ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGÔ VĂN HÀ
ĐẢNG LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÀ TRUNG
HỌC CHUYÊN NGHIỆP Ở MIỀN BẮC
1965- 1975
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊGH SỬ
HÀ NỘI – 2003
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGÔ VĂN HÀ
ĐẢNG LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÀ TRUNG
HỌC CHUYÊN NGHIỆP Ở MIỀN BẮC
1965 -1975
Chuyên ngành: lịch sử Đảng.
Mã số : 05-03-16
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: PGS. LÊ MẬU HÃN
HÀ NỘI - 2003
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1 ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ GIÁO
DỤC ĐẠI HỌC & TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP(1965-1969). ....... 10
1.1.VÀI NÉT VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC & TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP MIỀN BẮC
TRƢỚC NĂM 1965................................................................................................................. 10
1.1.1. Giáo dục Đại học & Trung học Chuyên nghiệp nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong
thời kỳ 1945-1954. ............................................................................................................... 10
1.1.2. Giáo dục Đại học & Trung học Chuyên nghiệp XHCN trong thời kỳ 1954- 1965. ....... 13
1.2. LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC & TRUNG HỌC CHUYÊN
NGHIỆP (1965- 1969). ............................................................................................................ 22
1.2.1. Chủ trƣơng của Đảng và Chính phủ về chuyển hƣớng giáo dục Đại học & Trung học
Chuyên nghiệp trong tình hình mới....................................................................................... 22
1.2.2.Tổ chức thực hiện chuyển hƣớng giáo dục Đại học & Trung học Chuyên nghiệp......... 29
1.3. TIỂU KẾT. ....................................................................................................................... 48
CHƯƠNG 2 ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ GIÁO
DỤC ĐẠI HỌC & TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP (1969- 1975). ..... 50
2.1. CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH PHỦ VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC & TRUNG
HỌC CHUYÊN NGHIỆP. ....................................................................................................... 50
2.2. LÃNH ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC & TRUNG HỌC
CHUYÊN NGHIỆP. ................................................................................................................ 55
2.2.1. Ổn định cơ sở vật chất và đời sống của cán bộ, học sinh. ............................................. 55
2.2.2. Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tƣ tƣởng, tăng cƣờng quản lý đào tạo, cải tiến
công tác đào tạo cán bộ THCN, hoàn thành việc chuẩn bị cải cách giáo dục ĐH &THCN. .... 60
2.2.3. Kết hợp công tác phục vụ với giảng dạy, học tập. ....................................................... 78
2.3. TIỂU KẾT. ....................................................................................................................... 87
CHƯƠNG 3 MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM .... 88
3.1. NHẬN XÉT VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC & TRUNG HỌC
CHUYÊN NGHIỆP ................................................................................................................. 88
3.1.1. Giáo dục ĐH &THCN giai đoạn 1965- 1975 phát triển trong hoàn cảnh chiến tranh. . 88
3.1.2. Đây là giai đoạn giáo dục ĐH &THCN phải di chuyển nhiều lần. .............................. 89
3.1.3. Các trường ĐH &THCN vừa làm nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học, vừa trực tiếp
tham gia chiến đấu, sản xuất. ............................................................................................... 90
4
3.1.4. Xây dựng nền giáo dục ĐH &THCN XHCN ở điểm xuất phát thấp.............................. 91
3.2. THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ CƠ BẢN ............................................................................ 91
3.2.1. Thành tựu. .................................................................................................................. 91
3.2.2. Những tồn tại. ............................................................................................................. 99
3.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM.............................................................................................. 101
3.3.1. Giáo dục ĐH & THCN phải phục vụ đƣờng lối và nhiệm vụ cách mạng.................... 101
3.3.2.Phát triển nền giáo dục Đại học & Trung học Chuyên nghiệp mang tính nhân dân. ..... 103
3.3.3. Xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục đảm bảo về số lƣợng và chất
lƣợng tốt. ........................................................................................................................... 105
3.3.4. Nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, mở rộng quan hệ quốc tế. .................................... 110
KẾT LUẬN ............................................................................................... 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 115
3
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Chúng ta đang tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Giáo dục được coi là nhân tố quyết định để thực hiện mục
tiêu đó. Đảng ta khẳng định“Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục- đào tạo là
quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài[44, tr 107].
Nền giáo dục nói chung và giáo dục ĐH &THCN nói riêng từ khi hoà
bình lập lại đến năm 1965, tuy đạt được những thành tựu quan trọng, song so
với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc, và yêu cầu to lớn của
nhiệm vụ cách mạng chung của cả nước thì còn chậm trễ, vừa thiếu cán bộ, vừa
mất cân đối, chất lượng cán bộ chưa được coi
trọng tương xứng với số
lượng,"một số ngành và một số loại cán bộ yêu cầu đào tạo chưa rõ ràng, phương
thức đào tạo chưa thích hợp"[19, tr 54]
Việc nghiên cứu về giáo dục ĐH &THCN một thời kỳ lịch sử nhất định,
gợi mở những bài học học bổ ích trong việc hoạch định đường lối phát triển
giáo dục ĐH &THCN hiện nay.
Vì những lý do trên khuyến khích chúng tôi chọn đề tài “ĐẢNG LÃNH
ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÀ TRUNG HỌC CHUYÊN
NGHIỆP Ở MIỀN BẮC GIAI ĐOẠN 1965- 1975”, làm luận văn tốt nghiệp
cao học chuyên ngành Lịch sử Đảng.
