Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã huyện thạch thất – TP hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.52 KB, 62 trang )

Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Lịch sử quá trình hình thành và phát triển của nền hành chính nước ta
đã cho thấy chính quyền cấp xã luôn giữ một vị trí, vai trò rất quan trọng. Có
thể coi đây là nền tảng của toàn bộ hệ thống chính quyền bởi đây là cấp gần
dân nhất, trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ của hoạt động quản lý Nhà nước
trên tất cả các mặt ở địa phương, đảm bảo cho chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống.
Tuy nhiên chính quyền cấp xã không thể hoàn thành nhiệm vụ của
mình một cách có hiệu lực và hiệu quả nếu thiếu một đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã có đủ trình độ để đảm nhận công việc được giao. Cũng như nhân
tố con người trong mọi tổ chức khác, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã chính
là hạt nhân, là nhân tố quyết định đến chất lượng hoạt động của chính quyền
xã nói riêng cũng như toàn bộ hệ thống chính trị ở cấp xã nói chung. Chính vì
vậy, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã luôn được
Đảng và Nhà nước quan tâm. Nghị quyết Trung ương 3 Khóa VIII đã xác
định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực là yếu tố quyết
định chất lượng của bộ máy nhà nước”.
Mặc dù trong những năm qua Chính phủ ban hành rất nhiều văn bản
nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung và
đội ngũ cán bộ công chức cấp xã nói riêng nhưng một thực tế khách quan cần
nhận thấy là chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, đặc biệt là cán
bộ, công chức xã, thị trấn ở các vùng nông thôn và miền núi tương đối thấp,
không tương xứng với vị trí, vai trò của họ. Điều này ảnh hưởng không nhỏ
đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp xã và niềm tin của nhân
dân vào bộ máy chính quyền.


Cũng như các địa phương khác trong cả nước, trong những năm qua
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện
Nguyễn Thu Trang - KH7C

1


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

Thạch Thất cũng đã được các cấp chính quyền coi trọng. Từ khi sáp nhập trở
thành một huyện của thành phố Hà Nội, nhiệm vụ xây dựng một đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện Thạch Thất càng trở nên cấp thiết
hơn. Yêu cầu đối với cán bộ, công chức lúc này không chỉ có đủ phẩm chất,
đạo đức, trung thành với sự nghiệp cách mạng, có tinh thần, thái độ tận tụy
phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân mà còn cần phải có một trình độ năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp tương xứng với vị trí của đội
ngũ cán bộ, công chức thủ đô trong thời kỳ mới.
Xuất phát từ thực tế trên, em đã lựa chọn đề tài “Một số kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã - huyện Thạch Thất – TP. Hà Nội” với mục đích đưa ra những kiến
nghị góp phần khắc phục những hạn chế trong công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã của huyện Thạch Thất hiện nay và xây dựng một
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội của huyện nói riêng và của cả nước nói chung trong thời
gian tới.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Thứ nhất, làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận, các quan điểm của

Đảng và Nhà nước về cán bộ, công chức; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức nói chung và cán bộ, công chức cấp xã nói riêng.
- Thứ hai, xem xét, đánh giá thực trạng về công tác đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện Thạch Thất.
- Thứ ba, đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện
Thạch Thất trong giai đoạn tiếp theo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là công tác đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Nguyễn Thu Trang - KH7C

2


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

- Phạm vi nghiên cứu là các xã và thị trấn thuộc huyện Thạch Thất Thành phố Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, khóa luận đã được phân tích, đánh giá dựa
trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử, các chủ trương, đường lối của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà
nước. Ngoài ra khóa luận còn sử dụng những phương pháp: phân tích, tổng
hợp, so sánh, thống kê…
5. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục,
Khóa luận gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
Chương 2: Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã trên địa bàn huyện Thạch Thất
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn huyện Thạch Thất

Nguyễn Thu Trang - KH7C

3


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

PHẦN 2: NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ

1.1. Khái quát về cán bộ, công chức nhà nước và cán bộ, công chức
cấp xã
1.1.1. Cán bộ, công chức nhà nước
Với quan điểm cho rằng con người là yếu tố quyết định tất cả, các quốc
gia đều đánh giá cao vai trò, vị trí của đội ngũ công chức, coi công chức là
một lực lượng đặc biệt quan trọng của xã hội, là nhân tố chủ thể quyết định sự
thành công hay thất bại của mọi công việc trong quản lý Nhà nước, là lực
lượng đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền hành chính ở mỗi quốc

gia. Do cơ cấu về nhân sự của chính phủ các nước không giống nhau nên
quan niệm, khái niệm về công chức cũng có những điểm khác nhau.
Ở Anh, “công chức là những người thay mặt Nhà nước giải quyết việc
công”. Đây là quan niệm của Hạ viện Anh đưa ra vào năm 1977, và công chức
là do Nhà vua trực tiếp bổ nhiệm, được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Ở Pháp, khái niệm công chức được hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất, công
chức bao gồm toàn thể nhân viên trong bộ máy hành chính. Thứ hai, công
chức bao gồm cả nhân viên trong bộ máy hành chính Nhà nước, các quan tòa,
nhân viên sự nghiệp quốc doanh, nhân viên đơn vị quân sự và nhân viên làm
việc trong Quốc hội.
Ở Đức, công chức được coi là một nhóm người có nghề nghiệp đặc biệt
trong xã hội, phục vụ ở các đoàn thể xã hội, đoàn thể xây dựng, vật chất và tài
chính có quan hệ làm việc và tuân thủ theo luật pháp.

