Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

đảng bộ tỉnh quảng bình lãnh đạo giáo dục phổ thông tu nam 2001 den nam 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


TRẦN THỊ TỐ LAN

ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG BÌNH LÃNH ĐẠO
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


TRẦN THỊ TỐ LAN

ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG BÌNH LÃNH ĐẠO
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Mã số:

60 22 56

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Mai Hoa



Hà Nội – 2014


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chƣơng 1: CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG
BÌNH ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG GIAI ĐOẠN 2001 - 2005 ............... 6

1.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình
đối với giáo dục phổ thông ......................................................................... 6
1.1.1. Điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Bình .......... 6
1.1.2. Tình hình giáo dục phổ thông tỉnh Quảng Bình trước năm 2001.............. 10
1.1.3. Chủ trương của Đảng về giáo dục - đào tạo........................................... 14
1.2. Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo giáo dục phổ thông ................................... 16
1.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình ............................................ 16
1.2.2. Sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình .............................................. 21
Chƣơng 2: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG BÌNH ĐỐI VỚI GIÁO
DỤC PHỔ THÔNG GIAI ĐOẠN 2006 - 2010 ................................................ 34

2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình ....................................................... 34
2.1.1. Chủ trương của Đảng về giáo dục .......................................................... 34
2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình ............................................ 39
2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện ............................................................................... 45
2.2.1. Nâng cao chất lượng ở các cấp học ........................................................ 45
2.2.2. Phát triển mạng lưới trường lớp và ổn định quy mô học sinh ............... 49
2.2.3. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học ............................ 54
2.2.4. Nâng cao chất lượng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên và cán bộ
quản lý giáo dục ....................................................................................... 58

2.2.5. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập ...................... 63
Chƣơng 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ........................................................ 68

3.1. Nhận xét ............................................................................................................ 68
3.1.1. Ưu điểm .................................................................................................. 68
3.1.2. Hạn chế................................................................................................... 76
3.2. Một số kinh nghiệm .......................................................................................... 79


3.2.1. Vận dụng chủ trương, chính sách giáo dục của Đảng, Nhà nước phù
hợp với điều kiện của địa phương ............................................................ 79
3.2.2. Sớm đưa ra chủ trương chọn đổi mới công tác quản lý giáo dục và
phương pháp dạy học là khâu đột phá...................................................... 81
3.2.3. Hoạch định và nhất quán với chủ trương coi trọng yếu tố con người
trong nâng cao chất lượng giáo dục ......................................................... 84
3.2.4. Kịp thời đề ra các giải pháp tăng cường nguồn lực, xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật và thực hiện xã hội hóa giáo dục ................................ 86
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 94
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 104


BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH QUẢNG BÌNH


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ATGT

:


An toàn giao thông

CBQLGD

:

Cán bộ quản lý giáo dục

CNH, HĐH :

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

CSVN

:

Cộng sản Việt Nam

DTNT

:

Dân tộc nội trú


GD

:

Giáo dục

GD-ĐT

:

Giáo dục - đào tạo

GDTH

:

Giáo dục tiểu học

GDPT

:

Giáo dục phổ thông

HĐND

:

Hội đồng nhân dân


PTDTNT

:

Phổ thông dân tộc nội trú

PTCS

:

Phổ thông cơ sở

THCS

:

Trung học cơ sở

THPT

:

Trung học phổ thông

TTGDTX

:

Trung tâm giáo dục thường xuyên


XHHGD

:

Xã hội hóa giáo dục

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa

UBND

:

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục có vai trò trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của mỗi quốc gia cũng như toàn thể nhân loại. Lịch sử phát triển của nhân loại
ngày càng khẳng định vai trò, tác dụng của giáo dục đối với kinh tế - xã hội.
Giáo dục là điều kiện cơ bản và là động lực quan trọng bậc nhất thúc đẩy sản
xuất, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Ngày nay, con người đang bước vào
thời đại của công nghệ thông tin, toàn cầu hoá, kinh tế thị trường, trong bối cảnh
đó, vấn đề giáo dục, văn hoá nổi lên hàng đầu. Ở nhiều nước, vấn đề này đã trở
thành vấn đề trung tâm của chiến lược phát triển đất nước. Nhận thức rõ điều đó,
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm phát triển giáo dục. Từ khi tiến hành

đổi mới đất nước, cùng với quá trình đổi mới mọi mặt về kinh tế - xã hội, sự
nghiệp giáo dục luôn được Đảng CSVN coi là động lực để phát triển đất nước
với quan điểm chỉ đạo chung: Cùng với khoa học công nghệ, GD-ĐT là quốc
sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho
đất nước.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam, GDPT được nhìn nhận
như một bậc giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt, là nền tảng của toàn bộ hệ
thống, nó đặt những cơ sở ban đầu rất quan trọng cho sự hình thành và phát triển
nhân cách của các lứa tuổi nhi đồng, thiếu niên và thanh niên, giúp học sinh phát
triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản nhằm
hình thành nhân cách. Vì yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, nhu cầu của nhân dân
và đòi hỏi của cuộc đấu tranh chống nguy cơ tụt hậu, Đảng CSVN không ngừng
đổi mới nội dung giáo dục và đào tạo, trong đó có GDPT.
Trong tình hình chung đó, Đảng bộ tỉnh Quảng Bình đã lãnh đạo sự
nghiệp GDPT đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh. Nhận thức vai trò của GDPT,
Đảng bộ tỉnh Quảng Bình thường xuyên tạo điều kiện để GDPT từng bước đổi
mới và phát triển vững chắc. Thực tế cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Quảng Bình, sự nghiệp GDPT của tỉnh đã đạt được những kết quả nhất định

