ĐẠI HỌC QUỐ GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ VÂN
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ DU LỊCH TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2009
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI – 2011
ĐẠI HỌC QUỐ GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ VÂN
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ DU LỊCH TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2009
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG
HÀ NỘI - 2011
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, tại nhiều quốc gia, du lịch nhanh chóng trở thành một ngành
kinh tế mũi nhọn và có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển kinh tế- xã
hội. Theo thống kê của UN-WTO năm 2007, du lịch toàn cầu đã đem lại
nguồn thu tới 735 tỉ USD và tạo ra việc làm cho gần 300 triệu người mỗi năm.
Tuyên bố Osaka của Hội nghị Bộ trưởng Du lịch Thế giới tại Nhật Bản
(1994) đã chỉ rõ “du lịch là con đẻ của hồ bình, là phương tiện củng cố hồ
bình, là phương tiện cân bằng cán cân thanh toán quốc tế”.
Ở Việt Nam, phát triển du lịch là mối quan tâm thường xuyên của Đảng
và Nhà nước. Trước năm 2000, du lịch Việt Nam đứng vào hạng thấp nhất
trong khu vực. Hiện nay, khoảng cách phát triển này đã được rút ngắn. Tính
đến năm 2009, so với nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á, du lịch Việt
Nam chỉ đứng sau du lịch Malaixia, Singapo, Thailan, Indonexia. Du lịch Việt
Nam được Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới xếp thứ 7 thế giới về tăng
trưởng lượng khách trong tổng số 174 nước và được xếp vào nhóm 10 điểm
đến hàng đầu thế giới. Du lịch là một trong ít ngành kinh tế của Việt Nam
mang lại nguồn thu trên 2 tỉ USD mỗi năm. Điều này cho thấy, ở Việt Nam,
du lịch là một trong những ngành kinh tế quan trọng thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế đất nước.
Đà Nẵng là một thành phố nằm ở dải đất miền Trung Việt Nam, có vị
trí chiến lược về kinh tế, chính trị, an ninh - quốc phịng và là vùng đất có
nhiều tiềm năng, lợi thế cho phát triển du lịch. Trong lịch sử, Đà Nẵng đã sớm
trở thành một trong những thành phố lớn của cả nước. Vì vậy, việc phát triển
kinh tế Đà Nẵng nói chung và phát triển kinh tế du lịch nói riêng khơng chỉ có
ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển của thành phố mà cịn có ý nghĩa tích to
lớn đối với sự phát triển kinh tế của khu vực miền Trung - Tây Nguyên.
1
Trong những năm qua, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đã đưa ra nhiều
chính sách để phát triển kinh tế du lịch nhưng những chính sách đó vẫn chưa
đáp ứng kịp yêu cầu phát triển chung của thành phố, chưa tương xứng với
tiềm năng, thế mạnh và chưa làm thay đổi sâu sắc cục diện kinh tế - xã hội
của Đà Nẵng. Tình hình này đang trực tiếp đặt ra cho các cấp uỷ Đảng, chính
quyền và nhân dân Đà Nẵng nhiệm vụ phải giải quyết.
Mặt khác, tìm hiểu quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch của
Đảng bộ thành phố Đà Nẵng từ năm 1997 đến năm 2009 để thấy được những
thành tựu đạt được cũng như những thời cơ và thách thức mà Đảng bộ thành
phố đã trải qua để đưa kinh tế du lịch Đà Nẵng đi lên nhằm khai thác tốt nhất
những nguồn lực, tiềm năng để phát triển kinh tế du lịch nhanh chóng đưa Đà
Nẵng trở thành một trong những trung tâm thương mại, du lịch lớn của cả
nước. Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Đảng bộ thành phố Đà Nẵng
lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch từ năm 1997 đến năm 2009” làm luận
văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Nghiên cứu về du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Đà Nẵng nói riêng
đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước
dưới các cấp độ khác nhau. Các nhà ghiên cứu đã đề cập đến sự phát triển của
du lịch Việt Nam, qua đó đề cập tới sự phát triển của du lịch Đà Nẵng. Tiêu
biểu là một số cơng trình quan trọng như: Du lịch ba miền của tác giả Bửu
Ngôn (2009), nhà xuất bản Thanh Niên.; Địa danh du lịch Việt Nam của Thạc
sỹ Nguyễn Thị Thu Hiền (2009), nhà xuất bản Từ điển Bách khoa.; Quy
hoạch du lịch của tác giả Bùi Thị Hải Yến (2009), nhà xuất bản Giáo dục.
Ở Đà Nẵng cũng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về du lịch Đà Nẵng
như các tác phẩm: Ngũ Hành Sơn của tác giả Albert (1996), do Nguyễn Sinh
Duy chuyển dịch và bổ chú, nhà xuất bản Đà Nẵng; Di tích và danh thắng Đà
Nẵng của Sở Văn hoá - Thể thao - Du lịch Đà Nẵng (2009), nhà xuất bản Đà
Nẵng; Cẩm nang du lịch Đà Nẵng của Trung tâm Xúc tiến Du lịch Đà Nẵng
2
(2009), nhà xuất bản Trung tâm Xúc tiến du lịch Đà Nẵng. Đặc biệt, trong
thời gian gần đây, trên các tập san của Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã
hội Đà Nẵng đã có rất nhiều những cơng trình nghiên cứu về du lịch Đà Nẵng.
Đề tài “Mục tiêu và định hướng phát triển bền vững của du lịch Đà Nẵng”
của Thạc sỹ Ngô Quang Vinh (2008), đã nêu lên những tiềm năng của du lịch
Đà Nẵng như: tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn, cơ sở hạ tầng và
kết cấu hạ tầng. Qua đó, tác giả đã chỉ ra thực trạng của du lịch Đà Nẵng giai
đoạn 2001 - 2008. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra mục tiêu, định hướng phát
triển du lịch Đà Nẵng trong thời gian tới như hoàn thiện cơ sở hạ tầng, xây
dựng các sản phẩm chủ lực, chú trọng công tác quy hoạch và bảo vệ môi
trường du lịch. Đề tài “Giải pháp khuyến khích phát triển dịch vụ vui chơi
giải trí về đêm” của tiến sĩ Phạm Phú Thái (2008), tập trung nghiên cứu vào
các vấn đề như: thực trạng các khu vui chơi giải trí về đêm ở Đà Nẵng,
nguyên nhân của thực trạng và những giải pháp khuyến khích phát triển các
dịch vụ vui chơi giải trí về đêm. Bài viết “Từ phố đêm nước ngoài đến phố
đêm Đà Nẵng” của tác giả Trần Đức Anh Sơn (2008), lại trình bày những giải
pháp mới cho du lịch Đà Nẵng. Thơng qua một số mơ hình phố đêm ở nước
ngoài (Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Bỉ, Pháp), tác giả đề xuất xây dựng
tuyến phố đêm của Đà Nẵng bên sơng Hàn như mơ hình phố đêm của Nam
Kinh - Thượng Hải (Trung Quốc). Đặc biệt, bài viết “Để nghệ thuật Tuồng
trở thành sản phẩm đặc trưng của du lịch văn hoá Đà Nẵng” của tác giả Đàm
Vân Dung (2008), đã coi văn hoá Tuồng của Đà Nẵng là một kho báu quý giá
về văn hoá dân tộc, là nguồn lực quan trọng cho phát triển du lịch bền vững
của Đà Nẵng. Bài viết nêu lên vị trí quan trọng của nghệ thuật Tuồng trong
loại hình du lịch văn hố. Từ đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị góp phần
làm đa dạng hố các hình thức hoạt động của du lịch thành phố.
