Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Đảng bộ thị xã sơn tây hà tây lãnh đạo giải quyết vấn đề lao động và việc làm tu nam 1996 den nam 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.92 KB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ THÚY QUỲNH

ĐẢNG BỘ THỊ XÃ SƠN TÂY (HÀ TÂY) LÃNH ĐẠO
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2006

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

HÀ NỘI – 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VŨ THÚY QUỲNH

ĐẢNG BỘ THỊ XÃ SƠN TÂY (HÀ TÂY) LÃNH ĐẠO
GIẢI QUYẾT VẤN ĐẾ LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2006

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học


PGS.TS Hoàng Hồng

HÀ NỘI - 2012

2


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Tên các bảng

Trang

Bảng 1. Kết quả dạy nghề 5 năm (1999 - 2000)

47

Bảng 2. Quy hoạch làng có nghề từ năm 2006 của thị xã Sơn Tây

67

Bảng 3. Giá trị lao động trong các làng nghề của thị xã Sơn Tây

68

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

Chƣơng 1. CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO TỔ CHỨC THỰC HIỆN
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM CỦA ĐẢNG BỘ
THỊ XÃ SƠN TÂY GIAI ĐOẠN 1996 – 2000 .......................................... 14
1.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội và thực trạng nguồn lao
động, nhu cầu việc làm của thị xã Sơn Tây trước năm 1996. ........................ 14
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tác động tới vấn đề lao động và việc
làm của thị xã Sơn Tây. ................................................................................ 14
1.1.2. Thực trạng nguồn lao động, nhu cầu việc làm ở thị xã Sơn Tây trước
năm 1996...................................................................................................... 20
1.2. Đảng bộ thị xã Sơn Tây lãnh đạo giải quyết vấn đề việc làm cho người
lao động giai đoạn 1996 - 2000. ................................................................... 30
1.2.1. Đường lối chung của Đảng và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về
vấn đề lao động và việc làm giai đoạn 1996 - 2000. ..................................... 30
1.2.2 Phương hướng, nhiệm vụ giải quyết việc làm cho người lao động của
Đảng bộ thị xã Sơn Tây giai đoạn 1996 - 2000. ........................................... 38
1.2.3. Quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện giải quyết việc làm cho người lao
động của Đảng bộ thị xã Sơn Tây giai đoạn 1996 – 2000. ........................... 41
Chƣơng 2. CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO TỔ CHỨC THỰC HIỆN
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM CỦA ĐẢNG BỘ
THỊ XÃ SƠN TÂY GIAI ĐOẠN 2001 - 2006. .......................................... 57
2.1. Đường lối chung của Đảng và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về
vấn đề lao động và việc làm giai đoạn 2001 -2006. ...................................... 57
2.1.1. Đường lối chung của Đảng................................................................. 57
2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây ................................................ 58
2.2. Đảng bộ thị xã Sơn Tây lãnh đạo giải quyết vấn đề việc làm cho người
lao động giai đoạn 2001 - 2006. ................................................................... 61
4


2.2.1. Phương hướng nhiệm vụ giải quyết việc làm cho người lao động của

Đảng bộ thị xã Sơn Tây. ............................................................................... 61
2.2.2 Quá trình tổ chức thực hiện. ................................................................ 63
Chƣơng 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM .......................... 88
3.1. Một số nhận xét ..................................................................................... 88
3.1.1. Ưu điểm .............................................................................................. 88
3.1.2. Hạn chế .............................................................................................. 96
3.2. Một số kinh nghiệm chính ................................................................... 100
3.2.2 Kết hợp lồng ghép các dự án, chương trình chính sách với giải quyết
vấn đề lao động và việc làm. ...................................................................... 103
3.2.3. Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị để phát triển kinh tế
- xã hội thực hiện giải quyết việc làm cho người lao động. ......................... 106
KẾT LUẬN ............................................................................................... 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 113

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lao động và việc làm là một trong những vấn đề lớn, vấn đề cơ bản của
chính sách xã hội đặt ra cho mỗi quốc gia, mỗi Nhà nước trong quá trình xây
dựng và phát triển đất nước. Ở nước ta trong những năm cuối thế kỷ XX và
đầu thế kỷ XXI, cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nước, Việt Nam đã
và đang chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, mở ra một giai đoạn
mới đưa nền kinh tế nước ta hội nhập sâu rộng và toàn diện hơn vào nền kinh
tế thế giới. Hội nhập kinh tế tạo ra những cơ hội lớn, đồng thời cũng đặt ra
những thách thức gay gắt đối với nước ta trong đó có vấn đề việc làm đối với
người lao động. Với một quốc gia dân số tương đối đông và phần nhiều là lực
lượng lao động trẻ lại trong tình trạng nền kinh tế kém phát triển, vấn đề giải
quyết việc làm vốn đã rất căng thẳng sẽ càng trở nên căng thẳng hơn trong

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trên con đường định hướng lên chủ nghĩa
xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh.
Hội nhập kinh tế càng sâu rộng trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát
triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ càng làm cho nguy cơ
thất nghiệp có thể gia tăng. Đây là thách thức lớn đối với vấn đề giải quyết
việc làm cho người lao động của Việt Nam. Do vậy vấn đề giải quyết việc
làm cho người lao động được Đảng và Nhà nước ta xác định là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu để phát triển kinh tế xã hội, trong suốt quá trình đổi mới, mở
cửa và hội nhập quốc tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng mở đầu thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã xác định: cần phải tạo ra
nhiều việc làm cho người lao động bởi vì số lao động tăng thêm hàng năm có
ý nghĩa rất lớn để giảm đáng kể tình trạng thất nghiệp. Đây được xem là một
nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch 5 năm 1996 – 2000. Phương hướng quan trọng
6


