MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
Chương 1. ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRONG
NHỮNG NĂM ĐẦU ĐẨY MẠNH CƠNG NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI
HỐ (1996 - 2000) ................................................................................. 6
1.1. Yêu cầu khách quan của việc phát triển giáo dục đại học trong sự nghiệp
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ............................................. 6
1.1.1. Tầm quan trọng của giáo dục đại học đối với sự nghiệp đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố ............................................................. 6
1.1.2. Tình hình giáo dục đại học trước năm 1996 ...................................... 11
1.2. Đường lối phát triển giáo dục đại học của Đảng trong những năm đầu
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ........................... 17
1.3. Quá trình tổ chức thực hiện đường lối phát triển giáo dục đại học của
Đảng (1996-2000) ............................................................................. 24
1.3.1. Quá trình triển khai thực hiện các nhiệm vụ và mục tiêu phát triển
giáo dục đại học từ 1996 đến năm 2000 ................................................. 24
1.3.2. Một số thành tựu cơ bản về giáo dục đại học ......................................... 34
Chương 2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRONG
NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI (2001 - 2005) ................................... 43
2.1. Yêu cầu mới đối với giáo dục đại học ........................................................ 43
2.2. Đường lối của Đảng về tiếp tục đẩy mạnh phát triển giáo dục đại học ....... 48
2.3. Quá trình chỉ đạo thực hiện phát triển giáo dục đại học trong những năm
2001-2005 ......................................................................................... 56
2.3.1. Chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển giáo
dục ..................................................................................................... 56
2.3.2. Kết quả thực hiện các mục tiêu chiến lược trong giai đoạn 2001 2005................................................................................................... 66
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ KINH NGHIỆM CỦA ĐẢNG TRONG QUÁ TRÌNH
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC (1996 - 2005) ............ 81
3.1. Kết quả 10 năm lãnh đạo phát triển giáo dục đại học .................................. 81
3.1.1. Thành tựu .......................................................................................... 81
3.1.2 Hạn chế............................................................................................... 92
3.2. Kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo phát triển giáo dục đại học .................. 99
3.2.1. Chỉ đạo việc quy hoạch các trường đại học, cao đẳng kết hợp với
việc mở rộng quy mô đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả
đào tạo ............................................................................................... 99
3.2.2. Đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy và học tập ............ 103
3.2.3. Chú trọng xây dựng đội ngũ giảng viên, nhân tố cơ bản quyết
định sự thành công của giáo dục đại học ........................................ 107
3.2.4. Tăng cường công tác quản lý giáo dục đại học .............................. 110
3.2.5. Tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh cơng tác chính
trị tư tưởng trong nhà trường .......................................................... 112
3.2.6. Tăng cường nguồn lực cho giáo dục đại học, xây dựng cơ sở vật
chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy học tập, thực hiện xã hội hoá
giáo dục ................................................................................................... 114
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 117
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 120
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 125
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNH, HĐH : Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH
: Chủ nghĩa xã hội
ĐH, CĐ
: Đại học, cao đẳng
GD-ĐT
: Giáo dục - đào tạo
KH- CN
: Khoa học công nghệ
NSNN
: Ngân sách nhà nước
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hiện nay, xu thế chung của thế giới là toàn cầu hoá, hội
nhập khu vực và quốc tế, với những tác động nhiều mặt đa phương, đa dạng.
Thế giới đi vào nền kinh tế tri thức, khoa học công nghệ phát triển như vũ
bão, lợi thế so sánh nghiêng về những nước phát triển, làm chủ khoa học - kỹ
thuật. Chất xám, trí tuệ trở thành động lực chủ yếu để phát triển kinh tế - xã
hội. Phát triển giáo dục đại học để tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội đặt ra đối với tất cả các quốc gia.
Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật - công nghệ trên thế giới diễn ra
mạnh mẽ. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp như Mác dự đốn,
cịn cơng nghệ được đổi mới hết sức nhanh chóng. Trình độ dân trí và tiềm
lực khoa học - cơng nghệ đã trở thành nhân tố quyết định vị thế và sức mạnh
của mỗi quốc gia trên thế giới. Đảng ta nhận định: cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại cùng với xu thế tồn cầu hố đời sống kinh tế thế giới là
thuận lợi cơ bản để phát triển, đồng thời cũng là một thách thức gay gắt đối
với các nước, nhất là những nước còn chậm phát triển. Vì vậy, cùng với nâng
cao nhận thức đối với giáo dục đào tạo, chúng ta phải hiểu sâu sắc vai trị của
khoa học - cơng nghệ trong việc phát huy nhân tố con người.
Việt Nam đang đứng trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hố,
hiện đại hố, nhanh chóng đưa đất nước thốt khỏi tình trạng nghèo, kém phát
triển, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đặt ra ngày càng cấp bách. Nguồn lực con người là nhân tố có ý
nghĩa quyết định đến sự thành công của sự nghiệp đổi mới, tập trung đào tạo
nguồn nhân lực mới giữ được độc lập tự chủ, phát huy được nội lực vững
vàng đi lên hoà nhập với xu thế tiến bộ văn minh của thời đại. Để thực hiện
thành công sự nghiệp đổi mới chúng ta cần có giáo dục trong đó giáo dục đại
học là cực kỳ quan trọng với tư cách là bậc học trực tiếp cung cấp nguồn lao
động có trí tuệ, kỹ thuật cao cho đất nước.
1
Trong 10 năm đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước (1996
- 2005), giáo dục đại học đã đạt được những thành tựu cơ bản. Song bên cạnh
những thành tựu thì vẫn cịn có những hạn chế, yếu kém trong nhiều mặt như
cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu của dạy và học, chất lượng giáo
dục chưa cao. Cơng tác quản lý đào tạo cịn nhiều bất cập. Vấn đề tiêu cực
trong đào tạo chưa được khắc phục…
Từ những vấn đề cấp thiết nêu trên, việc góp phần tổng kết thực tiễn
q trình phát triển của giáo dục đại học sau hơn 20 năm đổi mới dưới sự lãnh
đạo của Đảng, chỉ rõ những thành tựu, những yếu kém và nguyên nhân của
nó, trên cơ sở đó rút ra một số kinh nghiệm phục vụ sự nghiệp đổi mới giáo
dục đại học đã và đang diễn ra là cơng việc hết sức cần thiết. Vì vậy, tôi chọn
đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển giáo dục đại học từ
năm 1996 đến năm 2005” làm luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Lịch sử Đảng.
2. Tình hình nghiên cứu
Giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng giữ một vị trí hết sức
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đặc biệt
trong công cuộc đổi mới hiện nay, vấn đề đổi mới giáo dục đại học đặt ra hết
sức bức thiết, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao. Vì lẽ đó, tình hình nghiên cứu về giáo dục đại học trở thành
đề tài thời sự được các nhà nghiên cứu, quản lý giáo dục hết sức quan tâm.
Hàng loạt các cơng trình nghiên cứu về giáo dục đại học được cơng bố.