Nguyễn Thu Trang - KH7C

4


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

Ở Nhật, khái niệm công chức bao hàm cả công chức Nhà nước và công
chức địa phương. Công chức Nhà nước bao gồm những nhân viên giữ những
chức vụ trong bộ máy Chính phủ ở trung ương, ngành tư pháp, Quốc hội…
được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Công chức địa phương được
hưởng lương từ ngân sách địa phương. Công chức Nhà nước ở Nhật cũng
được chia thành hai loại: công chức chung và công chức đặc biệt. Công chức

đặc biệt là loại công chức bổ nhiệm không qua thi cử mà theo luật pháp quy
định, bao gồm mười tám loại nhân viên như Thủ tướng, các thành viên Nội
các…còn lại là công chức chung.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “công chức” lần đầu tiên được ghi nhận trong
“Quy chế công chức Việt Nam” ban hành theo Sắc lệnh số 76/SL ngày
20/5/1950 của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo đó, công chức được hiểu là
“những công dân Việt Nam được chính quyền, nhân dân tuyển để giữ chức vụ
thường xuyên trong cơ quan Chính phủ, ở trong hay ngoài nước đều là công
chức theo quy chế này, trừ trường hợp riêng do Chính phủ quy định”. Như
vậy, phạm vi công chức rất hẹp, chỉ bao gồm những người làm việc thường
xuyên trong các cơ quan của Chính phủ, còn những người làm việc trong hệ
thống các cơ quan như Viện kiểm sát, Tòa án, Quốc hội, Hội đồng nhân dân
không phải là công chức. Tuy nhiên do điều kiện sau đó cả nước phải tập
trung vào cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng miền Nam nên quy
chế không được thực hiện đầy đủ.
Trong những năm 1960 - 1980, khái niệm “cán bộ công nhân viên chức
nhà nước” được thay cho khái niệm “công chức” trong Sắc lệnh 76/SL trong
đó không phân biệt rõ công chức và viên chức. Hoạt động của cán bộ công
chức trong giai đoạn này được điều chỉnh bằng những quy định của pháp luật
lao động chung với hoạt động sản xuất của công nhân. Ví dụ Nghị định
195/CP ngày 31/12/1964 của Hội đồng Chính phủ ban hành điều lệ kỷ luật
trong các xí nghiệp cơ quan Nhà nước, Thông tư số 03/LĐ-TT của Bộ Lao
động ngày 28/2/1979 hướng dẫn thi hành kỷ luật lao động đối với công nhân
Nguyễn Thu Trang - KH7C

5


Học viện Hành chính
nghiệp


Khóa luận tốt

viên chức Nhà nước, quy định về trách nhiệm vật chất của công nhân, viên
chức đối với tài sản Nhà nước.
Những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, thuật ngữ “công chức” được
sử dụng lại trong các văn kiện của Đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước.
Ngày 25/5/1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định
169/HĐBT quy định khái niệm công chức như sau: “Công dân Việt Nam
được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong công sở
Nhà nước ở trung ương hay địa phương, ở trong nước hay ngoài nước đã
được xếp vào một ngạch hưởng lương do ngân sách Nhà nước cấp gọi là công
chức”. Đây là khái niệm nêu khá đầy đủ các dấu hiệu căn bản của công chức
trong nền hành chính hiện đại như một số quốc gia quan niệm. Tuy nhiên quy
định này vẫn còn một số hạn chế. Vì vậy, ngày 26/2/1998, Ủy ban thường vụ
Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Pháp lệnh này ra đời đã
thể chế hóa đường lối của Đảng, là cơ sở pháp lý quan trọng để Nhà nước ta
quản lý và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội thay thế cho Nghị định 169/HĐBT.
Quá trình thực hiện công tác quản lý cán bộ, công chức đã đi dần vào
nề nếp, trình độ cán bộ, công chức ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên do
yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cho phù hợp với
tình hình mới, ngày 29/4/2003 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức.
Theo đó, cán bộ, công chức quy định tại Điều 1 như sau:
1. Cán bộ, công chức quy định tại pháp lệnh này là công dân Việt Nam,
trong biên chế, bao gồm:
a. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong
các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung
ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh);

ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện);

Nguyễn Thu Trang - KH7C

6


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

b. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở
trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
c. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức
hoặc được giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước
ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
d. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức
hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
đ. Thẩm phán Tòa án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;
e. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân
mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng;
làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là
sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp;
g. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong
thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; Bí thư, Phó Bí thư Đảng
ủy; người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn (sau đây gọi

chung là cấp xã);
h. Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn
nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã.
2. Cán bộ, công chức quy định tại các điểm a,b,c,đ,e,g và h Khoản 1
Điều này được hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự
nghiệp theo quy định của pháp luật.
Như vậy, Pháp lệnh không quy định rõ từng đối tượng ai là “cán bộ”, ai
là “công chức” mà sử dụng thuật ngữ “cán bộ, công chức” như một danh từ
dùng để chỉ hàng loạt các đối tượng được quy định tại Điều 1 Pháp lệnh. Luật
cán bộ công chức 2008 ra đời đã khắc phục hạn chế này. Theo quy định tại
Khoản 1 và Khoản 2, Điều 4, Luật Cán bộ, công chức 2008 thì:
Nguyễn Thu Trang - KH7C

7


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ

quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự
nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối
với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật.
1.1.2. Cán bộ, công chức cấp xã
1.1.2.1. Khái niệm
Theo quy định của Khoản 3, Điều 4 và Khoản 2, Khoản 3, Điều 61,
Luật Cán bộ, công chức 2008 thì:
- Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân
Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng
đầu tổ chức chính trị - xã hội. Cán bộ cấp xã có các chức vụ sau đây:
Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ;
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân;
Nguyễn Thu Trang - KH7C