1


về mở rộng quy mô, về nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, về đổi mới
chương trình, giáo trình… Tuy nhiên, dưới tác động của những yếu tố khách
quan, chủ quan, GDPT của tỉnh Quảng Bình dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
vẫn không tránh khỏi còn những hạn chế, tồn tại nhất định. Do vậy, nhìn nhận,
đánh giá một cách hệ thống, toàn diện sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình
đối với GDPT; đúc rút những kinh nghiệm phục vụ việc tiếp tục đổi mới, phát
triển giáo dục của tỉnh là việc làm cần thiết, vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý
nghĩa thực tiễn. Trên những lý do đó, chúng tôi mạnh dạn chọn vấn đề “Đảng bộ

tỉnh Quảng Bình lãnh đạo giáo dục phổ thông từ năm 2001 đến năm 2010” để
làm luận văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
GD-ĐT có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Đây là
lĩnh vực được nhiều tổ chức, cơ quan và các nhà khoa học đầu tư nghiên cứu. Đã
có không ít những công trình nghiên cứu, những bài viết về giáo dục đào tạo, đặc
biệt là GD-ĐT thời kỳ đổi mới được công bố. Nhìn một cách khái quát các công
trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề nghiên cứu có thể chia thành các nhóm
chủ yếu sau:
- Nhóm công trình nghiên cứu về giáo dục nói chung
“35 năm phát triển giáo dục phổ thông” của tác giả Võ Thuận Nho;
“Những bài nói và viết về giáo dục” của tác giả Nguyễn Văn Huyên; “Sơ thảo về
giáo dục Việt Nam (1945-1990)” của tác giả Phạm Minh Hạc; “Phát triển Giáo
dục - Phát triển con người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của
tác giả Phạm Minh Hạc; “Tri thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất
nước” của Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười… Đây là những tác phẩm thể hiện
những quan điểm chung, những nhận định chung nhất về nền giáo dục Việt Nam,
trong đó có đề cấp đến GDPT với tư cách là một bậc học cần có nhiều sự quan
tâm để đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế xã hội.
- Nhóm công trình nghiên cứu về giáo dục phổ thông
“Một số cơ hội để đánh giá thực trạng giáo dục trung học phổ thông” của
TS. Hồ Thiệu Hùng đăng trên báo tuổi trẻ ngày 10/2/2003; “Phát huy việc tự học

2


trong trường phổ thông trung học” của GS. VS. Nguyễn Cảnh Toàn đăng trên
báo Giáo dục và Thời đại ngày 10/2/2003; “Chất lượng giáo dục phổ thông một vấn đề cấp bách” của GS. VS. Nguyễn Cảnh Toàn đăng trên báo văn nghệ
ngày 11/10/2003 và 18/10/2003. Những bài viết trên đưa ra những phân tích,
nhận định về GDPT những năm đổi mới đất nước.

Nhận định về những thành tựu và hạn chế của GD-ĐT Việt Nam trong
những năm thực hiện đổi mới, chỉ ra nguyên nhân và đưa ra những kiến nghị, để
giáo dục nói chung và GDPT nói riêng thực sự trở thành “quốc sách hàng đầu”
là những vấn đề được đề cập đến trong các bài viết: “Đổi mới có tính cách mạng
nền giáo dục và đào tạo của nước nhà” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp; “Cải
cách giáo dục từ khâu đột phát nào?”của GS. NGND Nguyễn Ngọc Lanh; “Để
giáo dục và đào tạo thực sự trở thành quốc sách hàng đầu” của tác giả Phạm
Ngọc Minh; “Ngành giáo dục - đào tạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 2
(khóa VIII) và triển khai Nghị quyết Đại hội IX” của GS.TS. Nguyễn Minh
Hiển; “Thực hiện chủ trương của Đảng về đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục” của
PGS.TS. Nghiêm Đình Vì…
- Nhóm công trình nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng
Bình đối với giáo dục phổ thông
Đó là những công trình nghiên cứu về giáo dục của Tỉnh Quảng Bình
được công bố trên trang thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình.
Những công trình nghiên cứu và bài viết được công bố đã giúp cho người
nghiên cứu hiểu được phần nào về thực trạng GD-ĐT trên cả nước nói chung và
ở các địa phương nói riêng. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu
hệ thống, toàn diện, chuyên sâu về quá trình Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo
phát triển GDPT từ năm 2001 đến năm 2010.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ chủ trương, đường lối của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình đối với
GDPT từ năm 2001 đến năm 2010.

3


- Chỉ ra những thành tựu và hạn chế trong sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Quảng Bình đối với GDPT những năm 2001 - 2010; trên cơ sở đó, đúc rút một

số kinh nghiệm phục vụ hiện tại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo Đảng bộ tỉnh Quảng
Bình đối với GDPT từ năm 2001 đến năm 2010.
- Trình bày có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Quảng Bình vận dụng
đường lối của Đảng CSVN trong lãnh đạo sự nghiệp GDPT vào điều kiện địa
phương từ năm 2001 đến năm 2010.
- Nêu lên những nhận xét thành tựu, hạn chế trong sự lãnh đạo của Đảng
bộ tỉnh Quảng Bình đối với GDPT; đúc rút ra một số kinh nghiệm lãnh đạo sự
nghiệp phục vụ hiện tại.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của luận văn là những chủ trương, biện pháp, giải pháp đối với
GDPT của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình những năm 2001 - 2010.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: những chủ trương cơ bản, những giải pháp quan trọng của
Đảng bộ tỉnh Quảng Bình đối với GDPT.
- Về không gian: Nghiên cứu về tình hình GDPT ở địa bàn tỉnh Quảng
Bình.
- Về thời gian: Từ năm 2001 (Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ
XIII) đến năm 2010 (kết thúc nhiệm kỳ đại hội Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng
Bình lần thứ XIV).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và phương pháp luận sử học, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu chủ yếu là: phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp logic -