Bên cạnh các công trình trên, một số đề án, bài nghiên cứu khác về du lịch Đà
Nẵng như đề án “Phát triển làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống thành
phố Đà Nẵng” của Sở Công nghiệp Đà Nẵng (2005); “Các giải pháp đẩy
3
mạnh phát triển sản xuất sản phẩm kết hợp khai thác du lịch làng nghề Đà
Nẵng” của Trung tâm Khuyến công Đà Nẵng (2008); “Định hướng phát triển
bền vững khu du lịch danh thắng Ngũ Hành Sơn” của hai tác giả Nguyễn Nho
Trung - Hồ Kỳ Minh (2009); đề tài “Phương hướng và một số giải pháp để
đa dạng hoá loại hình và sản phẩm du lịch ở Quảng Nam - Đà Nẵng” của tác
giả Trương Sỹ Quý (2003), luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Hà Nội. Các đề tài này, tập trung nghiên cứu thực trạng của du lịch Đà Nẵng và
đưa ra các giải pháp khuyến khích phát triển các loại hình du lịch. Đối với vấn
đề, Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch từ năm 1997
đến năm 2009 chưa có một cơng trình nghiên cứu riêng biệt nào mà chủ yếu
được phản ánh một cách khái quát qua các Nghị quyết, các báo cáo hàng năm
của Thành uỷ Đà Nẵng, của UBND thành phố và của Sở Du lịch Đà Nẵng. Các
cơng trình trên đây tuy chưa có cơng trình nào nghiên cứu chun biệt về vấn đề
mà luận văn này đề cập tới nhưng cũng đã cung cấp cơ sở lí luận, tư liệu và cả
những gợi ý khoa học để tác giả thực hiện luận văn của mình.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ một cách toàn diện và khách quan
quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đối với vấn đề
phát triển kinh tế du lịch từ năm 1997 đến năm 2009. Qua đó, tái hiện lại
những kết quả đạt được của du lịch Đà Nẵng và rút ra một số bài học kinh
nghiệm về sự lãnh đạo và chỉ đạo của thành phố trong quá trình đẩy mạnh
phát triển kinh tế du lịch, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của kinh tế Đà
Nẵng; Trên cơ sở ấy, luận văn góp phần tìm ra một số giải pháp, định hướng
để thúc đẩy sự phát triển du lịch thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề “Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lãnh đạo phát triển
kinh tế du lịch từ năm 1997 đến năm 2009”, đề tài hướng đến giải quyết
những nhiệm vụ sau đây:
4
- Thứ nhất, tập hợp và hệ thống hoá các nguồn tư liệu liên quan đến đề
tài. Luận văn nghiên cứu những vấn đề lí luận về du lịch, về phát triển du lịch,
về phát triển kinh tế du lịch và cơ sở thực tiễn tại Đà Nẵng cho phát triển du
lịch và kinh tế du lịch.
- Thứ hai, luận văn mơ tả một cách chân thực, tồn diện những chủ
trương, chính sách và q trình Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lãnh đạo phát
triển du lịch trong thời gian từ năm 1997 đến năm 2009.
- Thứ ba, luận văn rút ra những kết quả, hạn chế trong phát triển du lịch
ở Đà Nẵng và rút ra nhận xét, đánh giá cùng những bài học kinh nghiệm trong
quá trình Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lãnh đạo phát triển du lich.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
- Là những chủ trương, chính sách, chỉ thị của Trung ương Đảng và
Đảng bộ thành phố Đà Nẵng để lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch.
- Quá trình thực hiện chỉ đạo của các cấp, các ngành về phát triển kinh
tế du lịch ở Đà Nẵng từ năm 1997 đến năm 2009.
- Kết quả đạt được trong lĩnh vực du lịch dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ
thành phố Đà Nẵng và ý nghĩa của việc thực hiện các chủ trương đó.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tìm hiểu sự lãnh đạo của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng đối với
phát triển kinh tế du lịch trên địa bàn thành phố, trong đó tập trung tìm hiểu
những chủ trương, chính sách của Đảng bộ thành phố về phát triển du lịch
trong 13 năm ( từ năm 1997 đến năm 2009).
5. Nguồn tài liệu, cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
Tìm hiểu vấn đề “Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lãnh đạo phát triển kinh
tế du lịch từ năm 1997 đến năm 2009”, luận văn chủ yếu dựa vào các nguồn
tài liệu sau:
5
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam lần
thứ VIII, IX, X.
- Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XVII,
XVIII, XIX.
- Các Nghị quyết, chỉ thị, báo cáo hàng năm của Thành uỷ, các Chương
trình hành động, báo cáo của UBND thành phố.
- Các báo cáo hàng năm của Sở Văn hoá - Thể thao - Du lịch Đà Nẵng
và một số bài nghiên cứu, bài viết của các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước về du lịch và kinh tế du lịch Đà Nẵng trên sách báo và các tạp chí.
5.2. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác – LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà chủ yếu là phép duy vật biện
chứng và phép biện chứng duy vật lịch sử; những chủ trương, đường lối về
phát triển kinh tế du lịch của Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng bộ thành
phố Đà Nẵng; những quan điểm của các nhà nghiên cứu về du lịch trong và
ngoài nước.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu
lịch sử kết hợp phương pháp điều tra, phân tích, so sánh, đối chứng tài liệu,
xử lí số liệu, tiếp cận lý thuyết về du lịch và tiếp cận thực tiễn của Đà Nẵng để
làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Trên cơ sở đề cập và tiếp cận các vấn đề lý luận về du lịch, phát triển
du lịch và phát triển kinh tế du lịch, luận văn trình bày những nguồn lực phát
triển du lịch ở thành phố Đà Nẵng, những chủ trương, chính sách, của Đảng
cộng sản Việt Nam và Đảng bộ thành phố Đà Nẵng về phát triển du lịch. Qua
đó, thấy được kết quả mà du lịch Đà Nẵng đạt được sau hơn 10 năm chia tách
tỉnh.