8


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt


Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có
hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam);
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
- Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một
chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Công chức cấp xã có các chức
danh sau đây:
Trưởng Công an;
Chỉ huy trưởng Quân sự;
Văn phòng - thống kê;
Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn)
hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);
Tài chính - kế toán;
Tư pháp - hộ tịch;
Văn hóa - xã hội.
Công chức cấp xã do cấp huyện quản lý.
1.1.2.2. Vai trò của cán bộ, công chức cấp xã
Xã, phường, thị trấn có vai trò rất quan trọng trong hệ thống chính trị
nước ta. Đây là nơi nối liền Đảng, Nhà nước, các tổ chức của hệ thống chính
trị của đất nước với nhân dân, đảm bảo thực hiện thắng lợi mọi chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết, chủ trương
của cấp trên. Vì thế sự vững mạnh, hoạt động có hiệu quả của tổ chức Đảng,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân của hệ thống chính
trị xã, phường, thị trấn bảo đảm cho hoạt động bình thường của hệ thống
chính trị của đất nước trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cấp xã
Nguyễn Thu Trang - KH7C


9


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

là gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính, cấp xã làm được việc thì mọi
việc đều xong xuôi”. Song chính quyền cấp xã khó có thể đảm nhận được vai
trò, trách nhiệm nặng nề đó nếu thiếu đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Cán bộ, công chức cấp xã là một bộ phận không thể thiếu trong đội
ngũ cán bộ, công chức nước ta. Mọi hoạt động của chính quyền cấp xã đều do
cán bộ, công chức cấp xã tiến hành. Họ là người trực tiếp thực hiện chức năng
quản lý nhà nước trong phạm vi địa giới hành chính, trực tiếp giải quyết theo
thẩm quyền được giao các yêu cầu của nhân dân, lắng nghe những tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân. Cán bộ, công chức cấp xã cũng là người thường
xuyên tiếp xúc với nhân dân để triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Mặt khác, cán bộ công chức cấp xã còn đảm nhận việc tổ chức và quản
lý mọi mặt hoạt động của chính quyền cấp xã như: quản lý hành chính, văn
hóa, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng, chăm lo cho đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Đây cũng chính là đội ngũ “tuyên truyền viên” tích cực, cung cấp những
thông tin về tình hình của địa phương trên các mặt chính trị, an ninh trật tự,
phát triển kinh tế - xã hội, là nơi rút ra những sáng kiến, kinh nghiệm quý báu
từ thực tiễn cuộc sống để các cấp uỷ Đảng sửa đổi, bổ sung các chủ trương,
chính sách cho hoàn thiện hơn, đề ra các chủ trương giải pháp phù hợp với
thực tế, phù hợp với tâm tư nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân

ở địa phương. Có thể nói, cán bộ, công chức cấp xã chính là cầu nối giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Qua đó ta thấy xã, phường, thị trấn là một xã hội thu nhỏ, mọi mặt hoạt
động của xã hội đều diễn ra ở đó. Không có xã, phường, thị trấn thì không
hình thành nên xã hội, đất nước không có cơ sở vững chắc, đường lối, chủ
trương đúng đắn của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, chủ trương,
nghị quyết của quận, huyện và thành phố không trở thành hiện thực. Do đó để
nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp xã thì trước hết
phải nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức chính
Nguyễn Thu Trang - KH7C

10


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

quyền cấp xã. Họ không những cần phải có nhiệt tình cách mạng, có phẩm
chất đạo đức tốt mà còn phải là những cán bộ, công chức được trang bị đầy đủ
về tri thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có năng lực công tác để hoàn
thành các công vụ được giao. Vì vậy xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch
về lối sống, có năng lực thực hiện công vụ là việc làm cần thiết và thường
xuyên hiện nay.
1.2. Những vấn đề chung về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã
1.2.1. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Nhà nước
1.2.1.1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

Đào tạo, bồi dưỡng là một hoạt động quan trọng trong công tác quản lý
phát triển nguồn nhân lực của các cơ quan, tổ chức nhà nước nhằm xây dựng,
phát triển một đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, thành thạo về
chuyên môn, nghiệp vụ, trung thành với Nhà nước và tận tụy với công việc.
Đào tạo, bồi dưỡng phải dựa trên cơ sở xác định nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng
của từng vị trí công việc, phải dựa trên sự phân tích những hẫng hụt về năng
lực thực hiện công việc của cán bộ, công chức.
Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức,
kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học nhằm hình thành và phát
triển các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp của mỗi cá nhân. Đào tạo theo
nghĩa chung nhất là quá trình tác động đến con người làm cho người đó lĩnh
hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo…một cách có hệ thổng để
họ có văn bằng mới hoặc cao hơn trình độ trước khi được đào tạo để giúp họ
có khả năng thích nghi với cuộc sống, công việc, góp phần vào sự phát triển
của xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài người. Đào tạo công
chức là hoạt động của quản lý nhà nước, theo đó công chức với những cương
vị, chức vụ khác nhau, nhu cầu khác nhau của từng nhóm, từng ngạch được
đào tạo cơ bản một chuyên môn nhất định theo tiêu chuẩn về kiến thức được
Nguyễn Thu Trang - KH7C

11


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

Nhà nước quy định trong hình thức giáo dục quốc dân và tiêu chuẩn nghiệp
vụ trong hệ thống công vụ.

Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng
làm việc…nhằm làm cho cán bộ, công chức có cơ hội củng cố và mở rộng
một cách có hệ thống những tri thức, kỹ năng, chuyên môn, nghề nghiệp sẵn
có để có thể hoàn thành công việc một cách hiệu quả hơn và thường được xác
nhận bằng chứng chỉ.
Như vậy, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở đây có thể hiểu là quá
trình đào tạo, bồi dưỡng trong công vụ sau khi tuyển dụng và có quyết định
bổ nhiệm chính thức vào một ngạch công chức. Do đó nó có những đặc trưng
riêng, khác với việc đào tạo nói chung trong hệ thống giáo dục quốc dân. Cụ
thể là:
- Về mục tiêu, đào tạo, bồi dưỡng cung cấp kiến thức mới, những kinh
nghiệm, những tình huống xảy ra trong thực tế, nhằm nâng cao sự nhận thức
và hiểu biết về diễn biến và tình hình đang diễn ra trong đời sống hàng ngày
để giúp cho cán bộ công chức có khả năng thích ứng nhanh với sự đổi mới
của môi trường xung quanh vào công việc.
- Về đối tượng đào tạo, bồi dưỡng là cán bộ, công chức, những người
đang thực thi công vụ trong hệ thống các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội. Do đó nội dung, chương trình học tập không
phải là những kiến thức cơ bản mà là những kiến thức mới, các kỹ năng, kỹ
xảo làm việc, những kiến thức mà trong quá trình tiếp thu có chọn lọc, phê
bình và sáng tạo để vận dụng tốt hơn vào nghề nghiệp.
- Văn bằng chứng chỉ được cấp trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức là cơ sở để cán bộ, công chức được xếp vào ngạch, bậc, được hưởng các
chế độ chính sách được quy định cụ thể đối với các chức danh, ngạch, bậc.
Tóm lại có thể thấy đào tạo, bồi dưỡng được xác định như là một quá
trình làm biến đổi hành vi con người một cách có hệ thống thông qua việc học
tập. Việc học tập này có được là kết quả của việc giáo dục, hướng dẫn, phát
triển và lĩnh hội kinh nghiệm một cách có kế hoạch. Do đó, đào tạo, bồi
Nguyễn Thu Trang - KH7C


12


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

dưỡng chính là việc tổ chức những cơ hội cho người ta học tập nhằm giúp tổ
chức đạt được mục tiêu của mình bằng việc tăng cường năng lực, làm gia tăng
giá trị của nguồn lực cơ bản quan trọng nhất là con người, là cán bộ, công
chức làm việc trong tổ chức.
1.2.1.2. Vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là một trong những hoạt động
quan trọng trong quy trình quản lý nhân sự trong cơ quan hành chính nhà
nước. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ, công chức được bổ trợ, trang bị
những kiến thức, kỹ năng giúp họ có đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ, công vụ
được giao. Đây cũng là một việc làm thường xuyên, phổ biến và rất quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhất là trong
bối cảnh nước ta đang đứng trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói
chung và công cuộc cải cách hành chính nói riêng.
Đào tạo, bồi dưỡng có những vai trò to lớn có thể kể đến như:
Thứ nhất, công tác đào tạo, bồi dưỡng trang bị kiến thức, truyền thụ
kinh nghiệm, hình thành các kỹ năng, kỹ xảo trong thực thi công việc cho cán
bộ, công chức. Cần nhận thấy thực tế rằng, mặt hạn chế cơ bản nhất của đội
ngũ cán bộ, công chức nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là
sự hẫng hụt về trình độ, năng lực, thiếu kiến thức về quản lý nhà nước, pháp
luật, kỹ năng hành chính, chuyên môn nghiệp vụ và các kiến thức bổ trợ khác
như ngoại ngữ, tin học. Những mặt hạn chế trên chỉ có thể được khắc phục
thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng. Đây là hoạt động giúp cho mỗi cá

nhân bù đắp những thiếu hụt, khiếm khuyết, tiếp cận với những tinh hoa văn
hóa của nhân loại, tiếp thu tri thức và kinh nghiệm của loài người. Cũng thông
qua nó, cán bộ, công chức nhận thức được quy luật của tự nhiên, xã hội, vận
dụng chúng trong thực tiễn. Như vậy, quá trình đào tạo, bồi dưỡng giúp tạo ra
chất mới và sự phát triển toàn diện trong mỗi con người.
Thứ hai, đào tạo, bồi dưỡng góp phần tăng cường bản lĩnh chính trị và
phẩm chất đạo đức cho người cán bộ, công chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
Nguyễn Thu Trang - KH7C

13


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

từng nói “Kẻ có tài mà không có đức là kẻ vô dụng, người có đức mà không
có tài thì làm việc gì cũng khó”. Tuy nhiên hiện nay những biểu hiện tiêu cực
đang có xu hướng tăng lên làm xói mòn bản chất cách mạng của đội ngũ cán
bộ, công chức, làm giảm uy tín của Đảng và niềm tin của quần chúng nhân
dân vào chế độ. Để khắc phục tình trạng trên, đào tạo, bồi dưỡng giữ một vai
trò hết sức quan trọng. Nội dung của đào tạo, bồi dưỡng góp phần hình thành
phẩm chất tâm lý, tư tưởng, đạo đức đúng hướng cho sự phát triển nhân cách
của mỗi cán bộ, công chức. Một người cán bộ “vừa hồng vừa chuyên” ngoài
những kiến thức và kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cần thiết, phải là người có
lối sống lành mạnh, trong sạch, không xa hoa, lãng phí, tham nhũng, không có
tư tưởng đặc quyền đặc lợi, nhũng nhiễu nhân dân, phải có mối liên hệ mật
thiết với nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là một vấn đề quan trọng cần