4



lịch sử. Ngoài ra, các phương pháp khác như: thống kê, phân tích, tổng hợp, so
sánh… cũng được sử dụng phù hợp với những nội dung cụ thể của luận văn.
5.2. Nguồn tài liệu
- Các văn kiện, Nghị quyết của Đại hội Đảng; các văn bản, chỉ thị của
Chính phủ, Bộ GD-ĐT về giáo dục.
- Các văn kiện của Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Bình, các Nghị quyết của
Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình, Báo cáo của
Sở Giáo dục và Đào tạo, báo cáo của Phòng Giáo dục các huyện, thị xã, các
phòng ban có liên quan và một số trường phổ thông của tỉnh; Niên giám thống
kê tỉnh Quảng Bình.
- Một số công trình nghiên cứu của các cá nhân, tập thể về vấn đề giáo dục.
6. Đóng góp của luận văn
Trình bày một cách hệ thống những chủ trương, chính sách của Đảng bộ
tỉnh Quảng Bình đối với GDPT từ năm 2001 đến năm 2010.
Từ những thành công, hạn chế, tồn tại rút ra kinh nghiệm vận dụng cho việc
tiếp tục đổi mới, phát triển giáo dục tỉnh Quảng Bỉnh ở giai đoạn tiếp theo.
Bổ sung thêm những nội dung khoa học về lịch sử địa phương tỉnh Quảng
Bình.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy,
nghiên cứu những vấn đề có liên quan.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3
chương:
Chƣơng 1: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình đối
với giáo dục phổ thông giai đoạn 2001 - 2005.
Chƣơng 2: Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình đối với giáo dục
phổ thông giai đoạn 2006 - 2010.
Chƣơng 3: Nhận xét và kinh nghiệm.


5


Chƣơng 1
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG BÌNH
ĐỐI VỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG GIAI ĐOẠN 2001 - 2005
1.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng
Bình đối với giáo dục phổ thông
1.1.1. Điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Bình
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Là một tỉnh nằm trong khu vực Bắc Trung bộ, tỉnh Quảng Bình có điểm
cực Bắc thuộc huyện Tuyên Hoá ở tọa độ 18 độ 05' vĩ độ Bắc và 105 độ 52' kinh
độ Đông; điểm cực Nam thuộc huyện Lệ Thuỷ ở tọa độ 17 độ 05' vĩ độ Bắc và
106 độ 45' kinh độ Đông, điểm cực Đông thuộc huyện Lệ Thuỷ ở tọa độ 106 độ
59'37" kinh độ Đông và 17 độ 10' vĩ độ Bắc; điểm cực Tây thuộc huyện Minh
Hóa ở tọa độ 105 độ 36'55" kinh độ Đông và 17 độ 52' vĩ độ Bắc.
Quảng Bình là tỉnh nằm ven biển Bắc Trung Bộ từ Đèo Ngang vào đến
Vĩnh Linh (Quảng Trị), gắn liền với dải Trường Sơn Bắc ở phía Tây và Biển
Đông ở phía Đông, có chiều ngang hẹp, nơi eo thắt của dải đất miền Trung, có
diện tích tự nhiên trên đất liền là 8.037,6 km². Vùng đặc quyền lãnh hải Quảng
Bình có diện tích 20.000km², với 5 hòn đảo lớn nhỏ: Hòn La, Hòn Gió, Hòn Cọ,
Hòn Nồm và Hòn Chùa.
Địa giới Quảng Bình, phía Bắc giáp hai huyện Kỳ Anh và Hương Khê của
tỉnh Hà Tĩnh với dải Hoành Sơn làm ranh giới tự nhiên, phía Đông vượt Đèo
Ngang ở độ cao 253m, phía Tây qua thung lũng Rào Nậy (Sông Gianh), dài
khoảng 134km; phía Nam giáp các huyện Vĩnh Linh, Hướng Hoá của tỉnh
Quảng Trị, dài khoảng 95 km. Đường ranh giới phía Tây cũng là biên giới quốc
gia với nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào dài 201,87 km. Đây là dãy
Trường Sơn Bắc, đoạn núi này còn có tên là dãy Giăng Màn với đỉnh Phou Copi cao 2017m ở thượng nguồn sông Gianh, đèo Mụ Dạ cao 418m nằm trên
đường 12, có cửa khẩu Cha Lo sát biên giới Việt Lào. Phía Đông là bờ biển từ


6


Mũi Độc dưới chân Đèo Ngang đến Mũi Lạy (huyện Lệ Thuỷ) dài khoảng
116,04 km.
Tỉnh Quảng Bình có địa hình thấp dần từ Tây sang Đông. Phía Tây là dãy
Trường Sơn hùng vĩ được nâng cao qua các thời kỳ vận động tạo sơn, có nhiều
đỉnh núi cao trên 1000m. Càng về phía Đông, địa hình thấp dần, do hẹp chiều
ngang nên độ dốc tương đối lớn. Vùng đồi mở rộng với nhiều nhánh núi tiến ra
sát biển làm thu hẹp một phần đáng kể vùng đồng bằng duyên hải.
Quảng Bình có mạng lưới sông ngòi khá phong phú, mật độ đạt khoảng
0,6-1,85km/km² nhưng phân bố không đều, ở miền núi là 1km/km², ở ven biển
chỉ đạt 0,4-0,5km/km². Có 5 lưu vực sông chính đều đổ ra Biển Đông, từ Bắc
vào Nam có: sông Ròn, sông Gianh, sông Bố Trạch, sông Dinh và sông Kiến
Giang - Nhật Lệ. Tổng số có 85 sông lớn nhỏ, gồm 30 sông phụ lưu cấp I; 24
sông phụ lưu cấp II; 9 sông phụ lưu cấp III và nhiều con suối khác.
Nằm ở dải đất hẹp, uốn theo hình vòng cung của đất nước, khí hậu Quảng
Bình mang những nét đặc trưng của miền khí hậu Đông Trường Sơn. Tuy có chế
độ mưa ẩm phong phú nhưng nằm trên hành lang chịu ảnh hưởng của bão và áp
thấp nhiệt đới của biển Đông và Thái Bình Dương nên thường xuyên bị bão lũ
và mùa hè thường có gió Lào khô nóng gây ra hạn hán.
Trải qua quá trình kiến tạo địa chất lâu dài, chịu tác động của vận động
tạo sơn là tiền đề tạo cho Quảng Bình có nguồn tài nguyên khoáng sản tương đối
phong phú. Khoáng sản kim loại trữ lượng không lớn, phân tán, ít có giá trị khai
thác công nghiệp, chỉ có khoáng sản phi kim loại có trữ lượng lớn nhất là đá vôi,
cao lanh và cát sạn xây dựng. Nhìn chung, đất ở Quảng Bình nghèo dinh dưỡng,
tầng đất mỏng và chua, diện tích đất phù sa ít nhưng Quảng Bình có tài nguyên
rừng phong phú với hệ tài nguyên động thực vật phong phú, quý hiếm. Với hệ
thống sông ngòi có lưu vực lớn, nguồn nước dồi dào nhưng sông ngắn và dốc đặt

ra nhiều thách thức trong việc trị thủy.
Điều kiện tự nhiên Quảng Bình vừa có mặt thuận lợi, vừa có những khó
khăn cho phát triển kinh tế - xã hội, yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển của GDPT của tỉnh.