- Đề tài đi sâu phân tích những hạn chế và nguyên nhân của những hạn
chế đó trong lĩnh vực du lịch ở Đà Nẵng. Đồng thời, rút ra những bài học kinh
6
nghiệm trong quá trình Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lãnh đạo phát triển kinh
tế du lịch.
- Luận văn trình bày một số đề xuất chủ yếu, góp phần thúc đẩy quá
trình phát triển của du lịch và kinh tế du lịch Đà Nẵng một cách bền vững
trong tương lai.
7. Bố cục cơ bản
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được cấu trúc thành 3 chương.
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn để Đảng bộ thành phố Đà Nẵng
lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch.
Chƣơng 2: Chủ trương và chính sách phát triển kinh tế du lịch của
Đảng bộ thành phố Đà Nẵng từ năm 1997 đến năm 2009.
Chƣơng 3: Nhận xét chung và những bài học kinh nghiệm.
7
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỂ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm về du lịch
Ngày nay, du lịch đang trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ
biến. Hội đồng lữ hành và du lịch quốc tế (WTTC) đã công bố du lịch là một
trong năm lĩnh vực xuất khẩu lớn nhất thế giới, được coi là ngành kinh tế lớn
nhất vượt lên trên cả ngành sản xuất ô tô, thép, điện tử và nông nghiệp. Du
lịch là nguồn thu ngoại tệ quan trọng nhất cho 38% quốc gia trên thế giới. Tại
nhiều quốc gia, du lịch đã nhanh chóng trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn.
Du lịch đang là một đề tài hấp dẫn và trở thành vấn đề mang tính tồn
cầu[74,tr.5]
Hoạt động du lịch đã có từ lâu trong lịch sử. Những dấu hiệu đầu tiên
về du lịch được tìm thấy từ sau cuộc phân chia lao động xã hội lần thứ hai khi
mà thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Trong thời kì chiếm hữu nơ lệ, du
lịch đã có biểu hiện ở ba xu hướng chính: lưu trú, ăn uống, giao thơng. Du
lịch thời kì này tập trung chủ yếu ở những trung tâm kinh tế, văn hoá chính
của lồi người như ở Ai Cập, Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp, La Mã [74.tr.7].
Trong thời kì hưng thịnh của chế độ phong kiến, sản xuất hàng hoá
giản đơn, quan hệ tiền tệ được phát triển mạnh thì du lịch lại có bước chuyển
mới. Lúc này, khơng chỉ có quý tộc phong kiến mà ngay cả những thợ thủ
công thành thị, các thương gia đều có thể đi du lịch [74.tr.8]. Đến thời kì cuối
của chế độ phong kiến (thế kỉ XVI - XVII), khi phương thức sản xuất phong
kiến bị tan rã và dần thay vào đó là phương thức sản xuất tư bản thì những
điều kiện cho phát triển du lịch được mở rộng. Tại Pháp, giao thơng phát triển
đã làm cho du lịch có điều kiện phát triển theo, trong đó đáng chú ý là du lịch
8
chữa bệnh, nghỉ dưỡng, giải trí. Năm 1589, tác phẩm “cuộc du hành ở Pháp”
ra đời, tạo điều kiện thuận lợi cho người đi du lịch.
Từ thế kỷ XVII - XIX, khi thế giới xuất hiện cuộc cách mạng giao
thông vận tải, máy hơi xuất hiện ở châu Âu, châu Mỹ và sự hình thành mạng
lưới đường sắt đã tạo điều kiện quan trọng giúp cho các cuộc khởi hành của
con người được dễ dàng hơn. Lúc này, bắt đầu nảy sinh hàng loạt các vấn đề
về đảm bảo chỗ ăn ngủ, cho những người tạm thời sống ở nơi ngoài nơi cư trú
thường xuyên của họ. Tại các vùng du lịch, xuất hiện các nghề mới như kinh
doanh khách sạn, nhà hàng, môi giới, hướng dẫn du lịch. Hàng loạt các cơ sở
chuyên phục vụ du lịch như khách sạn, quán ăn, cửa hàng, tiệm giải khát cùng
các tổ chức du lịch và đội ngũ phục vụ du lịch ra đời.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, du lịch nghỉ biển phát triển rầm rộ tại
Ý, Pháp, Áo, Hy Lạp. Ở những nước này, các cơ quan nhà nước hoặc các bộ
máy quản lí về du lịch được thành lập. Do đó, yêu cầu đặt ra với du lịch thế
giới lúc này là cần có một tổ chức điều hành, giúp đỡ ngành du lịch thế giới.
Vì vậy, năm 1925 tại Hague (Hà Lan), “Liên đoàn thế giới về các tổ chức du
lịch quốc gia” được thành lập. Sự kiện này đánh dấu mốc quan trọng với
ngành du lịch thế giới. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, cơ quan này đổi tên
thành “Liên hiệp Quốc tế các Tổ chức lữ hành” (gọi tắt là IUOTO), chuyển
trụ sở tới Gơnevơ (Thuỵ Sĩ). Khi mới thành lập, thành viên của IUOTO lên
đến 109 tổ chức du lịch quốc gia và 88 thành viên liên kết. Năm 1967,
IUOTO kêu gọi các nước thành viên cải tổ thành tổ chức hợp bởi nhiều quốc
gia. Tháng 12- 1969, Đại hội đồng Liên hợp quốc thơng qua Nghị quyết thừa
nhận vai trị quyết định và trung tâm của IUOTO đối với du lịch thế giới.
Ngày 27/09/1970, ngay phiên họp đầu tiên của IUOTO tại Mêhicơ,
điều lệ của Tổ chức Du lịch Thế giới chính thức được thông qua. Sự kiện này
đi vào ngành du lịch thế giới là “ ngày du lịch”. Nói một cách khác, đến đây
du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế quan trọng trên thế giới. Ngày
9
02/01/1975, Tổ chức Liên Chính phủ về du lịch của Liên Hợp Quốc được
thành lập (Viết tắt là WTO, tên Tiếng Anh đầy đủ là World Tourism
Organisation). Từ năm 2006, do trùng với tên viết tắt của tổ chức Thương mại
Thế giới, vậy nên để phân biệt, Tổ chức Du lịch Thế giới được quy định viết
tắt trong tiếng Anh là UN- WTO.