Chúng tôi chọn giai đoạn này là vì giáo dục ĐH &THCN miền Bắc phát
triển trong điều kiện đặc biệt. Đất nước bị chia cắt làm hai miền, với hai chế độ
chính trị khác nhau. Đảng ta lãnh đạo nhân dân tiến hành đồng thời hai chiến
4
lược cách mạng: xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước
nhà, đặc biệt từ năm1965 trở đi, chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng
của mọi người Việt Nam yêu nước. Đây là giai đoạn đầy biến động của giáo
dục ĐH &THCN Việt Nam. Trước tình hình mới, Đảng ta thực hiện chủ trương
chuyển hướng công tác giáo dục, đẩy mạnh qui mô đào tạo cán bộ chuyên môn,
tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong trường học, thực hiện
nguyên lý, phương châm giáo dục trong hoàn cảnh chiến tranh, và sáng tạo ra
nhiều hình thức, phương pháp giáo dục, đào tạo, bồi dữơng con người để đưa
nền giáo dục ĐH &THCN phát triển mạnh mẽ, góp phần xứng đáng vào công
cuộc xây dựng miền Bắc XHCN và sự nghiệp thống nhất đất nước, tạo tiền đề
quan trọng cho nền giáo dục ĐH &THCN giai đoạn sau.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Từ lâu, giáo dục đào tạo nói chung và giáo dục ĐH &THCN nói riêng là
đề tài được nhiều cán bộ khoa học, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước,
nhiều nhà quản lý giáo dục quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu trên nhiều góc độ
khác nhau. Có thể kể các tác phẩm tiêu biểu như, “Về vấn đề giáo dục”-tập hợp
những bài viết, bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh; “Mấy vấn đề về văn
hoá giáo dục” -tập hợp những bài viết, bài nói chuyện của đồng chí Phạm Văn
Đồng; “Về văn hoá giáo dục” của Nguyễn Khánh Toàn; “Lịch sử ĐH &
THCN Việt Nam” tập I, do Lê Văn Giạng chủ biên; “Sơ thảo lịch sử ĐH
&THCN Việt Nam giai đoạn 1955- 1975, do Nguyễn Được biên soạn phần
giáo dục đại học, Nguyễn Tuỳ biên soạn phần giáo dục THCN; "Chiến lược
phát triển giáo dục 2001-2010" của Thủ tướng Chính phủ(12 năm 2001).(chúng
tôi sẽ đề cập những công trình nghiên cứu về giáo dục ở phần danh mục tài liệu
tham khảo).
5
Nhìn lại các công trình nghiên cứu về giáo dục ĐH &THCN bước đầu
chúng tôi có suy nghĩ sau:
- Các tác giả đã nêu bật được tính chất, nội dung và nguyên lý của giáo
dục ĐH & THCN.
- Các công trình đã phân tích, đánh giá thực trạng, khẳng định những
thành tựu to lớn của giáo dục ĐH & THCN, đồng thời vạch ra những tồn tại đã
và đang đặt ra.
- Các tác giả đã tìm ra những nguyên nhân, đề ra những giải pháp cụ thể
để giáo dục ĐH & THCN phát triển trong điều kiện mới.
Phải nói rằng những kết quả nghiên cứu về nền giáo dục ĐH &THCN là
khá toàn diện, đề cập đến nhiều khía cạnh, lĩnh vực khác nhau. Điều đó không
có nghĩa là mọi việc xem như đã hoàn tất. Bức tranh toàn cảnh về nền giáo dục
ĐH &THCN, nhất là ở góc độ tổng kết lịch sử chưa được phản ánh trọn vẹn và
đầy đủ. Việc nghiên cứu về giáo dục ĐH & THCN vẫn cần phải tiếp tục.
3. Đối tƣợng và phạm vi, mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
a. Đối tượng và phạm vi:
* Đối tượng:
- Sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng nền giáo dục ĐH
&THCN XHCN.
- Thực tiễn phong trào quần chúng xây dựng và phát triển giáo dục ĐH
&THCN.
-Những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn trên.
* Phạm vi:
6
- Những điều kiện kinh tế, xã hội và truyền thống lịch sử ảnh hưởng đến
quá trình xây dựng và phát triển giáo dục ĐH &THCN.
- Đường lối chủ trương của Đảng về xây dựng nền giáo dục ĐH &THCN,
trọng tâm là giai đoạn chuyển hướng giáo dục 1965- 1975; sự lãnh đạo, chỉ đạo
của các cấp uỷ đảng và tinh thần vượt khó vươn lên của thầy trò các trường
trong việc xây dựng nền giáo dục ĐH &THCN.
- Những nội dung cụ thể trong việc đẩy mạnh qui mô, nâng cao chất lượng
đào tạo toàn diện, thực hiện phương châm giáo dục của Đảng.
-Thàng tựu và hạn chế của ngành giáo dục ĐH &THCN trong quá trình
xây dựng và trưởng thành.
b. Mục đích và nhiệm vụ: :
- Trình bày có hệ thống quá trình lãnh đạo của Đảng về giáo dục ĐH
&THCN từ năm 1965 đến năm 1975, nhất là về đường lối chủ trương, biện
pháp trong việc thực hiện chuyển hướng giáo dục.
- Làm rõ nội dung các giai đoạn lịch sử hình thành và phát triển của giáo
dục ĐH & THCN miền Bắc.
- Xác định đặc điểm phát triển của giáo dục ĐH &THCN miền Bắc thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
- Bước đầu rút ra những nhận xét và bài học kinh nghiệm lịch sử và đề
xuất một số kiến nghị, phục vụ cho việc xây dựng nền giáo dục ĐH & THCN
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. Nguồn tài liệu tham khảo.
Nguồn tài liệu tham khảo chủ yếu là các văn kiện của Đảng và bài viết của
các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các công trình sử học của các tác giả Việt
7
Nam, các bài báo khoa học đăng trên tạp chí TW và địa phương có liên quan
đến đề tài v.v..