để giải quyết việc làm là: “Nhà nước cùng toàn dân đầu tư phát triển, thực
hiện tốt các kế hoạch và các chương trình kinh tế xã hội. Khuyến khích mọi
thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề, tạo
nhiều việc làm cho người lao động, phát triển dịch vụ việc làm, tiếp tục phân
bố lại dân cư trên địa bàn cả nước…Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh
xuất khẩu lao động. Giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp của thành thị và thiếu việc
làm ở nông thôn” [26; tr.144].
Trong báo cáo đánh giá chung 10 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh
tế xã hội (1999 - 2000) trình đại hội IX của Đảng nêu rõ: “Đời sống của một
bộ phận nhân dân nhất là ở một số vùng núi, vùng sâu, vùng thường bị thiên
tai, còn nhiều khó khăn. Lao động không có việc làm còn nhiều, tệ nạn xã hội
còn nhiều…” [27; tr.154]. Đồng thời báo cáo cũng chỉ ra mục tiêu tổng quát
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001 – 2010 là “Để giải

quyết việc làm cho người lao động phải tạo môi trường và điều kiện thuận lợi
cho tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển rộng rãi các cơ sở sản xuất,
kinh doanh, tạo việc làm và phát triển thị trường lao động…”[28; tr.210-211].
Trong quá trình thực hiện mục tiêu của chặng đường đầu đi lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng và nhân dân ta ở khắp mọi miền của đất nước đang phải
hàng ngày, hàng giờ đối mặt với vấn đề việc làm và thất nghiệp, làm sao
tạo ra việc làm có nguồn thu nhập cao để cải thiện đời sống nhân dân. Vấn
đề việc làm đang trở thành vấn đề quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát
triển kinh tế, xã hội của các tỉnh thành trên cả nước và là một chƣơng
trình mục tiêu quốc gia.
Thị xã Sơn Tây là cửa ngõ phía Tây của thủ đô Hà Nội, cách trung tâm Hà
Nội 42 km về phía Tây Bắc, nằm trong vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ,
trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của cả vùng, có nhiều đường giao thông
thủy, bộ nối với trung tâm thủ đô Hà Nội, các vùng đồng bằng bắc bộ Bắc Bộ,
7


với Tây Bắc rộng lớn của tổ quốc như: sông Hồng, đường quốc lộ 32, Quốc lộ
21A, đường lộ tỉnh 414, 413…Thị xã Sơn Tây có tổng diện tích tự nhiên là
113,46 km2, dân số khoảng 118.406 người (không kể lực lượng quân đội và
học sinh, sinh viên đang theo học các trường đại học, cao đẳng và trung cấp
trên địa bàn), được chia làm 15 đơn vị hành chính gồm 09 phường, 06 xã; 141
thôn, và khu phố. Có 53 cơ quan, doanh nghiệp, bệnh viện, trường học và 30
đơn vị quân đội đứng chân trên địa bàn.
Thị xã Sơn Tây là một đô thị cổ của vùng đất Xứ Đoài ngàn năm văn hiến
lâu đời, xứng đáng là vùng đất địa linh, nhân kiệt, là cửa ngõ phía tây của Thủ
đô Hà Nội. Thêm nữa, thị xã Sơn Tây không những là trung tâm kinh tế - văn
hoá - xã hội của cả vùng mà còn là trung tâm đào tạo, huấn luyện quân đội
của cả nước, có vị trí hết sức quan trọng về an ninh, quốc phòng, góp phần
xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc phía Tây của thủ đô Hà Nội.

Với vị trí chiến lược, thị xã Sơn Tây có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc
mở mang, phát triển kinh tế như: phát triển kinh tế công nông nghiệp, đẩy
mạnh phát triển thương mại, dịch vụ du lịch, đầu tư cơ sở hạ tầng đô thị. Song
vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động cũng được đặt ra đòi hỏi Đảng
bộ thị xã Sơn Tây có những chủ trương chính sách phù hợp trong lãnh đạo và
tổ chức thực hiện trên toàn thị xã. Trên cơ sở đó xây dựng chương trình kế
hoạch hành động triển khai đến nhân dân thực hiện tốt vấn đề giải quyết việc
làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu khách quan trong
sự nghiệp phát triển đất nước nói chung và của thị xã Sơn Tây nói riêng đặc
biệt trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập kinh tế
quốc tế.
Với những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài: “Đảng bộ thị xã Sơn Tây (Hà
Tây) lãnh đạo giải quyết vấn đề lao động và việc làm từ năm 1996 đến năm
2006” làm luận văn Thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng cộng sản Việt
8


Nam. Là một người con của quê hương Sơn Tây, nghiên cứu đề tài này tôi mong
muốn có những đóng góp nhỏ vào những vấn đề nổi bật của thị xã Sơn Tây –
vấn đề lao động, việc làm, một đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề lao động và việc làm ở nước ta hiện nay là vấn đề được Đảng,
Nhà nước, nhiều cơ quan, nhiều cán bộ nghiên cứu, chỉ đạo thực hiện ở các
cấp các ngành cũng như toàn xã hội quan tâm. Vấn đề việc làm đã trở thành
“Chương trình mục tiêu quốc gia” được Chính phủ phê duyệt vào ngày 27
tháng 9 năm 2001.
Có thể thấy rõ đề tài đã thu hút giới nghiên cứu luận giải thực hiện qua
các công trình nghiên cứu của các cơ quan, của các nhà khoa học cụ thể sau đây:
Đối với các công trình nghiên cứu chung:
Các bài báo cáo khoa học, đề tài, hội thảo khoa học đề cập tới vấn đề việc

làm cho người lao động dưới nhiều góc độ khác nhau như bài viết: “Giải
quyết việc làm cho người lao động tại các vùng kinh tế trọng điểm” của tác
giả Lê Thanh Hà trên Tạp chí Quản lý nhà nước số 168, “Những giải pháp
giải quyết việc làm từ nay đến năm 2000” của tác giả Nguyễn Đức Nhật,
“Triển khai thực hiện công tác đào tạo nghề và chương trình mục tiêu quốc
gia về việc làm” của tác giả Nguyễn Thị Hằng trên Thông tin kho bạc Nhà
nước 1997, “Lao động và việc làm vẫn là vấn đề bức xúc” của tác giả Dương
Ngọc trên Thời báo kinh tế Việt Nam số 85 ngày 23 tháng 10 năm 1999. “Xóa
đói giảm nghèo và việc làm – vấn đề có giá trị nhân văn sâu sắc” của tác giả
Tạ Trung trên Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận của Ban Tư tưởng
– Văn hóa trung ương tháng 11 năm 2003. “Phát triển nguồn nhân lực trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn” của tác giả
Lê Thị Ngân trên Tạp chí cộng sản số 36 năm 2003. Bài viết của PGS.TS Lê
Danh Tốn về: “Giải quyết việc làm trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
9


