Tải bản đầy đủ (.pdf) (154 trang)

Đảng bộ tỉnh thanh hóa lãnh đạo thực hiện quy chế dân chủ cơ sở nam 1998 den nam 2005 thực tế ở thanh hóa và các huyện thọ xuân, hoằng hóa, quảng xương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 154 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ

NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG

ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2005
(Qua khảo sát thực tế ở thành phố Thanh Hoá
và các huyện Thọ Xuân, Hoằng Hoá, Quảng Xương)

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2006


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ

NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG

ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2005
(Qua khảo sát thực tế ở thành phố Thanh Hoá và
các huyện Thọ Xuân, Hoằng Hoá, Quảng Xương)
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


MÃ SỐ: 60.22.56
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ QUANG HIỂN

HÀ NỘI - 2006


MỤC LỤC
Trang

Mở đầu ………………………………………………………………….7
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo triển khai
thực hiện QCDC 1998-2001……………………………………………………..11
1.1. Những điều kiện có ảnh hưởng đến việc thực hiện QCDC
ở Thanh Hóa ……………………………………………………………………..11
1.1.1. Tình hình Thanh Hóa trước khi thực hiện QCDC ở cơ sở ………………....11
1.1.2. Chủ trương của Đảng và Chính phủ về vấn đề thực hiện dân chủ ……...…17
1.2 . Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá bước đầu triển khai thực hiện QCDC
(1998-2001) ……………………………………………………………………... .28
1.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh ………………………………….……...........28
1.2.2. Lãnh đạo triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở
trong những năm 1998-2001 ……………………………………………………...31
1.2.3. Thành quả bước đầu ………………………………………………………..50
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá tăng cường lãnh đạo
thực hiện QCDC ở cơ sở trên quy mô toàn tỉnh (2002-2005)…………….…...60
2.1. Chủ trương và biện pháp của Đảng bộ tỉnh ………………………….…….60
2.2. Lãnh đạo việc xây dựng hương ước, quy ước ...............................................65
2.3. Lãnh đạo thực hiện QCDC 2003 – 2005 …………………..………………..75
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử …………………….…....109
3.1. Một số nhận xét …………………………………………………………......109

3.1.1. Những thành công của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá trong lãnh đạo
thực hiện QCDC ....................................................................................................109
3.1.2. Những ưu điểm trong sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh ..................................112


3.1.3. Một số hạn chế ……………………………………………………………...113
3.1.4. Tác động của việc thực hiện QCDC đối với đời sống nhân dân ............121
3.2. Một số kinh nghiệm ................................................................................129
3.2.1. Phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng kết hợp với đề cao
quyền làm chủ của nhân dân …………………………………………………….129
3.2.2. Phải kết hợp tuyên truyền giáo dục với tổ chức thực hiện QCDC ……….132
3.2.3. Thực hiện QCDC gắn với các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội ………….135

Kết luận …………………………………………………………….…..…...…136
Tài liệu tham khảo ……………………………………………………...…...138
Phụ lục ………………………………………………………………….……...154


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
BCHTW

Ban chấp hành Trung ương

BCĐ

Ban chỉ đạo

BCĐTW

Ban chỉ đạo Trung ương


BCĐXDCS

Ban chỉ đạo xây dựng cơ sở

BCĐXDCS và THQCDC

Ban chỉ đạo xây dựng cơ sở và thực
hiện quy chế dân chủ

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

HĐND

Hội đồng nhân dân

MTTQ

Mặt trận tổ quốc


QCDC

Quy chế dân chủ

QCDCCS

Quy chế dân chủ ở cơ sở

QCTHDC

Quy chế thực hiện dân chủ

THQCDC

Thực hiện Quy chế dân chủ

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 30-CT/TW về thực hiện
QCDCCS với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, đặt
việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế tổng thể của

hệ thống chính trị “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo nhân
dân thực hiện QCDCCS. Qua bảy năm thực hiện, tình hình kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội ở Thanh Hoá có chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân có
nhiều thay đổi, đặc biệt an ninh - quốc phòng được đảm bảo. Thực tiễn đó
khẳng định chủ trương của Đảng là đúng đắn, được đông đảo quần chúng
nhân dân ủng hộ.
Nhận thức được việc thực hiện QCDC liên quan đến động lực phát triển
của đất nước hiện nay, Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đã có nhiều biện pháp tuyên
truyền, lãnh đạo tổ chức thực hiện QCDC, phát huy được quyền làm chủ của
nhân dân, huy động nguồn lực trong nhân dân để phát triển kinh tế - xã hội .
Đó là thành công bước đầu của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá, nhưng có ý
nghĩa rất quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Vì thế nên tôi chọn đề tài
“Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ từ năm 1998
đến năm 2005 (qua khảo sát thực tế ở thành phố Thanh Hoá và các huyện
Thọ Xuân, Hoằng Hoá, Quảng Xương)” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có nhiều bài báo, cuốn sách viết về đề tài dân chủ cũng như việc thực
hiện QCDC ở nước ta, nhưng cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu

7


nào mang tính chuyên khảo viết về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá
nhằm thực hiện QCDCCS .
3. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá trong việc lãnh
đạo thực hiện QCDC ở cơ sở.
- Làm rõ các hoạt động của bộ máy chính quyền và phong trào quần
chúng trong việc thực hiện QCDC dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh.