7


Đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Bình
Đơn vị hành chính của tỉnh Quảng Bình gồm 6 huyện (Quảng Trạch, Bố
Trạch, Minh Hóa, Quảng Ninh, Tuyên Hóa, Lệ Thủy), thị xã Ba Đồn và thành
phố Đồng Hới, với 159 xã, phường và thị trấn.
Dân số của tỉnh tính đến ngày 01/04/2009 là 846.924 người (năm 2013 là
854.918 người), mật độ trung bình 407 người/km², gấp 1,7 lần mật độ dân số
bình quân của cả nước. Trên địa bàn tỉnh có 24 dân tộc anh em cùng sinh sống,
nhưng chủ yếu là người Kinh. Dân tộc ít người thuộc hai nhóm chính là Chứt và
Bru-Vân Kiều gồm những tộc người chính là: Khùa, Mã Liềng, Rục, Sách, Vân
Kiều, Mày, Arem, v.v... sống tập trung ở hai huyện miền núi Tuyên Hóa và
Minh Hóa và một số xã miền Tây Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy. Dân cư phân
bố không đều, 86,83% sống ở vùng nông thôn và 14,4% sống ở thành thị.
Hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật, hạ tầng cơ sở của tỉnh đã và đang được
xây dựng ngày một hiện đại. Đến nay, 98,7% xã phường có điện, có trên 97%
hộ dân cư dùng điện lưới. Về giao thông vận tải, toàn tỉnh có 4.655 km đường
bộ, trong đó có 736 km đường quốc lộ, 335 km đường tỉnh lộ, 923 km đường
huyện và 2.661 km đường liên thôn, liên xã, trong đó có gần 300 km đã được rãi
nhựa. Có 160 km đường sắt đi suốt chiều dài của tỉnh với 17 ga. Giao thông đến
các huyện cơ bản thuận tiện. Hiện nay, 100% số xã trong tỉnh có đường ô tô
đến trung tâm. Mạng lưới bưu chính viễn thông được phát triển hiện đại và rộng
khắp. Đến cuối năm 2010 toàn tỉnh có 1 bưu cục trung tâm, 7 bưu cục huyện, 35
bưu cục khu vực và 91 điểm bưu điện văn hóa xã, 150 đại lý bưu chính chuyển

phát…
Tốc độ tăng trưởng (GDP) của tỉnh bình quân 9%/năm, trong đó: công
nghiệp - xây dựng tăng 18%, nông nghiệp tăng 4,95%, dịch vụ tăng 8,7%. Tỷ trọng
công nghiệp - xây dựng trong cơ cấu kinh tế đạt 32,1%, nông nghiệp 29,7%, dịch
vụ 38,2%... Thu nhập bình quân đầu người đạt 650 USD [20, tr. 11].

8


Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của tỉnh đang trên đà phát
triển. Tỉnh đã tập trung đầu tư xây dựng một số cơ sở sản xuất các sản phẩm có
lợi thế về nguyên liệu, khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường như xi măng,
gạch ceramic, phân lân vi sinh, thủy sản chế biến... Công nghiệp ngoài quốc
doanh từng bước phát triển đa dạng, hình thành một số cụm, điểm tiểu thủ công
nghiệp, làng nghề; nâng cấp, mở rộng, đầu tư chiều sâu nhiều cơ sở sản xuất, chế
biến, khôi phục nghề truyền thống và du nhập thêm nghề mới, góp phần giải
quyết việc làm và tăng thu nhập của người lao động.
Kinh tế nông nghiệp có nhiều biến chuyển. Cơ cấu sản xuất chuyển dịch
theo hướng tăng tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản, giảm dần tỷ trọng trồng trọt, phá
bỏ thế độc canh,… chăn nuôi và sản xuất thủy sản phát triển mạnh. Tỷ trọng
chăn nuôi trong giá trị sản xuất nông nghiệp đạt gần 40%. Tỉnh đã đẩy mạnh
giao đất, giao rừng, cho thuê rừng tới tổ chức, hộ gia đình, cá nhân để nâng cao
hiệu quả kinh tế rừng.
Thương mại, dịch vụ tăng trưởng bình quân 9%/năm. Mạng lưới kinh doanh
nội tỉnh không ngừng mở rộng, quy mô ngày càng tăng, đa dạng ngành nghề kinh
doanh, cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Tổng mức
lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tăng bình quân
17,1%/năm, dịch vụ vận tải, viễn thông, thông tin liên lạc phát triển nhanh, chất
lượng dịch vụ bảo hiểm, ngân hàng có nhiều tiến bộ. Một số loại hình dịch vụ tư
vấn, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ… bước đầu hình thành.

Đạt được những kết quả trên là do Đảng bộ tỉnh Quảng Bình đã lãnh đạo,
chỉ đạo xác định đúng trọng tâm, trọng điểm trong phát triển kinh tế. Do đó, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch đúng hướng, phát huy và khơi dậy một cách có hiệu quả các
tiềm năng kinh tế và đặc biệt là tiềm năng con người. Nói chung, kinh tế và đời
sống của nhân dân tỉnh Quảng Bình đã có bước phát triển đáng kể.
Tuy nhiên, kinh tế tỉnh Quảng Bình phát triển chưa tương xứng với tiềm
năng và vẫn bộc lộ một số tồn tại. Tăng trưởng kinh tế tuy đạt mức khá nhưng
chưa vững chắc. Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển dịch theo hướng tích cực,
nhưng chất lượng chưa cao, nhất là lĩnh vực dịch vụ. Thu ngân sách trên địa bàn