Như vậy, hoạt động du lịch đã có từ lâu đời, vai trị và vị trí của ngành
du lịch cũng ngày một nâng cao. Nhưng cho đến nay, khái niệm về du lịch lại
được hiểu rất khác nhau và từ nhiều góc độ khác nhau. Giáo sư Berneker, một
chuyên gia hàng đầu về du lịch trên thế giới đã nhận định: “Đối với du lịch,
có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa” [95]. PGS. TS
Trần Thị Minh Hoà, giảng viên trường Đại học Kinh tế Quốc dân nhận xét:
“hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất về du lịch là do các tác giả
nghiên cứu về du lịch đã gặp phải không ít khó khăn”[74,tr8].
Khó khăn thứ nhất là do tồn tại các cách tiếp cận khác nhau dưới các
góc độ khác nhau mà các tác giả có định nghĩa khác nhau về du lịch. Dưới
góc độ của người đi du lịch thì cho rằng du lịch là một cuộc hành trình về lưu
trú tạm thời ngoài nơi lưu trú thường xuyên của các cá thể nhằm thỏa mãn của
nhu cầu khác nhau với mục đích hịa bình và hữu nghị. Dưới góc độ của
người kinh doanh du lịch thì lại cho rằng "du lịch là quá trình tổ chức các điều
kiện về sản xuất và phục vụ nhằm thỏa mãn, đáp ứng các nhu cầu của người
đi du lịch". Dưới góc độ của chính quyền địa phương lại cho rằng "du lịch là
tổ chức các điều kiện hành chính về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật để
phục vụ du khách” [74,tr.8].
Khó khăn thứ hai là do sự khác nhau về ngôn ngữ và cách hiểu khác
nhau về du lịch ở các nước khác nhau. Có một số học giả cho rằng thuật ngữ
"du lịch" trong ngôn ngữ nhiều nước bắt nguồn từ gốc tiếng Pháp "Le
Tourisme". Bản thân từ "Le Tourisme" lại được bắt nguồn từ gốc "Le tour" có
nghĩa là một cuộc hành trình đi đến nơi nào đó và quay trở lại, thuật ngữ này
10
dịch sang tiếng Anh thành "tourism. Như vậy, định nghĩa "du lịch" ở các nước
Anh, Pháp có ý nghĩa đầu tiên là khởi hành, đi lại. Một số học giả khác, lại
cho rằng thuật ngữ "du lịch" trong ngôn ngữ nhiều nước bắt nguồn từ tiếng
Hy Lạp "tournos" với nghĩa là đi một vịng. Thuật ngữ này được Latinh hóa
thành "turnus" và sau đó là "tourisme" (tiếng Pháp) và “tourism” (Tiếng
Anh)[74,tr.10].
Khó khăn thứ ba là do tính đặc thù của hoạt động du lịch. Một sản phẩm du
lịch tổng hợp không thể do một đơn vị kinh doanh tạo ra mà do tổng hợp các
hoạt động kinh doanh đa dạng tạo ra. Khách du lịch, trong một chuyến đi du
lịch, ngoài việc thỏa mãn một số nhu cầu đặc trưng như tham quan, giải trí,
chữa bệnh, họ vẫn cịn có các nhu cầu thường ngày như ăn, ngủ. Do vậy, họ
phải sử dụng nhiều loại hàng hóa và dịch vụ khác nhau. Mặt khác, ngành du
lịch chỉ có thể phát triển được khi có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành như
tài chính, ngân hàng, xây dựng, giao thơng, bưu chính viễn thơng [74, tr10].
Sự tồn tại của các khó khăn như đã nêu ở trên nên việc tìm ra một định
nghĩa thống nhất về du lịch cho đến nay vẫn còn là một ẩn số. Thế giới vẫn có
rất nhiều các định nghĩa khác nhau về du lịch của các tác giả khác nhau.
Trong đó, nổi lên là các khái niệm tiêu biểu về du lịch như:
Năm 1811, lần đầu tiên định nghĩa về du lịch tại Anh như sau: "Du lịch
là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của các cuộc hành trình
với mục đích giải trí. Ở đây giải trí là động cơ chính”[74,tr.13]
Năm 1930, Glusman (người Thụy Sĩ), lại đưa ra một định nghĩa: "du
lịch là sự chinh phục không gian của những người đến một địa điểm mà ở đó
khơng có chỗ cư trú thường xuyên"[74,tr.13]
Trong khi đó, Tiến sĩ Hunzikcr và Tiến sĩ Krapf lại đưa ra một định
nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ và các hiện
tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài
11
địa phương, nếu việc lưu trú đó khơng thành cư trú thường xun và khơng
dính dáng đến hoạt động kiếm lời"[74,tr.13].
Tại Đại hội lần thứ 5, Hiệp hội quốc tế những nhà nghiên cứu khoa học
về du lịch đã chấp nhận định nghĩa này làm cơ sở cho môn khoa học du lịch.
Vì vậy, ngày nay, định nghĩa này vẫn được nhiều nhà kinh tế sử dụng để giải
thích từng mặt và cả hiện tượng du lịch. Tuy nhiên, định nghĩa này lại chưa
giới hạn được đầy đủ đặc trưng về lĩnh vực của các hiện tượng du lịch, thuộc
loại nào kinh tế, chính trị, xã hội hay văn hóa . Ngồi ra, định nghĩa đã bỏ sót
hoạt động của các công ty giữ nhiệm vụ trung gian, nhiệm vụ tổ chức du lịch,
nhiệm vụ sản xuất hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Do
đó, đặt vấn đặt ra là cần phải tiếp tục hoàn thiện định nghĩa về du lịch.
Tháng 8 năm 1963, tại Hội nghị Liên Hiệp Quốc về du lịch họp tại
Roma (Ytalia) đã đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: “ Du lịch là tổng hợp
các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc
hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi cư trú thường
xuyên của họ hay ngồi nước họ với mục đích hồ bình, nơi họ lưu trú khơng
phải nơi làm việc của họ” [95].
Tháng 6 năm 1991, Hội nghị quốc tế về Thống kê du lịch ở Otawa
(Canada) lại đưa ra một định nghĩa khác về du lịch: “Du lịch là một hoạt động
của con người đi tới một nơi ngồi mơi trường thường xuyên trong một
khoảng thời gian ít hơn khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định
trước: mục đích của chuyến đi khơng phải là để tiến hành các hoạt động kiếm
tiền trong phạm vi vùng tối thiểu"[74, tr.15].