- Đánh giá những kết quả bước đầu, bao gồm những thành công và hạn
chế trong quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh thực hiện QCDCCS.
- Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Thanh Hoá trong việc thực hiện nhiệm vụ trên.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những chủ trương, biện pháp của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá để lãnh đạo
thực hiện QCDCCS.
- Những hoạt động của các cấp uỷ đảng, chính quyền và đoàn thể quần
chúng ở Thanh Hoá.
- Kết quả việc thực hiện, kể cả thành công và hạn chế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những điều kiện thuận lợi, khó khăn ở
địa phương chi phối sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong khoảng thời gian từ
năm 1998 đến năm 2005 ở Thanh Hoá trong việc thực hiện QCDC.
- Những chủ trương của Đảng và Chính phủ về THQCDC ở cơ sở.
- Hoạt động của các cấp bộ đảng và chính quyền ở địa phương.
- Hoạt động của các ban, ngành, đoàn thể ở tỉnh, huyện.
- Những hoạt động của quần chúng thực hiện QCDC.
- Sự biến đổi của tình hình kinh tế - xã hội do việc thực hiện quy chế này.

8


5. Nguồn tài liệu
- Các chỉ thị, nghị quyết của Đảng.
- Chỉ thị, nghị định của Chính phủ về thực hiện QCDCCS.
- Các văn kiện của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá bao gồm: nghị quyết của Đại
hội Đảng bộ tỉnh, chỉ thị của Tỉnh uỷ, nghị quyết, báo cáo của UBND, HĐND.
- Các loại tài liệu của các ban, ngành ở địa phương.

- Các báo cáo kết quả thực hiện QCDC của các cấp, ngành.
- Một số tư liệu khai thác nhân chứng lịch sử qua cán bộ, đảng viên và
quần chúng nhân dân.
6. Cơ sở lý luận và Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng chủ nghĩa xã hội khoa học xuất phát từ thực
tế khách quan trong mối liên hệ phổ biến và biện chứng.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
- Chủ yếu là phương pháp lịch sử nhằm mô tả chính xác quá trình lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá.
- Phương pháp tổng hợp, so sánh, đánh giá nhằm làm rõ thành công, hạn
chế và kinh nghiệm của Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá trong việc chỉ đạo thực hiện.
- Phương pháp phỏng vấn: Đối với những người trực tiếp lãnh đạo thực
hiện QCDC ở Sở Nội vụ; Ban dân chủ pháp luật thuộc Uỷ ban MTTQ tỉnh;
nhân dân địa phương.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, bảng chữ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo triển khai thực hiện
QCDC ở cơ sở 1998 - 2001

9


Chương 2: Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá tăng cƣờng lãnh đạo thực hiện
QCDC trên quy mô toàn tỉnh (2002-2005)
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử
Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi được sự giúp đỡ của: Văn phòng
Tỉnh uỷ Thanh Hoá, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Hội liên hiệp phụ nữ, Ban

Dân vận, Ban Tuyên giáo, Trung tâm lưu trữ hồ sơ Uỷ ban nhân dân tỉnh, Sở
Tư pháp, Sở Văn hoá - thông tin, Phòng xây dựng cơ sở và thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở thuộc Sở Nội vụ, thành uỷ Thành phố Thanh Hoá, huyện uỷ
và UBND các huyện Hoằng Hoá, Quảng Xương, Thọ Xuân, UBND Phường
Lam Sơn (thành phố Thanh Hoá) và một số cá nhân.
Luận văn cũng là kết quả của một quá trình học tập, nghiên cứu tại Khoa
Lịch sử, từ đại học đến cao học với sự giảng dạy, chỉ bảo của các thầy, cô
giáo trong Khoa và Bộ môn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, nhất là sự
hướng dẫn, giúp đỡ của PGS.TS Vũ Quang Hiển.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

10


Chương 1
ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HÓA LÃNH ĐẠO TRIỂN KHAI
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TRONG NHỮNG NĂM 1998-2001

1.1. Những điều kiện có ảnh hƣởng đến việc thực hiện QCDC ở
Thanh Hoá
1.1.1. Tình hình Thanh Hoá trước khi thực hiện QCDC ở cơ sở

Thanh Hoá là một trong những tỉnh định hình sớm, tồn tại, phát triển
cùng với lịch sử dân tộc, với diện tích 11.106,09 km2, dân số là hơn 3,6 triệu
người, có bảy dân tộc sinh sống (trên 60 vạn là dân tộc thiểu số). Tỉnh Thanh
Hoá có một thành phố, hai thị xã và 24 huyện, trong đó có 11 huyện miền núi
(với số dân gần một triệu), toàn tỉnh có 626 xã, 5775 làng, 808.000 hộ, đa số
là nông dân.
Những năm gần đây, do sự nghiệp đổi mới, đời sống nhân dân được cải

thiện rõ rệt, một bộ phận nhân dân có đời sống khá (chiếm 40%). Bằng sự tập
trung mọi nguồn lực và đổi mới cơ chế, chính sách trong quản lý, nền kinh tế
trong tỉnh có bước tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 5 năm
(1996-2000) đạt 7%/năm, GDP bình quân theo đầu người là 286,4 USD. Tỷ
trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP bình quân hàng năm của tỉnh giảm từ
46,1% (1991-1995) xuống còn 42,4% (thời kỳ 1996-2000); công nghiệp xây
dựng tăng từ 20,3% lên 23,4%; thương mại, dịch vụ tăng từ 33,6% lên 34,2%.
Từ năm 1995, sản lượng lương thực luôn đạt hơn một triệu tấn/năm. Bình
quân lương thực đầu người thời kỳ 1996-2000 đạt 331,9 kg. Tỉnh Thanh Hoá
đã tích cực chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, đầu tư xây dựng, tu sửa các công trình
thuỷ lợi, đặc biệt là kiên cố hoá kênh mương.