9


còn thấp, không đủ sức để giải quyết những nhiệm vụ đột xuất phát sinh. Đầu tư
nước ngoài vào tỉnh tăng chậm, quy mô nhỏ. Một số lợi thế như nguồn nhân lực,
tài nguyên khoáng sản, kinh tế đồi rừng, mặt nước… khai thác chưa hiệu quả. Cơ
cấu lao đông, nhất là lao động ở nông thôn chuyển dịch chậm, chất lượng nguồn
nhân lực chưa cao, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp. Với đặc điểm kinh tế như
trên, đời sống của nhân dân, đặc biệt là vùng đồng bào các dân tộc ở vùng núi có
được cải thiện nhưng chưa cao. Điều này khiến cho Quảng Bình gặp phải một số
những khó khăn trong việc quy hoạch mạng lưới trường lớp, thực hiện mục tiêu
phát triển giáo dục nói chung và phổ cập giáo dục, chống mù chữ nói riêng.
Bên cạnh đó, Quảng Bình có những thuận lợi cơ bản như: các cấp ủy Đảng
và chính quyền từ tỉnh đến xã, phường luôn luôn quan tâm, chỉ đạo ngày càng cụ
thể và hiệu quả hơn đối với ngành giáo dục và đạo tạo, nhất là đối với GDPT;
truyền thống hiếu học của các địa phương đã trở thành động lực thúc đẩy, phát
triển giáo dục; kinh tế phát triển không ngừng, môi trường xã hội ổn định, đời
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, tạo ra các nguồn lực cơ bản đảm bảo giáo dục
phát triển lành mạnh.
1.1.2. Tình hình giáo dục phổ thông tỉnh Quảng Bình trước năm 2001

Tháng 6 năm 1989, tỉnh Bình Trị Thiên được chia tách thành 3 tỉnh Quảng
Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, tỉnh Quảng Bình trở về với địa giới cũ. Với
quyết tâm theo kịp sự phát triển chung của cả nước, ngành GD-ĐT tỉnh Quảng
Bình đã nhanh chóng sắp xếp lại mạng lưới trường, lớp hợp lý, hình thành hệ
thống trường tiểu học và khẩn trương đào tạo đội ngũ hiệu trưởng cho ngành học
này. Việc phát triển số lượng (tăng tỷ lệ huy động, giảm tỷ lệ bỏ học) ở các
ngành học, bậc học, cấp học và đa dạng hóa các loại hình đào tạo được chú
trọng. Các biện pháp chỉ đạo chuyên môn, nâng cao chất lượng đại trà, chú trọng
đầu tư chất lượng mũi nhọn được tăng cường. Công tác phổ cập cấp I - xóa mù
chữ bước đầu đạt kết quả tốt. Cuối năm 1990 đã có 50 trong số 147 xã, phường
đạt chỉ tiêu phổ cập tiểu học và xóa mù chữ [1, tr. 178].
Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng và Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) xác định GD-

10


ĐT là quốc sách hàng đầu, ngày 27/3/1993, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị
quyết số 06 - NQ/TU về tổ chức thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần 4 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa VII), trong đó nhấn mạnh đến nhiệm vụ giáo dục
là: “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, là điều kiện cơ bản để thực hiện
mục tiêu kinh tế - xã hội xây dựng và bảo vệ đất nước” [1, tr. 222]. Trên cơ sở
đó, Thường vụ Tỉnh ủy đã đề ra chương trình và mục tiêu cho ngành giáo dục:
một là, tiếp tục đẩy mạnh phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ, phấn đấu đạt
mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập tiểu học vào năm 1995; hai là, tiếp tục điều
chỉnh sắp xếp mạng lưới trường lớp, củng cố phát triển các ngành học, đa dạng
hóa các loại hình trường lớp, chú ý chất lượng mũi nhọn; ba là, tăng cường cơ sở
vật chất, trang thiết bị trường học, bố trí đủ giáo viên cho vùng dân tộc ít người,
miền núi, miền biển; bốn là, từng bước hiện đại hóa dạy và học bằng việc đưa
giáo dục tin học và phương tiện nghe nhìn vào nhà trường.

Thực hiện chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, dưới lãnh đạo của
Sở GD-ĐT, GDPT của Quảng Bình giai đoạn 1991-1995 đã khởi sắc hơn so với
giai đoạn trước, cụ thể là:
- Đối với giáo dục Tiểu học, mạng lưới trường tiểu học được mở rộng và
phát triển. Năm học 1991-1992, có 127 trường tiểu học [51, tr. 2]; năm học
1992-1993 xây dựng mới 13 trường tiểu học; năm học 1993-1994 xây dựng mới
7 trường tiểu học, đưa số trường tiểu học đến năm 1995 là 221 trường [52, tr. 3].
Về số lượng học sinh, năm học 1990-1991 có 81.816 học sinh, đến năm học
1994-1995 là 111.461 học sinh [52, tr. 4], bình quân mỗi năm tăng 8,1%. Đáng
chú ý là các lớp tình thương, khuyết tật tổ chức được 24 lớp với 260 học sinh.
Địa bàn miền núi và dân tộc ít người phát triển trường, lớp về tận thôn bản, nên
đã huy động được số lượng học sinh vùng cao với 6.722 em, tổng số con em dân
tộc huy động vào lớp được 509 học sinh trong năm học 1994-1995. Việc đưa lớp
tiểu học về tận thôn, bản đã tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện phổ cập giáo dục
tiểu học - đúng độ tuổi.