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Phương pháp cơ bản để tiếp cận đề tài là phương pháp lịch sử và phương
pháp lo gích. Mức độ sử dụng hai phương pháp này sẽ tuỳ thuộc vào yêu cầu
đặt ra trong nội dung các chương. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương
pháp thống kê,phân tích tổng hợp, đối chiếu so sánh.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học .
- Luận văn tập hợp các nguồn tư liệu và kết quả nghiên cứu về quá trình
phát triển nền giáo dục ĐH &THCN miền Bắc từ năm 1965 đến năm 1975,
đồng thời góp phần bổ sung một số tư liệu trong quá trình nghiên cứu này.
-Từ góc độ sử học, luận văn sẽ trình bày một cách có hệ thống đường lối
chủ trương, biện pháp và sự chỉ đạo của Đảng về giáo dục ĐH & THCN, nêu
bật sự phát triển mạnh mẽ, những thành tựu và hạn chế của ngành ĐH &THCN
Việt Nam từ năm 1965 đến năm 1975.
- Nêu rõ mối tác động qua lại giữa các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hoá
với giáo dục trong hoàn cảnh cụ thể, làm rõ tính đặc thù của giáo dục ĐH &
THCN Việt Nam giai đoạn 1965- 1975.
- Rút ra bài học kinh nghiệm lịch sử đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục
hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn.
Luận văn được chia làm ba chương.
Chƣơng 1 : Đảng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ giáo dục Đại học & Trung
học Chuyên nghiệp (1965-1969).
Chƣơng 2 : Đảng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ giáo dục Đại học & Trung
học Chuyên nghiệp (1969- 1975).
8
Chƣơng 3 : Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm.
CHƢƠNG 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC &
TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP(1965-1969).
1.1.VÀI NÉT VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC & TRUNG HỌC CHUYÊN
NGHIỆP MIỀN BẮC TRƢỚC NĂM 1965.
1.1.1. Giáo dục Đại học & Trung học Chuyên nghiệp nƣớc Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà trong thời kỳ 1945-1954.
Quốc tử giám mở năm 1075, có thể coi là trường đại học đầu tiên của Việt
Nam. Trong gần một trăm năm đô hộ, thực dân Pháp chỉ xây dựng cho cả Đông
Dương một trường đại học gồm hai khoa( khoa luật và khoa y) và vài trường
cao đẳng như Canh nông, Thương mại, Công chính, Mỹ thuật, Sư phạm, Thú y,
Khoa học và chín trường trung cấp[3, tr13-14]. Qui mô đào tạo nhỏ bé và không
đều giữa các ngành. Số lượng học sinh đại học năm cao nhất (1942) là 1085
người, trong đó số học sinh luật khoa và y khoa chiếm số đông. Thực dân Pháp
coi trường học là công cụ quan trọng để chinh phục thuộc địa, đào tạo công
chức cho bộ máy cai trị, các cơ sở kinh doanh, thương nhân và đồn điền.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, mở ra kỷ nguyên : độc lập,
tự do cho dân tộc. Ngay từ khi mới ra đời, chính quyền cách mạng non trẻ rất
quan tâm đến việc phát triển nền giáo dục nước nhà. Trong tình thế vận mệnh
đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”, biết bao việc quan trọng phải giải
quyết, song Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn khẳng định vai trò của giáo
9
dục, và chủ trương chống nạn thất học, khôi phục nền giáo dục ĐH &THCN
đã bị hoang tàn do các giáo sư người Pháp bỏ đi, sinh viên tản mạn mỗi người
một nơi từ ngày Nhật đảo chính Pháp(9.3.1945). Chỉ thị "Kháng chiến kiến
quốc" của BCHTƯ Đảng ra ngày 25. 11. 1945 nêu ra nhiệm vụ về văn hóa
không chỉ tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ mà còn nêu rõ
phải “mở ĐH &THCN, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy
học nhồi sọ, cổ động văn hóa cứu quốc, kiến thiết nền văn hóa mới theo ba
nguyên tắc; khoa học hoá, đại chúng hoá, dân tộc hoá [46, tr 28]. Để có người hiền
tài kiến thiết đất nước, xây dựng nền giáo dục mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
viết "chiếu cầu hiền" với lời lẽ chân thành, thiết tha "Kiến thiết thì cần phải có
nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào, chắc không thiếu người tài có đức. E vì
Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi bậc hiền tài không thể
xuất thân."[15, tr 451], và Người yêu cầu các địa phương lập danh sách người hiền
tài cho Chính phủ để trọng dụng. Nhờ chủ trương đúng đắn và sự nhiệt tình của
những trí thức yêu nước được đào tạo dưới thời thuộc Pháp như ông Hồ Đắc
Di, Tôn Thất Tùng, Đặng Vũ Hỷ, Nguyễn Xuân Nguyên, Nguyễn Thúc Hào,
Tạ Quang Bửu, Ngụy Như Kon Tum, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn.., các
trường ĐH & THCN lần lượt được khôi phục và hoạt động trở lại theo tinh
thần của nền giáo dục mới, “một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam”. Nền giáo
dục dân tộc, dân chủ của chế độ mới, tuy mới phôi thai, trên cơ sở tiếp quản và
cải tổ nền giáo dục thời thuộc Pháp, đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao
nhận thức của người dân, để bảo vệ và củng cố chính quyền cách mạng non trẻ.