Có thể nên một vài cơng trình như sau:
Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ
XXI, Nxb CTQG; Ban Khoa giáo Trung ương (2001), Báo cáo kiểm điểm việc
thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII; Bộ Giáo dục - Đào tạo (2001),
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, tiếp tục đổi mới, tạo chuyển
biến rõ nét về chất lượng, hiệu quả giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu CNH,
HĐH đất nước đầu thế kỷ XXI; Ban Khoa giáo Trung ương (2002), Giáo dục
- đào tạo trong thời kỳ đổi mới. Chủ trương, thực hiện đánh giá; Viện Chiến
lược và Chương trình giáo dục (2005), Đề tài cấp Bộ trọng điểm “Đánh giá
2
việc thực hiện chiến lược giáo dục trong giai đoạn I (2001 - 2005) và chuẩn
bị kế hoạch thực hiện giai đoạn II (2006 - 2010).
Những luận văn, luận án đã bảo vệ: Phan Quốc Huy (1996), Đảng công
sản Việt Nam với sự nghiệp đổi mới ngành giáo dục nước nhà 1987 - 1995;
Lã Quý Đô (2003), Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển giáo dục đại
học trong những năm 1986 - 2002,…
Ngồi những cơng trình xuất bản thành sách, kỷ yếu thì có rất nhiều
bài viết trên các tạp chí Nghiên cứu giáo dục, Cơng tác khoa giáo, Phát triển
giáo dục…
Các cơng trình bài viết của học giả trong và ngoài nước hết sức phong
phú, đa dạng đề cập đến nhiều khía cạnh của giáo dục đại học Việt Nam như:
Vai trò của đào tạo đại học, thực trạng hiện nay, những thành tựu, những tồn
tại yếu kém, một số cơng trình cịn đưa ra xu thế phát triển của giáo dục đại
học… Tuy nhiên, chưa có cơng trình nghiên cứu nào đề cập một cách đầy đủ
và cụ thể về giáo dục đại học từ 1996 đến năm 2005.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Làm rõ đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển giáo dục đại học;
quá trình chỉ đạo thực hiện; từ đó, tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng về
giáo dục đại học.
* Nhiệm vụ
- Phân tích yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đối với giáo dục đại học.
- Phân tích thực trạng giáo dục đại học trước 1996.
- Nghiên cứu một cách có hệ thống đường lối phát triển giáo dục đại
học của Đảng (từ Đại hội VIII tới Đại hội IX).
- Nghiên cứu quá trình tổ chức thực hiện đường lối của Đảng và kết
quả thực hiện.
- Tổng kết một số kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
3
Luận văn chủ yếu nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về giáo dục đại học từ năm 1996 đến năm 2005.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước về giáo dục đại học từ 1996 - 2005; quá trình tổ chức thực hiện
phát triển giáo dục đại học; đánh giá khách quan những thành tựu và hạn chế
của giáo dục đại học.
- Về thời gian: Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục đại
học từ năm 1996 đến năm 2005.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
* Nguồn tư liệu
Luận văn sử dụng nguồn tư liệu chủ yếu là:
- Các văn kiện của Đảng và Nhà nước về giáo dục đại học.
- Các báo cáo của Bộ Giáo dục - Đào tạo về giáo dục đại học.
- Tham khảo các tác phẩm của các chuyên gia nghiên cứu lĩnh vực giáo
dục đã được công bố.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về giáo dục
đại học.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là: phương pháp lịch sử, phương
pháp logic. Ngồi ra, cịn sử dụng các phương pháp khác như: thống kê, so
sánh… để thực hiện đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Góp phần làm rõ những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về lãnh đạo phát triển giáo dục đại học từ năm 1996 đến năm 2005.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo giúp các nhà
nghiên cứu tiếp tục lĩnh vực này.
- Từ việc nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo phát triển giáo dục đại
học, những thành tựu đạt được, những hạn chế yếu kém cần khắc phục, luận
4
văn đề xuất những giải pháp nhằm đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới giáo dục đại
học ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia làm 3 chương :
Chương 1: Quá trình lãnh đạo phát triển giáo dục đại học của Đảng
trong những năm đầu đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố (1996 - 2000).
Chương 2: Đảng lãnh đạo phát triển giáo dục đại học trong những năm
đầu thế kỷ XXI (2001 - 2005).
Chương 3: Kết quả và kinh nghiệm của Đảng trong quá trình lãnh đạo
phát triển giáo dục đại học (1996 - 2005).
5
Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU ĐẨY MẠNH CƠNG NGHIỆP HỐ,
HIỆN ĐẠI HỐ (1996 - 2000)
1.1. Yêu cầu khách quan của việc phát triển giáo dục đại học trong
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1.1. Tầm quan trọng của giáo dục đại học đối với sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước từng bước xây dựng và hoàn
thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII Đảng (1996) đã chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH trên phạm vi cả
nước. Đảng ta xác định:
CNH, HĐH là q trình chuyển đổi căn bản, tồn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phương tiện và phương pháp tiêu biểu, hiện đại, dựa trên sự
phát triển của công nghệ và tiến bộ của khoa học công nghệ, tạo ra năng
suất lao động cao [20, tr.65].
Điều kiện nước ta tiến hành CNH, HĐH là từ một nền kinh tế kém
phát triển lại phải khắc phục hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh vệ quốc.
Vì vậy, sau những sai lầm trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, Đảng
ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm để lựa chọn ra con đường CNH,
HĐH phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nước ta và xu thế phát
triển của thế giới hiện nay.
Đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển kinh tế thị trường tạo nền tảng cơ bản
đưa nước ta thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Trong đó chúng ta cần kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người
Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. Như vậy, CNH, HĐH là khâu then
chốt để đưa nước ta phát triển đi lên trở thành một nước cơng nghiệp có cơ sở
6
vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, lực lượng sản xuất phát triển,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng và an ninh vững chắc.
Vậy làm thế nào để chúng ta sớm có thể thực hiện thành cơng q trình
CNH, HĐH đất nước được? Đứng trước vấn đề đó, nhiều nhà khoa học đã tìm
tịi, nghiên cứu trong điều kiện hồn cảnh cụ thể của nước ta và học hỏi kế thừa
kinh nghiệm từ các nước khác trên thế giới đã nhất trí với nhau rằng nguồn lực
trí tuệ là nhân tố quyết định nhất giúp cho việc thành công hay thất bại của q
trình CNH, HĐH ở nước ta. Điều đó được thể hiện rõ trên một số khía cạnh như:
Thứ nhất, trí thức tham gia phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng nền
kinh tế - xã hội như một lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong điều kiện cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật đang phát triển với tốc độ ngày càng cao, khoa
học công nghệ đang trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp thì tri thức chính
là yếu tố quyết định sự thành cơng trong q trình phát triển. Chỉ có nhân tố
con người mới có thể thúc đẩy nhanh việc cải tiến cơ cấu sản xuất làm nâng
cao năng suất lao động, đổi mới phương pháp sản xuất để việc sử dụng các tài
nguyên thiên nhiên một cách hiệu quả hơn phục vụ mục tiêu phát triển bền
vững của xã hội.
