Tải bản đầy đủ (.pdf) (159 trang)

đảng với cuộc vận động phụ nữ trong vùng giải phóng miền nam việt nam tu nam 1961 den nam 1968

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 159 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------

GIÁP THỊ LAN

ĐẢNG VỚI CUỘC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ
TRONG VÙNG GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM
TỪ NĂM 1961 ĐẾN NĂM 1968

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------

GIÁP THỊ LAN

ĐẢNG VỚI CUỘC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ
TRONG VÙNG GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM
TỪ NĂM 1961 ĐẾN NĂM 1968

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.NGƯT. Ngô Đăng Tri

Hà Nội – 2012




DANH MỤC BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

BCH

: Ban Chấp hành

CNXH

: chủ nghĩa xã hội

CT

: Chỉ thị

ĐH

: Đại hội

ĐHĐB

: Đại hội đại biểu

HLHPN

: Hội liên hiệp phụ nữ

HLHPNGPMN: Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam
MNVN


: Miền Nam Việt Nam

PGS

: Phó Giáo sư

TW

: Trung ương

TS

: Tiến sĩ

UB

: Ủy ban

UBND

: Ủy ban nhân dân

VGP

: Vùng giải phóng

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là một
trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc, là một chiến công vĩ đại
của thế kỷ XX. Đây là một cuộc chiến tranh yêu nước, cách mạng quý báu.
Vấn đề lực lượng cũng như phương pháp tập hợp lực lượng cách mạng là một
vấn đề lớn rất được Đảng ta quan tâm, trong đó có vấn đề vận động, lãnh đạo
phụ nữ đấu tranh. Vì vậy, việc nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng với phụ
nữ cả nước nói riêng và phụ nữ miền Nam trong thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước là một đề tài lớn, hấp dẫn đối với nhiều học giả trong nước và
quốc tế.
Ngay từ khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1930), Đảng và
Bác Hồ đã rất coi trọng công tác vận động phụ nữ. Lời dạy của Lênin “Phụ nữ
tham gia nhiều hay ít vào một cuộc cách mạng quyết định sự thành công của
cuộc cách mạng ấy” đã trở thành phương châm trong công tác vận động phụ
nữ của Đảng. Trong lời kêu gọi nhân ngày Phụ nữ lao động quốc tế (8 - 3 1935) đã nêu rõ Đảng coi nhiệm vụ vận động phụ nữ tham gia cách mạng để
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và tự giải phóng là một nhiệm vụ của
Đảng, đồng thời chỉ cho phụ nữ đường lối đấu tranh giải phóng cho giai cấp
mình là con đường đánh đổ đế quốc, làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ở miền Nam, sau phong trào Đồng khởi (1959 - 1960), quán triệt Nghị
quyết TW lần thứ 15, Đảng bộ địa phương đã đứng lên lãnh đạo nhân dân tự
giải phóng và vùng giải phóng được hình thành nhiều nơi ở miền Nam như
Trà Vinh, Bến Tre, Bà Rịa, Vũng Tàu đến các tỉnh Vĩnh Long, Cần Thơ, Long
Xuyên, Đồng Tháp Mười... Trong suốt các thời kỳ kháng chiến vùng giải
phóng trở thành nơi hậu phương trực tiếp vô cùng quan trọng của ta trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Cùng với đó, công tác vận động các
tầng lớp phụ nữ miền Nam nói chung và phụ nữ trong vùng giải phóng được
Đảng ta hết sức chú trọng.


1


Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thành công đã chứng tỏ đường lối
đúng đắn của Đảng, trong đó có thắng lợi của cuộc vận động phụ nữ tham gia
vào đấu tranh cách mạng và khẳng định đây là yếu tố quan trọng của kháng
chiến. Chính vì vậy, đây là một vấn đề lịch sử có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc. Nghiên cứu về vấn đề Đảng với cuộc vận động phụ nữ trong vùng
giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1961 đến năm 1968 có ý nghĩa lớn lao
góp phần vào công tác nghiên cứu lịch sử đấu tranh của nhân dân miền Nam
Việt Nam và toàn bộ lịch sử Việt Nam. Nó góp phần làm sáng tỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với phong trào phụ nữ ở vùng giải phóng miền Nam Việt
Nam đồng thời khẳng định sự đúng đắn trong đường lối lãnh đạo của Đảng
không chỉ đối với phong trào phụ nữ mà còn đối với cách mạng cả nước nói
chung. Mặt khác, một lần nữa nó góp phần to lớn đối với việc nhìn nhận vị trí,
vai trò của phụ nữ trong xã hội.
Trên cơ sở nhận thức được tính cấp thiết của đề tài và được sự hướng dẫn
của PGS.TS.NGƯT Ngô Đăng Tri, chúng tôi chọn đề tài “Đảng với cuộc vận
động phụ nữ trong vùng giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1961 đến
năm 1968” làm Luận văn Thạc sĩ Lịch sử.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong nhiều năm gần đây vấn đề Đảng với cuộc vận động phụ nữ nói
riêng và vấn đề vai trò của phụ nữ với đấu tranh cách mạng đã được nhiều nhà
khoa học và nhiều tác giả quan tâm.
Đầu tiên phải kể đến đó là những công trình tìm hiểu và giới thiệu về các
phong trào đấu tranh chung của phụ nữ cả nước cũng như phụ nữ của từng vùng,
từng địa phương như: Những nét sơ lược về phong trào phụ nữ từ ngày thành lập
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Nxb phụ nữ, 1961; Nguyễn Thị Thập (Cb)
(1980), Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam (tập 1), Nxb Phụ nữ; Lê Hải Triều

(Cb), Nguyễn Tiến Hải, Lê Thị Xuân (2007), Phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc và công cuộc giải phóng đất nước, Nxb Văn hoá Thông tin…
Những công trình này chủ yếu giới thiệu về hoạt động của Hội LHPN các tỉnh và
các phong trào do hội phát động cũng như thành tích đã đạt được.
2


Các công trình nghiên cứu trực tiếp đến cuộc đấu tranh của phụ nữ miền
Nam: Tác phẩm Truyền thống cách mạng của phụ nữ Nam Bộ thành đồng (Tổ
sử phụ nữ Nam Bộ biên soạn), xuất bản năm 1989, Giáo sư Trần Văn Giàu
hiệu đính, Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ xuất bản. Tác phẩm đã trình bày một
cách tương đối đầy đủ về tư tưởng cách mạng và phong trào đấu tranh cách
mạng của phụ nữ Nam Bộ từ buổi đầu dựng nước đến khi kết thúc thắng lợi
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Các tác giả đã đưa nhiều tư liệu ghi
lại các sự kiện lịch sử về đấu tranh chính trị của phụ nữ, từ đấu tranh đòi thi
hành Hiệp định Giơnevơ, chống “tố cộng”, “diệt cộng”, chống gom dân, lập
ấp chiến lược đến vị trí của “Đội quân tóc dài” trong phong trào Đồng khởi
(1960). Năm 1999, Nxb Đà Nẵng cho ra mắt bạn đọc cuốn Phụ nữ Nam Trung
Bộ trong sự nghiệp kháng chiến, cứu nước (1930 - 1975), do hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam và tập thể cán bộ lãnh đạo phong trào phụ nữ khu, Tỉnh Hội
phụ nữ Nam Trung Bộ sưu tầm và biên soạn. Công trình đã nêu những tấm
gương, những sự kiện tiêu biểu phản ánh tương đối đầy đủ về các lĩnh vực
hoạt động của phong trào phụ nữ Nam Trung Bộ từ khi thành lập Đảng (1930)
đến khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1975).
Vấn đề đấu tranh của phụ nữ miền Nam cũng được đề cập đến trong các
bài viết, các báo cáo tổng kết, bảng tóm tắt thành tích của phụ nữ, trong các
bài phát biểu... đánh giá về vai trò của phụ nữ.
Gần đây nhất, khi tìm hiểu về phong trào phụ nữ ở miền Nam chúng ta
không thể không kể đến công trình luận án tiến sĩ của Vũ Thị Thuý Hiền “Phụ
nữ miền Nam trong đấu tranh chính trị thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu

nước (1954 - 1975)”, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội, 2004. Luận án đã tập
trung đi sâu nghiên cứu và trình bày về phong trào đấu tranh chính trị của phụ
nữ miền Nam mà chủ yếu là trong các đô thị trong suốt thời kỳ 21 năm kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước từ khi bắt đầu đến ngày toàn thắng.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này chỉ đơn thuần nghiên cứu về
các vấn đề riêng lẻ, chung chung mà chưa đi sâu nghiên cứu một cách có hệ
thống các chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác vận động phụ
3


nữ ở vùng giải phóng miền Nam Việt Nam cũng như chưa tổng hợp một cách
hệ thống cuộc đấu tranh của phụ nữ trong vùng giải phóng miền Nam Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1961 1968).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác phụ vận của Đảng trong vùng
giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1961 đến năm 1968 để khẳng định
thắng lợi, nêu lên hạn chế và rút ra những kinh nghiệm nhằm góp phần phục
vụ công tác vận động phụ nữ của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Tập hợp hệ thống tư liệu các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác
vận động phụ nữ ở vùng giải phóng miền Nam Việt Nam và những tài liệu
liên quan đến đề tài.
Trình bày những chủ trương, quan điểm của Đảng về công tác vận động
phụ nữ ở vùng giải phóng miền Nam Việt Nam và quá trình chỉ đạo thực hiện
các quan điểm, chủ trương đó của Đảng trong thời kỳ 1961- 1968.
Nêu lên những thành tựu, những hạn chế của Đảng trong lãnh đạo, chỉ
đạo công tác phụ vận ở vùng giải phóng miền Nam thời kỳ 1961- 1968 và
nguyên nhân của các thành công, hạn chế đó.
Rút ra những kinh nghiệm chủ yếu về công tác vận động phụ nữ ở vùng

giải phóng miền Nam Việt Nam của Đảng thời kỳ 1961 - 1968 nhằm phục vụ
lĩnh vực công tác này hiện nay của Đảng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về vận động phụ nữ
ở vùng giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1961 đến năm 1968.
Quá trình chỉ đạo thực hiện công tác vận động phụ nữ ở vùng giải phóng
của Đảng trong các giai đoạn chống “chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965) và
chống “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ (1965 - 1968).
4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện công tác vận
động phụ nữ của Đảng
Về thời gian: Từ năm 1961 khi Hội Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt
Nam ra đời đến năm 1968, khi đánh bại “cuộc chiến tranh cục bộ” của đế quốc
Mỹ.
Về không gian: Ở vùng giải phóng miền Nam Việt Nam
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm vận động quần chúng của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Phương pháp nghiên cứu chủ
yếu của luận văn là phương pháp lịch sử, phương pháp logic, sự kết hợp hai
phương pháp ấy và một số phương pháp khác như phương pháp phân tích
tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh,...
Nguồn tư liệu chủ yếu để thực hiện luận văn là các văn kiện Đảng các cấp
Trung ương, địa phương, nhất là văn kiện Đại hội, các Nghị quyết của BCH
TW Đảng, của Trung ương cục miền Nam, các khu ủy; các Nghị quyết Đại
hội Hội nghị BCH của Hội LHPN Việt Nam, Hội Phụ nữ Giải phóng miền
Nam Việt Nam, các bài viết và nói của Hồ Chí Minh, các bài viết và nói có

liên quan khác của các vị lãnh đạo của Đảng.
Luận văn cũng chú trọng sử dụng nguồn tài liệu gốc là các báo cáo về tình
hình phụ nữ, phong trào phụ nữ miền Nam trong những năm kháng chiến chống
Mỹ cứu nước; các hồi ký của các cán bộ lão thành cách mạng của Hội LHPN
Việt Nam, những người trực tiếp làm công tác phụ vận, từng tham gia cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954 - 1975). Những sách, tạp chí, luận văn, đề
tài nghiên cứu về lịch sử phụ nữ Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975 cũng là nguồn
tài liệu quan trọng được khai thác, tham khảo trong quá trình thực hiện luận văn.
6. Đóng góp của đề tài
Nêu lên quan điểm, chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo công tác vận động phụ
nữ của Đảng trong vùng giải phóng miền Nam Việt Nam thời kỳ 1961- 1968,

5


thể hiện qua các văn kiện Đảng, các bài viết và nói của các đồng chí lãnh đạo
cao cấp của Đảng.
Trình bày phong trào phụ nữ ở vùng giải phóng miền Nam Việt Nam trên
cơ sở thực hiện đường lối chủ trương của Đảng thời kỳ 1961 - 1968, qua đó
làm nổi bật vai trò, sự đóng góp của phụ nữ vùng giải phóng đối với sự nghiệp
giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Đánh giá, nhận xét về thành công, hạn chế trong lãnh đạo, chỉ đạo công
tác vận động phụ nữ của Đảng ở vùng giải phóng miền Nam Việt Nam và đúc
rút các kinh nghiệm lịch sử để vận dụng vào thực tế công tác phụ vận hiện tai.
Góp thêm nguồn sử liệu phục vụ công tác nghiên cứu về lịch sử Đảng, lịch
sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung và lịch sử phong trào phụ nữ nói
riêng.
7. Bố cục cơ bản
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được
chia thành ba chương chính như sau:

Chương 1: Đảng với cuộc vận động phụ nữ trong vùng giải phóng
miền Nam Việt Nam giai đoạn chống “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc
Mỹ (1961 - 1965)
Chương 2: Công tác vận động phụ nữ của Đảng trong vùng giải
phóng miền Nam Việt Nam giai đoạn chống “chiến tranh cục bộ” của đế
quốc Mỹ (1965 - 1968)
Chương 3: Đánh giá chung và các kinh nghiệm chủ yếu

6


NỘI DUNG
Chương 1: ĐẢNG VỚI CUỘC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ TRONG
VÙNG GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN CHỐNG
“CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT” CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1961 - 1965)
1.1. Vài nét về công tác vận động phụ nữ của Đảng trước năm 1961
và chủ trương vận động phụ nữ của Đảng ở vùng giải phóng miền Nam
Việt Nam giai đoạn 1961 - 1965
1.1.1. Vài nét về công tác vận động phụ nữ của Đảng trước năm 1961
Do hoàn cảnh đất nước luôn có giặc ngoại xâm đe dọa, cùng với nam
giới, phụ nữ Việt Nam là người trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Chị
em đã thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc, luôn
biết đặt “nghĩa nước trên tình nhà”, gắn bó quyền lợi của mình với vận mệnh
của dân tộc. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, phụ nữ Việt Nam đã thể hiện
truyền thống toàn dân đánh giặc, cả nước một lòng “giặc đến nhà, đàn bà cũng
đánh”. Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc đã xuất hiện và
ghi danh biết bao tấm gương phụ nữ anh hùng như Hai Bà Trưng, Bà Triệu,
nữ tướng Bùi Thị Xuân… - những người có khả năng tập hợp lực lượng và
chiến đấu tài giỏi, góp phần bảo vệ nền độc lập dân tộc, hình thành truyền
thống anh dũng chống ngoại xâm của phụ nữ Việt Nam.