11


Các vùng cây công nghiệp tập trung, chuyên canh theo hướng sản xuất
hàng hoá được quan tâm đầu tư, tạo bước chuyển dịch về cơ cấu cây trồng.
Chăn nuôi ổn định. Nghề rừng được tổ chức lại và phát triển theo hướng lâm
nghiệp xã hội, chuyển từ khai thác là chủ yếu sang trồng mới, khoanh nuôi
bảo vệ rừng. Đánh bắt hải sản, nghề khơi phát triển khá, tạo chuyển biến
trong sản xuất thuỷ sản. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong tỉnh
được quan tâm củng cố và sắp xếp lại. Một số doanh nghiệp đã vươn lên
khẳng định được khả năng cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Hai khu công
nghiệp mới hình thành là Lễ Môn và Nghi Sơn.
Về đầu tư xây dựng cơ bản: bình quân hàng năm huy động được 20003000 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn bên trong chiếm hơn 50%, thu ngân sách
địa phương đạt bình quân 549,340 tỷ/năm. Những năm gần đây Đảng bộ tỉnh
chăm lo đổi mới, hoàn thiện quan hệ sản xuất, tiếp tục phân loại, sắp xếp lại
các DNNN, chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp. Thanh Hoá
là một trong những tỉnh đầu tiên trên cả nước có nghị quyết của Thường vụ
Tỉnh uỷ về phát triển kinh tế trang trại, đến nay toàn tỉnh có 1.900 trang trại,

thu hút gần 10.000 lao động. Cuộc vận động đổi điền dồn thửa trong nông
nghiệp đã và đang được tiến hành.
Về giáo dục: tổng số học sinh các cấp có trên một triệu. Toàn tỉnh có gần
100% xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học xoá mù chữ, có 168 đơn vị đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở, 55
trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia.
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ, 100% xã có trạm
y tế, ở tuyến xã có 135 bác sĩ, 5 năm liền không có dịch xảy ra, riêng sốt rét 7
năm liền không có dịch.
Trong phong trào xây dựng nếp sống văn hoá, thực hiện qui ước về việc
cưới, tang, lễ hội, ở Thanh Hoá có 1037/5775 làng đăng ký xây dựng làng văn

12


hoá, tổng số dân được xem truyền hình chiếm 70%, được nghe đài phát thanh
xã là 90%.
Công tác quốc phòng, an ninh được củng cố và tăng cường. An ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá gồm 27 đảng bộ huyện, thị, thành; 12 đảng bộ
trực thuộc; 31 ban cán sự đảng; 11 đảng đoàn, tổng số đảng viên là 144.093
đồng chí (26.083 là nữ và 118.010 đảng viên nam). Số đảng bộ, chi bộ cơ sở là
1628, số chi bộ nhỏ là 8556. Chấp hành nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 (lần 2)
của BCHTW Đảng khóa VIII về cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, Ban
Thường vụ Tỉnh ủy đã thực hiện xong bước kiểm điểm tự phê bình và phê bình
của tập thể và cá nhân, có chương trình kế hoạch thực hiện các công việc sau tự
phê bình của tập thể và các đồng chí ủy viên thường trực, kế hoạch triển khai
đối với đảng bộ trực thuộc; và tập trung chỉ đạo các huyện, thị, thành, các ban
cán sự đảng đoàn, các ngành, đoàn thể cấp tỉnh kiểm điểm theo gợi ý của Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ. Vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng được phát huy, các
chủ trương nghị quyết của Đảng ngày càng thể hiện đúng đắn và sáng tạo, sớm

đi vào cuộc sống, được nhân dân đồng tình. Sinh hoạt đảng được chú ý cả về
hình thức và nội dung, chất lượng sinh hoạt được nâng cao. Tỉnh Thanh Hoá đã
xúc tiến xây dựng đề án công tác, tổ chức sắp xếp cán bộ, tinh giản biên chế
theo tinh thần nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của BCHTW Đảng khoá VIII.
Trong xây dựng chính quyền các cấp: Đảng bộ tập trung thực hiện nghị
quyết Hội nghị lần thứ 8 của BCHTW Đảng về cải cách hành chính. Thực
hiện các nghị quyết của Trung ương, các ngành đã chấn chỉnh một bước quan
hệ công tác và lề lối làm việc trong các cơ quan nhà nước, soát xét các khoản
thu phí và lệ phí, các khoản đóng góp của nhân dân; chấn chỉnh công tác xây
dựng và ban hành các văn bản, công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố
cáo của công dân... lập lại trật tự kỷ cương trên một số lĩnh vực, nhờ đó chính

13


quyền các cấp được củng cố một bước, ổn định về tổ chức bộ máy và đi vào
hoạt động nền nếp, các vấn đề nổi cộm ở cơ sở đã từng bước đựơc giải quyết
thỏa đáng, nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, phấn khởi trước
thành công của sự nghiệp đổi mới.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng có nhiều hoạt động hơn.
Nhiều cấp uỷ đảng đã quan tâm đến công tác vận động quần chúng, đã phát
động và duy trì thực hiện có kết quả nhiều phong trào. Việc củng cố kiện toàn
các tổ chức chính trị - xã hội được các cấp quan tâm, tập trung vào những cơ
sở yếu kém, vùng xa, vùng sâu nên số điểm yếu kém được thu hẹp, số đơn vị
khá ngày càng tăng. Thực hiện nghị quyết đại hội XIV của Đảng bộ tỉnh,
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thanh Hoá đã nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi
các mục tiêu và đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá
ngày càng phát huy vai trò lãnh đạo của mình.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hoá vẫn còn gặp
một số khó khăn:

Tổng sản phẩm (GDP) trong tỉnh (1996 - 2000) bình quân có tăng nhưng còn
thấp so với chỉ tiêu đề ra cho thời kỳ 1996 - 2000. Tốc độ phát triển kinh tế có xu
hướng chậm lại và thấp hơn so với toàn quốc (7%). GDP bình quân đầu người đạt
279,5 USD, còn thấp so với mục tiêu đề ra đến năm 2000 là 400 - 450 USD.
Trong nông nghiệp, cơ cấu mùa vụ thay đổi chậm, việc ứng dụng các
tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất còn hạn chế. Tỷ trọng chăn nuôi trong
nông nghiệp còn thấp, trình độ thâm canh tăng năng suất giữa các vùng, miền
chưa đồng đều.
Xuất khẩu vẫn là lĩnh vực khó khăn, yếu kém kéo dài.
Trong công nghiệp, kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, sản phẩm của tỉnh
chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường, hiệu quả kinh doanh thấp.

14


Cơ sở hạ tầng - kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hoá chưa đáp ứng được
yêu cầu. Việc thu hút vốn cho đầu tư phát triển từ trong và ngoài nước còn
hạn chế, đầu tư dàn trải thiếu đồng bộ kéo dài và kém hiệu quả. Đời sống một
bộ phận nhân dân vẫn còn khó khăn, nhất là đồng bào miền núi, tỉ lệ người
thiếu việc làm còn cao.
Trình độ cán bộ và tổ chức bộ máy còn bất cập so với yêu cầu của quá
trình đổi mới, bộ máy cồng kềnh, quan liêu, năng lực cán bộ thấp kém, cải
cách hành chính chậm, tình trạng cửa quyền, phiền hà gây cản trở công việc
chung vẫn tồn tại.
Trên đây là một vài nét về tình hình kinh tế - xã hội ở Thanh Hoá, những
thuận lợi là cơ sở để Thanh Hoá tổ chức thực hiện tốt QCDC. Những vấn đề còn
tồn tại đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá phải nỗ lực hơn nữa.
Từ xưa, Thanh Hoá đã nổi tiếng là vùng đất giàu truyền thống lịch sử,
văn hoá, cách mạng, có nhiều vị vua xuất thân từ quê hương Thanh Hoá như
Lê Hoàn, Lê Lợi. Nhân dân Thanh Hoá giàu lòng yêu nước, anh dũng kiên

cường trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, quê hương, đó
là truyền thống tự chủ, cũng là cái vốn để nhân dân Thanh Hoá phát huy
quyền làm chủ của mình theo đường lối của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Về tình hình thực hiện dân chủ ở Thanh Hoá khi chưa có quy chế: Trước
năm 1998, vấn đề dân chủ chưa được Nhà nước thể chế hoá thành văn bản
pháp lý, nhưng cấp uỷ, chính quyền các cấp ở Thanh Hoá đã quán triệt, vận
dụng sáng tạo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” vào
cuộc sống, đã phát huy được tính năng động, cổ vũ tinh thần lao động sáng
tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị ở cơ sở.
Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quyết
định, nhiều chương trình dự án kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh để nhằm
không ngừng mở rộng quyền làm chủ của nhân dân, củng cố quan hệ sản

15


xuất, tạo môi trường pháp lý, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển,
nhằm khai thác nguồn nội lực, tranh thủ sự đầu tư giúp đỡ từ bên ngoài.
Trong lĩnh vực kinh tế có Nghị quyết 09 của Tỉnh uỷ, Nghị quyết của
HĐND về phê duyệt quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh. Chỉ thị số 23-NC/UB về củng cố thanh tra và tăng cường
công tác thanh tra, ban hành quy chế tiếp công dân và quyết định về việc
giải quyết các vấn đề bức xúc trong ngành giáo dục đào tạo, quy định mức
sinh hoạt phí cho bí thư chi bộ và trưởng thôn.
Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội có: Nghị quyết phát động toàn dân xây
dựng cơ sở vật chất trường học; Nghị quyết về thực hiện nếp sống mới trong
việc cưới, tang, lễ hội; Nghị quyết về xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa... Để
động viên sự đóng góp vật chất từ nhân dân, Đảng bộ tỉnh đã phát động phong
trào “Uống nước nhớ nguồn”; phong trào “Ông bà mẫu mực, con cháu hiếu
thảo”, phong trào “xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” để động viên nhân

dân tham gia vào quản lý xã hội và xây dựng xã hội lành mạnh.
Bên cạnh đó, để thực hiện tốt vấn đề dân chủ, hoạt động của HĐND,
UBND không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng, năng lực điều hành,
thông qua tiếp xúc cử tri, các đại biểu, HĐND đã nắm được tâm tư nguyện
vọng và ý kiến đóng góp chân thành của nhân dân, kiến nghị đề xuất cho cấp
có thẩm quyền xem xét, giải quyết kịp thời, thoả đáng, đúng pháp luật.
Tuy nhiên, do phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
chưa được cụ thể bởi một văn bản pháp lý nào, việc vận dụng tổ chức thực
hiện ở mỗi địa phương khác nhau nên hiệu quả còn hạn chế. Việc thực hiện
dân chủ ở Thanh Hoá chủ yếu thông qua hình thức dân chủ đại diện, dân chủ
trực tiếp ít được quan tâm, có nơi hoạt động của HĐND còn mang tính hình
thức, hiệu lực, hiệu quả trong quản lí điều hành của chính quyền còn nhiều
hạn chế, tình trạng tham ô lãng phí, quan liêu cửa quyền, sách nhiễu, đặc biệt