Thực hiện dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, thực dân Pháp quay trở
lại xâm lược Đông Dương. Kháng chiến bùng nổ trong phạm vi cả nước, thầy
trò các trường ĐH & THCN cùng nhân dân cả nước, bước vào cuộc kháng
chiến trường kỳ, gian khổ để bảo vệ thành quả của cách mạng tháng Tám. Các
trường rời Hà Nội về vùng nông thôn, lên Việt Bắc, chuyển hướng đào tạo,
10
phục vụ kháng chiến, kiến quốc. Hội nghị cán bộ TƯ mở rộng tháng 4. 1947 đã
chỉ ra phương hướng chính cho toàn ngành giáo dục. Công việc giáo dục phải
thích hợp với thời kỳ kháng chiến, nghĩa là" chương trình học phải thiết thực,
nhằm mục đích đào tạo nhân tài, cần dùng cho kháng chiến trước hết, về tất cả
các ngành y tế, canh nông, quân giới cũng như thương mại, ngoại giao. Học
sinh phải vừa học, vừa tham gia sản xuất để tiếp tục tự túc tự cấp một phần
nào"[46, tr 188]
Từ sau chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947, đặc biệt là sau chiến
thắng Biên Giới(1950), sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc được đẩy mạnh, nhu
cầu về cán bộ chuyên môn trở nên bức thiết. Trong điều kiện còn nhiều khó
khăn, nhưng Đảng ta vẫn quyết tâm mở thêm một số trường ĐH & THCN. Ba
Trung tâm Đại học được mở trong thời gian này. Đó là, Trung tâm ở Việt Bắc
có Trường Đại học Y và Ban quân dược; Trung tâm khu IV có Trường Dự bị
Đại học và Sư phạm Cao cấp; Trung tâm ở Khu học Xá TƯ có Trường Khoa
học Cơ bản và Sư phạm Cao cấp. Về khối trung học có mở thêm các trường
sau: Giao thông Công chính(1948), Y sĩ(1949), Sư phạm(1950), Dược
sỹ(1952), Nông lâm(1952), Ngoại ngữ(1952), Bưu điện(1954). Tính đến tháng
7. 1954, chúng ta đã đào tạo được 600 sinh viên đại học và 1.520 học sinh
trung cấp phục vụ kháng chiến và kiến quốc[4, tr 199]. Cùng với việc đẩy mạnh
đào tạo cán bộ trong nước, Đảng và Nhà nước ta đã bắt đầu quan tâm đến việc
gửi học sinh sang nước ngoài đào tạo. Từ năm 1951, đoàn lưu học sinh đầu tiên
của nước ta gồm 20 người được giử sang Liên Xô học tập, đến năm 1954 tổng
số lưu học sinh được đào tạo nước ngoài lên tới 700 người ở Liên Xô, Trung
Quốc và các nước XHCN khác.
Như vậy, chúng ta bắt tay vào xây dựng nền giáo dục ĐH &THCN trong
điều kiện hết sức khó khăn và xuất phát điểm là quá thấp. Nó được ra đời và
trưởng thành trong kháng chiến, lấy mục tiêu phục vụ kháng chiến, kiến quốc
11
làm hàng đầu. Có thể coi nền giáo dục ĐH &THCN nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa bắt đầu từ đó. Đánh giá ý nghĩa của việc xây dựng nền giáo dục ĐH
& THCN thời kỳ này, Nguyễn Khánh Toàn viết “ Phải khẳng định rằng mặc dù
con số mà chúng ta xây dựng trong kháng chiến còn chưa được hoàn chỉnh,
nhưng nó là cái nền tảng dựng trên một đường lối đúng đắn, không có nó thì
chúng ta không thể giành được thắng lợi như trong thời kỳ 5 năm đầu từ khi
hòa bình lập lại.”[11, tr 151]
1.1.2. Giáo dục Đại học & Trung học Chuyên nghiệp XHCN trong thời kỳ
1954- 1965.
Sau khi ký Hiệp định Giơ ne vơ(7. 1954), hoà bình lập lại ở Đông Dương,
miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Đảng và Chính phủ đã lãnh đạo nhân dân
miền Bắc thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế sau chiến tranh(1954-1957),
tiến hành cải tạo XHCN, bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa(1958-1960), và
thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, đưa miền Bắc tiến lên CNXH. Sự
nghiệp giáo dục trong đó có giáo dục ĐH &THCN đã từng bước phát triển qua
các kế hoạch kinh tế, nhiệm vụ mới dưới ánh sáng đường lối chủ trương của
Đảng và Chính phủ.
Tháng 3.1956, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thông qua Đề
án cải cách giáo dục phổ thông lần thứ hai. Mục tiêu của cải cách gíao dục lần
này là đào tạo, bồi dưỡng thế hệ thanh niên phát triển về mọi mặt, thành những
công dân tốt, cán bộ tốt, có đức, có tài trung thành với Tổ quốc, với chế độ dân
chủ nhân dân, xây dựng nước Việt Nam độc lập, tự chủ, thống nhất. Phương
châm giáo dục là lý luận liên hệ với thực tế, nhà trường gắn liền với đời sống
xã hội. Nội dung giáo dục toàn diện: đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục. Phương
pháp giáo dục là tăng cường thực hành, tăng cường lao động sản xuất, chú ý
nhiều hơn đến ứng dụng tri thức vào cuộc sống. Đây là bước đi cơ bản ban đầu
quan trọng trong quá trình xây dựng nền giáo dục XHCN. Hệ thống giáo dục
12
theo mô hình của Pháp đầu thế kỷ XX "được cải tạo và xây dựng lại theo mô
hình của các nước trong phe XHCN, chủ yếu là của Liên Xô. Công cuộc xây
dựng hệ thống giáo dục mới này đã tiến hành không chỉ ở giáo dục phổ thông
mà còn ở giáo dục ĐH & THCN.”[4, tr 20]
Cũng năm 1956, theo đề nghị của Bộ giáo dục nước ta, các chuyên gia
Liên Xô sang Việt Nam để giúp đỡ kế hoạch xây dựng và phát triển ngành ĐH
&THCN. Trên cơ sở đã được chuẩn bị, ngày 12. 10. 1956 Vụ ĐH &THCN đã
tổ chức lễ khai giảng cho năm trường đại học(Đại học Tổng hợp, Đại học Sư
phạm, Đại học Y dược, Đại học Nông lâm và Đại học Bách khoa).