Thứ hai, trí thức là yếu tố quan trọng nhất trong việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc (nền tảng tinh thần của xã hội) và kế thừa tiếp thu
những tinh hoa văn hoá hiện đại để làm đa dạng phong phú hơn nền văn hố
dân tộc.
Với vai trị chủ thể trong các hoạt động sáng tạo văn hố, tầng lớp trí
thức luôn là lực lượng nhận thức được rõ nhất các giá trị của văn hố dân tộc từ
đó phát huy việc bảo tồn phát triển các giá trị văn hoá chân thiện mỹ của dân
tộc loại bỏ những yếu tố tiêu cực không phù hợp với xu thế phát triển của dân
tộc trong giai đoạn hiện nay. Việc giữ vững và phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc trên tinh thần kế thừa những tinh hoa văn hoá tiên tiến của nhân loại như là
một trách nhiệm, “thiên chức” của những người trí thức Việt Nam.
Trí thức có vai trị quyết định trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài của đất nước đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH đất
nước. Sự nghiệp CNH, HĐH của nước ta thành cơng hay thất bại điều đó được
7
phụ thuộc rất lớn vào nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất
lượng cao. Trong sự nghiệp CNH, HĐH của dân tộc, trí thức khơng chỉ trực
tiếp tham gia và đóng vai trị to lớn trong sự nghiệp đó mà trí thức cịn thể hiện
rõ trong cơng tác nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài. Những hoạt động của trí
thức tác động vào q trình phát triển của giáo dục đào tạo, khoa học và công
nghệ làm đẩy nhanh q trình CNH, HĐH. Tuy nhiên, chính kết quả phát triển
của q trình CNH, HĐH cũng có sự tác động ngược trở lại làm cho đội ngũ trí
thức của chúng ta ngày càng phát triển hơn cả về chất lượng và số lượng. Như
vậy, những hoạt động của đội ngũ trí thức khơng chỉ làm đẩy nhanh q trình
CNH, HĐH của đất nước mà nó cịn góp phần phát triển chính đội ngũ trí thức
của dân tộc.
Thứ ba, vai trị của trí thức cịn thể hiện trong lãnh đạo quản lý và điều
hành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trong quá trình CNH, HĐH quá trình
đổi mới của đất nước Đảng và Nhà nước ta luôn cần có một đội ngũ trí thức đủ
đức đủ tài để giữ vai trò trọng trách quản lý cả về chuyên môn lẫn nghiệp vụ.
Trong bối cảnh thể giới hiện nay việc giao lưu hội nhập kinh tế, việc đẩy nhanh
quá trình phát triển kinh tế để có thể chuyển từ nền kinh tế thị trường sang nền
kinh tế trí thức đang là xu thế tất yếu của thời đại. Do đó, việc bồi dưỡng xây
dựng đội ngũ trí thức đủ đức đủ tài gắn bó với nhân dân giàu lịng u nước,
u CNXH có ý chí và hồi bão khoa học… là một trong những nhiệm vụ
trọng yếu của Đảng và Nhà nước ta và của bản thân đội ngũ trí thức.
Từ những phân tích trên cho ta thấy quá trình CNH, HĐH càng đi vào
chiều sâu, xã hội càng phát triển thì nhu cầu về số lượng và chất lượng của đội
ngũ trí thức càng trở lên cấp bách địi hỏi q trình đào tạo giáo dục nguồn nhân
lực của chúng ta cần có sự vận động phát triển để đáp ứng nhu cầu địi hỏi đó.
Giáo dục đại học là bậc đào tạo cao nhất trong hệ thống giáo dục đào tạo
ở nước ta, với 2 bậc học là đại học và sau đại học. Trong đó bậc đại học đào tạo
cao đẳng và đại học - người học ở bậc này gọi là sinh viên, tốt nghiệp là cử
nhân, kỹ sư… và bậc đào tạo sau đại học gọi là học viên cao học, nghiên cứu
sinh, tốt nghiệp là thạc sỹ, tiến sỹ. Mục tiêu chung của giáo dục đại học là
nhằm đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực ở trình độ cao có phẩm chất chính trị
vững vàng, có đạo đức tốt, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng
8
lực chun mơn tương xứng với trình độ đào tạo và có sức khoẻ đáp ứng được
u cầu cơng việc. Mục tiêu cụ thể ở bậc đại học là trang bị cho người học kiến
thức chuyên môn cơ bản và kỹ năng thực hành cơ bản về một số ngành nghề
nhất định và từ đó khả năng giải quyết các vấn đề thông thường thuộc chuyên
ngành được đào tạo. Đối với bậc sau đại học, ở trình độ đào tạo thạc sỹ mục
tiêu đào tạo là giúp cho học viên nắm vững lý thuyết, có trình độ thực hành
cao, có khả năng phát hiện và giải quyết những vấn đề thuộc chun ngành
được đào tạo. Cịn đối với trình độ tiến sỹ, mục tiêu của giáo dục đào tạo là
nhằm cho nghiên cứu sinh có trình độ chun mơn sâu về lý thuyết và thực
hành; có năng lực nghiên cứu độc lập và sáng tạo, năng lực giải quyết những
vấn đề khoa học công nghệ và hướng dẫn hoạt động chun mơn. Q trình
phát triển của giáo dục đại học chính là q trình cung cấp nguồn nhân lực có
trình độ cao cho CNH, HĐH đất nước.
Giáo dục đại học là quá trình cung cấp thường xuyên và ổn định nguồn
nhân lực cho quá trình CNH, HĐH. Với chức năng và nhiệm vụ của mình, giáo
dục đại học thường xuyên cung cấp cho đất nước một số lượng lớn cán bộ, trí
thức mới đảm bảo cho sự ổn định và phát triển số lượng của nguồn nhân lực.
Bên cạnh đó, giáo dục đại học là bậc học khác cả về mục tiêu, nội dung và
phương pháp so với cấp học khác vì vậy giáo dục đại học khơng chỉ trực tiếp
đào tạo ra cán bộ trí thức mới mà cịn góp phần tích cực vào việc nâng cao chất
lượng nguồn lực trí thức. Điều đó có thể thấy trên một số khía cạnh như:
Giáo dục đại học là mơi trường thuận lợi nhất để nâng cao chất lượng
nguồn lực trí thức. Như chúng ta đã biết tri thức của con người được biểu hiện
ở 2 cấp độ tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học. Mặc dù có vai trị rất quan
trọng nhưng để có thể hiểu được bản chất của các sự vật, hiện tượng, để nâng
cao năng lực hoạt động và khả năng sáng tạo trong hoạt động thực tiễn thì con
người khơng thể chỉ dựa vào tri thức kinh nghiệm mà phải vươn tới chiếm lĩnh
được tri thức khoa học. Muốn đạt được điều đó con người nhất thiết phải cần
đến quá trình giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học. Bởi chỉ có ở đó con người
mới có mơi trường học tập và nghiên cứu, có sự hướng dẫn của các giảng viên
có trình độ chuyên môn cao về từng yếu tố phù hợp với yêu cầu phát triển.