11


Chất lượng GD-ĐT ở bậc tiểu học có chuyển biến tiến bộ rõ rệt, biểu hiện
qua chỉ số tốt nghiệp hàng năm. Năm học 1991-1992 tỷ lệ học sinh tốt nghiệp
đạt 97,8%; 1992-1993: 90,2%, 1993-1994: 91,8%; 1994-1995: 97,3%
- Đối với cấp trung học cơ sở, năm học 1990-1991 có 73 trường, năm học
1991-1992 xây dựng thêm một trường mới và thành lập mới 4 trường phổ thông
cấp 2 - 3, năm học 1993-1994 xây dựng thêm hai trường mới và 7 trường cấp 2 3, đến năm 1994-1995 trên địa bàn toàn tỉnh có 76 trường THCS và 12 trường
phổ thông cấp 2 và cấp 3 [13, tr. 163].
Số lượng học sinh THCS tăng lên: năm 1991 có 24.581 học sinh, năm
1995 tăng lên 41.404 học sinh. Từ năm 1991 đến năm 1995 tăng thêm 16.823
học sinh [13, tr. 163].
- Đối với trung học phổ thông, năm học 1991-1992 có 14 trường (trong đó

có một trường THPT dân tộc nội trú tỉnh) với 118 lớp học. Năm 1995, xây dựng
mới một trường, đưa tổng số trường toàn tỉnh năm 1995 lên 15 trường với 201
lớp học. Hệ thống trường chuyên, lớp chọn có 4 lớp chuyên với 71 học sinh, 7
lớp chọn với 683 học sinh. Tiếp tục duy trì và củng cố hai trường phổ thông dân
tộc nội trú huyện (Lệ Thủy và Minh Hóa). Đến cuối năm 1995, tỉnh đã đảm bảo
mỗi huyện (trừ huyện Minh Hóa chỉ có 1 trường) có từ 2 - 4 trường THPT và
trường cấp 2 - 3. Số học sinh THPT toàn tỉnh từ 4.170 học sinh năm 1991 tăng
lên 9.497 học sinh năm 1995.
Đội ngũ giáo viên phổ thông trong giai đoạn 1991-1995 cũng đã được
quan tâm phát triển cả về số lượng và chất lượng, nhằm đáp ứng yêu cầu tăng
quy mô học sinh. Năm 1991, toàn tỉnh có 4.846 giáo viên phổ thông, năm 1995
tăng lên 6.017 giáo viên (bình quân mỗi năm tăng 197 giáo viên), trong đó: giáo
viên tiểu học tăng từ 3.042 giáo viên lên 3.737 giáo viên (bình quân mỗi năm
tăng 173 giáo viên); giáo viên THCS từ 1.434 giáo viên tăng lên 1.886 giáo viên
(bình quân mỗi năm tăng 38 giáo viên) [13, tr. 164 ].
Có thể nói, những năm 1991-1995, mặc dù kinh tế - xã hội của tỉnh còn
gặp nhiều khó khăn, song giáo dục Quảng Bình đã vượt qua mọi khó khăn thử
thách và giành được những thành tựu đáng kể. Đến giai đoạn 1996-2000, Nghị

12


quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII khẳng định lại một lần nữa: “Giáo dục
đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài” [1, tr. 311] và đề ra chủ trương phát triển giáo dục trên cả ba
mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả.
Ngày 24/1/1997, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ra
Nghị Quyết 01-NQ/TU thông qua Chương trình hành động của Tỉnh ủy về định
hướng phát triển giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ tỉnh Quảng Bình trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000. Các nghị

quyết nêu trên xác định: “Phát triển giáo dục, đào tạo là giữ vững mục tiêu xã
hội chủ nghĩa, là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước
và của toàn dân, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa
học công nghệ và củng cố quốc phòng - an ninh, thực hiện công bằng xã hội
trong giáo dục - đào tạo và giữ vững vai trò nòng cốt của các trường công lập đi
đôi với đa dạng hóa các loại hình giáo dục - đào tạo” [66, tr 2].
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII và Chương
trình hành động ban hành kèm theo Nghị quyết 01-NQ/TU của Tỉnh ủy, được sự
quan tâm, lãnh đạo của Sở GD-ĐT, GDPT của Quảng Bình trong những năm
1996-2000 đã có những tiến bộ đáng kể. Cuối năm 1996, Quảng Bình đã được
Bộ GD-ĐT công nhận tỉnh đạt chuẩn quốc gia phổ cập giáo dục tiểu học và xóa
mù chữ. Đến năm 1998, toàn tỉnh đã thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học cho
143 xã, phường và xóa mù chữ cho 1.768 người [1, tr. 314]. Cùng với lực lượng
giáo viên của ngành GD làm nòng cốt, các đoàn thể như phụ nữ, thanh niên và
đặc biệt là lực lượng biên phòng đã tích cực tham gia mở lớp xóa mù cho các đối
tượng ở thôn bản vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Phong trào thi đua dạy tốt, học tốt đã hoạt động sôi nổi và ngày càng có
chất lượng. Năm 1998, toàn tỉnh có 23 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia, đưa
phong trào thi đua xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia trong toàn tỉnh phát triển
mạnh mẽ nhất là trong cấp tiểu học. Năm học 1997-1998, đã có 455 học sinh học
sinh giỏi cấp tỉnh, 51 học giỏi cấp quốc gia [1, tr. 314].

13


Quy mô trường lớp và số lượng học sinh các cấp tăng nhanh. Năm học
1995-1996 có 221 trường tiểu học, 104 trường THCS và 115 trường THPT thì
đến năm học 1999-2000 có 241 trường tiểu học, 119 trường THCS và 24 trường
THPT. Số học sinh các cấp năm 1995-1996 là 113.587 học sinh tiểu học, 41.404
học sinh THCS và 9.497 học sinh THPT, đến năm 1999-2000, số học sinh tiểu