của Việt Nam” đăng trong kỷ yếu hội thảo khoa học “Đường lối đổi mới của
Đảng cộng sản Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế (1986 - 2007)”...
Bài viết khẳng định vấn đề giải quyết việc làm trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế là vấn đề kinh tế - xã hội rất tổng hợp và phức tạp. Hội nhập kinh tế
quốc tế chỉ thực sự có ý nghĩa đối với Việt Nam nếu như cùng với quá trình
hội nhập ngày càng sâu hơn, toàn diện hơn, chúng ta giải quyết tốt hơn vấn đề
lao động và việc làm cho người lao động trong sự phát triển của kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam. Qua các công trình của các tác giả đã từ nhiều cách tiếp cận
khác nhau đề cập đến việc đáp ứng yêu cầu lao động và việc làm trên con
đường phát triển, đề cập đến sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong các
chương trình quốc gia, các giải pháp trong giải quyết vấn đề lao động và việc
làm gắn với xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là vấn đề chất lượng nguồn nhân lực

trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và nông
dân. Đây là những gợi mở tốt cho tác giả tham khảo, kế thừa đối với đề tài
luận văn.
Ngoài ra, còn có những luận văn, luận án của học viên cao học, nghiên cứu
sinh lấy vấn đề lao động và việc làm làm đề tài nghiên cứu như: Trần Thị Lộc
– Luận án PTS KH kinh tế, “Tạo việc làm tại khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh ở đô thị”; Trần Ngọc Diễn – Bộ Lao động Thương binh và Xã hội,
Luận án Tiến sĩ kinh tế năm 2002, “Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn
tạo việc làm cho người lao động ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”;
Bùi Anh Tuấn – Đại học Kinh tế quốc dân, luận án Tiến sĩ kinh tế năm 1999,
“Tạo việc làm cho người lao động qua vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp ở Việt
Nam”; Nguyễn Quốc Anh – Luận án tiến sĩ kinh tế năm 2003, “Xây dựng
chiến lược quản lý lao động, việc làm (lấy Việt Nam làm ví dụ). Thông qua
các đề tài này, các tác giả cũng đã nghiên cứu vấn đề việc làm cho người lao
10


động Việt Nam thông qua việc sử dụng các nguồn vốn nói chung và các
nguồn vốn đầu tư trức tiếp của nước ngoài vào Việt Nam. Đồng thời, đề ra
các giải pháp cụ thể để đạt được chất lượng và hiệu quả trong chính sách lao
động và việc làm cho người lao động, góp phần vào thực hiện mục tiêu phát
triển chung của đất nước là: Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã
hội và công bằng xã hội.
Có thể khẳng định, các nghiên cứu về việc làm và giải quyết việc làm cho
người lao động ở nước ta rất phong phú, đa dạng, đề cập đến nhiều góc độ và
nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên hiện nay, chưa có một công trình khoa
học nào nghiên cứu sâu, toàn diện về vấn đề việc làm cho người lao động ở
thị xã Sơn Tây nhất là dưới góc độ khoa học Lịch sử Đảng. Nhưng các công
trình nghiên cứu kể trên là những tài liệu quý báu, tác giả có thể triển khai,
vận dụng trong quá trình thực hiện luận văn của mình.

3.

Mục đích, nhiệm vụ

* Mục đích nghiên cứu: Làm rõ chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện giải
quyết việc làm cho người lao động của Đảng bộ thị xã Sơn Tây. Từ đó khẳng
định ưu điểm, hạn chế và rút ra kinh nghiệm từ thực tiễn của địa phương.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích yêu cầu khách quan của Đảng bộ thị xã Sơn Tây lãnh đạo thực
hiện giải quyết vấn đề lao động và việc làm.
- Khôi phục quá trình Đảng bộ thị xã Sơn Tây vận dụng chủ trương của Đảng,
Nhà nước về vấn đề giải quyết việc làm, định ra chủ trương chính sách và chỉ
đạo thực hiện trên địa bàn thị xã.
- Đánh giá những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân và rút ra kinh nghiệm từ
trong quá trình chỉ đạo thực hiện giải quyết lao động và việc làm cho Đảng bộ
thị xã Sơn Tây.

11


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Các chủ trương và các biện pháp chỉ đạo thực hiện
giải quyết việc làm cho người lao động của Đảng bộ thị xã Sơn Tây.
* Về phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Khái niệm “lao động và việc làm” có nội hàm khá rộng lớn,
luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu ở nội dung việc làm cho người lao
động, nội dung chính yếu nhất của khái niệm, đồng thời chú trọng tới các chủ
trương, biện pháp chỉ đạo thực hiện giải quyết việc làm cho người lao động
của Đảng bộ thị xã Sơn Tây.
- Về thời gian: Nghiên cứu quá trình lãnh đạo, và chỉ đạo của Đảng bộ thị xã

Sơn Tây từ năm 1996 đến năm 2006.
- Về không gian nghiên cứu: Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ thị xã
Sơn Tây về công tác giải quyết việc làm trên địa bàn thị xã.
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
* Nguồn tài liệu: Để hoàn thành luận văn này tôi đã sử dụng nguồn tài liệu
chủ yếu trong các tác phẩm kinh điển, Hồ Chí Minh, các Văn kiện, Nghị
quyết Đảng Cộng sản Việt Nam liên quan đến và vấn đề lao động và việc làm
cho người lao động. Các văn kiện, Nghị quyết, báo cáo của Đảng bộ thị xã
Sơn Tây trong những năm 1996 – 2006, các báo cáo tổng kết chương trình
giải quyết việc làm cho người lao động qua các năm của Phòng Lao động
Thương binh và Xã hội thị xã Sơn Tây và một số tư liệu trong lịch sử Đảng
bộ thị xã Sơn Tây. Đây là nguồn tư liệu cơ bản để thực hiện đề tài này và
những tư liệu đó được khai thác bằng nhiều nguồn khác nhau nhưng chủ yếu
là tại Phòng lưu trữ của Thị ủy thị xã Sơn Tây, Ủy ban nhân dân thị xã, Phòng
Lao động Thương binh – Xã hội thị xã Sơn Tây, thư viện thị xã, Thị đoàn, Thị
ủy, Ủy ban Nhân dân, Hội phụ nữ, Hội nông dân...