Khối THCN cũng được mở rộng. Ngoài các trường khối nông lâm, sư
phạm, y tế, xuất hiện thêm khối trường kỹ thuật, công nghiệp và khối trường
văn hóa, nghệ thuật. Đây là những trường ĐH & THCN kiểu mới đầu tiên ở
nước ta theo mô hình XHCN, làm nòng cốt cho hệ thống các trường ĐH
&THCN sau này.
Rút kinh nghiệm từ việc xây dựng các trường ĐH & THCN của Liên Xô
và các nước XHCN, Bộ giáo dục đã xác định phương hướng phát triển của
Ngành trong ba năm(1958-1960) trên cơ sở khả năng, trình độ và yêu cầu thực
tế Việt Nam và yêu cầu phát triển của toàn khối XHCN, để phát triển văn hóa
giáo dục, tạo tiền đề cho sự nghiệp xây dựng văn hóa giáo dục XHCN của nước
ta trong 10-15 năm về sau.
Năm 1958, ngành ĐH &THCN đã tổ chức cuộc vận động xây dựng nhà
trường XHCN. Cuộc vân động đã đem lại kết quả quan trọng trong việc nâng
cao lập trường cách mạng và xác lập quan điểm giáo dục XHCN. Cụ thể là:
Xác định mục tiêu đào tạo toàn diện : tư tưởng, chuyên môn, sức
khỏe; xác định nguyên lý, phương châm, giáo dục: giáo dục kết hợp
với lao động sản xuất, học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực
13
tiễn, nhà trường gắn liền với xã hội; khẳng định vai trò lãnh đạo của
Đảng trong nhà trường, giáo dục phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, gạt
bỏ quan điểm chuyên môn đơn thuần, học thuật vị học thuật[ 4, tr 205].
Đến năm 1960, cùng với việc chuyển biến mạnh mẽ trên lĩnh vực kinh tế,
xã hội, ngành ĐH & THCN có bước phát triển quan trọng về số lượng lẫn chất
lượng. "Hệ thống quan điểm chính trị và tư tưởng giáo dục XHCN được xác
lập trong nhà trường. Đội ngũ cán bộ đại học tăng gấp 8 lần, THCN tăng gấp
6,2 lần so với năm 1954; cán bộ những ngành sản xuất trước kia(1954) chỉ
chiếm vài phần trăm, thì nay đã chiếm tỷ lệ là 31,4% về đại học, và 38,7% về
THCN."[ 3, tr 24]
Đại hội lần thứ III của Đảng tháng 9 năm 1960 đã nêu rõ: công tác giáo
dục, văn hóa phải được phát triển trên qui mô lớn và phải phục vụ đường lối và
nhiệm vụ cách mạng của Đảng. Phải bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những người
lao động làm chủ đất nước, có giác ngộ XHCN, có văn hóa và kỹ thuật, có sức
khoẻ, những người phát triển toàn diện, để xây dựng xã hội mới, đồng thời phải
phục vụ đắc lực cho việc đào tạo cán bộ xây dựng kinh tế và văn hóa XHCN.
Đối với ngành ĐH & THCN, Nghị quyết nêu rõ"Tăng cường ngành đại học,
phát triển ngành chuyên nghiệp cao cấp, nghiên cứu cải tiến nội dung học tập
và trước hết cần rút ngắn thời gian học tập ở những nơi cần thiết, và có thể sao
cho có thể nhanh chóng cung cấp nhiều cán bộ cho nhu cầu phát triển kinh tế,
văn hóa.”[19, tr 9]
Về việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ chuyên môn trong các khối nông
nghiệp, công nghiệp, kinh tế .., tiếp tục được đề cập đến NQTƯ 5(7. 1961) về
phát triển kinh tế nông nghiệp; NQTƯ 7 (5.1962) về xây dựng và phát triển
công nghiệp; NQTƯ 10(12. 1964) về thương nghiệp và giá cả. Những văn kiện
trên ra đời đã đưa công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ chuyên môn thực sự trở
14
thành bộ phận gắn bó hữu cơ với đường lối cách mạng XHCN, có tác dụng đưa
nền giáo dục ĐH &THCN phát triển mạnh mẽ.
Mùa xuân năm 1961, toàn ngành ĐH &THCN tổ chức đợt chỉnh huấn,
quán triệt nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng, tạo cơ sở chính trị cần thiết
cho việc đào tạo cán bộ chuyên môn. Đầu năm học 1961-1962, theo chỉ thị của
Hồ Chí Minh, ngành giáo dục phát động phong trào thi đua “hai tốt” (dạy thật
tốt, học thật tốt), nhằm nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện trong trường học.
Trước âm mưu của Đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh, phong trào thi đua “hai
tốt” trong các trường ĐH & THCN được đẩy mạnh với nội dung thiết thực hơn.
Đối với cán bộ giảng dạy, công tác xây dựng tổ, đội lao động XHCN được đẩy
mạnh, nhằm thực hiện tốt mục đích, phương châm giáo dục của Đảng, bồi dưỡng
cho cán bộ về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ. Đối với học sinh, sinh viên cuộc
vận động xây dựng phong cách học tập mới được đẩy mạnh, nhằm thực hiện việc
học tập có mục đích, động cơ thái độ, phương pháp đúng đắn. Phong trào thi đua
“hai tốt” thực chất là một phong trào
thi đua thực hiện có sáng tạo mục đích giáo dục nguyên lý, phương
châm giáo dục mà Đại hội III của Đảng đề ra. Phong trào thi đua vừa
có tính toàn diện, vừa có tính tập thể có tác dụng phát huy mọi lực
lượng trong nhà trường, nhằm thúc đẩy quá trình chuyển biến của nhà
trường thực hiện đường lối đào tạo của Đại hội lần thứ III. [10, tr 52]
Sau 5 năm nỗ lực phấn đấu, ngành ĐH &THCN đã đạt được thành tựu khá
toàn diện về qui mô và chất lượng đào tạo, đáp ứng một bước nhu cầu về cán
bộ chuyên môn cho sự nghiệp cách mạng. Sự phát triển về qui mô của ngành
ĐH &THCN thời gian này được nêu trong bảng 1.1; 1. 2; 1.3; 1.4.