Sinh ra và lớn lên trên một quê hương giàu truyền thống cách mạng,
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người hiểu rõ hơn ai hết về truyền thống
đấu tranh, anh dũng và đức hi sinh cao cả của người phụ nữ Việt Nam. Khi trở
thành người cộng sản đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng tiên tiến nhất của thời đại, vận dụng sáng tạo vào cách mạng
Việt Nam, khẳng định con đường duy nhất đúng đắn để đánh đổ thực dân
phong kiến là con đường cách mạng vô sản. Khi nói về vai trò của người phụ
nữ với cách mạng, Người đã chỉ rõ: “Phụ nữ Việt Nam chiếm số đông trong
nhân dân lao động không những bị áp bức về dân tộc, về giai cấp mà họ còn
bị giáo lý phong kiến kìm hãm trói buộc nên họ có tinh thần đấu tranh cách
mạng mạnh mẽ. Có phụ nữ tham gia thì cách mạng mới thành công, mặt khác,
7


chỉ khi nào cách mạng thành công, dân tộc được độc lập, giai cấp được giải
phóng, thì phụ nữ mới được giải phóng” [102; tr 31].
Người còn chỉ ra và nhấn mạnh mối quan hệ khăng khít giữa sự nghiệp
giải phóng phụ nữ với giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp: “giải phóng
phụ nữ phải gắn liền với giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp” và “giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp cũng là con đường giải phóng phụ nữ”.
Tin tưởng ở khả năng cách mạng của phụ nữ nên ngay từ những ngày còn hoạt
động cách mạng ở nước ngoài, đồng chí đã viết nhiều sách báo để chuyển về
nước, mở các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo những cán bộ đầu tiên cho
phong trào cách mạng Việt Nam, trong đó có cán bộ phụ nữ. Hai đại diện nữ
được Người trực tiếp đào tạo là bà Lý Phương Thuận và bà Lý Phương Đức.
Truyền thống đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm của phụ nữ Việt
Nam được phát huy mạnh mẽ từ khi có Đảng lãnh đạo (năm 1930). Ngay từ
những ngày đầu mới thành lập, Đảng đã đề ra phương châm, phương pháp vận
động phụ nữ và coi đây là nhiệm vụ cần kíp của Đảng:
“Lực lượng cách mạng của phụ nữ là một cái lực lượng trọng yếu.
Nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không tham gia vào cuộc đấu tranh

cách mạng thì cách mạng không thắng lợi được. Bởi vậy công tác trong
quần chúng phụ nữ không phải là một cái nhiệm vụ phụ thuộc của Đảng;
công tác ấy là cái nhiệm vụ lớn và rất trọng yếu” [28; tr 188].
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, được Đảng giáo dục, tổ chức và rèn luyện,
phong trào phụ nữ ngày càng phát triển. Nhiều chị em phụ nữ đã thoát ly gia
đình, tham gia hoạt động cách mạng, bất chấp sự truy lùng, đàn áp của đế quốc,
phong kiến như các chị: Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Thị Ái, Nguyễn Thị
Thập…
Sống dưới chế độ thực dân và phong kiến, chị em phụ nữ nước ta bị
nhiều tầng áp bức bóc lột. Điều đó làm cho chị em ngày càng hiểu rõ rằng sự
nghiệp giải phóng phụ nữ gắn chặt với sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải
phóng các giai cấp lao động. Phụ nữ Việt Nam ngày càng nhận rõ rằng chỉ có
tích cực tham gia đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc, giải phóng giai
8


cấp mới có thể giải phóng phụ nữ. Chính vì vậy, trong công cuộc giải phóng
dân tộc và kháng chiến chống thực dân Pháp, chị em phụ nữ luôn là lực lượng
đi đầu trong các cuộc mít tinh, biểu tình đòi giảm sưu thuế, đòi tự do dân chủ
trong phong trào 1930 - 1931 và phong trào 1936 - 1939. Thời kỳ khởi nghĩa
giành chính quyền (1939 - 1945) chị em hăng hái gia nhập Mặt trận Việt
Minh, tập hợp lực lượng giai cấp mình trong đoàn phụ nữ cứu quốc, phổ biến
chủ trương, đường lối của Đảng, qua đó phong trào phụ nữ ngày càng lớn
mạnh và trưởng thành, cùng toàn dân làm nên thắng lợi của cách mạng tháng
Tám, giành chính quyền về tay nhân dân. Trước những vận hội mới của đất
nước, Đảng ta đã kịp thời đưa ra những chủ trương mới về công tác tổ chức
với nhiều hình thức khác nhau để bênh vực quyền lợi chung cho các lớp dân
chúng và riêng cho phụ nữ như: “Hội phụ nữ dân chủ”, “Hội phụ nữ giải
phóng”, “Hội phụ nữ tân tiến”, “Hội phụ nữ hỗ trợ”… Ở những địa phương
có nhiều tổ chức phụ nữ với các tên gọi khác nhau thì lập ra “Phụ nữ liên hiệp

hội” để thống nhất lại. Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chị
em vừa là lực lượng chủ yếu trong lao động sản xuất để đảm bảo nhu cầu
lương thực của nhân dân và của chiến trường vừa tích cực tham gia chiến đấu
và phục vụ chiến đấu, chăm sóc thương bệnh binh… Những đóng góp của các
tầng lớp chị em phụ nữ đã góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp (1946 - 1954).
Sau kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc và sau Hiệp định Giơnevơ,
đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam, âm mưu chia cắt và xâm lược
miền Nam Việt Nam với nhiều hình thức và thủ đoạn. Ngay từ tháng 6 -1954,
Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về chuẩn bị thành lập chính quyền bù nhìn thân
Mỹ ở miền Nam Việt Nam và tăng cường lực lượng quân sự của Mỹ ở miền
Nam nhằm phá hoại hiệp định Giơnevơ, biến miền Nam Việt Nam thành
thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự của Mỹ. Sau khi đã gạt Pháp ra khỏi
miền Nam, đế quốc Mỹ đã sử dụng chính quyền Ngô Đình Diệm tập trung
mũi nhọn vào đàn áp phong trào cách mạng miền Nam, ráo riết tiến hành
những biện pháp đánh phá phong trào cách mạng miền Nam và khủng bố dã
9


