Đầu tiên, nó là phương pháp chi phí du lịch vùng (ZTCM), trong đó
du khách được nhóm thành các loại hoặc khu khác nhau dựa trên một số đặc điểm
tương tự như nguồn gốc địa lý.Đây là hình thức lâu đời nhất của phương pháp chi
phí du lịch. Nó đã được sử dụng trong nhiều nghiên cứu như là những người
Clawson và Knetsch (1966), Hanley(1989), Chen et al. (2003), Becker et al.
(2005) nhưng chỉ để đề cập đến một vài. Những người ủng hộ ZTCM lập luận
rằng phương pháp này có lợi thế ở chỗ nó bảo đảm thủ tục thu thập dữ liệu
chuyên sâu hơn, sở hữu khả năng điều chỉnh tần số của cuộc thăm viếng từ khu
có dân số khác nhau và các địa điểm khác thường có ít khách, qua đó đảm bảo
việc thực hiện các các mối quan hệ nhu cầu giá lượng nghịch đảo (xem Ward và
Loomis, 1986; Bergstrom và Cordell, 1991). Tuy nhiên, phương pháp chi phí du
hành vùng đã bị chỉ trích nghiêm trọng gần đây cho sự mơ hồ của nó như là một
công cụ định giá phi thị trường (xem Bell và Leeworthy,1990). Vì lý do này, hầu
hết các nhà nghiên cứu và các nhà kinh tế hiện nay đã chuyển sang phương pháp
chi phí du lịch cá nhân (ITCM) như là một lựa chọn tốt hơn. Giữa cuộc tranh cãi


×