Ở Việt Nam, hoạt động du lịch cũng có từ lâu đời. Theo sách "Đại Nam
nhất thống chí" đã ghi về vùng du lịch Phan Thiết năm 1887, có phịng dành
riêng tiếp vua chúa các nước Đơng Dương và toàn quyền Pháp với nhiều
khách sạn và biệt thự nghỉ mát. Thời Pháp thuộc, những trung tâm kinh tế văn hóa như Hà Nội, Hải Phịng, Sài Gịn, hình thành hoạt động kinh doanh
12
lưu trú, ăn uống, phục vụ khách bộ hành và khách ngoại quốc. Tại những
vùng có khí hậu lí tưởng, có những danh lam thắng cảnh đẹp như Hạ Long,
Nha Trang, Đà Lạt, Sa Pa, Bà Nà đã xây dựng nhiều biệt thự, khách sạn, nghỉ
dưỡng, phục vụ cho các nhà cầm quyền và những thương nhân giàu có
[74,tr.299].
Sau ngày hịa bình lập lại ở miền Bắc, nhà nước quốc hữu hóa tồn bộ
cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch và giao cho Bộ Nội thương quản lý. Hoạt
động du lịch ở Việt Nam lúc này mang tính chất phục vụ là chủ yếu. Do nhu
cầu du lịch trong nước và quốc tế tăng, để khắc phục tình trạng tự phát của du
lịch đại chúng Chính phủ đã ban hành nghị định số 26/CP (9/7/1960) về việc
"Thành lập Công ty Du lịch Việt Nam". Sự kiện này, đánh dấu mốc ra đời của
ngành du lịch Việt Nam. Tuy nhiên, ở Việt Nam hoạt động nghiên cứu về du
lịch tương đối muộn.
Trong Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam (1966), khi đứng trên
góc độ mục đích của chuyến đi, các tác giả của cuốn sách này cho rằng: “ Du
lịch là một dạng nghỉ dưỡng có sự tham quan tích cực của con người ngồi
nơi cư trú với mục đích nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di tích
lịch sử, cơng trình văn hố, nghệ thuật” [95].
Vào những năm 90, các nhà nghiên cứu của trường Đại học Kinh tế
Quốc dân đã đưa ra một định nghĩa mới về du lịch trên cơ sở tổng hợp những
lý luận và thực tiễn của du lịch trên thế giới và ở Việt Nam: "Du lịch là một
ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng dẫn du lịch, sản
xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ của những doanh nghiệp, nhằm đáp ứng
các nhu cầu về đi lại, lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm hiểu và nhu cầu
khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi ích kinh tế, chính
trị, xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và cho bản thân doanh nghiệp" [74,
tr.16].
13
Trong Pháp lệnh du lịch của Việt Nam (1999), tại điều 1, chương I
những quy định chung, du lịch được hiểu như sau: “Du lịch là một ngành kinh
tế tổng hợp quan trọng mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành,
liên vùng và xã hội hố cao, phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham
quan, giải trí, nghỉ dưỡng của nhân dân và khách du lịch quốc tế, góp phần
nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế - xã hội đất nước”[2,tr2]
Trong Luật du lịch Việt Nam (2008), tại điều 4, chương I, du lịch lại
được hiểu: "Du lịch là hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người
ngồi nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan,
tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [45,tr.6].
Như vậy, thông qua việc tìm hiểu khái niệm về du lịch của các nhà
nghiên cứu du lịch trong và ngoài nước dưới nhiều góc độ khác nhau, chúng
ta có thể nhận thấy, du lịch là một dạng hoạt động tổng hợp và phức tạp. Nếu
đứng ở góc độ kinh tế, du lịch mang đặc điểm của một ngành kinh tế. Nếu
đứng ở góc độ xã hội, du lịch lại có đặc điểm của một ngành văn hố, xã hội.
Vì vậy, khi nghiên cứu khái niệm về du lịch ở góc độ của người đi du lịch, ở
góc độ kinh tế cũng như góc độ văn hoá, xã hội, tác giả luận văn đồng tình
với khái niệm về du lịch trong Pháp lệnh du lịch Việt Nam (1999), trong Luật
du lịch Việt Nam (2008) và coi đó là cơ sở cho hướng nghiên cứu của mình.
1.1.2. Khái niệm về phát triển du lịch, phát triển kinh tế du lịch
Phát triển không chỉ đơn thuần là mục tiêu của ngành kinh tế du lịch
mà còn là mục tiêu chung của mọi ngành kinh tế, của mọi quốc gia, dân tộc.
Thời gian qua, khái niệm phát triển du lịch, phát triển kinh tế du lịch không
chỉ nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu du lịch trong và ngồi
nước mà cịn nhận được quan tâm của Nhà nước và Chính phủ Việt Nam.
Trong Luật du lịch Việt Nam (2008), phát triển du lịch được hiểu
như sau:
14
Một là, phát triển du lịch phải gắn với phát triển du lịch bền vững, theo
quy hoạch, kế hoạch, đảm bảo hài hòa giữa kinh tế - xã hội và mơi trường,
phát triển có trọng tâm, trọng điểm theo hướng du lịch văn hóa - lịch sử, du
lịch sinh thái, bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị của tài nguyên du lịch.
Hai là, phát triển du lịch đảm bảo chủ quyền quốc gia, quốc phòng - an
ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Ba là, phát triển du lịch đảm bảo lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, lợi
ích chính đáng và an ninh, an tồn cho khách du lịch, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch.
Bốn là, phát triển du lịch đảm bảo sự tham gia của mọi thành phần kinh
tế, mọi tầng lớp dân cư.
Năm là, phát triển du lịch phải góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại
giao lưu quốc tế để quảng bá hình ảnh của địa phương, của quốc gia.
Sáu là, phát triển du lịch là phát triển đồng thời cả du lịch trong nước
và du lịch quốc tế, tăng cường thu hút ngày càng nhiều khách du lịch nước
ngồi đến địa phương [45,tr.9].
Theo đó, phát triển du lịch có thể hiểu là sự kết hợp hài hồ, chặt chẽ
q trình hồn thiện vấn đề kinh tế du lịch và xã hội du lịch. Mục tiêu cuối
cùng của sự phát triển du lịch không phải là tăng trưởng hay chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, mà vấn đề quan trọng nhất chính là đảm bảo sự phát triển toàn
diện cho quốc gia, đảm bảo các nhu cầu của tồn thể nhân dân, hồn thiện
các tiêu chí về xã hội như xố đói giảm nghèo, trình độ dân trí, việc làm,
môi trường.