man đối với nhân dân miền Nam. Từ sau Hiệp định Giơnevơ, Mỹ - Diệm tiến
hành các chiến dịch đàn áp, khủng bố hết sức dã man phong trào cách mạng
với trọng tâm là vùng tự do và căn cứ kháng chiến cũ. Từ năm 1955, Mỹ Diệm liên tiếp mở các chiến dịch “tố cộng”. “Chống cộng” trở thành quốc
sách của chính quyền Diệm. Trong những năm 1955 - 1959, Mỹ - Diệm liên
tục tiến hành những đợt đánh phá ác liệt vào những vùng có phong trào cách
mạng của quần chúng phát triển mạnh, những vùng căn cứ kháng chiến cũ
như: Trị Thiên, khu V, chiến khu Đ, Đồng Tháp Mười, Cà Mau… Đạo luật
10/59 được chính quyền Diệm thi hành - đặt máy chém ngay tại quận, huyện
để chặt đầu bất cứ ai mà chúng nghi là “việt cộng”, thà “giết nhầm còn hơn
bỏ sót” hết sức dã man.
Cách mạng miền Nam đã trải qua những năm, tháng khó khăn nhất, trong

đó phụ nữ miền Nam liên tiếp phải đương đầu với những thách thức nghiêm
trọng. Phụ nữ miền Nam là đối tượng của chính sách “tố cộng”, “diệt cộng”
của Mỹ - Diệm. Trong các đợt “tố cộng”, “diệt cộng”, chị em phải chịu những
tra tấn cùng cực cả về thể xác lẫn tinh thần. Chúng tổ chức những đợt ly khai,
những “tuần lễ ly dị chồng, từ con”, cưỡng ép những chị em có chồng đi tập
kết phải li dị chồng, những người có con đi tập kết phải từ con. Chúng liên
tiếp tiến hành những cuộc khủng bố bắt giữ hàng vạn chị em, tra tấn chị em
bằng những hình thức man rợ, thậm chí cưỡng hiếp, phá hoại danh tiết buộc
chị em khai báo, đầu hàng, phản bội Tổ quốc. Dưới ách cai trị Mỹ - Diệm, chị
em phụ nữ miền Nam thực sự trở thành nạn nhân của những chích sách khủng
bố dã man và đê tiện. Chị em mang trên mình không chỉ những nỗi đau thể
xác do tra tấn, tù đày mà còn mang trên mình những vết thương tinh thần do
tang thương, chia lìa, xa cách khiến lòng căm phẫn với chế độ Sài Gòn ngày
càng sâu đậm.
Tiếp nối truyền thống đảm đang, anh dũng, bất khuất của phụ nữ Việt
Nam, phụ nữ miền Nam nước ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước với tinh thần quyết tâm cao, luôn sẵn sàng cùng toàn dân đứng lên đấu
tranh chống bè lũ cướp nước. Người phụ nữ miền Nam Việt Nam cũng giống
10


như chị em phụ nữ toàn quốc đang phải chịu chung nỗi đau mất nước. Họ đã
nhanh chóng biết tập hợp nhau lại để đấu tranh. Giữ vững tinh thần độc lập, tự
chủ, nhanh trí và sáng tạo, phụ nữ miền Nam đã vùng lên đấu tranh với khí thế
tức nước vỡ bờ. Các tổ chức Đảng và quần chúng ở miền Nam đã từng bước
chuyển từ đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ thành đấu tranh
chính trị có vũ trang chống lại âm mưu thâm độc của kẻ thù. Trong tình hình
chung của đất nước, thời gian từ sau năm 1954 đến trước năm 1961, tuy Đảng
ta chưa có chủ trương cụ thể và riêng biệt nào cho cuộc đấu tranh của phụ nữ
ở miền Nam giai đoạn này song tầng tầng, lớp lớp chị em phụ nữ miền Nam

cùng các tầng lớp nhân dân khác vẫn luôn giơ cao ngọn cờ đấu tranh khi thời
cơ đến.
Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Bộ Chính trị Ban Chấp
hành TW Đảng đã họp Hội nghị (5 - 9 - 1954) đánh giá tình hình, đề ra nhiệm
vụ của toàn Đảng và nhiệm vụ của Đảng bộ miền Nam. Về cách mạng miền
Nam, Bộ Chính trị chỉ rõ:
“Lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống đế quốc Mỹ, phái thực dân
Pháp phản Hiệp định và bọn Ngô Đình Diệm, giành quyền lợi hàng ngày,
bảo vệ một số quyền lợi đã giành được trong kháng chiến, bảo vệ tính
mệnh, tài sản của nhân dân, chống khủng bố, đòi tự do dân chủ, đòi đối
phương phải thi hành Hiệp định đình chiến… đòi lập lại quan hệ bình
thường giữa hai miền Nam và Bắc, thực hiện Hội nghị Hiệp thương để
chuẩn bị thống nhất Việt Nam bằng Tổng tuyển cử tự do” [29; tr 777]
Thực hiện chủ trương của Đảng và dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng,
phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam thời kỳ này tập trung vào các
mục tiêu chính trị. Phụ nữ miền Nam là lực lượng nòng cốt, xung kích, tham
gia tích cực vào các phong trào đấu tranh. Nổi bật nhất trong đấu tranh của chị
em phụ nữ miền Nam trong những năm từ 1954 đến 1961 là các phong trào
đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, đòi Hiệp thương Tổng tuyển cử.
Thực hiện theo chủ trương của Đảng, các cấp hội phụ nữ đã phân công cán bộ
đến từng gia đình để tuyên truyền, giải thích, vận động chị em. Cũng theo chủ
11


trương của Đảng, các đoàn thể phụ nữ cũng như các tổ chức quần chúng khác
chuyển phương thức hoạt động dưới hình thức bán công khai, hợp pháp, nửa
hợp pháp như: Tổ nữ công gia chánh, Tổ vần công, đổi công, Tổ trợ sản,
Nhóm chơi họ… Các hoạt động đấu tranh chính trị công khai cũng được đông
đảo chị em phụ nữ miền Nam tham gia tiêu biểu như cuộc mít tinh của 50.000
đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn diễn ra vào ngày 1 - 8 - 1954, trong đó phần