học là 119.866 học sinh, học sinh THCS là 69.359 học sinh và học sinh THPT là
21.660. Đội ngũ giáo viên được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Năm
học 1995-1996 có 3.737 giáo viên tiểu học, 1.886 giáo viên THCS, 394 giáo
viên THPT, đến năm học 1999-2000 có 3.996 giáo viên tiểu học, 2.952 giáo viên
THCS và 732 giáo viên THPT [1, tr. 314].
Để đáp ứng nhu cầu học tập cho con em, thực hiện XHHGD, từ năm học
1998-1999, ngành GD tỉnh Quảng Bình đã mở thêm trường bán công hệ THPT,
góp phần thu hút trên 70% học sinh tốt nghiệp THCS được vào THPT. Năm
2000, ngành GD Quảng Bình được Bộ GD-ĐT tặng cờ thi đua đơn vị dẫn đầu
toàn ngành.
Tóm lại, trước năm 2001, Đảng bộ tỉnh Quảng Bình đã quán triệt đường
lối, chủ chương của Đảng và Nhà nước về vấn đề giáo dục và đã đem lại kết quả
quan trọng, góp phần đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình CNH, HĐH
của tỉnh trong tương lai. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đã đạt được, GDĐT Quảng Bình vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém như: chất lượng giáo dục
chính trị, đạo đức các môn khoa học xã hội nhân văn còn thấp; giáo dục hướng
nghiệp dạy nghề còn hạn chế; đội ngũ giáo viên mặc dù đã được tăng cường
nhưng vẫn thiếu và chưa đồng bộ; trang bị trường học còn thiếu, lạc hậu…
Những tồn tại, yếu kém trên là thách thức to lớn, đòi hỏi Đảng bộ và chính
quyền tỉnh Quảng Bình phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện trong chặng
đường tiếp theo.
1.1.3. Chủ trương của Đảng về giáo dục - đào tạo
Bước sang thế kỹ XXI, công cuộc đổi mới của Việt Nam đã vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu quan trọng; kinh tế tăng
trưởng khá; văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống nhân dân được cải thiện,

14


GD-ĐT phát triển về quy mô và cơ sở vật chất; trình độ dân trí và chất lượng
nguồn nhân lực được nâng lên, Việt Nam đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ

và phổ cấp giáo dục trung học; tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, quốc
phòng, an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng.
Những thành tựu đó càng củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ Xã hội
chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Trong bối cảnh đó, về GD-ĐT, Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam
(2001) khẳng định: "Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực
con người - yếu tố cơ bản để phát triển nhanh và bền vững [26, tr. 108-109]. Đại
hội chủ trương: phải tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội
dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo
dục; thực hiện "chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa". Đẩy mạnh phong trào học
tập trong nhân dân bằng những hình thức chính quy, không chính quy, thực hiện
"cả nước trở thành một xã hội học tập". Chăm lo phát triển giáo dục mầm non;
củng cố thành tựu xóa mù chữ và phổ cấp GDTH; đẩy nhanh tiến độ phổ cập
giáo dục THCS, tạo điều kiện cho các địa phương hoàn thành sớm phổ cập giáo
dục trung học. Thực hiện chủ trương Xã hội hóa giáo dục, phát triển đa dạng các
hình thức đào tạo; khắc phục khuynh hướng "thương mại hóa" giáo dục, ngăn
chặn những tiêu cực trong giáo dục.
Ngày 19/2/2000, Quốc hội khóa X ban hành 2 Nghị quyết quan trọng
Nghị quyết 40/2000/NQ-QH10 về đổi mới chương trình GDPT và Nghị quyết
41/2000/NQ-QH10 về chủ trương phổ cập giáo dục THCS.
Tháng 12/2000, Thủ tướng Chính phủ ban hành chiến lược phát triển giáo
dục 2001-2010, xác định mục tiêu, giải pháp, các bước tiến hành theo phương
châm “đa dạng hóa, chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa” nhằm xây dựng một
nền giáo dục có tính thực tiễn, hiệu quả; tạo bước chuyển mạnh về chất lượng để
nền giáo dục Việt Nam sớm tiến kịp các nước phát triển trong khu vực, nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần đắc lực thực hiện các
mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010.

15



Ngày 22/11/2001, Chính phủ ban hành nghị định số 88/2001/NĐ-CP “về
việc phổ cập giáo dục trung học cơ sở”. Nghị định nêu mục tiêu phổ cập giáo
dục THCS là đảm bảo cho hầu hết thanh thiếu niên sau khi tốt nghiệp tiêu học
tiếp tục học tập để đạt trình độ THCS trước khi hết tuổi 18, đáp ứng yêu cầu
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước.
Tiếp theo, ngày 15/11/2002, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số
159/2002/QĐ-TTg “Về việc phê duyệt Đề án thực hiện Chương trình kiên cố hóa
trường, lớp học”. Mục tiêu của Đề án là thực hiện Chương trình kiên cố hóa các
trường, lớp học trong cả nước từ giáo dục mầm non đến GDPT để đến cuối năm
2003 xóa bỏ tình trạng học 3 ca và đến năm 2005 không còn lớp học tạm thời
tranh, tre, nứa, lá.
Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 161/2002/QĐ-TTg ngày
15/11/2002 “Về một số chính sách phát triển giáo dục mầm non”. Quyết định
khẳng định Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư phát triển giáo dục mầm non, đồng
thời đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục mầm non, mở rộng hệ thống nhà trẻ và lớp
mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư; ưu tiên phát triển giáo dục mầm non ở những
xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo
dục trẻ em dưới 6 tuổi, tạo điều kiện để trẻ em được phát triển toàn diện về chất,
tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ và hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách.
Tất cả những chủ trương của Đảng, Nhà nước nhắm đổi mới và nâng cao
chất lượng giáo dục, để giáo dục Việt Nam có thể hòa nhập với các nước trong
khu vực và trên thế giới, góp phần thúc đẩy việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
1.2. Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lãnh đạo giáo dục phổ thông
1.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Quảng Bình
Cùng với sự phát triển của đất nước trong công cuộc đổi mới, nền kinh tế
của Quảng Bình đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nổi bật là việc xây dựng

kết cấu hạ tầng, phát triển nông nghiệp toàn diện, đẩy mạnh sự nghiệp văn hóa,
giáo dục và thực hiện chính sách thương binh liệt sĩ, người có công. Hệ thống