thiết luôn đặt ra với mọi quốc gia trên thế giới. Xã hội ngày càng phát triển
đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý, điều hành trong xã hội phải có trình độ hiểu
biết cao. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là một nhu cầu thường
xuyên cần phải tiến hành liên tục, một mặt trang bị kiến thức mới cho công
chức lãnh đạo, điều hành đương nhiệm, mặt khác đào tạo nguồn nhân lực cho
nền công vụ trong tương lai có trình độ, có tri thức vững vàng, có năng lực
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ngày nay đào tạo, bồi dưỡng công chức nhà nước là
một yêu cầu tất yếu xuất phát từ một số yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước, đưa Việt Nam hội
nhập quốc tế. Trong những năm gần đây khi mở cửa hội nhập với khu vực và
thế giới chúng ta đã có hàng loạt vấn đề nảy sinh đòi hỏi phải đổi mới để phát
triển và hội nhập. Thế kỷ XXI với việc ứng dụng những thành tựu khoa học,
công nghệ tiên tiến vào các lĩnh vực sản xuất, vào các hoạt động quản lý nhà
nước cũng đòi hỏi phải có những con người có trình độ chuyên môn, trình độ
kỹ thuật cao để ứng dụng và áp dụng các phát minh khoa học. Bên cạnh đó
trong quan hệ đối ngoại, giao lưu, hợp tác với các nước cũng đòi hỏi đội ngũ
cán bộ, công chức phải am hiểu và nắm bắt được những quy định về pháp
Nguyễn Thu Trang - KH7C

14


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

luật, phong tục tập quán cũng như những đặc trưng riêng của từng quốc gia để
hội nhập và phát huy vai trò hợp tác của mình. Đặc biệt, trong thời gian qua
chúng ta đã và đang tham gia, gia nhập các tổ chức như APTA, WTO… tăng

cường mối quan hệ với các nước trong EU, Mỹ…Điều này đòi hỏi một đội
ngũ có trình độ cao, có hiểu biết rộng là hết sức cần thiết. Do đó công tác đào
tạo, bồi dưỡng cần được đẩy nhanh và mạnh để có được đội ngũ công chức
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và thực tiễn đặt ra.
Thứ hai, yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước. Cải cách hành
chính nhà nước là một nhu cầu đòi hỏi khách quan không những ở Việt Nam
mà diễn ra ở tất cả các quốc gia trên thế giới ngay cả các quốc gia có nền
hành chính phát triển. Ở nước ta đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đội
ngũ cán bộ, công chức hành chính nói riêng là yếu tố quyết định chất lượng
của nền hành chính. Công cuộc cải cách hành chính nhà nước đặt ra nhiều yêu
cầu, thách thức đối với đội ngũ công chức hành chính hiện này nhằm đảm bảo
xây dựng đội ngũ này ngang tầm với những yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới. Đó là
những yêu cầu về kiến thức chuyên môn, về kỹ năng nghiệp vụ và về thái độ
phục vụ của đội ngũ công chức hành chính, yêu cầu họ phải thành thạo về
chuyên môn nghiệp vụ, trung thành với chế độ, tận tụy với công việc, đáp ứng
yêu cầu của việc kiện toàn và nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý nhà
nước. Cụ thể là: Một là, yêu cầu về phẩm chất đạo đức cách mạng, về thái độ,
phẩm chất chính trị của công chức hành chính trong bộ máy hành chính nhà
nước. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, do vậy đội ngũ cán
bộ, công chức phục vụ trong các cơ quan nhà nước phải là công bộc của nhân
dân. Nâng cao trình độ lý luận chính trị, thấm nhuần các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, tư tưởng vì nhân dân phục vụ luôn là yêu cầu đòi
hỏi cấp thiết, thường xuyên đối với đội ngũ cán bộ, công chức. Hai là, công
cuộc cải cách hành chính hiện nay với nền hành chính hiện đại và phát triển
luôn yêu cầu công chức hành chính phải phấn đấu không ngừng nâng cao
năng lực thực hiện công việc, tự hoàn thiện bản thân, đảm bảo các tiêu chuẩn
Nguyễn Thu Trang - KH7C

15



Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

ngạch bậc, vị trí mà họ đang đảm nhận. Ba là, trước những biến đổi không
ngừng của môi trường, xã hội, của sự phát triển khoa học và công nghệ, yêu
cầu đội ngũ cán bộ công chức phải năng động, có khả năng thích ứng trước
những biến đổi và sự phát triển liên tục của tình hình mới. Đây là yêu cầu
phát triển nguồn nhân lực tương lai cho từng tổ chức, cho cả bộ máy. Do đó
yêu cầu đặt ra là người công chức phải được rèn luyện phát triển năng lực
theo hướng toàn diện, chuyên sâu, nhằm không ngừng phục vụ tốt cho công
việc hiện tại và trong tương lai.
Thứ ba, yêu cầu xuất phát từ thực trạng cán bộ công chức. Mặc dù đội
ngũ công chức đã có những chuyển biến đáng kể song thực trạng hiện nay của
đội ngũ cán bộ, công chức vẫn nổi lên một số vấn đề: số lượng công chức
nhiều nhưng phần mô tả công việc và trách nhiệm của từng vị trí, của từng cá
nhân còn chưa phân định rõ ràng theo thứ bậc. Việc này đã gây nhiều khó
khăn cho công tác phân tích công việc và đánh giá kết quả lao động của cán
bộ, công chức. Đối với nhiều cơ quan, đơn vị còn tình trạng vừa thừa, vừa
thiếu, năng lực làm việc của một bộ phận cán bộ, công chức còn hạn chế,
chưa theo kịp với yêu cầu ngày càng nâng cao năng lực nghiệp vụ và không ít
cán bộ, công chức đi học chỉ cho đủ bằng cấp chứng chỉ theo tiêu chuẩn
ngạch bậc, nhiều công chức chưa đáp ứng đủ các tiêu chuẩn nghiệp vụ, chức
danh chuyên môn đã ban hành. Một bộ phận cán bộ, công chức thoái hóa,
biến chất, sách nhiễu nhân dân, gây mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Năng suất hiệu quả lao động của đội ngũ này nhìn chung chưa cao và trong
những chừng mực nào đó đã cản trở, làm trì trệ hoạt động giảm hiệu quả của