đông là chị em phụ nữ; phong trào hòa bình Sài Gòn - Chợ Lớn có đông đảo
chị em phụ nữ giữ vai trò quan trọng; những cuộc mít tinh, bãi công, bãi thị
đòi hiệp thương tổng tuyển cử cũng diễn ra liên tục tại các thành phố, thị xã
như Cần Thơ, Mỹ Tho, Châu Đốc, Sa Đéc, Huế… trong đó chị em phụ nữ
luôn giữ vai trò nòng cốt, thu hút nhiều tầng lớp khác tham gia.
Bước vào năm 1959, trước sự phát triển của cách mạng miền Nam, Mỹ Diệm ngày càng tăng cường khủng bố, đàp áp điên cuồng nhân dân miền Nam
bằng nhiều biện pháp man rợ. Tình thế cách mạng miền Nam buộc chị em phụ
nữ và nhân dân toàn miền Nam vùng lên đấu tranh lật đổ ách thống trị Mỹ Diệm.
Trong tình thế cách mạng miền Nam chuyển biến mạnh mẽ, Nghị quyết
15 TW Đảng ra đời đã đáp ứng được yêu cầu và khí thế cách mạng tức nước
vỡ bờ, tinh thần nhất tề đứng lên của nhân dân miền Nam. Hội nghị Ban Chấp
hành TW Đảng lần thứ 15 đã nhấn mạnh và vạch rõ phương hướng phát triển
của cách mạng miền Nam là: “… Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay
của cách mạng thì con đường đó là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để
đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền
cách mạng của nhân dân” [30; tr 82].
Để thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị và huy động ngày càng đông
đảo các tầng lớp phụ nữ tham gia vào đấu tranh cách mạng, ngày 20 - 3 1959, Xứ ủy Nam Bộ ra Chỉ thị về tăng cường công tác vận động phụ nữ,
trong đó nhấn mạnh: “Phải đặt công tác phụ vận là một trong những công tác
vận động quần chúng quan trọng vào bậc nhất của Đảng” [138; tr 177].

12


Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 TW Đảng, cuối năm 1959,
đầu năm 1960, nhân dân miền Nam đã vùng lên khởi nghĩa đồng loạt, phá tan
ách kìm kẹp của địch, giành quyền làm chủ ở nhiều thôn, xã trên toàn miền
Nam, chính quyền tự quản của nhân dân được thành lập ở 1.383 xã trong tổng
số 2.627 xã, vùng giải phóng được hình thành và ngày càng mở rộng, nối liền
Tây Nguyên đến miền Tây Nam Bộ và đồng bằng Liên khu V.

Tại Bến Tre, ngày 17 - 01 - 1960, cuộc đồng khởi của quần chúng nhân
dân xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày đã rung tiếng chuông báo hiệu và lôi kéo
sức mạnh trỗi dậy của nhân toàn tỉnh đứng lên phá thế kìm kẹp. Chỉ sau một
thời gian ngắn, nhân dân các huyện Mỏ Cày, Minh Tân, Thanh Phú đã nổi dậy
làm tê liệt chính quyền ngụy ở nông thôn, thành lập UBND tự quản. Chỉ sau
một tuần lễ đồng khởi, nhân dân Bến Tre đã diệt 300 tề điệp ác ôn, diệt và bức
rút hơn 47 đồn bốt, phá nhiều “khu trù mật”, giành quyền làm chủ ở hàng
chục xã, phá thế kìm kẹp ở nhiều xã. Trong đồng khởi chị em phụ nữ vô cùng
phấn khởi, nô nức tham gia hiến kế đánh địch bằng nhiều cách linh hoạt. Phụ
nữ tham gia chặt cây, đào đường, bao vây, bức hàng địch. Lực lượng phụ nữ
được tổ chức thành đội ngũ có tiền quân, có hậu bị, có liên lạc, tiếp tế, với khí
thế tiến công của hàng nghìn các bà, các mẹ, các chị, không một thứ vũ khí,
không một tấc sắt. Ngày 20 - 4, phần lớn binh lính địch rút khỏi ba xã thuộc
huyện Mỏ Cày. Quân địch kinh hãi, gọi đội quân các má, các chị là “Đội quân
búi tóc”. Và như vây, lần đầu tiên ở Bến Tre và trong toàn miền Nam, đội
quân chính trị bao gồm toàn phụ nữ, được tổ chức, chuẩn bị chu đáo, được chỉ
huy thống nhất như một đoàn quân xuất trận. Trong cuộc đồng khởi ở huyện
Mỏ Cày (Bến Tre), vai trò của phụ nữ nổi lên cao nhất với “ba mũi giáp
công”, đánh địch bằng quân sự, binh vận và chính trị. Trong hầu hết các cuộc
đấu tranh, lực lượng đấu tranh chính trị của phụ nữ đều hình thành 3 bộ phận:
lực lượng đấu tranh trực diện, lực lượng tiếp viện và lực lượng hậu cần.
Phong trào “Đồng khởi” (1959 - 1960) thực chất là cuộc nổi dậy khởi
nghĩa của nông dân miền Nam chống ách thống trị của đế quốc, trong đó một
bộ phận không nhỏ là phụ nữ nông dân vùng lên đấu tranh có vũ trang phối
13


hợp. Thắng lợi của cuộc đồng khởi Bến Tre với việc giải phóng được nhiều
xã ấp, buộc địch phải lùi bước đã khẳng định sức mạnh của một đội quân mới
rất hùng hậu mà Mỹ - Diệm gọi đó là “Đội quân búi tóc”. Phong trào đấu

tranh chính trị của thời kỳ Đồng khởi là một phong trào cách mạng rộng lớn
với khí thế mạnh mẽ chưa từng có. Khi cuộc “Đồng khởi” nổ ra và những
năm sau này đã diễn ra hàng loạt các cuộc đấu tranh quy mô lớn của phụ nữ
các vùng nông thôn kéo ra thị xã, thị trấn, trực diện tấn công các cơ quan
nguỵ quân, nguỵ quyền làm địch vô cùng hoảng sợ. Với lòng yêu nước, căm
thù giặc sâu sắc, chị em phụ nữ miền Nam Việt Nam không lùi bước trước
họng súng của kẻ thù, liên tiếp tiến hành những cuộc biểu tình, tấn công trực
diện vào cơ quan chỉ huy của kẻ thù. Tiêu biểu như: Những cuộc đấu tranh
của hàng ngàn, hàng vạn quần chúng ở ngã ba Chim-chim (Mỹ Tho), Cao
Lãnh (Kiến Phong), Trà Củ (Trà Vinh), Đầm Dơi (Cà Mau) và tại thị xã Cần
Thơ, do các chị: Thái Thị Kiều, chị Bé, bà Bướm, chị Trương Thị Sinh đi đầu
cầm cờ, biểu ngữ bị địch bắn chết trước giờ ngã xuống miệng vẫn không
ngừng hô hào đoàn biểu tình dũng cảm tiến lên. Người phụ nữ Việt Nam đôn
hậu, đảm đang, những khi đứng trước kẻ thù xâm lược, lòng dũng cảm, ý chí
chiến đấu của các bà, các mẹ, các chị đã bừng sáng, là tấm gương cho các thế
hệ phụ nữ Việt Nam sau này. Từ trong phong trào đấu tranh chính trị thời kỳ
Đồng Khởi đã sản sinh ra hàng vạn chiến sĩ ưu tú, hàng ngàn cán bộ lãnh đạo
xuất sắc. Bên cạnh những tấm gương sáng chói chủ nghĩa anh hùng cách
mạng của chị Kiều, chị Sinh, chị Bé, bà Bướm... đã dũng cảm hi sinh, chị
Trần Thị Trâm và bà má Thạch Thị Thanh vừa là những chiến sĩ thi đua của
phong trào chính trị, vừa là những cán bộ tài giỏi đã từng tham gia lãnh đạo
hàng ngàn cuộc đấu tranh và đã bị địch bắt giam hàng trăm lượt nhưng vẫn
kiên cường bất khuất trước mũi lê, họng súng của quân thù.
Tại các vùng đã được giải phóng, phong trào đấu tranh lôi cuốn hàng
triệu phụ nữ tham gia. Chị em hăng hái đấu tranh chống lấn chiếm, bảo vệ
vùng giải phóng, xây dựng chính quyền cách mạng, phong trào du kích chiến
tranh phát triển mạnh mẽ với nhiều hình thức phong phú, xây dựng ấp chiến
14