16


chính trị được củng cố. Quốc phòng an ninh được tăng cường, đảm bảo ổn định
chính trị và trật tự xã hội. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải
thiện đáng kể. Ngành Giáo dục Quảng Bình có đóng góp quan trọng vào sự phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh, tạo điều kiện và đặt ra những yêu cầu mới đối với
sự nghiệp GD-ĐT.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Quảng Bình lần thứ XIII (2001) đã xác định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu
chủ yếu của tỉnh đến năm 2005. Đối với GD-ĐT, Đại hội nêu rõ: GD-ĐT là quốc
sách hàng đầu, đầu tư cho GD-ĐT là đầu tư cho phát triển. Giữ vững định hướng
XHCN và thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục đào tạo, tạo cơ hội học tập
cho mọi người, tạo điều kiện cho con em các gia đình có công với cách mạng,
gia đình nghèo, những người khuyết tật bẩm sinh có cơ hội được học tập, phát
triển giáo dục ở các vùng dân tộc, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biển; giảm
bớt sự cách biệt về GD-ĐT giữa các vùng và các tầng lớp dân cư [19, tr. 75]. Đại
hội còn nhấn mạnh: Thực hiện giáo dục toàn diện, đẩy mạnh quá trình xã hội hóa
giáo dục, kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội, xây
dựng hệ thống GD-ĐT phục vụ đắc lực yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng an ninh, trong đó lấy mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ kịp thời
chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương làm trọng tâm
[19, tr. 75].
Đối với GDPT, Nghị quyết Đại hội XIII nêu ra các mục tiêu đến năm
2005 là: Hàng năm huy động 99% trẻ 6 tuổi vào lớp 1. Phấn đấu đến năm 2005,
toàn tỉnh đạt 100% trẻ trong độ tuổi vào tiểu học, 100% học sinh tốt nghiệp tiểu
học vào trung học cơ sở và 70 - 75% tốt nghiệp THCS vào THPT. Đến năm

2005 có 60 - 65% xã, phường đạt chuẩn phổ cập THCS, nâng tỷ lệ người lao
động qua đào tạo nghề lên 22% [19, tr. 76].
Ngày 12/12/2002, Tỉnh ủy Quảng Bình đã ban hành Chương trình hành
động số 27 - CTr/TU, Chương trình hành động thực hiện kết luận hội nghị lần
thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX “Về tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Trung ương 2 khóa VIII, phương hướng phát triển giáo dục đào tạo từ nay

17


đến năm 2005 và đến năm 2010. Theo đó, phương hướng phát triển giáo dục tiếp
tục được khẳng định lại, đó là: Quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX, kết luận của Hội nghị lần thứ 6 ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa IX, tạo bước chuyển biến rõ rệt chất lượng giáo dục toàn diện, thực
hiện đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp giáo dục; mở rộng hợp lí quy mô
trên cơ sở nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục; chăm lo phát triển giáo dục
mầm non; củng cố thành quả phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ, đẩy
mạnh phổ cập Trung học cơ sở, từng bước triển khai phổ cập THPT; xây dựng
một xã hội học tập; tiếp tục chấn chỉnh nề nếp, kỷ cương, cải tiến thi cử, đánh
giá kết quả học tập rèn luyện của học sinh; tăng cường xã hội hóa giáo dục; phát
triển giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và các địa bàn đặc biệt khó
khăn; thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục; gắn phát triển giáo dục với
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Trên cơ sở khẳng định lại các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ XVIII đã nêu ra, Chương trình hành động số 27 của Tỉnh ủy đã xác
định các nhiệm vụ và giải pháp cần phải thực hiện để phát triển sự nghiệp GDPT
giai đoạn 2001 - 2005.
Về nhiệm vụ:
- Một là, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Thực hiện giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo

đức, lối sống, bồi dưỡng cho thế hệ trẻ tình yêu quê hương đất nước, tư tưởng xã
hội chủ nghĩa, sống, làm việc theo pháp luật, ý chí tiến thủ, lập thân, lập nghiệp,
năng động, nhạy cảm, nắm bắt khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới. Ngăn chặn
các tệ nạn xã hội thâm nhập vào nhà trường.
Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tích cực,
chủ động sáng tạo của người học, gắn học với hành. Coi trọng chuẩn hóa đội ngũ
giáo viên. Giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, nhất là THCS. Nâng cao chất lượng và
hiệu quả giáo dục trong các cấp học, ngành học. Chăm lo bồi dưỡng nhân tài
trong các lĩnh vực.

18


- Hai là, phát triển, mở rộng quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn trên
cơ sở bảo đảm chất lượng và hiệu quả giáo dục
Bên cạnh giáo dục chính quy, phát triển giáo dục không chính quy, các
hình thức học tập cộng đồng ở các phường, xã, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi
người được học tập suốt đời, từng bước xây dựng một xã hội học tập.
Củng cố và phát huy kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ,
đặc biệt là miền núi, vùng sâu, vùng xa. Hoàn thành cơ bản phổ cập THCS năm
2007 từng bước thực hiện phổ cập THPT ở những nơi đã phổ cập THCS.
- Ba là, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục
Ưu tiên phát triển giáo dục vùng khó khăn, vùng đồng bằng dân tộc thiểu
số, tạo điều kiện cho mọi người được học tập, nhất là con em gia đình nghèo và
các đối tượng chính sách xã hội.
Củng cố và tăng cường hệ thống các trường nội trú, bán trú cho học sinh
dân tộc thiểu số. Chú trọng đào tạo cán bộ người dân tộc, thực hiện các chế độ về
miễn phí học tập, cung cấp sách giáo khoa cho học sinh vùng cao, vùng sâu, học
sinh dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt chế độ chính sách thi cử tuyển, đào tạo theo
địa chỉ.

Về giải pháp
- Nâng cao nhận thức trách nhiệm của cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt
trận, đoàn thể các cấp, của cán bộ, nhân dân về vai trò, vị trí của giáo dục trong
sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý, phát
huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp, các ngành, của toàn xã hội, tích cực
chăm lo phát triển mạnh mẽ sự nghiệp GDPT.
- Đổi mới mạnh mẽ công tác quản lí giáo dục. Thực hiện việc phân cấp
quản lí giáo dục theo đúng quy định của luật giáo dục, phối hợp chặt chẽ quản lý
theo ngành với quản lí theo lãnh thổ. Nâng cao vai trò tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của chính quyền các cấp trong việc thực hiện chức năng quản lí Nhà nước
đối với các cơ sở giáo dục trên địa bàn.
- Tăng cường công tác giáo dục lý tưởng, đạo đức, lối sống, giáo dục
truyền thống cho học sinh tiểu học, xây dựng các tổ chức tự quản, đẩy mạnh các

19


×