16


là vi phạm dân chủ trong quản lí đất đai và tài chính còn khá nhiều, thường
xuyên có đơn thư khiếu nại, tố cáo, gây mất ổn định chính trị ở cơ sở, cả tỉnh
có hàng trăm điểm nóng.
Do thực trạng đó, việc Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 30- CT/TW về thực
hiện QCDCCS là phù hợp với tình hình địa phương và đáp ứng được sự mong
đợi của nhân dân.
1.1.2. Chủ trương của Đảng và Chính phủ về vấn đề thực hiện dân chủ
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân Việt Nam đã giành được nhiều thắng lợi to lớn. Một trong
những thành quả vĩ đại nhất của cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng là đã lập nên Nhà nước Cộng hòa dân chủ đầu tiên ở Đông Nam châu
Á. Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trịnh trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam là nước dân chủ - Nhà nước

Việt Nam là nhà nước do nhân dân lao động làm chủ”. Trong suốt chặng
đường dài của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta, Nhà nước ta luôn tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân nên đã tạo ra sức mạnh vô địch
đánh thắng mọi kẻ thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc; tự do và hạnh phúc cho
nhân dân. Trong công cuộc xây dựng đất nước, trong toàn bộ hoạt động của
mình, Đảng và Nhà nước ta luôn quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc” (Hồ Chí
Minh), “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” (Lê-nin), thấm nhuần lời dạy
của Bác “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong” và
“Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân, mấy chữ a, b, c, này không
phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc”.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây
dựng đất nước vững bước đi lên. Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng phát
huy quyền làm chủ của nhân dân. Chính do quyền dân chủ của nhân dân được
phát huy mà mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý với nhân dân

17


làm chủ ngày một thêm gắn bó; Đảng và Nhà nước ta lớn mạnh lên, cách
mạng nước ta đã liên tiếp đạt được những thành tựu cực kỳ to lớn về mọi mặt.
Thực tiễn Cách mạng Việt Nam từ ngày có Đảng khẳng định nguồn gốc của
mọi thắng lợi là sức mạnh của nhân dân. Thực tiễn ngày càng khẳng định
quan điểm khoa học, cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta, coi
dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, dân chủ là bản chất
của chế độ, của Nhà nước ta. Quyền làm chủ của nhân dân không chỉ thể hiện
trong ý tưởng, qua lời nói mà được ghi nhận trong Hiến pháp, luật và các văn
bản khác. Đặc biệt, những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã ban hành nhiều
chính sách đổi mới về kinh tế - xã hội - chính trị, nhằm phát huy quyền làm
chủ của nhân dân: “Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước,
phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế” [74, tr. 48]. Nhờ đó chúng ta đã đạt

được nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ
quốc. Những yếu tố dân chủ, tinh thần dân chủ, truyền thống “lấy dân làm
gốc”, coi trọng dân vốn đã hình thành trong lịch sử mấy nghìn năm dựng
nước và giữ nước của Dân tộc ta, đã được Đảng Cộng sản Việt Nam, mà
người sáng lập và rèn luyện là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhận thức sâu sắc và
quyết tâm phát huy trong quá trình lãnh đạo Cách mạng.
Mục tiêu cao nhất của CNXH, tư tưởng cách mạng nhân văn và nhân
đạo cộng sản chủ nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh là giải phóng con người, giải phóng lao động xã hội khỏi mọi sự bóc
lột về kinh tế và nô dịch về tinh thần, để nhân dân lao động trở thành chủ
nhân của xã hội, làm chủ nhà nước là một trong những đặc trưng cơ bản
của CNXH. Xây dựng và phát huy được quyền làm chủ của nhân dân cũng
là thực hiện được nền dân chủ XHCN, một nền dân chủ ở trình độ cao hơn
chế độ dân chủ tư sản cả về pháp lí và trong thực tế. Quyền làm chủ của
nhân dân, nền dân chủ XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự

18


nghiệp xây dựng phát triển đất nước theo con đường XHCN. Đảng ta là
Đảng cầm quyền, có sứ mệnh và khả năng lãnh đạo Nhà nước thể hiện đầy
đủ bản chất giai cấp, tính dân tộc và tính nhân dân của mình, thực sự là chỗ
dựa quan trọng để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, đồng thời là công cụ
sắc bén bảo vệ cuộc sống của nhân dân trước mọi âm mưu và hoạt động
phá hoại của các lực lượng thù địch.
Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tế cách mạng Việt
Nam, Đảng ta coi việc thực hiện dân chủ nói chung, dân chủ ở cơ sở nói riêng
là vấn đề bức thiết có tầm quan trọng đặc biệt trong thực hiện nền dân chủ
XHCN ở nước ta.
Cơ sở không chỉ là xã, phường, thị trấn mà còn là các cơ quan, trường