đấu, chiến đấu bằng vũ khí thô sơ: bắn cung, tên ná... Lực lượng nữ dân quân
tự vệ, nữ du kích phát triển mạnh mẽ, một số tỉnh có Trung đội nữ như tỉnh
Bến Tre, Bình Dương, Tây Ninh. Các xã giải phóng đều có tiểu đội nữ du
kích chiến dũng cảm, lập nhiều thành tích, tiêu biểu như đơn vị của chị Út
Tịch, chị Tô Thị Huỳnh...
Trong khí thế sôi nổi của phong trào “Đồng khởi”, ngày 20 - 12 - 1960,
Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Cũng từ đó: “Đội
quân tóc dài” - lực lượng đấu tranh 3 mũi kiên cường của phụ nữ miền Nam
vững bước tiến lên. Phong trào “Đồng khởi” ở miền Nam đã “Đánh dấu một
bước phát triển nhảy vọt quan trọng, chuyển cách mạng miền Nam sang thế
tiến công, phát triển cao trào cách mạng ra khắp miền với sự kết hợp cả hai
hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự” [18; tr 51].
Như vậy, trước năm 1961, cụ thể là trước khi Hội Liên hiệp phụ nữ giải
phóng miền Nam Việt Nam ra đời, trên cơ sở nắm rõ tình hình diễn biến của
chiến tranh ở miền Nam cũng như việc nhận thức sâu sắc tinh thần và khí thế
đấu tranh của chị em phụ nữ, TW Đảng đã chú trọng đến công tác vận động
quần chúng phụ nữ tham gia vào đấu tranh cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, phong trào đấu tranh của chị em phụ nữ miền Nam, nhất là phong trào
đấu tranh chính trị đã góp phần tạo ra bước chuyển mới của cuộc chiến đấu
của nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh chống Mỹ cứu nước, đưa cuộc
chiến đấu từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công và hơn ai hết, trước vận
mệnh của dân tộc và của giới mình, chị em phụ nữ miền Nam Việt Nam hiểu
rằng, chỉ có cầm súng đứng lên mới giải phóng được giai cấp, giải phóng được
dân tộc. Phong trào đấu tranh của phụ nữ miền Nam từ năm 1954 đến trước năm
1961 trở thành bước chuẩn bị lực lượng và rèn luyện tinh thần cho phụ nữ miền
Nam Việt Nam trong cuộc chiến đấu mới. Đánh giá về vai trò của phụ nữ miền
Nam trong giai đoạn này, đồng chí Lê Duẩn đã viết: “Một nét độc đáo của cách
mạng miền Nam là đã sản sinh ra “Đội quân tóc dài”, một lực lượng cách mạng
mạnh mẽ và hùng hậu chứng minh khả năng cách mạng vô cùng to lớn của phụ
nữ nước ta”[20; tr 171].

15


Trong giai đoạn này, lực lượng phụ nữ luôn đi đầu trong các cuộc đấu tranh,
nổi bật là đấu tranh chính trị, nhất là trong các cuộc đấu tranh chống đàn áp,
khủng bố, chống tố cộng, diệt cộng. Bất chấp sự đàn áp, khủng bố hết sức dã
man của kẻ thù, chị em đã kiên quyết đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ cơ sở cách
mạng. Vai trò và tinh thần đấu tranh của chị em phụ nữ miền Nam thời kỳ này
được các cấp ủy miền Nam đánh giá bằng khẩu hiệu “Còn phụ nữ là còn Đảng”.
Tuy nhiên, phong trào đấu tranh của chị em phụ nữ trong giai đoạn này
còn chưa thật đều khắp, có nơi, có chỗ còn chưa động viên, tập hợp được
đông đảo các tầng lớp phụ nữ tham gia. Một trong những nguyên nhân quan
trọng của những hạn chế này đó là ở nhiều địa phương miền Nam, các cấp ủy
Đảng chưa nhận rõ khả năng to lớn của phụ nữ trong đấu tranh nên thiếu chủ
động tuyên truyền vận động, giáo dục chị em.
1.1.2. Chủ trương vận động phụ nữ của Đảng trong vùng giải phóng
miền Nam Việt Nam giai đoạn chống “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ (1961
- 1965)
Từ năm 1961, trước sức tấn công mạnh mẽ của quân và dân miền Nam,
trực tiếp và mở đầu bằng cao trào “Đồng khởi” (1959 - 1960), trước nguy cơ
sụp đổ của chế độ thực dân kiểu mới ở miền Nam, đế quốc Mỹ đã bị động
thay đổi chiến lược từ tiến hành “chiến tranh đơn phương” chuyển sang thực
hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.
“Chiến tranh đặc biệt” là một bộ phận quan trọng của chiến lược toàn
cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ mang tên chiến lược “phản ứng linh
hoạt”. Chiến lược “phản ứng linh hoạt” do Tổng thống Mỹ Kenơđi đề ra bao
gồm ba loại chiến tranh: “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ” và
“chiến tranh tổng lực”. Mục đích của “chiến tranh đặc biệt” là chống lại
phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Đế quốc Mỹ tiến hành “chiến
tranh đặc biệt” ở miền Nam nước ta với âm mưu dùng miền Nam Việt Nam

làm nơi thí điểm để đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, áp đặt ách cai trị
thực dân kiểu mới của Mỹ ở Đông Nam Á và trên thế giới. Đặc điểm của
“chiến tranh đặc biệt” mà Mỹ tiến hành ở miền Nam là sử dụng quân đội
16