Cùng với sự phát triển của du lịch thì khái niệm phát triển kinh tế du
lịch cũng được đề cập một cách mạnh mẽ. Mặc dù còn nhiều quan điểm chưa
thực sự thống nhất về khái niệm phát triển kinh tế du lịch, song đa số các nhà
nghiên cứu đều thống nhất rằng: Phát triển kinh tế du lịch là quá trình tăng
tiến mọi mặt kinh tế du lịch. Nói một cách khác, phát triển kinh tế du lịch
15
chính là đảm bảo sự tăng trưởng về mọi mặt kinh tế du lịch, của các doanh
nghiệp du lịch và của ngành du lịch [95].
Như vậy, hai khái niệm phát triển du lịch và phát triển kinh tế du lịch là
hai khái niệm có tính độc lập. Sự độc lập của hai khái niệm này thể hiện ở
chỗ, phát triển kinh tế du lịch đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiệp du lịch và
cho ngành du lịch, góp phần thúc đẩy sự phát triển các ngành kinh tế của quốc
gia. Trong khi đó, phát triển du lịch lại đem lại lợi ích cho mọi thành phần
kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, cho khách du lịch, cho cộng đồng, quốc gia trên
mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh - quốc phòng.
Bên cạnh tính độc lập tương đối đó, hai khái niệm này cũng có nhiều
điểm tương đồng. Sự tương đồng này thể hiện ở chỗ, cả hai khái niệm đều
hướng đến sự tăng trưởng của du lịch, phát triển đảm bảo các vấn đề về kinh
tế, xã hội, mơi trường. Chính sự tương đồng ấy, đòi hỏi khi phát triển du lịch
phải gắn với phát triển kinh tế du lịch và ngược lại. Bởi phát triển du lịch nếu
không chú ý tới lợi ích kinh tế thì sự phát triển đó khơng mang lại hiệu quả
cao, không thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. Nhưng phát triển kinh
tế du lịch nếu không quan tâm tới phát triển các mặt khác của du lịch như việc
giải quyết các vấn đề về xã hội, mơi trường, an ninh, chính trị sẽ dẫn sự bất ổn
của quốc gia, và sự mất cân đối trong đời sống kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, khi du lịch phát triển và kinh tế du lịch tăng trưởng đạt được
tốc độ cao thì con người bắt đầu lo nghĩ ảnh hưởng tiêu cực của sự tăng
trưởng đó tác động đến tương lai mình. Vì vậy, vấn đề phát triển bền vững
được đặt ra. Thuật ngữ “Phát triển bền vững” lần đầu tiên xuất hiện vào năm
1980 trong Ấn phẩm “Chiến lược bảo tồn thế giới” (Công bố bởi Hiệp hội
Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế). Khái niệm này
được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo Brundtland của Uỷ ban
Môi trường và Phát triển Thế giới. Báo cáo này ghi rõ: “phát triển bền vững là
sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khả
năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai" [100].
16
Ngày nay, quan điểm phát triển bền vững đã được đề cập một cách đầy
đủ hơn. Bên cạnh yếu tố về tài nguyên thiên nhiên và môi trường, vấn để xã
hội được đặt ra với ý nghĩa quan trọng. Tại Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về
Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Nam Phi) năm 2002, đã xác
định: “phát triển bền vững là q trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hài
hòa giữa 3 mặt của sự phát triển gồm: tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn
đề xã hội và bảo vệ môi trường” [75,tr.23].
Sự ra đời và phát triển của quan điểm phát triển bền vững đã đặt ra cho
ngành du lịch quan điểm phát triển bền vững về du lịch. Bởi du lịch là một
hoạt động có tính hai mặt rất rõ rệt. Những yếu tố tích cực ln tiềm ẩn những
u tố tiêu cực. Thực tế đã chứng minh, những lợi ích kinh tế trước mắt mà
du lịch đem lại có thể sẽ khơng bù đắp được những chi phí lâu dài về mặt xã
hội để có thể khắc phục những yếu tố tiêu cực cho du lịch gây ra. Mặt khác,
du lịch lại là một lĩnh vực có tính liên ngành, trong sự phát triển của mỗi một
điểm đến du lịch đều có sự tác động qua lại giữa du lịch và một số lĩnh vực
khác của nền kinh tế - xã hội. Do đó, khi phát triển du lịch phải có phương án
ngăn ngừa những vấn đề tiêu cực có thể phát sinh từ sự tác động qua lại trên.
Chính vì vậy, phát triển kinh tế du lịch phải gắn với phát triển du lịch bền
vững và phát triển kinh tế du lịch bền vững.
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh, giảng viên Trường Đại học Kinh tế
Quốc dân, phát triển du lịch bền vững là “hoạt động khai thác có quản lý các
giá trị thiên nhiên và nhân văn nhằm thoã mãn các nhu cầu đa dạng của khách
du lịch có quan tâm đến lợi ích kinh tế dài hạn trong khi vẫn đảm bảo sự đóng
góp cho bảo tồn, tơn tạo các nguồn tài nguyên, duy trì được sự vẹn tồn về
văn hố để phát triển hoạt động du lịch trong tương lai” [95].
Theo UN- WTO ở Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp
Quốc tại Rio de Janeiro năm 1992, phát triển du lịch bền vững được định
nghĩa như sau: “Phát triển du lịch bền vững là phát triển du lịch giảm thiểu
17
các chi phí và nâng cao tối đa các lợi ích của du lịch cho môi trường thiên
nhiên và cộng đồng địa phương và có thể thực hiện lâu dài nhưng khơng ảnh
hưởng xấu đến các nguồn lợi mà nó phụ thuộc vào” [95].
Trong Luật du lịch Việt Nam (2008), phát triển du lịch bền vững lại
được hiểu như sau: “Phát triển du lịch bền vững là sự phát triển đáp ứng được
các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về
du lịch trong tương lai” [45,tr.9].
Tuy nhiên, phát triển du lịch bền vững mà không chú ý tới phát triển
kinh tế du lịch bền vững thì sẽ dẫn đến những tác hại khó lường. Theo Tổ
chức UN- WTO “phát triển kinh tế du lịch bền vững là sự phát triển đảm bảo
sự tăng trưởng ổn định, lâu dài, mọi mặt kinh tế du lịch của các doanh nghiệp
và của ngành du lịch, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế cộng đồng,
quốc gia” [100].
Nói một cách khác, dù phát triển du lịch bền vững hay phát triển kinh tế
du lịch bền vững, các nhà nghiên cứu du lịch và theo cá nhân tác giả sự phát
triển đó phải đảm bảo ba trụ cột: đóng góp về mặt kinh tế, đảm bảo sự gần gũi
về văn hố xã hội (khơng gây tác hại đến cấu trúc xã hội, thay vào đó là là tơn
trọng văn hố, truyền thống của địa phương) và đặc biệt, phải thân thiện với
môi trường (làm giảm thiểu các tác động xấu đến môi trường và cố gắng có
lợi cho mơi trường).