15
Bảng 1.1[22 , tr 7]
Trường lớp - Cán bộ giảng dạy- học sinh đại học
Trườnglớp,
Số học sinh
Số học sinh đào
phân hiệu
tuyển mới
tạo tại trường
Học sinh tốt nghiệp trong năm
(Đào tạo trong nước)
Trongđó Cánbộ
trường,
giảng
Trongđó :
phânhiệu
dạy
Tổng
Tổngsố hệdài hạn Tổng số
đàotạodài
số
tập trung
hạn
Trongđó
hệdài
hạntập
trung
1955-1956
4
4
40
646
594
1.191
1.191
270
1964-1965
16
15
2.747
6.701
5.119
29.337
22.374
7.241
Bảng 1.2[22, tr 11]
Trường, phân hiệu đào tạo dài hạn.
(Phân theo khối ngành)
Tổngsố Trong tổng số
Trường
Năm học
Tổng
Phân
Công
hiệuđại hợp
họcdài (KHCB) nghiệp
hạn
1955-1956
4
1
1964-1965
15
1
3
Nông,lâm,
Sư phạm
Vănhóa
Kinhtế
Y,dược,
ngư
ngoại
nghệ
tài chính
TDTT
nghiệp
ngữ
thuật
2
2
1
1
1
3
3
1
16
Bảng 1.3[22, trr 83]
Số học sinh tuyển Số học sinh đào tạo
mới
tại trường
Trường lớp
Năm học
Trong đó
Tổng
số
Tw
1955-1956
8
8
1964-1965
112
54
Cánbộ
giảng dạy
Trong đó
: hệ dài
Trongđó :
Tổng số
Tổng số
dài hạn
hạn
tập
trung
101
2.400
2.205
2.755
2.533
1.690
3.000
13.642
8.007
42.626
25.233
8.989
Đp
58
Học sinh tốt nghiệp
Trường lớp - Cán bộ giảng dạy - Học sinh THCN.
Bảng 1.4[22, tr 86]
Trường lớp THCN
Năm học
Tổng
số
Khối các trường
Công
nghiệp
Nônglâm Kinhtếtài
ngư nghiệp chính
Sư phạm
2
1955-1956
8
5
1
1964-1965
142
14
14
23
12
5
21
YdượcThể Vănhoá
Dụcthể
nghệ thuật
thao
2
14
7
Đến năm học 1965, riêng khối đại học đã có 22 nhóm ngành, 97 ngành.
Như vậy, số lượng trường, lớp, cán bộ giảng dạy, sinh viên, ngành nghề
đào tạo tăng nhanh so với những năm hoà bình mới lập lại(1955-1956), và hệ
thống các trường ĐH & THCN "bắt đầu được xây dựng với cơ cấu ngành học
17
tương đối toàn diện, bao gồm hầu hết các lĩnh vực, kinh tế, văn hóa trong đó
các ngành học về kỹ thuật công nghiệp, nông nghiệp và kinh tế đặc biệt được
chú trọng phát triển” [3, tr38].
Cùng với sự phát triển về qui mô, chất lượng đào tạo cán bộ chuyên môn
cũng được nâng lên rõ rệt.
Báo cáo của Bộ giáo dục( tháng 6. 1963) nhận xét: các trường bước đầu đi
vào nề nếp, mục tiêu đào tạo như kế hoạch học tập và chương trình các môn
học được cải tiến phù hợp, nhiều biện pháp được áp dụng để tăng cường công
tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, kết hợp với các mặt giảng dạy, học
tập, lao động sản xuất và nghiên cứu khoa học, chất lượng tuyển sinh được
nâng cao cả về chính trị, văn hóa, sức khoẻ; tỷ lệ thành phần là công nông và
cán bộ tuyển vào trường chiếm 60% đến 70%, phong trào thi đua “hai tốt”
được các trường đẩy mạnh”.
Trình độ nhận thức về chính trị, tư tưởng của học sinh- sinh viên ngày một
nâng cao. Chỉ thị số 102/CT-TƯ ra ngày 3.7. 1965 của BBTTƯ Đảng về việc
tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đối với cán bộ giảng dạy và
sinh viên, học sinh nhận xét: số đông sinh viên, học sinh được sự giáo dục của
Đảng, của đoàn, của nhà trường XHCN đã có tiến bộ rõ rệt về trình độ tư
tưởng, chính trị, hiểu biết về đường lối cách mạng của Đảng, nâng cao lòng yêu
nước và giác ngộ XHCN, và bước đầu có ý thức vươn lên để làm tốt cách mạng
kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa theo lời kêu gọi của Đảng.
Chất lượng đào tạo còn được thể hiện ở việc sinh viên, học sinh ra trường
nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống, giải quyết có kết quả công việc thực tiễn
đặt ra. Sinh viên, học sinh tốt nghiệp các trường ĐH & THCN sau khi ra trường
đã "trở thành những người xuất sắc trên mặt trận sản xuất và chiến đấu” [19, tr 32]
18
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu trên, công tác bồi dưỡng, đào tạo
cán bộ chuyên môn của ngành ĐH &THCN chưa có kế hoạch đào tạo mang
tính tổng thể và dài hạn, nên số lượng tuyển sinh lên xuống thất thường. Qua
các bảng 1.5 ;1.6 cho thấy rõ điều đó.