ngụy làm công cụ tiến hành chiến tranh, với sự viện trợ về quân sự của Mỹ, do
Mỹ tổ chức, trang bị vũ khí kỹ thuật, huấn luyện và chỉ huy.
Nội dung cơ bản của “chiến tranh đặc biệt” là càn quét, dồn dân, lập
“ấp chiến lược” trên quy mô lớn ở tất cả các vùng theo chiến thuật “tát nước”,
bắt cá. Trước những cuộc đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang mạnh mẽ
và dồn dập của nhân dân miền Nam, Mỹ - Diệm tiến hành âm mưu “bình định
miền Nam” trong vòng 18 tháng với việc thực hiện dồn dân, lập “ấp chiến
lược” - một hình thức tập trung dân cực kỳ tàn bạo và thâm độc nhằm tách
nhân dân ra khỏi lực lượng cách mạng. Từ tháng 8 - 1961, chính quyền Diệm
ra lệnh mở chiến dịch xây dựng nông thôn, gom dân lập ấp chiến lược trên
toàn miền Nam, với dự định lập 17.000 ấp chiến lược. Để thực hiện được âm
mưu này, Mỹ - Diệm đã sử dụng nhiều hình thức khác nhau và tùy theo từng
vùng. Mỹ - Diệm tiến hành càn quét, khủng bố hết sức dã man “đạp lên oán
hờn, bắn giết không thương tiếc” để đánh phá các cơ sở cách mạng. Trong
tình thế miền Nam sau phong trào “đồng khởi”, nhiều vùng đã được giải
phóng, Mỹ - Diệm thực sự lo sợ nguy cơ lớn mạnh của cách mạng trong các
vùng giải phóng. Chính vì vậy, trong năm 1962, chúng đã mở hàng loạt các
cuộc hành quân càn quét và bình định lớn vào những vùng giải phóng như các
cuộc hành quân đánh vào Bến Cát và một phần tỉnh Tây Ninh, các vùng thuộc
tỉnh Bình Định và Phú Yên. Chúng ra sức tăng cường viện trợ, đẩy mạnh đàn
áp, khủng bố phong trào cách mạng của nhân dân ta. Chúng không từ một thủ
đoạn nào để uy hiếp, khủng bố tinh thần đấu tranh của phụ nữ. Cùng với nhân
dân, đời sống của phụ nữ miền Nam vô cùng cực khổ cả về vật chất và tinh
thần. Với chiến lược “chiến tranh đặc biệt” nhân dân và phụ nữ miền Nam lại

đứng trước những khó khăn và thách thức lớn.
Để đối phó với chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ,
Đảng ta đã chủ trương chuyển cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam sang
giai đoạn mới - giai đoạn tiến hành chiến tranh cách mạng. Trong những thời
điểm cụ thể, trước những diễn biến của tình hình cách mạng miền Nam, Đảng

17


ta đã kịp thời đề ra những chủ trương, đường lối, chỉ đạo thích hợp với cuộc
đấu tranh của quân và dân ta ở miền Nam.
Ngày 24 - 1 - 1961, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã
ra chỉ thị về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng
miền Nam. Về các hình thức và mức độ đấu tranh, Bộ Chính trị xác định:
“… Đến nay, do lực lượng so sánh đã thay đổi, cần phải chuyển
hướng phương châm đấu tranh: Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị,
đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính
trị, tấn công địch bằng cả hai mặt trận chính trị và quân sự. Tùy lực
lượng so sánh giữa ta và địch, tình hình cụ thể ở mỗi vùng mà đề ra
phương châm công tác và hình thức đấu tranh cho thích hợp; Ở các vùng
rừng núi lấy đấu tranh quân sự làm chủ yếu và đề ra nhiệm vụ tiêu diệt
sinh lực địch để mở rộng thêm căn cứ và xây dựng lực lượng của ta. Ở
các vùng đồng bằng, đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự có thể
ngang nhau tùy tình hình cụ thể từng nơi ở đồng bằng mà cân nhắc mức
độ giữa hai hình thức và mức độ tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch. Ở các
vùng đô thị lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu, gồm cả hai hình thức hợp
pháp và không hợp pháp. [31; tr 158]
Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã chỉ rõ Nhiệm vụ công tác trước mắt
ở miền Nam là: Ra sức xây dựng mau chóng lực lượng của ta về cả hai mặt
chính trị và quân sự, tập hợp đông đảo lực lượng cách mạng trong Mặt trận

dân tộc giải phóng, phát động một phong trào đấu tranh mạnh mẽ của quần
chúng, tích cự tiêu hao sinh lực địch, bảo tồn và phát triển lực lượng ta, làm
tan ra chính quyền và lực lượng địch trên một phạm vi ngày càng rộng lớn,
tiến lên làm chủ rừng núi, giành lại toàn bộ đồng bằng, ra sức xây dựng cơ sở
và đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở đô thị, tạo mọi điều kiện và nắm giữ thời cơ
thuận lợi để đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm, giải phóng miền Nam [31; tr
159].
Bản Chỉ thị nhấn mạnh:

18


“Phải theo phương châm: Khéo tổ chức, khéo che giấu lực lượng
lãnh đạo của Đảng, lực lượng nòng cốt của quần chúng… Phải nắm vững
phương châm giữ vững và phát triển phong trào, đấu tranh lâu dài với
địch, cố tránh tiêu hao lực lượng nhất là lực lượng Đảng và quần chúng
nòng cốt” [31; tr 161-162]
Cuối năm 1960, Hội nghị lần thứ 3 của Trung ương Đảng đã được tiến
hành. Hội nghị đã chỉ ra yêu cầu phát triển và những nhiệm vụ đối với các
đoàn thể quần chúng. Đối với tầng lớp phụ nữ, Đảng luôn xác định phụ nữ là
một lực lượng vô cùng to lớn và quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của
dân tộc và trước tình hình mới, vai trò của chị em phụ nữ càng được Đảng chú
trọng. Ngày 11 - 1 - 1961 Ban Bí thư TW Đảng đã ra Nghị quyết số 29NQ/TW về tổ chức lại Đảng đoàn Phụ nữ và cử đồng chí Nguyễn Thị Thập
làm Bí thư.
Từ ngày 8 đến ngày 11 tháng 3 năm 1961, ĐH đại biểu phụ nữ Việt Nam
lần thứ III đã được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã đề ra 3 nhiệm vụ
lớn cho phong trào phụ nữ Việt Nam là: Tăng cường đoàn kết tham gia cách
mạng xã hội chủ nghĩa, đưa sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở miền Bắc lên trình
độ cao hơn, sâu sắc và triệt để hơn; kiên quyết cùng toàn dân đấu tranh giành
hòa bình thống nhất nước nhà; tăng cường đoàn kết hữu nghị với phụ nữ thế

giới đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đã phát động phong trào thi đua “5 tốt” với 5 nội dung:
- Đoàn kết sản xuất tiết kiệm tốt
- Chấp hành chính sách tốt
- Tham gia quản lý tốt
- Học tập chính trị, văn hóa, kỹ thuật tốt
- Xây dựng gia đình nuôi dạy con tốt [119; tr 22]
Đại hội đã bầu Ban chấp hành TW Hội gồm 76 Ủy viên, Ban Thường trực
TW Hội gồm 16 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Thị Thập tiếp tục được bầu làm
Hội trưởng. Phó Hội trưởng là các đồng chí Hoàng Thị Ái, Lê Thị Xuyến, Hà
Thị Quế, Nguyễn Thị Thục Viên, Hà Giang. Đại hội và việc phát động phong
19


trào thi đua “5 tốt” với nhiệm vụ kiên quyết cùng toàn dân đấu tranh giành
hòa bình thống nhất nước nhà đã tác động và thúc đẩy tinh thần đấu tranh, thi
đua của đông đảo tầng lớp chị em phụ nữ ở miền Nam.
Trong bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại ĐH phụ nữ toàn quốc
lần thứ III (ngày 9-3-1961) Người rất quan tâm đến vấn đề đoàn kết. Người
nói: Phụ nữ ta cần phải đoàn kết chặt chẽ chị em các dân tộc, lao động chân
tay và lao động trí óc, phụ nữ miền Bắc và phụ nữ miền Nam. Cần đoàn kết
với phụ nữ các nước phe ta và phụ nữ tiến bộ thế giới để đấu tranh cho mục
đích chung là hoà bình thế giới và chủ nghĩa xã hội.
Nói về trách nhiệm làm chủ, Người nhấn mạnh: Mỗi một người và tất cả
phụ nữ ta phải hăng hái nhận lấy trách nhiệm của người làm chủ đất nước,
tức là phải ra sức thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để xây
dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội. [53; tr 294 - 295] Những lời nói
của người đã trở thành nguồn động viên cỗ vu lớn lao chị em phụ nữ ở cả hai
miền Nam Bắc thi đua chiến đấu, sản xuất, tiết kiệm phục vụ cho sự nghiệp
cao cả của dân tộc.