bộ máy. Một bộ phận cán bộ, công chức khác không theo kịp với những biến
đổi của tình hình, chậm đổi mới, tác phong chưa khoa học gây ra những khó
khăn đối với công cuộc đổi mới tổ chức. Trong khi đó công tác đào tạo, bồi
dưỡng và quản lý sử dụng công chức chưa hợp lý, chưa thống nhất, đào tạo
xong không được bố trí, một số đào tạo xong để các công ty tư nhân sử dụng
gây ra hiện tượng chảy máu chất xám. Trong tình hình đó quy chế về khen
thưởng, kỷ luật còn thiếu đồng bộ, chưa thống nhất, việc lập quy hoạch kế
Nguyễn Thu Trang - KH7C

16


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

hoạch phát triển nhân sự chưa được chú trọng, do đó chưa xây dựng được một
đội ngũ cán bộ, công chức tận tụy, mẫn cán với công việc, chưa có chế độ
chính sách động viên, khuyến khích và ràng buộc công chức với công vụ.
Nhìn chung đội ngũ cán bộ, công chức ngày nay còn nhiều vấn đề phải
quan tâm chú trọng phát triển nhằm khắc phục những thiếu sót, tồn tại như
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
đã nêu rõ: “Nhìn chung đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay xét về số lượng,
chất lượng và cơ cấu còn nhiều mặt chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Một trong những nhiệm vụ quan
trọng trong những năm tới đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng là phải nâng
cao kiến thức, năng lực quản lý, điều hành và thực thi công vụ của đội ngũ
cán bộ, công chức, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng các tiêu chuẩn

nghiệp vụ đối với từng ngạch, chức danh cán bộ, công chức, cần thực hiện
việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nguồn để hình thành đội ngũ chuyên gia đầu
ngành về các lĩnh vực quản lý nhà nước, có trình độ và năng lực tham gia
hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời tăng cường
hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng.
1.2.1.3. Quan điểm của Đảng về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Từ trước năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến công
tác cán bộ, Người cho rằng muốn có CNXH trước hết phải có con người
XHCN, muốn có con người XHCN phải đào tạo họ giác ngộ lý tưởng cộng
sản. Vì vậy từ năm 1927, Người đã chú ý đưa những cán bộ trẻ sang học ở
các trường tại Liên Xô (cũ) và Trung Quốc, hình thành tư tưởng và ý chí cách
mạng giải phóng dân tộc.
Với thành công của Cách mạng tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước dân chủ đầu
tiên ở Đông Nam Á. Bộ máy nhà nước được hình thành và được xây dựng
ngày càng vững mạnh. Để làm được điều đó, Người đã chú trọng nhiều hơn
Nguyễn Thu Trang - KH7C

17


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

đến công tác cán bộ và nhất là khâu đào tạo, bồi dưỡng. Người đã chỉ thị cho
mở trường cán bộ Việt Nam.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước luôn được Đảng
và Nhà nước quan tâm, được tiến hành thường xuyên, liên tục, mặc dù chưa đạt

yêu cầu thực tế đề ra nhưng đã đào tạo, bồi dưỡng các thế hệ cán bộ đáp ứng
nhiệm vụ cách mạng qua mọi thời kỳ. Để đào tạo, bồi dưỡng thì hệ thống các
trường làm công tác này đã được hình thành từ trung ương đến địa phương.
Bên cạnh những thành tích đã đạt được, công tác đào tạo, bồi dưỡng
những năm trước đây chưa xác định được mục tiêu một cách rõ ràng, chưa
quan tâm đi sâu đến nội dung, chương trình đào tạo, chất lượng đào tạo còn
thả nổi. Đào tạo, bồi dưỡng còn chưa gắn với nhu cầu, kế hoạch sử dụng,
chưa nhằm vào mục tiêu, đối tượng cụ thể, nhiều trường hợp đi học chủ yếu
vì mục tiêu chuẩn hóa cán bộ, công chức. Vì vậy khi chúng ta chuyển đổi cơ
chế quản lý từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường thì một bộ
phận không nhỏ cán bộ, công chức Nhà nước bị hẫng hụt về trình độ, kiến
thức, năng lực và không theo kịp với trình độ khoa học, công nghệ mới.
Nhận thức rõ nguy cơ về vấn đề cán bộ, công chức, Đảng và Nhà nước
ta đã kịp thời đề ra những biện pháp chấn chỉnh, mà giải pháp quan trọng nhất
là tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức các cấp. Để tạo
cơ sở pháp lý đồng thời cũng đưa ra những định hướng đối với công tác đào
tạo cán bộ, công chức, ngày 15/8/1994 Thủ tướng đã ban hành Chỉ thị số
422/CT-TTg về nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ, công chức trong cả
nước. Ngày 27/8/1996 Chính phủ thông qua Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức nhà nước cùng với Chương trình trọng điểm về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ lãnh đạo chính quyền cơ sở. Trên cơ sở các số liệu điều tra thực tế, đề
án đã đi sâu phân tích, đánh giá và tìm hiểu nguyên nhân của những hạn chế
về trình độ cán bộ cơ sở, sự yếu kém của công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, từ đó xác định mục tiêu, yêu cầu, nội dung công tác này trong giai
đoạn hiện nay. Đồng thời đề xuất các chủ trương, biện pháp nhằm tăng cường
Nguyễn Thu Trang - KH7C