học, bệnh viện, công, nông trường, xí nghiệp. Cơ sở là nền tảng xã hội, là nơi
trực tiếp thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng là
nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn của các chủ trương và chính sách ấy.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là thực hiện các quá trình dân chủ về chính
trị, kinh tế, văn hoá - xã hội một cách trực tiếp, rộng rãi và liên tục đối với
mọi người, mọi giới và mọi lứa tuổi. Dân chủ ở cơ sở được thực hiện thông
qua các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở và sự hiểu biết cùng khả năng
thực hiện của mỗi người.
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình xây dựng, lãnh đạo không phải
là không có những yếu kém, khó khăn. “Cùng với những thành tựu to lớn
trong công cuộc đổi mới, việc xây dựng nhà nước cũng đã có những tiến bộ,
những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên trong nội bộ Đảng và Nhà nước ta tình
hình tiêu cực, suy thoái phẩm chất vẫn có chiều hướng phát triển, nhất là tệ
quan liêu và nạn tham nhũng, tác hại không nhỏ đến việc củng cố nhà nước,
làm nhân dân lo lắng đang thực sự là một nguy cơ đối với chế độ xã hội chủ
nghĩa, đối với con người mà nhân dân ta đã lựa chọn” [41, tr. 36].

19


Về nguyên nhân cần ban hành QCTHDC, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu nói:
Những năm đổi mới vừa qua, thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, Đại
hội VII và nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII, quyền làm chủ
của nhân dân lại được Đảng và Nhà nước ta phát huy thêm một bước; thể
hiện rõ trong nhiều chính sách đổi mới về kinh tế, chính trị, xã hội, đã
giải phóng tiềm năng to lớn về vật chất và trí tuệ của nhân dân, nhờ đó
mà sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đạt được những thành tựu to
lớn. Tuy nhiên, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi,
trên nhiều lĩnh vực, tệ quan liêu, mệnh lệnh cửa quyền, tham nhũng sách
nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà

chúng ta chưa ngăn chặn đẩy lùi được. Phương châm “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” chưa được cụ thể hoá và thể chế hoá thành pháp
luật cho nên chậm đi vào cuộc sống. Tình trạng mất dân chủ, không để
dân bàn bạc, quyết định những công việc cụ thể liên quan trực tiếp đến
đời sống của dân, bắt dân phải đóng góp nhiều khoản vượt quá khả năng,
lại không minh bạch về tài chính, thậm chí xà xẻo vào những khoản tiền
do dân đóng góp như ở một số xã thuộc tỉnh Thái Bình và vài nơi khác;
tình trạng để tồn đọng hàng vạn đơn khiếu tố bị đùn đẩy không giải
quyết hoặc giải quyết không kịp thời, không đúng; tình trạng quan liêu,
quản lý lỏng lẻo để thất thoát lớn trong một số ngân hàng hoặc gây lãng
phí trong xây dựng v.v... chẳng những làm suy giảm lòng tin của dân đối
với Đảng và chính quyền mà còn làm triệt tiêu nguồn động lực của nhân
dân và xâm phạm bản chất tốt đẹp của chế độ. Cho nên các cấp uỷ đảng
và cơ quan chính quyền cần quán triệt sâu sắc và phải chấp hành nghiêm
chỉnh Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 của BCHTW Đảng mà cốt lõi là
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà
nước. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát huy quyền làm chủ của

20


nhân dân phải được thể hiện trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội,
quốc phòng - an ninh, từ xây dựng luật pháp, cơ chế, chính sách đến tổ
chức bộ máy, phong cách làm việc, bao quát hoạt động mọi cấp, mọi
ngành, từ Trung ương đến địa phương hoặc cơ sở. Vấn đề dân chủ, bảo
đảm quyền làm chủ của nhân dân để phát huy động lực, thực hiện mục
tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng văn minh phải được đặt ra cho cả hệ thống chính trị, phải tác
động hai chiều: dưới lên, trên xuống cả trong Đảng và trong nhân dân.
Cùng với việc triển khai một cách toàn diện và đồng bộ, phát huy quyền

làm chủ của dân ở mọi lĩnh vực, mọi cấp. Bộ Chính trị xác định, lúc này
khâu quan trọng và cấp bách trƣớc hết là phát huy quyền làm chủ
của nhân dân ở cơ sở [102, tr. 4].
Bộ Chính trị còn chỉ rõ thực hiện dân chủ ở cơ sở sẽ thúc đẩy cải cách
hành chính, sửa đổi những cơ chế chính sách, và thủ tục hành chính không
phù hợp với cuộc sống. Nhân dân ở cơ sở thực hiện quyền làm chủ tham gia
kiểm kê, kiểm soát sẽ tích cực xây dựng Đảng, Chính quyền, đoàn thể trong
sạch, vững mạnh, tích cực đấu tranh bài trừ tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, thực hành tiết kiệm. Xây dựng và thực hiện thiết chế dân chủ ở cơ sở là
bước tiến mới trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, là nét mới
trong đời sống chính trị của xã hội ta, đáp ứng nguyện vọng sâu xa của hàng
chục triệu quần chúng nhân dân theo Đảng ta làm cách mạng.
Xây dựng QCDCCS là quy chế hoá các mối quan hệ trong đời sống xã
hội, trước hết là quan hệ giữa Đảng, chính quyền, đoàn thể với nhân dân, tất
cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Bộ Chính trị chủ trương,
thực hiện QCDC ở cơ sở phải đảm bảo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ”, ba mặt đó phải thống nhất, bảo đảm thực sự phù
hợp và ngang tầm với những yêu cầu của nhiệm vụ đổi mới, có một ý nghĩa