Đầu năm 1961, xuất phát từ yêu cầu thực tế của cách mạng miền Nam
và nguyện vọng chính đáng của đông đảo chị em phụ nữ, Đảng chủ trương
thành lập Hội LHPN giải phóng và Hội mẹ chiến sĩ toàn miền Nam. Ngày 8 3 - 1961, Hội Liên hiệp phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành
lập. Hội là ngọn cờ tập hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp phụ nữ trong Mặt
trận dân tộc thống nhất, tiến hành đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai. Sự
ra đời của Hội chính là sự phản ánh một cách khách quan vai trò, nguyện vọng
của phụ nữ miền Nam trong việc thực hiện nhiệm vụ giải phóng miền Nam,
đồng thời giải phóng phụ nữ. Là con đường duy nhất của phụ nữ miền Nam
đoàn kết chặt chẽ lại trong một tổ chức cùng với nhân dân kiên quyết đấu
tranh đánh đổ đế quốc. Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam được
thành lập đã tạo niềm vui, khí thế mới cho các tầng lớp phụ nữ miền Nam.
Đây là một sự kiện có ý nghĩa vô cùng lớn lao đối với tiến trình phát triển của
cách mạng miền Nam, nhất là đối với sự nghiệp cách mạng của tầng tầng lớp
20


lớp phụ nữ miền Nam luôn sẵn sàng tham gia cách mạng. Ban Chấp hành lâm
thời Trung ương Hội đã họp và ra Nghị quyết khẳng định:
“… Chú trọng xây dựng thực lực, xây dựng tổ chức phụ nữ, Hội mẹ
chiến sĩ, giáo dục, động viên hội viên và phụ nữ, xây dựng tình đoàn kết tương
trợ trong thôn xóm, huấn luyện lực lượng “Đội quân tóc dài” chỉ huy các
cuộc đấu tranh chính trị trực diện, tiến công quyết liệt địch bằng ba mũi giáp
công ở cả ba vùng chiến lược, hỗ trợ đắc lực quân giải phóng…” [68; tr 278]
Hội LHPN giải phóng miền Nam Việt Nam chính là Mặt trận đoàn kết
các tầng lớp phụ nữ, tập hợp hàng triệu phụ nữ từ nông thôn đến các đô thị,
đoàn kết rộng rãi các tầng lớp phụ nữ yêu nước, không phân biệt giai cấp, tôn
giáo, động viên phong trào phụ nữ miền Nam đấu tranh cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ. Hội LHPN giải phóng miền Nam Việt Nam
ra đời vào giữa lúc cách mạng miền Nam chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang
thế tiến công chiến lược. Vì vậy, Hội giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc

giác ngộ và động viên các tầng lớp phụ nữ toàn miền Nam, từ nông thôn đến
thành thị, từ đồng bằng đến rừng núi, cùng toàn dân tộc anh dũng tiến lên đấu
tranh giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc tiến tới hòa bình thống nhất
nước nhà.
Ngay từ khi được thành lập, Hội đã công bố Chương trình hành động và
nêu rõ: “Kêu gọi toàn thể phụ nữ miền Nam hãy mau gia nhập hội, cùng nhau
đấu tranh giải phóng cuộc đời nô lệ của mình và giải phóng hoàn toàn miền
Nam” [61; tr 4].
Bản Chương trình kêu gọi:
Hỡi toàn thể chị em phụ nữ miền Nam thân mến!
Dưới chế độ độc tài phát xít Mỹ - Diệm, phụ nữ miền Nam chúng ta với
truyền thống cách mạng lâu đời, quyết không để cho bọn chúng đè đầu cưỡi
cổ nữa. Chúng ta đòi hỏi phải được giải phóng. Trước mắt chúng ta có con
đường duy nhứt là đoàn kết chặt chẽ lại trong một tổ chức, cùng với nhân dân
kiên quyết đấu tranh đánh đổ chế độ phong kiến tàn bạo của Mỹ - Diệm ở
miền Nam.
21


Đồng thời, Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên
bố gia nhập vào Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam với mục đích phấn
đấu :
1) Đoàn kết với các giai cấp, các lực lượng cách mạng trong Mặt trận,
kiên quyết đấu tranh giải phóng nhân dân miền Nam khỏi ách thống trị của đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai, trước mắt là đánh đổ chế độ gia đình trị, độc tài,
phát xít lệ thuộc Mỹ của Ngô Đình Diệm.
2) Thành lập ở miền Nam một chính phủ liên minh dân tộc và dân chủ
bao gồm các đại biểu các giai cấp, các tầng lớp, các giới, thực hiện nam nữ
bình đẳng và bình quyền, bảo đảm các quyền độc lập, tự do dân chủ, cải thiện
đời sống cho mọi tầng lớp nhân dân.

3) Thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình trung lập và hữu nghị tiến
tới hòa bình thống nhất đất nước.
Thực hiện theo chủ trương của Đảng, việc thành lập Hội Liên hiệp phụ
nữ giải phóng miền Nam Việt Nam vào ngày 8 - 3 - 1961, giữa lúc cuộc chiến
đấu của nhân dân miền Nam đang bước sang giai đoạn mới là một thắng lợi
trong việc động viên và đoàn kết phụ nữ toàn miền Nam trong phong trào giải
phóng dân tộc. Từ khi Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam
ra đời, trở thành một thành viên trong Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam,
tổ chức phụ nữ được xây dựng và phát triển nhanh chóng khắp mọi nơi. Hội
thực sự là nơi kết nối giữa Đảng với đồng bào phụ nữ miền Nam, giữa phụ nữ
miền Nam với phụ nữ miền Bắc. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, hoạt động của
Hội đã đem lại hiệu quả to lớn trong quá trình vận động chị em tham gia đấu
tranh cách mạng.
Ngay sau ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam
Việt Nam, phong trào thi đua “5 tốt” được đề ra tại ĐH Đại biểu phụ nữ toàn
quốc lần thứ III đã trở thành phong trào điểm thôi thúc các tầng lớp chị em
phụ nữ toàn miền Nam và đã được phát động khắp miền Nam thành phong
trào thi đua “Phụ nữ 5 tốt” với nội dung: “Đoàn kết đấu tranh chính trị, vũ
trang, binh vận tốt; Lao động sản xuất, tiết kiệm tốt; Chăm sóc nuôi dưỡng
22


×