Bảng 1.5.[22, tr 17]
Học sinh đại học tuyển vào hàng năm.
(Đào tạo trong và ngoài nước)
Đào tạo trong nước
Năm học
Tổng số
Trong đó : hệ dài hạn tập trung
1960-1961
7.789
4.965
1961-1962
9..215
6.922
1962-1963
8.585
6.514
1963-1964
6.754
4.985
1964-1965
6.701
5.119
Bảng 1.6.[22, tr 97]
19
Học sinh tuyển vào các trường THCN.
Đơn vị tính: Người
Năm học
1960-1961
Tổng số
16.066
Trong đó
Dàihạntập
trung
Chuyên tu
15.175
891
1961-1962
19.304
1962-1963
23.719
1963-1964
10.104
1964-1965
13.642
Riêng hệ dàihạn tập trung
8.007
2.635
Tại chức
Cáctrường
TƯ
Cáctrường
ĐP
3.000
Về mạng lưới trường, chưa có phương hướng thống nhất giữa Bộ giáo dục
và các cơ quan liên quan trong việc điều chỉnh các trường đại học thuộc khối
kinh tế tài chính, nông nghiệp, khoa học cơ bản, y tế và văn hóa, để có sự phát
triển cân đối giữa các ngành. Nghị quyết 142/NQ-TƯ ra ngày(28.6.1966) của
BCTBCHTƯ Đảng nhận xét
chúng ta chưa có qui hoạch dài hạn về vấn đề đào tạo cán bộ, việc
chỉ đạo kế hoạch đào tạo cán bộ lại thiếu chặt chẽ, có nơi có hiện
tượng vừa thiếu cán bộ, vừa mất cân đối; nhưng có lúc, có nơi lại
thừa. Sự phân bố cán bộ chưa được cân đối giữa các ngành nghề,
trong mỗi ngành nghề lại chưa được hoàn chỉnh[19, tr 53-54]
Về chất lượng đào tạo, có một số cán bộ, học sinh, sinh viên chưa quán
triệt mục tiêu và phương châm giáo dục của Đảng. Ý chí phấn đấu và tình cảm
cách mạng của một số sinh viên còn yếu, trình độ giác ngộ về giai cấp, lý tưởng
XHCN còn thấp, sống và học tập chưa thấm nhuần mục đích xây dựng và bảo
vệ miền Bắc XHCN, hết lòng giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất nước
20
nhà. Trong cán bộ giảng dạy, lập trường quan điểm giai cấp, trình độ hiểu biết
đường lối chính sách còn có những hạn chế.
Sản phẩm đào tạo ra chất lượng còn thấp, "trình độ kiến thức cơ bản và khả
năng vận dụng lý luận vào thực tiễn sản xuất và công tác còn bị hạn chế nhiều"[19, tr
54]
.
Việc sắp xếp, bố trí cán bộ nhất là cán bộ chủ chốt còn bất cập chưa đúng
người, đúng việc, dẫn tới tình trạng tách rời giữa lãnh đạo chính trị và lãnh đạo
chuyên môn, thậm chí có nơi xẩy ra mất đoàn kết nội bộ.
Việc đẩy mạnh qui mô đào tạo trong điều kiện kinh tế nước nhà còn nghèo
nàn, lạc hậu, kinh nghiệm quản lý chưa nhiều, nền tảng dân trí thấp, thì việc
phát sinh những thiếu sót, hạn chế là khó tránh khỏi. Nhưng nhìn một cách tổng
quát về sự phát triển của ngành ĐH &THCN thời kỳ này đã tạo ra “cơ sở bước
đầu của nền giáo dục ĐH &THCN, tạo điều kiện cho bước phát triển mạnh mẽ
của công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ chuyên môn trong giai đoạn sau”
[3, tr
39]
1.2. LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN NHIỆM VỤ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC &
TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP (1965- 1969).
1.2.1. Chủ trƣơng của Đảng và Chính phủ về chuyển hƣớng giáo dục
Đại học & Trung học Chuyên nghiệp trong tình hình mới.
Trước sự phá sản của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ leo
lên một nấc thang chiến tranh mới, chuyển sang chiến lược “ chiến tranh cục
bộ”, ồ ạt đưa quân viễn chinh, cùng với phương tiện chiến tranh hiện đại vào
miền
Bắc.
Nam Việt Nam, mở rộng chiến tranh ra cả nước, đánh phá miền
21
Miền Bắc là căn cứ địa cách mạng, là hậu phương lớn cung cấp sức người, sức
của cho chiến trường miền Nam. Mục tiêu của việc mở rộng chiến tranh đánh
phá miền Bắc là "phá hoại tiềm lực kinh tế và quốc phòng, phá công cuộc xây
dựng CNXH ở miền Bắc, ngăn chặn nguồn chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc
và từ miền Bắc vào miền Nam; uy hiếp tinh thần, làm lung lay ý chí chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân ta"[12 , tr 214]
Cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ra miền Bắc đã làm cho tình
hình từ một nửa nước có chiến tranh, một nửa nước có hòa bình, lan ra thành cả
nước có chiến tranh, với hình thức và cấp độ khác nhau ở mỗi miền. Miền Nam
vẫn là tiền tuyến lớn, miền Bắc vẫn là hậu phương lớn vừa trực tiếp chiến đấu,
vừa làm nhiệm vụ xây dựng CNXH, chi viện cho miền Nam. Trong điều kiện
mới, nhiệm vụ cấp bách của miền Bắc là “ phải kịp thời chuyển hướng tư tưởng
và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường thực lực quốc phòng
cho phù hợp"[20, tr 219]. Nghị quyết 11 của BCHTƯ Đảng( 25- 27.3.1965) nêu rõ,
nhiệm vụ cụ thể của miền Bắc là phải tích cực đẩy mạnh phát triển nông nghiệp
ở cả miền Bắc, đặc biệt phải phát triển nhanh chóng nông nghiệp ở trung du và
miền núi, phải chú trọng phát triển công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp
mạnh hơn, chú trọng hơn nữa việc xây dựng xí nghiệp vừa và nhỏ. Lúc này
công tác đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ được Đảng đặc biệt chú ý. Việc đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ vừa đáp ứng yêu cầu ngày càng lớn sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, đồng thời tính đến lâu dài của cả hai miền.
Đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc vào thời điểm chúng ta kết
thúc kế hoạch 5 năm lần thứ nhất “ miền Bắc đã có những bước tiến dài chưa
từng thấy trong lịch sử. Đất nước, xã hội, con người đều đổi mới”. Các thành
phố không ngừng được mở rộng ; nhiều nhà máy, xí nghiệp theo tiêu chuẩn
hiện đại ra đời, các hợp tác xã bậc cao phát triển; đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân từng bước được cải thiện. Sự chuyển biến về kinh tế, xã hội đặt ra
22
yêu cầu cấp thiết về việc đào tạo cán bộ chuyên môn với quy mô lớn và chất
lượng cao. Như vậy, đến đầu năm 1965, ngành ĐH &THCN phải đảm nhận
nhiệm vụ hết sức nặng nề : đào tạo cán bộ chuyên môn đảm bảo về số lượng,
và chất lượng đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội trong điều kiện
cả nước có chiến tranh.
Mỹ leo thang trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đòi hỏi chúng ta
phải có quyết tâm cao, đồng thời phải có sáng tạo trong chiến đấu, trong lao
động sản xuất và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên môn. Đảng và Chính phủ
đã kịp thời chuyển hướng giáo dục ĐH & THCN, để đào tạo cán bộ chuyên
môn phù hợp với tình hình mới. Nội dung của chủ trương chuyển hướng đào
tạo cán bộ chuyên môn được thể hiện trong hai văn kiện chính là Chỉ thị số
88TTG-VG ra ngày 5.8. 1965 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết số 142
NQ-TƯ ra ngày 28.6.1966 của BCTBCHTƯ Đảng.
Đảng ta khẳng định "chuyển hướng công tác giáo dục là đáp ứng yêu cầu
của tình hình mới, tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng trong tình hình
mới, theo phương hướng cải cách giáo dục"[19, tr 51]. Nhiệm vụ của việc chuyển
hướng giáo dục là "phải gấp rút đào tạo cho trước mắt và tương lai một đội
ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ quản lý đông đảo, vững mạnh và tương
đối hoàn chỉnh về ngành nghề, về trình độ; có đức, có tài dần dần đủ sức giải
quyết những vấn đề khoa học kỹ thuật trong nước và tiến tới trình độ tiến tiến
của thế giới"
19, tr 48]
Tiếp đó Nghị quyết 142 của BCTTƯĐảng ra ngày
28.6.1966 nhấn mạnh: công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học, kỹ thuật
và cán bộ quản lý kinh tế chẳng những không được giảm nhẹ mà cần được phát
triển mạnh mẽ để chuẩn bị cho nhu cầu của cả nước. Chúng ta phải tranh thủ
trong một thời gian tương đối ngắn, xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ
khoa học, kỹ thuật và cán bộ quản lý kinh tế đông đảo, vững mạnh, ngày càng
hoàn chỉnh về ngành nghề, vừa có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung
23
thành với Đảng, với giai cấp công nhân, với dân tộc, liên hệ chặt chẽ với công
nông, vừa có trình độ khoa học kỹ thuật và nghiệp vụ giỏi, nắm vững được qui
luật của tự nhiên và qui luật của xã hội, có năng lực tổ chức động viên quần
chúng, đủ sức giải quyết những vấn đề khoa học, kỹ thuật và quản lý kinh tế
do thực tế nước ta đề ra, và có khả năng tiến kịp trình độ khoa học, kỹ thuật
tiên tiến trên thế giới
Đảng và Chính phủ nêu rõ nội dung giảng dạy khoa học cơ bản và kỹ
thuật chuyên nghiệp là
Phản ảnh những thành tựu mới nhất của khoa học kỹ thuật hiện đại
nhất, đồng thời phải kết hợp chặt chẽ với thực tiễn Việt Nam. Sau khi
sinh viên, học sinh đã học phần khoa học và kỹ thuật cơ bản( cả lý
thuyết lẫn thực hành) đối với những ngành có điều kiện, cần nghiên
cứu để tạo điều kiện đưa sinh viên, học sinh về cơ sở sản xuất, các
vùng kinh tế các viện nghiên cứu để tiếp tục học tập phần chuyên
nghiệp thuộc ngành đã chọn và tham gia một phần vào sản xuất [19, tr
48]
.
Việc giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ giảng dạy và sinh viên, học
sinh giờ đây được coi “là nghĩa vụ hàng đầu có tác dụng quyết định đến mọi
mặt của công tác khác trong nhà trường”[19, tr37]. Vì vậy cần giáo dục “truyền
thống đoàn kết, quyết chiến, quyết thắng của dân tộc, của giai cấp, truyền
thống tự lực cánh sinh, dũng cảm trong chiến đấu, cần cù trong lao động, giản
dị trong sinh hoạt,”[19, tr 40]nâng cao căm thù giặc Mỹ và quyết tâm chống Mỹ
xâm lược, sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng phục vụ và hy sinh cho Tổ quốc.[19, tr
48]
; đồng thời Đảng và Chính phủ cũng nhấn mạnh đến việc rèn luyện thân thể,
luyện tập quân sự, nâng cao sức khỏe cho học sinh, sinh viên.