12


Ngoài ra luận văn còn sử dụng các công trình khoa học, các chuyên luận,
chuyên khảo, các luận văn, luận án, các bài nói, bài viết của các lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước xung quanh vấn đề lao động và giải quyết việc làm cho
người lao động.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ
yếu là: Phương pháp lịch sử, phương pháp logic và sự kết hợp hai phương
pháp đó. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: Phương
pháp thống kê, so sánh, đối chiếu, điều tra xã hội học....
6. Đóng góp của luận văn
- Nhằm hệ thống hóa những chủ trương chính sách, biện pháp, cách thức mà

Đảng bộ thị xã Sơn Tây đã thực hiện để lãnh đạo chỉ đạo vấn đề giải quyết
việc làm của thị xã.
- Tổng kết, đúc rút những kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ thị xã Sơn Tây
lãnh đạo thực hiện giải quyết việc làm cho người lao động từ năm 1996 đến
2006.
- Luận văn là nguồn tư liệu tham khảo để viết lịch sử địa phương, ngoài ra
còn phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy lịch sử tại các trường Đảng, các
trung tâm chính trị, các trường phổ thông ở địa phương.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục thì luận
văn còn có 3 chương:
Chương 1: Chủ trương và sự chỉ đạo tổ chức thực hiện giải quyết vấn đề lao
động và việc làm của Đảng bộ thị xã Sơn Tây giai đoạn 1996 - 2000.
Chương 2: Chủ trương và sự chỉ đạo tổ chức thực hiện giải quyết vấn đề lao
động và việc làm của Đảng bộ thị xã Sơn Tây giai đoạn 2000 - 2006.
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm

13


Chương 1:
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO TỔ CHỨC THỰC HIỆN GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM CỦA ĐẢNG BỘ THỊ
XÃ SƠN TÂY GIAI ĐOẠN 1996 – 2000
1.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội và thực trạng
nguồn lao động, nhu cầu việc làm của thị xã Sơn Tây trƣớc năm 1996.
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tác động tới vấn đề lao động
và việc làm của thị xã Sơn Tây.
a, Đặc điểm tự nhiên
Thị xã Sơn Tây là trung tâm hành chính, chính trị, kinh tế, văn hóa xã

hội của tỉnh Hà Tây trước đây với tổng diện tích tự nhiên là 113,46 km2, dân
số khoảng 118.406 người trong đó lực lượng lao động khoảng 72.183 người
(không kể lực lượng quân đội và học sinh, sinh viên đang theo học các trường
đại học, cao đẳng và trung cấp trên địa bàn), tổ chức hành chính có 9 xã, 6
phường 141 thôn, khu phố và gần 100 cơ quan Trung ương [75; tr.11]. Đảng
bộ thị xã Sơn Tây có 96 tổ chức cơ sở Đảng với hơn 6300 Đảng viên. Trải
qua những lần nhập và tách địa giới hành chính cấp tỉnh, thị xã tiếp tục khẳng
định được vai trò là trung tâm kinh tế - văn hóa khu vực phía Tây Bắc của
tỉnh Hà Tây trước đây mà nay thuộc Hà Nội. Phía Bắc thị xã có sông Hồng
chảy qua, là địa giới tự nhiên giữa thị xã Sơn Tây với huyện Vĩnh Tường, tỉnh
Vĩnh Phúc. Phía Tây giáp huyện Ba Vì, phía Đông giáp huyện Phúc Thọ và
phía Nam giáp huyện Thạch Thất. Nhiều đường giao thông thủy bộ đã nối thị
xã với Hà Nội và các vùng đồng bằng đồng bằng Bắc Bộ và Đông Bắc, Tây
Bắc. Sông Hồng và đường 11A từ Hà Nội qua thị xã lên Trung Hà, Phú Thọ.
Sông Tích và các đường 87, 88, 21 nối thị xã với các huyện lân cận như Phúc
Thọ, Ba Vì, Thạch Thất. Cách Hà Nội hơn 40km nên Sơn Tây được xem là
cửa ngõ phía Tây Bắc của thủ đô.

14


Về mặt thổ nhưỡng, thị xã Sơn Tây là vùng bán sơn địa thuộc vùng
trung du, trong đó ¾ diện tích là đồi gò, nối liền với vùng núi huyện Ba Vì,
trải dài thoai thoải từ Tây Bắc đến Đông Nam. Khu vực phụ cận núi Tản Viên
đến ven sông Tích là đồi gò. Khu vực từ nội thị đến đê sông Hồng là vùng
đồng bằng tương đối màu mỡ do thường xuyên được phù sa bồi đắp, ở đây
nổi lên những quả đồi cao, thấp xem kẽ nhau tạo ra những đường đi uốn lượn
một cách tự nhiên.
Về khí hậu thị xã Sơn Tây nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, có 4
mùa xuân, hạ, thu, đông. Nhiệt độ không khí trung bình năm 24 – 25oC.

Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.700 – 1.800 ml. Hàng năm, lượng
bức xạ mặt trời cao, khoảng 89,5kcal/cm2/năm. Độ ẩm trung bình năm 80 –
86%. Lượng nước bốc hơi trung bình 780 – 830 mm. Hàng năm trung bình có
tới 280 ngày có nắng (1670 – 1730 giờ). Hướng gió chính là Đông Nam,
Đông Bắc. Nói chung khí hậu Sơn Tây thuận lợi cho môi trường sống của con
người, sự phát triển của hệ sinh thái, động thực vật và du lịch.
Về hệ sinh thái, thị xã Sơn Tây thuộc hệ sinh thái nhiệt đới, á nhiệt đới.
Hệ động thực vật ở thị xã Sơn Tây khá phong phú và ổn định, biến động
không đáng kể. Họ thực vật chiếm khoảng 53 % loại thực vật ở Việt Nam. Có
khoảng hơn 3000 loài. Thảm thực vật núi cao tại vườn Quốc Gia Ba Vì nổi
tiếng. Họ động vật chiếm khoảng 45% loài động vật ở Việt Nam bao gồm các
loài: Thú, chim, bò sát, loại cá, tôm, cua, ốc và loài côn trùng.
Thị xã Sơn Tây là vùng không chỉ có khí hậu vùng trung du điển hình,
số giờ nắng cao trong năm, mà còn có thổ những phong phú. Ngoài diện tích
đất phù sa được sông Hồng bồi đắp từ lâu đời để trồng lúa và canh tác các loại
hoa màu, thị xã còn có diện tích lớn đất đồi, phù hợp với các cây công nghiệp
như cây sắn, lạc... và những đồng cỏ rộng để chăn nuôi bò, trâu...Từ những
đặc điểm tự nhiên của thị xã Sơn Tây ta có thể phần nào thấy những thuận lợi