Giáo dục đại học cũng trang bị cho người học thế giới quan và phương pháp
9
luận khoa học để tiếp cận và nghiên cứu sáng tạo ra những tri thức mới ở
những trình độ ngày càng cao, phát huy những yếu tố nội sinh để người học
tiếp thu tìm tịi ra chân lý. Những tri thức của giáo dục đại học mang lại sẽ giúp
cho người lao động chủ động hoạt động để đạt hiệu quả cao trong hoạt động
thực tiễn từ đó khơng ngừng nâng cao năng lực trí tuệ góp phần nâng cao chất
lượng của nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của quá trình CNH,
HĐH đất nước.
Giáo dục đại học là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao bản lĩnh chính
trị, rèn luyện lập trường tư tưởng cho nguồn nhân lực của quá trình CNH, HĐH
đất nước. Quá trình giáo dục đại học sẽ giúp cho người học hiểu biết về các giá
trị truyền thống của dân tộc và tiếp xúc các giá trị văn hoá tiên tiến của nhân
loại, từ đó hình thành nên tình u q hương đất nước, yêu CNXH, hình thành
nên nhân cách cao đẹp của người lao động. Chính điều đó đã giúp người lao
động có được bản lĩnh vững vàng trước những âm mưu dụ dỗ, chia rẽ, chống
phá xuyên tạc… của kẻ thù đối với quá trình CNH, HĐH phát triển đất nước.
Giáo dục đại học là yếu tố giúp cho người lao động có một hệ thống kiến
thức chun mơn và kỹ năng thực hành cơ bản, chuyên sâu về một ngành nghề,
một lĩnh vực đồng thời khơi dậy và phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo và
những người làm chủ tri thức cho đội ngũ trí thức nói riêng, là nguồn nhân lực
cao của q trình CNH, HĐH đất nước nói chung, để đáp ứng yêu cầu phát
triển của quá trình CNH, HĐH ngày càng đi vào chiều sâu của đất nước. Giáo
dục đại học làm phát triển nguồn nhân lực thông qua việc nâng cao dân trí và
phát triển trí tuệ đỉnh cao của đất nước. Khi mặt bằng dân trí được gia tăng, yếu
tố trí tuệ, tri thức và năng lực sáng tạo của con người, của người lao động phát
triển sẽ là nền tảng để con người tiếp tục phát huy những kỹ năng khác, vươn
lên làm chủ hồn cảnh và làm chủ chính bản thân mình. Giáo dục đại học chính
là yếu tố quan trọng nhất trong việc tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao
phục vụ q trình CNH, HĐH đất nước.
Giáo dục đại học cũng là yếu tố quan trọng trong việc góp phần định
hướng và điều chỉnh cân đối hợp lý nguồn nhân lực góp phần cân bằng cơ cấu
lĩnh vực ngành nghề trong quá trình CNH, HĐH cho phù hợp vơi từng điều
kiện hoàn cảnh cụ thể.
10
Trong thời gian gần đây cùng với quá trình CNH, HĐH Đảng ta đã định
hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN theo hướng tập
trung vào phát triển nền kinh tế tri thức đã từng bước chủ động hội nhập vào xu
thế kinh tế chung của nhân loại. Do đó q trình CNH, HĐH khơng chỉ u cầu
giáo dục đại học cung cấp một lực lượng lao động chất lượng cao mà cịn u
cầu sự đóng góp trong việc cân đối hợp lý về cơ cấu kinh tế ngành nghề lĩnh
vực vùng miền nhất là trong lĩnh vực khoa học cơng nghệ cao để từ đó giải
quyết hài hoà, tạo động lực phát triển kinh tế tri thức tạo điều kiện hồn thiện
q trình CNH, HĐH của dân tộc.
Như vậy, giáo dục đại học có vai trị to lớn đối với q trình CNH,
HĐH, nó khơng chỉ là yếu tố đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH mà cịn là yếu tố
góp phần quyết định cho sự thành cơng của q trình CNH, HĐH đất nước.
1.1.2. Tình hình giáo dục đại học trước năm 1996
Trước xu thế hội nhập mở cửa, trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học
công nghệ phát triển như vũ bão, nguy cơ tụt hậu về kinh tế - xã hội, về khoa
học kỹ thuật và công nghệ của nước ta ngày càng cao so với các nước trên thế
giới đã đặt ra vấn đề cấp thiết phải đổi mới giáo dục đại học để đáp ứng nhu
cầu nguồn nhân lực với yêu cầu ngày càng cao cho sự nghiệp đổi mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12 - 1986) của Đảng là đại hội khởi
xướng sự nghiệp đổi mới trên tất cả mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội. Đảng,
Nhà nước ta và ngành giáo dục - đào tạo đã kịp thời nhân thức rõ sự non kém về
nhiều mặt, từng bước giải quyết những vấn đề cấp bách của giáo dục như ngăn
chặn sự giảm sút về công tác đào tạo, xây dựng cơ sở vật chất, nhà trường, chăm
lo đời sống giáo viên, phát động toàn dân tham gia xây dựng giáo dục…
Đại hội VII của Đảng (6 - 1991) đã khẳng định: “cùng với khoa học
công nghệ, giáo dục đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu” [26,
tr.187]. Điều khẳng định này là hồn tồn chính xác. Khoa học và giáo dục
đóng vai trị then chốt trong tồn bộ sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ
quốc, là động lực đưa đất nước thốt khỏi nghèo nàn lạc hậu, vươn lên trình độ
tiên tiến của thế giới.
11
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư (khoá VII) năm
1993 đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo
như sau:
Một là, giáo dục - đào tạo cùng với khoa học công nghệ được xem là
“quốc sách hàng đầu”. Đó là động lực thúc đẩy và là điều kiện cơ bản đảm bảo
cho việc thực hiện những mục tiêu kinh té - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đảng ta nhấn mạnh coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng
chính đầu tư cho phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước để phục vụ đắc
lực nền kinh tế - xã hội. Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng
lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của Nhà
nước. Giáo dục - đào tạo không chỉ là động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội mà còn là động lực quan trọng đẩy nhanh quá trình đổi mới hiện nay, đổi
mới phải dựa trên nền tảng giáo dục. Cơ sở để định hướng các chỉ tiêu phát
triển kinh tế - xã hội suy cho cùng, phải đi từ nguồn lực con người mà muốn có
con người có trình độ cao thì giáo đục đại học đóng vai trị quan trọng.
Hai là, phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hố, khoa học, có kỹ
năng nghề nghiệp lao động tự chủ sáng tạo và có kỷ luật, giàu lịng nhân ái, u
nước, u CNXH, sống lành mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước những
năm 90 và chuẩn bị cho tương lai. Phải mở rộng quy mô, đồng thời chú trọng
nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục, gắn học với hành, tài với đức.