21


cực kỳ to lớn cả về phương diện lý luận và thực tiễn nhằm đưa đất nước tiến
lên một cách mạnh mẽ và vững chắc theo định hướng XHCN.
Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” xuất phát
từ yêu cầu thể chế hoá những quan hệ bản chất về chính trị, xã hội phù hợp
với đặc điểm nước ta. Cơ chế đó đòi hỏi phân định rõ vai trò chức năng của
các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị nhằm bảo đảm quyền làm chủ
thật sự của nhân dân lao động nước ta. Cơ chế này được cấu thành bởi ba
nhân tố: Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Có thể nói, cơ chế nêu trên là cơ chế chức năng nhiệm vụ và phải xác
định rõ chức năng của mỗi nhân tố.
Trong xã hội ta, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, quyền lực của
nhân dân là tuyệt đối, không thể so sánh, không thể phân chia. Quyền hạn
của nhà nước là sự thể hiện tập trung quyền lực của nhân dân. Quyền lực
của Đảng thể hiện ở sự định hướng và lãnh đạo tổ chức thực hiện. “Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, thì “nhân dân làm chủ”
phải là nhân tố bao trùm của cơ chế” [82, tr. 15]. Đảng lãnh đạo bằng
đường lối đúng đắn, biểu hiện những lợi ích căn bản, bằng sự thuyết phục
nhân dân thừa nhận đường lối của Đảng, bằng đào tạo và giáo dục cán bộ,
đảng viên để nhân dân lựa chọn vào các chức vụ của chính quyền Nhà
nước. Đảng lãnh đạo bằng đề xuất những phương hướng, kế hoạch lớn,
phát triển kinh tế - xã hội có căn cứ khoa học được quần chúng bàn bạc, bổ
sung và trở thành định hướng để Nhà nước vạch ra và chỉ đạo thực hiện các
chương trình kế hoạch, chính sách và luật pháp.
Theo cơ chế đó, “Nhà nước quản lý” nhưng không có nghĩa là Nhà
nước không lãnh đạo, Nhà nước được nhân dân trao cho quyền lực và chịu
trách nhiệm quản lý mọi mặt đời sống xã hội trước nhân dân. Hoạt động
của Nhà nước tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng, đảm bảo vai trò chủ động rất

22


lớn cho Nhà nước chứ không phải “dắt tay” Nhà nước trong mọi hoạt động
của nó. Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
là sự tập trung quyền lực của nhân dân và thay mặt nhân dân để quản lý xã
hội, như vậy, chức năng quản lý xã hội là chức năng chính yếu của Nhà nước.
Mục đích ban hành QCTHDC là làm cho hết thảy những người lao động, đều
được tham gia quản lý Nhà nước, ở mức độ này hay mức độ khác, một cách
thực sự dân chủ. Nhân dân quản lý với tư cách vừa là đối tượng quản lý vừa là

chủ thể quản lý. Nhưng để thực hiện được quy chế đó:
Phải có sự phối hợp chung của cả ba bộ phận và mỗi bộ phận phải
thực hiện cho được chức năng của mình: Đảng phải hội tụ cho được
những bản lĩnh và yêu cầu của một tổ chức lãnh đạo; Nhà nước phải tự
mình trong sạch vững mạnh, có đủ trình độ và bản lĩnh để thực hiện sự
điều hành quản lý đất nước, quản lý xã hội; nhân dân có đủ năng lực và
trình độ để làm chủ vận mệnh của mình. Cơ chế đó phải từng bước được
thể chế hoá bằng luật pháp và quan trọng hơn là cần phải đảm bảo điều
kiện cơ sở vật chất - văn hoá - xã hội ở một trình độ nhất định, phải nâng
tầm dân trí, Nhà nước thực sự trong sạch vững mạnh, Đảng thực sự là hạt
nhân của đại đoàn kết dân tộc, là Đảng của trí tuệ và niềm tin [82, tr. 19].
Xây dựng QCDC, Bộ Chính trị còn quán triệt quan điểm là vừa phát
huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động
của Quốc hội, Chính phủ, HĐND và UBND các cấp, vừa thực hiện tốt chế
độ dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực
tiếp những công việc quan trọng thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình.
Đồng thời phát huy dân chủ phải gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội và
nâng cao dân trí tạo điều kiện mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu quả.
Xây dựng QCDC phải gắn với công tác cải cách hành chính, sửa đổi những
cơ chế, chính sách về thủ tục hành chính không phù hợp.

23


Nội dung các quy chế phát huy dân chủ ở cơ sở phải phù hợp với hiến
pháp và pháp luật, thể hiện tinh thần dân chủ đi đôi với kỷ cương, trật tự;
quyền hạn gắn với trách nhiệm; lợi ích đi đôi với nghĩa vụ, chống quan
liêu, mệnh lệnh, đồng thời chống tình trạng vô chính phủ, lợi dụng dân chủ,
vi phạm pháp luật.
Ngày 18 tháng 2 năm 1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 30-CT/TW để