18



Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính
quyền cơ sở.
Ngày 20/11/1996 Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 874/QĐTTg nhằm tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
mà mục tiêu là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thông thạo về chuyên
môn, nghiệp vụ, tận tụy với công vụ, có trình độ quản lý tốt, trung thành với
chế độ XHCN, đáp ứng được việc kiện toàn và nâng cao hiệu lực và hiệu quả
của bộ máy quản lý nhà nước.
Mặt khác, để công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được thực
hiện theo kế hoạch ngày 07/5/2001 Thủ tướng đã ban hành Quyết định số
74/2001/QĐ-TTg về phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức giai đoạn 2001-2005. Đến ngày 04/8/2003 Thủ tướng Chính phủ đã ra
Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg ban hành quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức. Tiếp đó ngày 11/7/2003 Thủ tướng Chính phủ lại ra Quyết
định số 137/2003/QĐ-TTg phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực cho công tác hội nhập kinh tế giai đoạn 2003-2010.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII đã đề ra nhiệm vụ và chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là “xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có
phẩm chất năng lực là yếu tố quy định chất lượng bộ máy nhà nước”.
Nhìn lại công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong thời gian
qua nhất là từ khi có Quyết định số 874/QĐ-TTg ngày 20/11/1996 của Thủ
tướng Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức nhà nước, công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức đã có những chuyển biến tích cực. Hệ thống các
cơ quan làm công tác đào tạo, bồi dưỡng từ trung ương đến cấp huyện được
hình thành và ngày càng được củng cố. Hệ thống thể chế và các chế độ chính

sách về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được bổ sung và hoàn thiện,
trong đó đã hướng dẫn cụ thể về mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng, đối tượng đào
tạo, bồi dưỡng, nội dung đào tạo, bồi dưỡng và loại hình đào tạo, phương thức
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức nhà nước.
Nguyễn Thu Trang - KH7C

19


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

Chiến lược cán bộ mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng đã nêu lên những quan điểm hết sức cơ bản về công tác đào tạo cán
bộ, công chức. Đó là:
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đến 2010 là bảo đảm
cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đạt trình độ chính trị, chuyên môn,
nghiệp vụ, kỹ năng hành chính, tin học và ngoại ngữ theo tiêu chuẩn chức
danh và ngạch bậc đảm nhiệm, có đủ năng lực xây dựng chính sách, tổ chức
điều hành thực thi công vụ theo yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước cần hướng
vào một số trọng điểm như đào tạo có mục tiêu, có chất lượng, khuyến khích
các hình thức tự học, tự đào tạo để thường xuyên nâng cao trình độ công
chức, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và chuyên gia đầu ngành trên
các lĩnh vực. Đặc biệt cần quan tâm phát hiện đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, tạo
nguồn cán bộ quản lý, chuyên gia từ những cán bộ trẻ. Trước mắt cần tập
trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức hành chính và cán bộ công chức

cơ sở, quan tâm đầu tư và đầu tư thích đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ quản lý kinh tế, chuyên gia đầu ngành, cán bộ tham mưu xây dựng
và hoạch định chính sách ở tầm chiến lược.
Để đáp ứng yêu cầu kiện toàn nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy
quản lý nhà nước, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước cần
hướng vào việc khắc phục kịp thời những hụt hẫng về trình độ chuyên môn,
hạn chế về năng lực quản lý để cán bộ, công chức nhà nước thực hiện tốt nhiệm
vụ được giao, tập trung trang bị, bổ sung kiến thức, kỹ năng cơ bản về chuyên
môn, nghiệp vụ quản lý nhất là quản lý về hành chính nhà nước, đáp ứng yêu
cầu về kiện toàn, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hoạt động quản lý.
Ngày nay, với xu thế hội nhập, giao lưu hợp tác quốc tế, nhiều lĩnh vực
hoạt động mới và mang trình độ kỹ thuật cao, nhiều thiết bị tinh vi, tính năng
cao đòi hỏi phải có một hiểu biết nhận định và những chuyên gia trình độ cao.
Vì vậy đội ngũ cán bộ, công chức cần phải thích ứng với môi trường mới để
Nguyễn Thu Trang - KH7C

20


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

có thế đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, nhất là
chúng ta đang mở cửa hợp tác với các nước đòi hỏi cần có những cán bộ am
hiểu về chuyên môn, nghiệp vụ, khoa học kỹ thuật, phong tục tập quán và luật
pháp quốc tế.
Do đó đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức về
chuyên môn, về kỹ thuật nghiệp vụ hành chính là một yêu cầu cơ bản được