Tuy nhiên, để du lịch và kinh tế du lịch Việt Nam phát triển và phát
triển một cách bền vững thì vai trị lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là
vô cùng quan trọng và cần thiết. Thực tế lịch sử Việt Nam đã chứng minh, sự
lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Do vậy, trong giai đoạn hiện nay, vai trò lãnh đạo của Đảng về mọi mặt,
đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế vẫn luôn là yếu tố quyết định.
Trong Cương lĩnh năm 1991, phương thức lãnh đạo của Đảng đã được
quy định "Đảng lãnh đạo xã hội bằng chính sách, chiến lược, các định hướng
18
về chính sách và chủ trương cơng tác, bằng cơng tác tuyên truyền, thuyết
phục, vận động, tổ chức, kiểm tra hoạt động gương mẫu của đảng viên”[40]
Trong văn kiện Đại hội Đảng IX cũng đã chỉ rõ "Đảng lãnh đạo bằng
đường lối, quan điểm, Nghị quyết, lãnh đạo thể chế hóa, cụ thể hóa thành
Hiến pháp và Pháp luật” [41,tr.147]
Từ đó, có thể thấy rằng, trên lĩnh vực du lịch Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
- Đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, chiến lược trong phát triển
kinh tế du lịch.
- Xây dựng, góp ý xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật trong
hoạt động du lịch, đồng thời tuyên truyền, giáo dục pháp luật, các thông tin
về du lịch.
- Đảng lựa chọn các cán bộ về du lịch để giới thiệu với nhà nước bố trí,
sắp xếp vào các cơ quan chuyên ngành về du lịch của bộ máy nhà nước.
- Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình về du lịch, thơng qua các tổ
chức cơ sở do Đảng thành lập, liên quan đến phát triển du lịch trong cơ quan
nhà nước và các tổ chức xã hội.
- Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch gắn liền với việc thường
xuyên kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh doanh, phát triển du lịch trong
khuôn khổ pháp luật về du lịch.
Từ những nghiên cứu trên, có thể thấy du lịch là một ngành kinh tế mới
mẻ. Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về du lịch trên cơ sở thực tiễn sẽ
góp phần quan trọng giúp cho Đảng và Nhà nước ta cũng như các Đảng bộ cơ
sở có được những đường lối, chính sách và chiến lược phát triển phù hợp,
thúc đẩy nhanh sự phát triển đất nước và sự phát triển của các địa phương.
1.1.3. Các tác động về kinh tế - xã hội của phát triển du lịch
Từ ngày 3/11 - 5/11/1994 tại Osaka (Nhật Bản), Hội nghị Bộ trưởng
Du lịch Thế giới đã khai mạc. Tham dự Hội nghị có 78 nước và vùng, 18
19
chính quyền địa phương và 5 quan sát viên. Tại Hội nghị, Tuyên bố Du lịch
Osaka đã khẳng định: “Du lịch là nguồn lớn nhất tạo ra GDP và việc làm của
thế giới, chiếm 1/10 mỗi loại, đồng thời, đầu tư cho du lịch và các khoản thu
từ thuế liên quan đến du lịch cũng tăng cao. Những sự gia tăng này cùng với
các chỉ tiêu khác của du lịch dự đoán sẽ tiếp tục tăng trưởng một cách vững
chắc và như vậy du lịch sẽ là đầu tầu kéo nền kinh tế thế giới trong thế kỷ
XXI” [74, tr. 46].
Điều này cho thấy, việc phát triển du lịch có ý nghĩa quan trọng về
nhiều mặt. Trước hết, phát triển du lịch sẽ giúp tham gia tích cực vào q
trình tạo nên thu nhập quốc dân, quá trình phân phối lại thu nhập quốc dân
giữa các vùng. Nói một cách khác, phát triển du lịch tác động tích cực vào
việc làm cân đối cấu trúc của thu nhập và chi tiêu của nhân dân theo các vùng.
Mặt khác, phát triển du lịch cịn đóng góp vai trị to lớn vào việc cân bằng cán
cân thanh toán quốc tế.
Phát triển du lịch làm cho hoạt động xuất khẩu có hiệu quả cao. Tính
hiệu quả cao trong kinh doanh du lịch thể hiện ở chỗ, du lịch một mặt là
ngành "xuất khẩu tại chỗ" những hàng hóa cơng nghiệp, tiêu dùng, thủ công
mỹ nghệ, nông lâm sản theo giá bán lẻ được trao đổi thông qua con đường
trao đổi du lịch, hàng hóa được xuất khẩu mà khơng gặp phải hàng rào thuế
quan mậu dịch quốc tế. Mặt khác, du lịch là ngành "xuất khẩu vơ hình", các
cảnh quan, tài ngun thiên nhiên, các giá trị văn hóa - truyền thống lịch sử,
phong tục, tập quán không bị mất đi mà qua mỗi lần bán, giá trị và uy tín của
nó tăng lên qua mỗi lần đưa ra thị trường. Với hai hình thức xuất khẩu đó,
việc phát triển du lịch giúp cho khả năng thu hồi vốn nhanh và lãi suất cao.
Phát triển du lịch khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngồi. Một
quy luật có tính phổ biến của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới
hiện nay là, giá trị ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỉ lệ cao trong tổng sản
phẩm xã hội và trong số người có việc làm. Do vậy, các nhà kinh doanh đi
20
tìm hiệu quả của đồng vốn đã coi du lịch là lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn so
với nhiều ngành kinh tế khác. Du lịch đem lại tỉ suất lợi nhuận cao, vốn đầu
tư vào du lịch ít hơn so với công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải mà thu hồi
vốn nhanh.
Phát triển du lịch góp phần vào củng cố và phát triển các mối quan hệ
kinh tế quốc tế. Hiện nay, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ về du lịch
đã có những tác động tích cực trong việc hình thành các mối quan hệ kinh tế
quốc tế. Việc mở rộng du lịch quốc tế gắn liền với lượng khách phục vụ, việc
tìm hiểu thị trường của khách được chú trọng. Từ đó, thúc đẩy đầu tư, buôn
bán quốc tế. Đặc biệt, trong điều kiện nghèo nàn, lạc hậu, thiếu vốn thì hiện
đại hóa nền kinh tế có ý nghĩa to lớn. Bản thân việc kinh doanh du lịch cũng
phát triển theo hướng quốc tế hóa vì khách du lịch thường đến nhiều nước,
nhiều vùng khác nhau trong một chuyến đi dài ngày. Hoạt động kinh doanh
du lịch với lợi nhuận kinh tế cao đến lượt nó sẽ kích thích đầu tư nước ngồi
vào du lịch và tăng cường chính sách mở cửa. Thực tiễn phát triển kinh tế ở
Thái Lan, Singapo, Hàn Quốc đã chọn du lịch là hướng mở của nền kinh tế.