xây dựng và thực hiện QCDCCS. Để dân thực sự là chủ thì việc xây dựng quy
chế dân chủ ở cơ sở là hết sức cần thiết. Bộ Chính trị nhấn mạnh, xây dựng và
THQCDC ở cơ sở nhằm giữ vững và phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
thu hút nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát
Nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham
nhũng. Bộ Chính trị nói rõ: “Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát
huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất” [1, tr. 1]. Muốn vậy cần
ban hành quy chế dân chủ ở cơ sở có tính pháp lý, “yêu cầu mọi người, mọi tổ
chức của cơ sở đều phải nghiêm chỉnh thực hiện, quy chế dân chủ cần được
xây dựng cho từng loại cơ sở ở xã, phường, doanh nghiệp, bệnh viện, trường
học, viện nghiên cứu, cơ quan hành chính v.v... phù hợp với đặc điểm từng loại
cơ sở” [1, tr. 2].
Xây dựng và thực hiện QCDCCS nói chung là thiết chế hoá quyền làm
chủ của nhân dân thành thể lệ, thành quy ước, quy chế để tổ chức thực hiện,
biến khái niệm dân chủ trong phạm vi tư tưởng thành hiện thực trong cuộc
sống xã hội, nếu không xây dựng thiết chế để tổ chức thực hiện thì dân chủ
cũng chỉ dừng lại ở sự mong muốn trong nhận thức, trong tư tưởng.
Quy chế hoá là để giải quyết những điểm mà pháp luật chưa khái quát
hết, có ý nghĩa lớn không kém gì việc pháp chế hoá những vấn đề chung của

24


cả nước. Mặt khác, vì cơ sở là khâu trọng yếu trong hệ thống chính trị, là nơi
thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà
nước. Ở cơ sở, đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập, nhiều nơi quyền làm chủ của
nhân dân bị vi phạm, ảnh hưởng đến việc tổ chức động viên nhân dân thực
hiện công nghiệp hoá đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, xây dựng và thực

hiện quy chế dân chủ ở cơ sở có ý nghĩa lớn trong giai đoạn cách mạng hiện
nay. Hơn nữa nó có tác dụng lớn là động viên được sức mạnh vật chất, tinh
thần của nhân dân, công nhân, trí thức v.v.... trong công cuộc phát triển kinh
tế, ổn định chính trị xã hội, tăng cường khối đoàn kết trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, góp phần xây dựng Đảng bộ, chính quyền,
đoàn thể cơ sở trong sạch vững mạnh, ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy
thoái, biến chất v.v... mất dân chủ. Xây dựng và thực hiện QCDCCS cùng với
việc tập trung xây dựng hệ thống luật, hệ thống chính sách (về chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội) thể hiện Đảng và Nhà nước ta đã và đang phấn đấu mở
rộng quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực đời sống nhằm đáp
ứng yêu cầu của thời kỳ mới: đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH nhằm thực
hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh
theo định hướng XHCN. Có thể nói thực hiện dân chủ ở cơ sở và thực hiện
những nội dung về dân chủ nói chung một cách trực tiếp và rộng rãi với từng
người dân nhằm phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân trong phát triển
sản xuất, tổ chức đời sống, quản lý xã hội, giữ gìn an ninh trật tự công cộng.
Dân chủ ở cơ sở là nơi diễn ra các trạng thái dân chủ về chính trị, kinh tế, văn
hóa, về xã hội một cách trực tiếp, sinh động, liên tục đối với mọi người, mọi
lứa tuổi.
Bản Chỉ thị nói rõ: “Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực, bảo đảm
cho thắng lợi của cách mạng, của công cuộc đổi mới” [1, tr. 1]. Theo đó,

25


nội dung của quy chế là các chế độ và hình thức báo cáo công khai trước
nhân dân công việc của chính quyền, cơ quan đơn vị về sản xuất và phân
phối, về việc sử dụng công quỹ, tài sản công, về thu, chi tài chính, các
khoản đóng góp của dân, quyết toán các công trình xây dựng cơ bản, chế

độ thu và sử dụng học phí, viện phí ...
Về vấn đề dân bàn: một loại công việc do dân bàn và quyết định hoặc
công việc do dân bàn và tham gia ý kiến, HĐND, UBND quyết định. Dân
bàn và quyết định dân chủ đối với những loại việc liên quan trực tiếp đến
đời sống của nhân dân như huy động sự đóng góp của nhân dân để xây
dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng hương ước và quy ước nội bộ.
Dân giám sát kiểm tra các loại công việc từ hoạt động của HĐND,
UBND đến các việc khiếu nại, tố cáo của nhân dân, kết quả quyết toán
công trình do dân đóng góp, việc quản lý sử dụng đất đai, thu, chi quỹ, việc
thực hiện chính sách với người có công với nước. Dân giám sát kiểm tra,
tức là thực hiện quyền lực của mình trong quá trình quản lý đất nước. Bộ
Chính trị nêu rõ: “Hoàn thiện cơ chế để nhân dân, công nhân cán bộ, công
chức ở cơ sở trực tiếp và thông qua Mặt trận, các đoàn thể, ban thanh tra
nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền, thủ trưởng cơ quan
đơn vị, kết quả thanh tra, kiểm tra giám sát của nhân dân phải được tiếp thu
nghiêm túc” [1, tr. 3].
Về phương châm, phương pháp thực hiện, “Tổ chức đảng và đảng
viên phải gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Tổ chức đảng phải làm cho đảng viên thông suốt; đảng viên, nhất là các
đảng viên có chức vụ trong chính quyền phải gương mẫu tự phê bình và
phê bình nghiêm túc trong đảng bộ và trong nhân dân” [1, tr. 4]. Và “phải
làm từng bước vững chắc, không làm lướt, ồ ạt. Cấp uỷ cấp trên trực tiếp

26


×