15


cũng như những khó khăn trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao
động. Cụ thể như sau:
* Thuận lợi:
Thứ nhất, thị xã Sơn Tây nằm trong khu vực đồng bằng sông Hồng,
hàng năm được bồi đắp một lượng phù sa lớn từ hệ thống sông Hồng, do vậy
đất đai màu mỡ, thiên nhiên ôn hòa, khí hậu thuận lợi, lượng mưa hàng năm
lớn, số giờ nắng trong năm cao, hệ thống sông ngòi, ao hồ, thuận tiện cho việc
tưới tiêu, cấp, thoát nước cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. Do đó, đây là cơ

sở để thị xã tiến hành thâm canh, sản xuất lương thực, cung cấp cho nhu cầu
của người dân thị xã. Nhân lực dồi dào, có nhiều kinh nghiệm trong thâm canh
lúa và hoa màu là một thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp của thị xã.
Thứ hai, thị xã cũng có một diện tích lớn đất trung du, thuận lợi để sản
xuất các cây công nghiệp, trong đó điển hình như cây sắn, cây lạc, cây đậu...
Ngoài ra, những đồng cỏ tương đối rộng là điều kiện tốt để thị xã khuyến
khích người dân phát triển kinh tế trang trại, chăn nuôi bò sữa, bò lai sin.
Những năm gần đây, do điều kiện tự nhiên thuận lợi, thị xã Sơn Tây tạo điều
kiện cho người dân nhân rộng mô hình kinh tế vườn đồi, tạo cảnh quan du
lịch đạt hiệu quả kinh tế cao.
* Khó khăn:
Thứ nhất, thị xã Sơn Tây là vùng đất chuyển tiếp giữa đồng bằng với
vùng trung du miền núi phía Bắc, nên nền nhiệt trung bình luôn cao hơn các
vùng xung quanh. Thêm nữa, do tác động chung của biến đổi khí hậu toàn
cầu, tác động của nhiệt độ nóng lên, cộng với độ ẩm cao, sâu bệnh nhiều cũng
là khó khăn đối với nông nghiệp của thị xã nói chung, cũng như đối với lao
động việc làm nói riêng. Để giải quyết những vấn đề nói trên thị xã cần sự tập
trung của các ban, ngành, các cấp, các hội, các cơ quan đoàn thể cùng nghiên
cứu để tìm ra biện pháp giải quyết tốt nhất.
16


Thứ hai, diện tích đất phù sa để sản xuất nông nghiệp, nhất là cây lúa
không lớn. Thêm vào đó là một diện tích đất đồi, ít chất dinh dưỡng, khó canh
tác. Chính yếu tố đòi hỏi thị xã phải có những chính sách phù hợp về nguồn
lao động, để kịp thời giải quyết những lao động thừa trong sản xuất nông
nghiệp, đồng thời có hướng tạo ra việc làm mới. Đặc điểm tự nhiên không có
nhiều thuận lợi đã phần nào đặt vấn đề lao động, đặc biệt là những lao động
phổ thông, không có trình độ trở thành vấn đề trung tâm và nhức nhối của thị
xã Sơn Tây.

b, Đặc điểm kinh tế, xã hội.
Đất và người Sơn Tây gắn liền với truyền thống lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc. Người dân thị xã Sơn Tây luôn kiên cường, bất khuất
trong chiến đấu chống ngoại xâm và luôn tự hào về vùng đất đắc địa chiến
lược về mặt quân sự, là một trong những lũy thép bảo vệ kinh thành Thăng
Long xưa và thủ đô Hà Nội nay.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa (từ năm 1975 đến nay), nhất là từ thời kỳ đổi mới và thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, Đảng bộ, chính quyền và
nhân dân thị xã Sơn Tây đã quán triệt sâu sắc các chủ trương, đường lối, nghị
quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, vận dụng sáng tạo
vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, phát huy truyền thống anh hùng
trên mảnh đất “địa linh – nhân kiệt”, đã nỗ lực phấn đấu, đoàn kết, năng động,
sáng tạo, quyết tâm đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã
hội, giữ vững an ninh quốc phòng; diện mạo đô thị và nông thôn của thị xã
Sơn Tây được đổi mới hàng ngày.
Thị xã Sơn Tây có nhiều thuận lợi cả về đường thủy và đường bộ. Thị
xã cách trung tâm Thủ đô Hà Nội 42 km, có Quốc lộ 11A nay là Quốc lộ 32
chạy qua, đến cầu Trung Hà, nối Hà Nội với các tỉnh Tây Bắc. Quốc lộ 21A
17


từ Sơn Tây đi qua một số huyện: Thạch Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ, qua Lạc
Thủy (Hòa Bình) rồi đi vào Ninh Bình, Thanh Hóa. Các lộ tỉnh 413, 414, 416,
417, 418 nối thị xã với các huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất. Bên cạnh
việc bồi đắp phù sa và cung cấp nước tưới tiêu cho cả vùng phía Tây Hà Nội,
sông Hồng còn được coi là con đường huyết mạch giao thông đường thủy,
ngược lên nối liền các tỉnh phía Bắc, xuôi về kết nối với thủ đô Hà Nội và các
tỉnh phía Nam. Cảng Sơn Tây cũng đang được quy hoạch, triển khai các dự án
đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng.