Quan điểm này khẳng định tính ưu việt của chế độ ta, là chế độ vì con
người, hướng tới phát huy mọi khả năng của con người. Nguyên Tổng Bí thư
Đỗ Mười đã khẳng định: “Cần khai thác và sử dụng nhiều nguồn lực khác
nhau, trong đó nguồn lực con người là q báu nhất, có vai trị quyết định,
đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất cịn
hạn chế” [26, tr.9].
Ba là, giáo dục vừa phải gắn chặt với yêu cầu phát triển của đất nước,
vừa phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Thực hiện một nền giáo dục
thường xuyên cho mọi người, xác định học tập suốt đời là quyền lợi và trách
nhiệm của mỗi công dân.
12
Để hồn thành nhiệm vụ lớn lao đó, ngành giáo dục - đào tạo phải tập
trung giải quyết hàng loạt vấn đề như: quy mô giáo dục, chất lượng giáo dục,
cơ cấu hệ thống và đa dạng hoá các loại hình trường lớp, đội ngũ giáo viên, cơ
sở vật chất, xã hội hố giáo dục, tiến hành cơng tác quản lý… đặc biệt phải gắn
với việc đào tạo, nghiên cứu khoa học với triển khai ứng dụng công nghệ. Mở
rộng quan hệ trong đào tạo, nghiên cứu khoa học với các nước trên thế giới,
đặc biệt là các nước phát triển nhằm tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và
những tiến bộ về các thành tựu giáo dục của thế giới.
Bốn là, đa dạng hố các loại hình đào tạo, thực hiện công bằng xã hội
trong giáo dục nhằm tạo điều kiện, cơ hội cho mọi người học tập, hình thành xã
hội học tập. Đảng chủ trương cho phép mở rộng loại hình đào tạo khơng chính
quy, đa dạng hố loại hình đào tạo: cơng lập, bán cơng, dân lập, tư thục, các
trung tâm đào tạo thường xuyên, đào tạo từ xa… làm cho mỗi người dân có thể
lựa chọn một hình thức học tập phù hợp. Người đi học phải đóng học phí, cá
nhân, tổ chức sử dụng lao động qua đào tạo phải đóng học phí đào tạo. Nhà
nước có chính sách đảm bảo cho người nghèo và các đối tượng chính sách đều
được đi học.
Bốn quan điểm chỉ đạo trên đây thể hiện rõ vị trí quan trọng hàng đầu
của giáo dục - đào tạo trong nền kinh tế quốc dân.
Mười năm 1986 - 1996 có vị trí đặc biệt trong q trình tồn tại và phát
triển của đất nước. Đó là thời kỳ đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh
đạo. Đường lối đổi mới đã đưa đất nước ta, trong đó có giáo dục đại học bước
sang một giai đoạn mới. Giai đoạn này là giai đoạn phát triển giáo dục đại học
theo đường lối đổi mới. Đường lối đổi mới bắt đầu từ tư duy, trong đó có đổi
mới tư duy về giáo dục đại học, đưa giáo dục đại học lên một trình độ phát
triển mới.
Vào những năm 1987 - 1988, khi bắt đầu công cuộc đổi mới theo đường
lối của Đại hội VI đề ra, giáo dục đại học nước ta đang lâm vào tình trạng yếu
kém về nhiều mặt.
Mạng lưới đại học Việt Nam có hơn 100 trường đại học và cao đẳng, nhìn
chung chủ yếu là cơng lập. Quy mô các trường quá nhỏ hẹp, tổ chức theo ngành
13
chuyên môn không được mở rộng. Đa số các trường đại học, cao đẳng được tập
trung tại Hà Nội với khoảng 37 trường, ở Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 20
trường, rải rác khắp đất nước có các loại trường chuyên môn hẹp khác.
Bên cạnh các trường đại học Việt Nam hiện có, lúc đó cũng tồn tại song
song với 252 viện nghiên cứu quốc gia, hoạt động nghiên cứu khoa học tách rời
các trường đại học và vì những lý do lịch sử mà hệ thống giáo dục đại học Việt
Nam đều được xây dựng theo mơ hình Liên Xô cũ. Cho nên các trường đại học
ở Việt Nam khơng có các trường đại học lớn bao gồm nhiều ngành đào tạo,
theo kiểu UNIVERSITY như nhiều nước khác.
Về đội ngũ cán bộ giảng dạy, toàn ngành giáo dục hiện có 36.608 cán
bộ, cơng nhân, viên chức, riêng cán bộ giảng dạy đại học có 20.744 người
(chiếm 57%), cán bộ nữ có 6.536 người (chiếm 31,3%), dân tộc ít người chiếm
2 đến 3%. Trong đó cán bộ giảng dạy đại học, thì mới chỉ có 87% có trình độ
đại học trở lên với 211 tiến sỹ, 2.666 phó tiến sỹ, 2.773 thạc sỹ, số còn lại chủ
yếu là đại học. Đa phần cán bộ giảng dạy chủ yếu được đào tạo từ Liên Xơ và
Đơng Âu, phần cịn lại chủ yếu là tự đào tạo và trưởng thành ở trong nước.
Nhìn chung, giảng viên đại học ở nước ta ít được nâng cao trình độ, ít có khả
năng đào tạo lại, giao lưu trao đổi khoa học với các nước tiên tiến trên thế giới.
Vấn đề quan tâm lúc đó và khó khăn nhất là đời sống cán bộ giảng dạy,
đồng lương ít ỏi buộc họ vừa phải đảm bảo việc lên lớp, nghiên cứu khoa học,
vừa tìm mọi nguồn thu nhập khác để sống. Những năm cuối thập kỷ 80 đầu
thập kỷ 90, có lúc họ quan niệm “người thầy giáo có nghề phụ là nghề dạy
học”. Cuộc sống khó khăn nên họ chưa tồn tâm, tồn ý cho việc dạy học là lẽ
đương nhiên, từ đó tác động đến sự xuống cấp của toàn bộ nền giáo dục là vấn
đề không thể tránh khỏi. Dù rằng, đa số cán bộ giảng dạy vẫn trụ vững trên
giảng đường và luôn đề cao “nghề dạy học là một nghề cao q”. Bên cạnh đó,
tình trạng “lão hố” đội ngũ cán bộ giảng dạy tiếp tục gia tăng, nguồn cán bộ
trẻ, có năng lực ngày một thiếu hụt. Sự hụt hẫng đội ngũ trí thức có trình độ cao
ngày càng bộc lộ rõ nét, nhất là ở các trường đại học. Tại một cuộc điều tra vào
năm 1994 ở 17 trường đại học ở Hà Nội thì số cán bộ giảng dạy dưới 35 tuổi
chỉ có 8%. Đội ngũ cán bộ trẻ rất hiếm ở các trường đại học lớn như: Đại học
14
Bách khoa, Đại học Tổng hợp số cán bộ giảng dạy dưới 35 tuổi là 1,2%, Đại
học Sư phạm là 1,9%.