Ngoài ra, phát triển du lịch làm tăng thêm ngân sách cho các thành phố.
Phát triển du lịch và kinh tế du lịch sẽ tạo nguồn ngân sách cho các địa
phương từ các khoản trích nạp ngân sách của các cơ sở du lịch trực thuộc
quản lý trực tiếp của địa phương. Du lịch phát triển góp phần thúc đẩy các
ngành kinh tế khác phát triển. Phát triển du lịch sẽ mở mang, hoàn thiện cơ sở
hạ tầng kinh tế như mạng lưới giao thông công cộng, mạng lưới điện, nước và
phương tiện thông tin liên lạc.
Không những thế, phát triển du lịch đang tác động tích cực đến việc
giải quyết các vấn đề xã hội như góp phần giải quyết cơng ăn việc làm. Theo
thống kê năm 2000 của Tổ chức Du lịch thế giới (UW- WTO), du lịch là
ngành đào tạo việc làm quan trọng. Đó là việc làm trực tiếp trong các nhà
hàng, khách sạn, văn phòng du lịch, nên người ta sản xuất ra các sản phẩm du
21
lịch. Theo thống kê, tổng số lao động hoạt động liên quan đến du lịch chiếm
19,7% tổng số lao động toàn cầu. Cứ 2,5 giây, du lịch tạo ra được một việc
làm mới. Đến năm 2005, cứ 8 lao động thì có 1 lao động làm trong ngành du
lịch. Một buồng khách sạn từ 1-3 sao trên thế giới hiện nay, thu hút 1,3 lao
động. Theo dự báo của Tổ chức Du lịch Thế gới(UN- WTO) năm 2010 thì du
lịch sẽ tạo thêm 150 triệu việc làm, chủ yếu tập trung ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương [74, tr.52].
Bên cạnh đó, phát triển du lịch cịn làm giảm q trình đơ thị hóa.
Thơng thường, tài ngun thiên nhiên thường có nhiều ở những vùng sâu,
vùng xa, miền núi, việc khai thác, đưa vào sử dụng các nguồn tài ngun này
địi hỏi phải có đầu tư về giao thơng, bưu điện, kinh tế, văn hóa - xã hội. Vì
vậy, phát triển du lịch sẽ góp phần làm thay đổi bộ mặt của khu vực đó. Đồng
thời, góp phần làm giảm sự tập trung dân cư ở những trung tâm lớn. Phát triển
du lịch còn là một phương tiện để tun truyền, quảng bá có hiệu quả hình
ảnh một quốc gia, một vùng, hay một địa phương nào đó, như quảng bá cho
hàng hóa nội địa, các mặt hàng thủ công, công nghiệp, quảng bá các thành tựu
kinh tế - văn hóa - xã hội, hay các phong tục tập quán, truyền thống. Phát triển
du lịch làm tăng thêm tầm hiểu biết chung về xã hội của người dân thông qua
người ở địa phương khác và khách nước ngoài. Du lịch làm tăng thêm tình
hữu nghị, đồn kết, sự hiểu biết của nhân dân giữa các vùng miền khác nhau.
Bên cạnh những tác dụng và ý nghĩa to lớn ấy, tác hại về kinh tế - xã
hội do du lịch đem lại cũng không nhỏ. Nhất là, khi con người chúng ta khai
thác du lịch một cách quá tải sẽ dẫn đến việc làm mất thăng bằng cho con
người, cán cân thanh toán quốc tế, gây áp lực lạm phát. Mặt khác, phát triển
du lịch mạnh mẽ sẽ tạo ra sự phụ thuộc của nền kinh tế vào du lịch. Việc đảm
bảo doanh thu và phát triển ngành du lịch sẽ khó khăn so với nhiều ngành sản
xuất khác.
22
Khai thác du lịch quá tải sẽ tạo ra sự mất cân đối và mất ổn định trong
sử dụng lao động du lịch, làm ô nhiễm môi trường hoặc làm ảnh hưởng xấu
đến tài nguyên thiên nhiên, gây ra các tệ nạn xã hội và các tác hại sâu xa khác
trong đời sống tinh thần.
Vì những lẽ trên, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về du lịch sẽ có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với một vùng, một quốc gia trong sự phát triển
kinh tế, xã hội của chính khu vực đó. Đà Nẵng là một địa phương khơng nằm
ngồi vấn đề này, đặc biệt, khi Đà Nẵng được xác định là một trong những
trung tâm kinh tế - văn hóa trọng điểm của miền Trung - Tây Nguyên.
2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Những nguồn lực phát triển kinh tế du lịch của Đà Nẵng và
những lợi thế so sánh
Vị trí địa lí
Đà Nẵng là một trong những thành phố lớn của cả nước, nằm ven biển
miền Trung, phía Đơng giáp biển Đơng, phía Tây giáp huyện Đại Lộc (Quảng
Nam), phía Nam giáp huyện Điện Bàn(Quảng Nam) và phía Bắc giáp với Phú
Lộc(Thừa Thiên Huế). Từ thế kỷ XII trở về trước, nơi đây là vùng đất thuộc
lãnh thổ Chiêm Thành. Đến thế kỷ XIV - XV với kế sách giữ nước của các
vua Trần, vua Lê, đã thu phục được vùng đất từ Bắc Quảng Nam đến Khánh
Hòa. Trong các thế kỷ ấy, Đà Nẵng được coi như là miền "biên viễn", là
"phên dậu" phía Nam của nước Đại Việt.
Từ thế kỷ XVI – XIX, dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh và triều
Nguyễn, Đà Nẵng ln là một pháo đài trấn thủ phía Nam kinh thành Huế.
Khi Pháp xâm lược nước ta lần thứ nhất (1838 - 1945), Đà Nẵng trở thành
"nhượng địa" của Pháp. Sau cách mạng Tháng Tám thành công, chủ quyền
lãnh thổ thuộc về nhân dân ta, Đà Nẵng khơng cịn là “nhượng địa” của Pháp.
Nhưng khi Pháp xâm lược nước ta lần thứ hai (1946), Đà Nẵng lại được đổi
tên thành "Thành Thái Phiên".
23