Sơn Tây không chỉ là trung tâm văn hóa xứ Đoài mà còn chứa đựng nhiều
nét đặc sắc tiêu biểu cho văn hóa truyền thống của dân tộc Việt. Đây cũng là
vùng đất có nhiều di tích văn hóa, lịch sử, nhiều sinh hoạt truyền thống cộng
đồng, nhiều lễ hội truyền thống được bảo tồn và lưu giữ khá nguyên vẹn trong
suốt chiều dài của lịch sử. Thị xã Sơn Tây còn bảo tồn được 172 di tích lịch sử
văn hóa trong đó có 63 di tích được xếp hạng. Tiêu biểu như: Thành cổ Sơn Tây,
đền Và (Trung Hưng), đình (Mông Phụ), đền thờ Phùng Hưng, lăng Ngô Quyền,
chùa Mía, Văn Miếu (Đường Lâm), đền Xuyên Sơn, đền Tiền Nông (Viên Sơn),
đền Măng (Sơn Đông)... Đặc biệt là khu di tích làng cổ ở Đường Lâm, được xem
là một trong những ngôi làng cổ nhất, kết tinh của nền văn hóa sông Hồng, là
ngôi làng cổ đầu tiên của đất nước được công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp
quốc gia. Đây cũng là ngôi làng duy nhất của Việt Nam sinh ra hai vị vua, hai vị
anh hùng dân tộc: Phùng Hưng và Ngô Quyền cùng nhiều bậc quốc sĩ làm rạng
danh cho quê hương, đất nước. Chính vì vậy, thị xã Sơn Tây ngày nay không chỉ
được biết đến với bề dày lịch sử mà còn là nơi lưu giữ và bảo tồn nhiều di sản,
nhiều nét đẹp văn hóa mang đậm bản sắc của vùng đất xứ Đoài. Truyền thống
văn hóa đặc sắc ấy gắn liền với truyền thống hiếu học. Trong lịch sử, Sơn Tây đã
có nhiều danh nhân học rộng, tài cao. Tiêu biểu cho truyền thống hiếu học của
đất và người nơi đây là Văn Miếu trấn Sơn Tây được dựng năm 1831, bên trong

18


thờ Khổng Tử và có 2 tấm bia lưu danh 288 vị khoa giáp từ triều đại nhà Lý đến
cuối thời Mạc quê ở trấn Sơn Tây
Sơn Tây tự hào là vùng đất có truyền thồng cần cù, dũng cảm đấu tranh
chống lại thiên tai khắc nghiệt để xây dựng cuộc sống, điều này phần nào đã được
hình tượng hóa trong truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh và di tích một vùng văn
hóa mang đậm đấu ấn của cuộc chiến đấu chống thiên tai của con người.
- Thuận lợi

Thứ nhất, với tiềm năng lớn nhất là con người Sơn Tây vốn thông
minh, sáng tạo trong lao động, anh dũng quật cường trong đấu tranh cách
mạng, cần cù trong lao động, nhạy bén với cái mới và biết nhân rộng cái mới.
Thứ hai, lực lượng lao động dồi dào số người trong tuổi lao động chiếm
tỉ lệ cao, sẵn sàng tiếp thu khoa học tiên tiến, đây là nguồn lực quý, là tiền đề
quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, một khi thị xã Sơn Tây có chính sách
đúng đắn để phát triển và sử dụng nguồn lực này.
Thứ ba, hệ thống cơ sở hạ tầng như: điện, đường, trường, trạm, nước
sạch, thông tin trong toàn thị xã phát triển khá đồng bộ, các tuyến đường
huyết mạch nối thành phố Hà Nội và thị xã Sơn Tây như quốc lộ 32, quốc lộ
21, đại Lộ Thăng Long, cảng Sơn Tây, tuyến đường sông... tạo cho Sơn Tây
có bước nhảy vọt về chất. Đây là cơ sở thuận lợi để thu hút đầu tư, phát triển
công nghiệp và dịch vụ, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động
Thứ tư, thị xã Sơn Tây là địa phương có ngành du lịch phát triển ngày
càng mạnh mẽ với các khu du lịch sinh thái đáp ứng nhu cầu của người dân
địa phương và của thành phố lân cận. Ngoài ra thị xã Sơn Tây còn là nơi có
ngành nông nghiệp phát triển và có một số làng nghề nổi tiếng, với những
người thợ có đôi tay khéo léo. Thời gian gần đây, ngành công nghiệp của thị
xã cũng phát triển mạnh.
- Khó khăn:
19


Thứ nhất, là một thị xã ngay sát cạnh Hà Nội nhưng tốc độ tăng trưởng
kinh tế chậm, một số ngành và lĩnh vực tuy tăng trưởng khá nhưng giá trị
tuyệt đối chưa cao.
Thứ hai, trình độ công nghệ, máy móc thiết bị còn lạc hậu chưa đồng
bộ. Đặc biệt để phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
thì phải có cơ cấu kinh tế công nông nghiệp, dịch vụ hợp lý. Tuy nhiên cơ cấu
kinh tế công nông nghiệp ở thị xã Sơn Tây còn lạc hậu: tỷ trọng nông nghiệp,

công nghiệp và dịch vụ còn chưa hợp lý. Ngành du lịch dịch vụ còn chưa
được đầu tư đúng mức.
Thứ ba, trong phát triển kinh tế xã hội thì yếu tố quan trọng là lực
lượng lao động xã hội phải có trình độ cao. Trong khi đó ở thị xã Sơn Tây tuy
sát cạnh thủ đô Hà Nội nhưng lao động có trình độ cao lại chiếm tỉ lệ thấp,
trong khi đó chủ yếu là lao động phổ thông có những quan niệm và suy nghĩ
đơn giản. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi một đội ngũ
cán bộ quản lý và công nhân có trình độ. Tuy nhiên thực tế trình độ quản lý,
trình độ kỹ thuật tay nghề của công nhân còn hạn chế. Tư tưởng của một bộ
phận cán bộ còn trông chờ ỷ lại vào cấp trên. Môi trường hoạt động của
doanh nghiệp chưa thật sự thoáng, thiếu cơ chế của địa để huy động phát triển
nguồn nội lực của thị xã.
Với tiềm năng và thế mạnh của công nghiệp, nông nghiệp và du lịch
dịch vụ, thị xã Sơn Tây có thể phát triển một nền kinh tế toàn diện từ sản xuất
nông nghiệp đến công nghiệp, thương mại – dịch vụ. Nguồn nhân lực dồi dào,
thông minh, cần cù sáng tạo, người dân thị xã Sơn Tây đã góp phần tạo nên
nhiều thành tích trong quá trình phát triển chung của thị xã. Tuy vậy những
thuận lợi khó khăn trên đã tác động lớn tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội
và giải quyết việc làm của thị xã.
1.1.2. Thực trạng nguồn lao động, nhu cầu việc làm ở thị xã Sơn Tây
trước năm 1996.
20