Về đào tạo sau đại học, tính đến tháng 7 - 1995 nước ta có 120 cơ sở
đào tạo sau đại học, với 7.982 học viên cao học và 3.262 nghiên cứu sinh
đang theo học.
Về đội ngũ sinh viên của giáo dục đại học Việt Nam trước năm 1996 là
không ổn định. Vấn đề đó có nhiều nguyên nhân, vừa do chuyển đổi cải cách
giáo dục, vừa do quy định nghiêm ngặt theo kế hoạch tuyển sinh của Nhà nước.
Cuộc sống khó khăn nên thời ấy vào đại học là mơ ước của nhiều người, nhất
là lớp trẻ. Bên cạnh đó, chất lượng đào tạo vẫn khơng được tăng lên, thực ra nó
chịu tác động dưới nhiều sức ép, trước hết là chịu tác động về sự xuống cấp của
cơ sở thiết bị dạy và học. Hiện trạng các trường đại học, cao đẳng của nước ta
lúc đó khơng những không được trang bị thêm mà vẫn giữ nguyên cơ sở vật
chất, trang thiết bị của Liên Xô và Đông Âu cũ, đã lạc hậu cũ kỹ, rồi tiếp tục
xuống cấp thêm…
Tình trạng dạy chay, học chay, cách truyền đạt vẫn chỉ diễn giải lý
thuyết là chủ yếu. Cách dạy “truyền thống” trên giảng đường đại học vẫn chưa
được khắc phục. Sinh viên đào tạo ít được thao tác kỹ thuật hoặc tiếp cận với
những công nghệ mới.
Trong thời kỳ bao cấp, giáo dục - đào tạo nói chung được xem như là
một thứ phúc lợi, là gánh nặng của ngân sách, cho nên trong mọi văn bản của
Nhà nước, các ngành, các cấp khi bàn về giáo dục - đào tạo chỉ là những câu
hỏi rất chung chung, làm được đến đâu hay đến đó. Từ đó, ngân sách chi cho
giáo dục hết sức eo hẹp, có lúc có nơi lại sử dụng vào việc khác, tình trạng
bng trơi thả lỏng có thời làm điêu đứng các nhà trường và đời sống của
giảng viên.
Trước năm 1990, sự nghiệp giáo dục đào tạo được phân bổ tài chính rất
thấp, số đó chỉ đủ trả lương và học bổng cho cán bộ, sinh viên. Ngân sách dành
cho giáo dục chưa bao giờ vượt quá 10% tổng chi ngân sách Nhà nước. Số đó
khơng thể đẩy nhanh được tốc độ vận hành và phát triển của giáo dục lúc đó.
15
Ngân sách chi cho giáo dục còn thể hiện ở mức chi phí cho đào tạo trên mỗi
đầu sinh viên trên mỗi năm học.
Tóm lại, thực trạng giáo dục - đào tạo nói chung và giáo dục đại học
nói riêng, cái đạt được là rất lớn song cái chưa đạt được cũng cịn q lớn. Để
kết thúc phần này, tơi lấy đánh giá chung về giáo dục - đào tạo, nước Cộng
hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam thơng qua cơng trình của Bộ Giáo dục - Đào
tạo cùng với chương trình phát triển của Liên hợp quốc - UNDP và Tổ chức
Văn hoá, khoa học, giáo dục của Liên hợp quốc UNESCO. Trong 2 năm 1991
- 1992 tiến hành dự án: Phân tích tình hình giáo dục và nhân lực Việt Nam
VIE89/022. Dự án đã đi tới kết luận: Giáo dục Việt Nam đang đứng trước 7
vấn đề gay cấn như sau:
1. Giáo dục phổ thông giảm sút về số lượng và suy thoái về chất lượng
mọi bậc học, kể cả giáo dục mầm non.
2. Giáo dục nghề nghiệp không liên hệ chặt chẽ với sản xuất và thị
trường lao động.
3. Giáo dục đại học yếu kém trong giảng dạy, mạng lưới các trường bố
trí khơng hợp lý, thiếu quan hệ với nghiên cứu khoa học, sản xuất và việc làm.
4. Đội ngũ thầy giáo yếu kém về chuyên mơn, gặp nhiều khó khăn trong
cơng tác và đời sống.
5. Nguồn lực cho giáo dục - đào tạo thiếu nghiêm trọng và chưa được sử
dụng hợp lý.
6. Hệ thống luật pháp, tổ chức, quản lý giáo dục đào tạo chưa phù hợp với
những đổi mới về quản lý kinh tế - xã hội đang diễn ra ở Việt Nam hiện nay.
7. Hệ thống luật pháp, tổ chức, quản lý giáo dục - đào tạo chưa phù hợp
với những đổi mới về quản lý kinh tế - xã hội đang diễn ra ở Việt Nam hiện nay.
Những vấn đề nêu trên đang là nỗi lo chung của chúng ta. Đó là một trong
những cơ sở để Đảng hoạch định những vấn đề về chiến lược giáo dục - đào tạo
trong tương lai. Đó cũng là sự thúc bách để Đảng ta có Hội nghị chuyên đề về
giáo dục đào tạo, chăm lo sức khoẻ nhân dân, về văn hoá, thanh niên…
1.2. Đường lối phát triển giáo dục đại học của Đảng trong những
năm đầu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
16
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng quyết định đẩy
mạnh CNH, HĐH nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh vững bước đi lên CNXH. Muốn tiến hành CNH, HĐH thắng lợi phải phát
triển mạnh giáo dục đào tạo, phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản của
sự phát triển bền vững.
Đại hội tiếp tục khẳng định: Cùng với khoa học - công nghệ, giáo dục
đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Coi trọng cả 3 mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và
phát huy hiệu quả. Phương hướng chung của lĩnh vực giáo dục - đào tạo trong
5 năm tới là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, tạo điều
kiện cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên có việc làm, khắc phục những tiêu
cực, yếu kém trong giáo dục.
Đại hội xác định: Đến năm 2020, phát triển đào tạo sau đại học, tăng số
lượng đào tạo đại học và sau đại học ở nước ngoài và tại các trung tâm đào tạo
quốc tế trong nước. Xác định rõ hơn mục tiêu, thiết kế nội dung, chương trình,
đổi mới phương pháp giáo dục, đào tạo, lựa chọn những nội dung có tính cơ
bản, hiện đại. Tăng cường giáo dục lịng u nước, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và
cán bộ quản lý giáo dục. Tổng kết cải cách giáo dục, xây dựng chiến lược phát
triển giáo dục, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách Nhà
nước về giáo dục - đào tạo. Nâng dần tỷ trọng chi ngân sách cho giáo dục. Phát
huy trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, các cấp chính quyền, đồn thể, các
doanh nghiệp đối với sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
Trong phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 1996 - 2000 về chương trình phát triển giáo dục - đào tạo, Đại hội xác
định mục tiêu: Nâng cao mặt bằng dân trí, đào tạo bồi dưỡng và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ vững mạnh, đủ sức
giải quyết những vấn đề được đặt ra trong chương trình phát triển khoa học cơng nghệ. Phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, chú trọng các lĩnh
vực khoa học cơng nghệ, văn hố nghệ thuật, quản lý kinh tế - xã hội và quản
trị sản xuất kinh doanh.
17
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ 2 BCH Trung
ương khóa VIII (12 - 1996) đã ra nghị quyết về định hướng chiến lược phát
triển GD - ĐT trong thời kỳ CNH, HĐH và “nhiệm vụ đến năm 2000”. Đây là
hội nghị BCH Trung ương đầu tiên triển khai việc thực hiện nghị quyết Đại hội
VIII về phát triển GD - ĐT và KH - CN. Hội nghị bổ sung, cụ thể hóa các quan
điểm chỉ đạo, các chủ trương, chính sách, biện pháp lớn để đẩy nhanh việc phát
triển GD - ĐT. Có thể khẳng định đây là những định hướng quan trọng nhất mà
Đảng đã đúc kết trong tiến trình lãnh đạo cách mạng nói chung, lãnh đạo sự
phát triển sự nghiệp GD - ĐT nói riêng. Điều đó cho thấy sự nhận thức của
Đảng ta về tầm quan trọng của hai lĩnh vực này trong tiến trình đổi mới của đất
nước. Nghị quyết của hội nghị tập trung vào 6 quan điểm chỉ đạo phát triển GD
- ĐT trong thời kỳ CNH, HĐH.
Một là, Giữ vững mục tiêu XHCN trong nội dung phương pháp giáo dục,
đào tạo, trong các chính sách về phát triển giáo dục, đào tạo.
Quan điểm này thể hiện phương châm giáo dục toàn diện, bám sát vào
mục tiêu đào tạo những con người mới XHCN, thiết tha với độc lập dân tộc và
CNXH, có đạo đức lối sống lành mạnh, có sức khỏe, có ý chí kiên cường rèn
luyện lập thân lập nghiệp góp sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm chủ được
các tri thức khoa học và cơng nghệ hiện đại, có năng lực phát huy giá trị văn hóa
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, có tư duy độc lập sáng tạo, kỹ năng
thực hành giỏi, có tác phong cơng nghiệp. Đặc biêt, ở giáo dục đại học và dạy
nghề phải chú trọng khối kiến thức chuyên môn, đặc biệt là các mơn khoa học
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho học sinh, sinh viên.
Bên cạnh đó cũng cần tích cực ngăn chặn các tác động tiêu cực, các tệ nạn
xã hội: ma túy, cờ bạc… Giữ vững mục tiêu XHCN trong nội dung, phương pháp
giáo dục, trong các chính sách, nhất là các chính sách về cơng bằng xã hội. Chống
khuynh hướng “thương mại hóa” trong giáo dục, coi GD - ĐT như là một hình
thức kinh doanh, đề phịng khuynh hướng “phi chính trị hóa” trong GD - ĐT…
Như vậy, thực chất quan điểm này là giữ vững mục tiêu đinh hướng
XHCN trong GD - ĐT chống nguy cơ chệch hướng, đổi màu, không thể hiện
bản chất của chế độ nước ta.
18
Hai là, Thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Nghị quyết nêu rõ GD - ĐT cùng với KH - CN là nhân tố quyết định tăng
trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho GD - ĐT là đầu tư cho phát triển.
Quan điểm này đã từng được nêu ra trong Đại hội VII, nghị quyết Trung ương 2
khóa (VIII) đã được cụ thể hơn với 4 nội dung:
+ Coi giáo dục là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước, đầu tư
cho giáo dục là đầu tư phát triển, đầu tư tồn diện cả nhân tài, vật lực, trí tuệ…
+ Giáo dục là bộ phận quan trọng hàng đầu của kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội ở từng địa phương, từng khu vực và trong cả nước.
+ Có chính sách ưu tiên cao nhất cho giáo dục - đào tạo: ưu tiên đầu tư, ưu
đãi tiền lương.
+ Để quan điểm trên trở thành hiện thực cả ở tầm vĩ mô và vi mô cần phải
thực hiện tốt các nhiệm vụ: các cấp ủy đảng, chính quyền, đồn thể cần coi trọng
sự nghiệp GD - ĐT, cần quan tâm, đầu tư tâm sức, nguồn lực tương xứng.
Như vậy, tư tưởng coi GD - ĐT là quốc sách hàng đầu được đề ra ở Đại
hội VII (1991), được ghi vào Điều 35 của Hiến pháp năm 1992 được cụ thể hóa
một bước ở Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII) và được khẳng định lại ở Nghị
quyết Trung ương 2 (khóa VIII) đã cho chúng ta thấy sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước ta đối với GD - ĐT và cũng qua đó ta nhận thức được việc cần thiết
phải tăng cường sự chỉ đạo từ Trung ương đến các cấp và sự tham ra nhiệt tình
tâm huyết của tồn thể nhân dân thì mới giải quyết được các vấn đề của GD ĐT và mới thực hiện thành công được quan điểm này của Đảng.
Ba là, Giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, Nhà nước và toàn dân.
Đảng chủ trương thực hiện phong trào học tập rộng rãi trong nhân dân.
Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, huy động sự tham gia tích cực của nhân dân, của
các tổ chức kinh tế - xã hội, đa dạng hóa các loại hình trường lớp, các hình thức
đào tạo từ xa qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua mạng nhằm huy động
và sử dụng mọi nguồn lực của nhân dân để phát triển giáo dục.
Xã hội hóa giáo dục bao gồm hai mặt: tồn dân học tập và toàn dân chăm
lo, toàn dân làm giáo dục. Nền giáo dục phải hướng tới phục vụ nhân dân, mọi
người được tham gia học tập, học thường xuyên, học suốt đời. Có sự phối hợp
19
liên ngành cùng chăm lo cho giáo dục, kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã
hội trong việc xây dựng mơi trường giáo dục lành mạnh. Xã hội hóa giáo dục
cũng đa dạng hóa các nguồn đầu tư cho giáo dục, huy động mọi nguồn lục để
đầu tư phát triển giáo dục theo hướng giáo dục phục vụ nhân dân.
Tuy nhiên, nói xã hội hóa giáo dục khơng có nghĩa là giảm nhẹ trách
nhiệm chỉ đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, khoán trắng cho xã hội. Nghị
quyết cũng chỉ rõ việc Đảng và Nhà nước phải nắm giáo dục, phải chăm lo phát
triển giáo dục “tăng cường xây dựng và củng cố tổ chức Đảng để thực sự trở
thành hạt nhân lãnh đạo các trường” [20, tr.46 - 47].
Xã hội hóa giáo dục khơng chỉ tạo điều kiện nâng cao chất lượng đào tạo
và bồi dưỡng nguồn nhân lực, tạo ra động lực cho nền giáo dục Việt Nam phát
triển, từng bước hòa nhập chung với thế giới mà cịn làm thay đổi tồn bộ nhận
thức của Đảng ta về giáo dục, từng bước hướng tới mục tiêu đưa GD - ĐT trở
thành “quốc sách hàng đầu”, phát triển giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội, của
Nhà nước và mỗi cộng đồng, của từng gia đình và mội cơng dân.