a, Thời kỳ đầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra những yêu cầu mới
về nguồn lao động và giải quyết việc làm.
Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Bên
cạnh những tác động tích cực, kinh tế thị trường có những mặt tiêu cực mâu

thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là xu thế phân hóa giàu nghèo
quá mức, cùng với nó là các căn bệnh quan liêu, tham nhũng và nhiều tệ nạn
xã hội khác. Vì vậy, trên con đường đi tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ và văn minh thì Việt Nam còn gặp khó khăn; nước ta
cơ bản vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn nhỏ bé, năng
suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp. Tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) tính bình quân đầu người thuộc nhóm những nước nghèo trên thế
giới, kết cấu hạ tầng kém. Xu hướng gia tăng chênh lệch về mức sống giữa
thành thị và nông thôn, giữa các vùng vẫn còn lớn, đòi hỏi phải kết hợp hài
hòa phát triển giữa các vùng để có tốc độ phát triển cao, vừa hỗ trợ đầu tư
nhiều hơn cho các vùng còn nhiều khó khăn. Như vậy, vừa phải xây dựng cơ
cấu kinh tế hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh, vừa phải hoàn chỉnh một
bước cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng, đầu tư thích đáng cho các vùng kinh tế
trọng điểm, đồng thời vừa phải giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc đặc
biệt là vấn đề giải quyết việc làm, tạo nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp,
xóa đói, giảm nghèo.
Mặt khác, trong hoàn cảnh nước ta, một nước nông nghiệp còn phụ
thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, thiên tai liên tiếp xảy ra, mùa màng thất bát,
trong lúc tiềm lực của hộ nghèo hầu như rất mong manh, thiếu ăn, thiếu mặc.
Do vậy, nguy cơ thiếu việc làm trước những rủi ro trong cuộc sống rất lớn.
Làm thế nào để hạn chế bớt những tổn thương đối với người lao động cũng là
một vấn đề đặt ra rất nan giải. Vì vậy, Đảng phải đổi mới tư duy, trước hết là
21


tư duy kinh tế, có chính sách phát triển kinh tế - xã hội hợp lý trong đó “giải
quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và
phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và
yêu cầu bức xúc của nhân dân.” [27; tr.210].
Trên tinh thần kế thừa chủ trương chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam, sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới, tình hình đất nước đã đạt
được những thành tích nhất định. Đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh
tế, đời sống cán bộ, Đảng viên và nhân dân được cải thiện. Tình hình chính trị
- xã hội ổn định, an ninh, chính trị được giữ vững, quan hệ đối ngoại được mở
rộng và phá được thế bao vây cấm vận. Việt Nam từng bước tham gia các
hoạt động của cộng đồng quốc tế. Tình hình kinh tế, xã hội tỉnh Hà Tây và thị
xã Sơn Tây có những chuyển biến đáng kể trong thời gian này. Đời sống của
đại đa số nhân dân được ổn định và có cải thiện từng bước. Lòng tin của nhân
dân vào công cuộc đổi mới do Đảng ta lãnh đạo, củng cố, tạo động lực mới
thúc đẩy phát triển mạnh mẽ sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Khu vực phía Bắc thị xã Sơn Tây được Trung ương định hướng về kinh
tế xã hội, là trung tâm phía Tây thủ đô Hà Nội và phía Bắc của tỉnh Hà Tây;
trong những năm tới sẽ mở ra những triển vọng mới như: Khu công nghiệp cơ
khí, chế biến, sản xuất vật liệu và công nghiệp điện tử; Làng văn hóa – Du
lịch các dân tộc Việt Nam, khu trung tâm Đại học Quốc Gia, Khu an dưỡng,
nghỉ ngơi, Sân Golf Quốc tế, Khu vực xây dựng các xí nghiệp quốc phòng,
các Trường sỹ quan quân đội theo mô hình hiện đại hóa... là những thuận lợi
lớn, là thời cơ để thị xã Sơn Tây khai thác tiềm năng, giải quyết việc làm, tạo
sự phát triển về mọi mặt.
Thị xã Sơn Tây nằm ở phía Tây thành phố Hà Nội, dân số năm 1996
khoảng 15.000 dân. Trong giai đoạn 1996 – 2000 công tác dân số - kế hoạch
hóa gia đình, việc thực hiện các chương trình y tế đạt kết quả khá. Tỷ lệ sinh
giảm, năm 1991 là 1,81% thì đến năm 1996 giảm còn 1,68%/1,68% bằng
22


100% chỉ tiêu mà Đại hội đặt ra. Đời sống nhân dân nhìn chung ổn định, số
hộ có thu nhập cao ngày càng tăng lên. Số hộ đói năm 1991 là 7% thì đến
năm 1996 giảm còn 6,2%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 2,2 triệu
đồng/năm.

b, Thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động ở thị xã Sơn Tây trước
năm 1996.
Đại hội VII của Đảng (12 - 1986) đã hoạch định đường lối đổi mới toàn
diện, sâu sắc và triệt để. Đó là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và
cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Đảng trước đất nước và dân tộc
Trong lĩnh vực giải quyết việc làm, Đại hội chỉ rõ:
Bảo đảm việc làm cho người lao động, trước hết là ở thành thị và cho
thanh niên, là nhiệm vụ kinh tế - xã hội hàng đầu trong những năm tới. Nhà
nước cố gắng tạo thêm việc làm và có chính sách để người lao động tự tạo ra
việc làm bằng cách khuyến khích phát triển kinh tế gia đình, khai thác mọi
tiềm năng của các thành phần kinh tế khác, kể cả các thành phần kinh tế tư
bản tư nhân... mở rộng hợp tác lao động với nước ngoài kết hợp với đào tạo
tay nghề cho thanh niên và nâng cao trình độ cho chuyên gia; bố trí cơ cấu
ngành nghề thích hợp; chọn lựa người đúng tiêu chuẩn; quản lý chặt chẽ về tổ
chức và tư tưởng.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần VI, Đảng
bộ thị xã Sơn Tây đã vận dụng năng động, sáng tạo các nghị quyết của Đảng
vào tình hình cụ thể của địa phương nhất là vấn đề lao động, việc làm và giải
quyết việc làm của thị xã.
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, đặc biệt những năm 1986 – 1995,
nền kinh tế ở nhiều địa phương trên cả nước trong đó có thị xã Sơn Tây gặp
rất nhiều khó khăn. Từ những năm 1988 trở về trước, công nghiệp, thủ công
nghiệp địa phương hoạt động theo cơ chế bao cấp nhà nước, sản xuất, sản
23


xuất gia công cho các nước xã hội chủ nghĩa theo sự chỉ đạo của Nhà nước.
Nhưng từ năm 1989, sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI (tháng 12 - 1986), cơ
chế quản lý kinh tế đã chuyển đổi, mặt khác thị trường truyền thống của Liên
Xô và Đông Âu không còn, nên nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công

nghiệp của thị xã Sơn Tây cũng trong tình trạng chung của cả nước là phải
tiến hành sắp xếp lại sản xuất, đổi mới quản lý, đổi mới công nghệ, từng bước
phù hợp với cơ chế thị trường. Một loạt các đơn vị sản xuất kinh doanh thua
lỗ, công nhân không có việc làm, hoặc việc làm không thường xuyên công
nghệ sản xuất cũ, lạc hậu, năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao,
hàng hóa tồn đọng lớn, kinh doanh thua lỗ, phải chuyển hướng sản xuất,
nhiều doanh nghiệp, xí nghiệp công nghiệp bị bỏ bê, giải thể. Ngành công
nghiệp, thủ công nghiệp của thị xã Sơn Tây rơi vào thời kỳ suy thoái mạnh,
do đó trở thành gánh nặng lớn cho Đảng bộ tỉnh trong việc giải quyết vấn đề
việc làm cho người lao động.
Thêm nữa, dân số của thị xã chiếm tỉ lệ lớn lao động làm nông nghiệp.
Tuy nhiên thời gian này, sản xuất nông nghiệp của thị xã Sơn Tây cũng gặp
nhiều khó khăn do điều kiện tự nhiên không thuận lợi, thiên tai, hạn hán, sâu
bệnh nhiều, năng suất lúa không cao, kinh tế nông nghiệp nhìn chung cũng
chậm phát triển. Đảng bộ Thị xã đã có những chỉ đạo phù hợp thực hiện Chỉ
thị 100 và thi hành chỉ thị 12 của Thành ủy Hà Nội và Thị ủy Sơn Tây về
“Khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong các hợp tác
xã sản xuất nông nghiệp” [2; tr.215]. Phương thức khoán sản phẩm mới đã
khơi dậy tiềm năng lao động và trách nhiệm của bà con xã viên trước các
khâu công việc được giao, động viên được phong trào lao động, sản xuất ở
nông thôn, kích thích được mọi người hăng hái lao động, chất lượng công
việc tốt hơn, xã viên chủ động đầu tư về lao động, phân bón, dụng cụ, sức
kéo... vào sản xuất.

24


Bước sang đầu năm 1986, nông nghiệp bắt đầu có sự chuyển hướng đi
lên và tiềm năng đất đai được khai thác tích cực. Với tinh thần “làm giàu trên
đất đồi gò”, các hợp tác xã bước đầu vượt qua nhiều khó khăn như hạn, úng,

sâu bệnh, vật tư thúc đẩy sản xuất. Sản lượng lương thực đã tăng bình quân
hàng năm 5,2%, lương thực bình quân đầu người trong nông nghiệp từ 263 kg
năm 1983 tăng lên 285 kg năm 1995, năng xuất lúa từ 48 tạ lên 54 tạ/ha.
Năm 1987 trước thực trạng dân số gia tăng nhanh, nhu cầu đất thổ cư
và đất canh tác càng lớn, trong khi đó nhiều vùng đất đai thuộc thị xã quản lý
chưa được khai thác hết, Đảng bộ thị xã Sơn Tây đã có chủ trương hình thành
khu kinh tế mới tại Đồng Trạng. Thực hiện chủ trương đó thị xã đã tổ chức di
chuyển 21 hộ và 88 khẩu từ xã Cổ Đông, Sơn Đông ra đây lập nghiệp và
thành lập hợp tác xã nông nghiệp Đồng Trạng.
Nhìn chung, trên mặt trận nông nghiệp ở thời kỳ này bước đầu đã có sự
chuyển biến, tuy nhiên vẫn chưa khai thác hết tiềm năng, nhất là tiềm năng
đất đai, chưa tự giải quyết cân đối được lương thực cho nông dân, thu nhập 3
lợi ích chưa hài hòa. Nhiều hợp tác xã không thống nhất điều hành được theo
kế hoạch. Ngoài ra, đầu tư cho nông nghiệp chưa tương xứng với vị trí của
ngành trong cơ cấu kinh tế. Cơ sở vật chất phục vụ cho nông nghiệp nhiều nơi
xuống cấp nghiêm trọng kể cả các công trình thủy lợi trọng điểm của thị xã.
Vật tư kỹ thuật cũng chưa có dự trữ chiến lược, cung ứng không kịp yêu cầu
sản xuất. Nhiều hợp tác xã lúc này còn nặng tư tưởng bao cấp, còn lúng túng
trong sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường. Việc chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật đến hộ xã viên chưa làm sâu rộng. Sản xuất màu, sản xuất lương thực
tăng chậm, một số cây công nghiệp như mía, sắn, lạc, và các ngành thủ công
trong nông thôn giảm sút. Sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, mang tính chất hộ
gia đình. Ngành chăn nuôi trong cơ cấu ngành nông nghiệp cũng chưa cao,
đặc biệt là chăn nuôi bò dựa trên thế mạnh các đồng cỏ ở ngoại vi thị xã.

25


×