Bốn là, Phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và
những tiến bộ khoa học công nghệ.
Sự nghiệp CNH - HĐH chỉ có thể thành cơng khi chúng ta có nguồn nhân
lực mạnh, đội ngũ lao động lành nghề có chất lượng cao, có kinh nghiệm, có sức
khỏe… và chúng ta quản lý sử dụng tốt lực lượng đó. Để tạo ra được nguồn
nhân lực thì vai trị quan trọng hàng đầu là công tác GD - ĐT, giáo dục sẽ góp
phần thay đổi về chất trong lực lượng lao động góp phần thực hiện thành cơng
các chỉ tiêu kinh tế - xã hội.
Nước ta bước vào CNH với lực lượng lao động dồi dào, khoảng 38 triệu
lao động, đây là một thuận lợi lớn song khó khăn của ta là nguồn lao động chất
lượng thấp, 80% dân số ở nông thôn, lao động thủ công là chủ yếu, số lao động
qua đào tạo có chun mơn kỹ thuật thấp (khoảng 4 triệu người) chiếm khoảng
10% lực lượng lao động. Hàng năm chúng ta lại có lực lượng lao động bổ sung
khoảng 1,2 triệu người. Nguồn lao động này phải qua đào tạo mới có thể đáp
ứng được nhu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Do đó, việc bồi
20
dưỡng nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo cán bộ cho CNH
là vấn đề hết sức cấp bách hiện nay.
Tuy nhiên, hiện nay chúng ta lại đang có sự bất hợp lý trong đào tạo và sử
dụng. Hiện tượng chảy máu chất xám ra ngoài và tại chỗ khá phổ biến, một bộ
phận lao động qua đào tạo có chất lượng cao đang tập trung đổ dồn vào làm việc
cho các công ty, doanh nghiệp nước ngoài (Năm 1996, ở Hà Nội khoảng 2000
lao động, ở Thành phố Hồ Chí Minh là khoảng 4000 lao động). Các doanh
nghiệp nước ngồi khơng mất chi phí đào tạo mà nghiễm nhiên được hưởng lợi
trong khi các doanh nghiệp trong nước không thu hút được cán bộ.
Kế hoạch phát triển giáo dục phải gắn với kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của cả nước và từng địa phương, cải thiện tình trạng bất hợp lý trong cơ cấu
nhân lực được đào tạo, tăng hướng nghiệp và đào tạo nghề; giảm lý thuyết và
tăng thực hành, thực hiện học đi đôi với hành; lý thuyết gắn với thực tiễn. Việc
phát triển quy mô đào tạo đại học phấn đấu đến năm 2000 tăng 1,5 lần so với
năm 1995 đi liền với tăng cường chất lượng tương xứng với trình độ bằng cấp
địi hỏi và đặc biệt phải phát triển quy mô giáo dục gắn với yêu cầu đào tạo
nguồn nhân lực. Giáo dục đại học phải hướng đúng vào các lĩnh vực ngành nghề
mà nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cần. Nhà nước cần có các
chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích phát triển giáo dục một cách phù
hợp, thu hút các nguồn đầu tư của các doanh nghiệp vào hoạt động khoa học
công nghệ, xây dựng cơ sở hạ tầng. Công tác nghiên cứu khoa học trong các
trường đại học cần được đẩy mạnh làm sao cho tương xứng với tiềm năng của
các trường. Bên cạnh đó các trường cũng cần chủ động đổi mới trong hoạt động
nghiên cứu khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với giảng dạy đào tạo thực tiễn.
Phát triển GD - ĐT gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ
khoa học công nghệ và củng cố quốc phòng an ninh. Coi trọng cả ba mặt mở rộng
quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Khẳng định vai trò của GD ĐT đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nên Đảng ta cũng đã khẳng
định: “coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản quan trọng nhất cho sự phát triển
của đất nước. Gắn chiến lược phát triển giáo dục với chiến lược phát triển khoa học
công nghệ và cả hai đều gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội” [20, tr.10].
21
Năm là, Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục
Đảng chủ trương tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Có chính sách
thiết thực cụ thể nhằm giải quyết vấn đề công bằng xã hội trong giáo dục nói
chung, cho các đối tượng chính sách, đối tượng là người dân tộc thiểu số, ít
người, vùng cao, vùng sâu, vùng xa… để đảm bảo cho đại bộ phận nhân dân đến
tuổi đi học được đến trường, người dân có nhu cầu được đi học.
Cơng bằng xã hội địi hỏi sự hưởng thụ cơng bằng hợp lý những lợi ích
mà xã hội đem lại, cũng như trách nhiệm mà mỗi người phải đóng góp cho sự
phát triển xã hội. Thực hiện cơng bằng xã hội cũng địi hỏi phải áp dụng các
nguyên tắc điều chỉnh và ưu tiên xã hội. Việc huy động mức đóng góp của nhân
dân khơng theo hướng bình quân chủ nghĩa mà phải tùy thuộc vào đối tượng,
vào mục đích huy động. Cần có chính sách giải quyết tình trạng mù chữ và tái
mù chữ, tình trạng bỏ học của học sinh sinh viên trong các gia đình có hồn cảnh
khó khăn… có chính sách về quản lý kiểm tra, giám sát với các chương trình
phát triển giáo dục nhất là ở các vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Cần chấn chỉnh lại
nội dung chương trình giảng dạy, tổ chức thi cử đặc biệt là đối với tuyển sinh để
tạo sự công bằng trong cơ hội học tập… Thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực
giáo dục và quan điểm về bình đẳng, cơng bằng xã hội cũng chính là thực hiện
đinh hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta.
Sáu là, Giữ vai trị nịng cốt của các trường cơng lập đi đơi với đa dạng
hóa các loại hình giáo dục - đào tạo
Đa dạng hóa các loại hình GD - ĐT để tạo cơ hội cho mọi người có thể
chọn cách học phù hợp. Trong đó lấy các trường cơng lập làm nòng cốt (về chất
lượng giáo dục, mẫu mực thực hiện kỷ cương, nề nếp quản lý, chấp hành đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước…) đi đôi với đa dạng cách loại hình đào
tạo như dân lập, bán cơng, tư thục… Nhà nước thống nhất quản lý về nội dung
chương trình, quy chế học tập thi cử, văn bằng và tiêu chuẩn giáo viên.
Những quan điểm của Đảng về GD - ĐT nói chung và giáo dục học đại
học nói riêng thể hiện rõ chủ trương đổi mới sâu sắc, toàn diện và triệt để đối với
giáo dục đại học trên cơ sở giữ vững nguyên tắc xây dựng nền giáo dục XHCN,
đổi mới không đổi màu. Những quan điểm trên đã thể hiện sự coi trọng đặc biệt
22