đặt ra, là nội dung cơ bản, quan trọng trong chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực
xây dựng chính sách, tổ chức, điều hành, thực thi công vụ theo yêu cầu ngày
càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức chỉ thật sự phát huy
được vai trò, tác dụng khi nó xuất phát từ yêu cầu thực tế công việc, gắn liền
với việc bố trí và sử dụng cán bộ công chức một cách phù hợp, gắn liền với
quá trình phấn đấu và thăng tiến của họ. Việc bố trí, sử dụng cán bộ, công
chức hợp lý đúng quy trình cách thức sẽ phát huy sự phấn đấu tích cực của
cán bộ, công chức, tạo điều kiện để cán bộ đóng góp nhiều nhất và có hiệu
quả nhất công sức của mình cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
1.2.1.4. Mục tiêu của công tác đào tạo, bồi dưỡng
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức có mục đích trang bị
những kiến thức, kỹ năng cơ bản, nâng cao kiến thức, năng lực quản lý, điều
hành và thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, trung thành với
chế độ XHCN, tận tụy với công vụ, có trình độ quản lý tốt, đáp ứng yêu cầu
của việc kiện toàn và nâng cao hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước, thực
hiện chương trình cải cách nền hành chính nhà nước. Trong Quyết định số
161/2003/QĐ-TTg ngày 20/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ đã nêu rõ mục
đích của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là “trang bị kiến thức
về lý luận chính trị, kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước; chuyên môn nghiệp
vụ; kiến thức ngoại ngữ, tin học và các kiến thức bổ trợ khác nhằm xây dựng
Nguyễn Thu Trang - KH7C

21


Học viện Hành chính
nghiệp


Khóa luận tốt

đội ngũ cán bộ, công chức thành thạo về chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu
cầu nâng cao hiệu quả của bộ máy nhà nước, có phẩm chất đạo đức tốt, trung
thành với nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Để thực hiện mục đích trên, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cần có các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo tiêu chuẩn nghiệp vụ của
từng ngạch công chức và chức danh cán bộ đã được nhà nước ban hành nhằm
khắc phục cơ bản tình trạng thiếu tiêu chuẩn của ngạch hoặc không đủ tiêu
chuẩn để bổ nhiệm vào ngạch.
- Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực thực hiện công việc của cán bộ,
công chức nhằm khắc phục những khiếm khuyết, hẫng hụt hiện nay để thực
thi công vụ, đảm bảo yêu cầu của công việc.
- Đào tạo, bồi dưỡng tạo nguồn nhân lực thường xuyên và đào tạo cho
tương lai của cơ quan, tổ chức, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực lâu dài
cho tổ chức.
1.2.1.5. Nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải căn cứ vào yêu cầu của sự
phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu của tiêu chuẩn chức danh, nghĩa là phải
căn cứ vào nhu cầu đào tạo của cán bộ, công chức của tổ chức. Trong công
tác đào tạo, bồi dưỡng phải quán triệt các nguyên tắc đảm bảo các quan điểm,
đường lối, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, đảm
bảo đào tạo theo nhu cầu, đào tạo bồi dưỡng gắn với thực hành, đảm bảo tính
hiệu quả thực tế.
Nguyên tắc đảm bảo các quan điểm, đường lối, chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức. Nguyên tắc này đòi hỏi nội dung, chương trình, giáo trình đào tạo, bồi
dưỡng phải phản ánh các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

nước, phải luôn được cải tiến và không ngừng hoàn thiện theo quá trình đổi
mới của đất nước, của công cuộc cải cách hành chính nhà nước.
Nguyễn Thu Trang - KH7C

22


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

Nguyên tắc đảm bảo đào tạo, bồi dưỡng theo nhu cầu. Nguyên tắc này
yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng phải được thực hiện trên cơ sở nhu cầu đào tạo,
bồi dưỡng của cán bộ, công chức, của cơ quan tổ chức. Nội dung, chương
trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng phải được xây dựng theo nhu cầu công tác
thực tế để nâng cao năng lực thực hiện công việc của cán bộ, công chức. Hình
thức, thời gian đào tạo cần được nghiên cứu thực hiện theo các chức vu, vị trí
công tác khác nhau. Đào tạo, bồi dưỡng đảm bảo theo sát đối tượng, lựa chọn
đúng đối tượng đào tạo, tránh việc đào tạo, bồi dưỡng xong mà không dùng
tới, không mang tính thiết thực.
Nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng gắn liền với thực hành, học đi đôi với
hành. Nguyên tắc này đòi hỏi công tác đào tạo, bồi dưỡng phải hữu ích và
thiết thực, phải đem đến cho người học những kiến thức, kỹ năng thực tế, gắn
liền với với công việc của họ, thống nhất với công việc họ đang làm. Nội
dung đào tạo, bồi dưỡng phải kếp hợp với thực tế, phải liên quan đến kỹ thuật,
chuyên môn, yêu cầu chức trách mà cán bộ, công chức đảm nhận. Thông qua
đào tạo, bồi dưỡng giúp cho kiến thức, trình độ, nghiệp vụ, hiệu quả công tác
của cán bộ, công chức được nâng lên rõ rệt, đạt được mục đích học để làm
việc, học để sử dụng trong công việc. Vì vậy nội dung, chương trình, giáo

trình phải được tính toán tỉ lệ giữa lý thuyết và thực hành một cách đúng đắn,
phát triển kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ giúp người học có những điều kiện
rèn luyện nâng cao tay nghề.
Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả thực tế trong đào tạo, bồi dưỡng.
Nguyên tắc này yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải chú trọng
đến hiệu quả, không nên chú trọng hình thức, chạy theo chỉ tiêu, số lượng đào
tạo. Đồng thời cũng không nên phiến diện chạy theo chứng chỉ, bằng cấp mà
đào tạo, bồi dưỡng phải đảm bảo chất lượng và hiệu quả. Trong đào tạo, bồi
dưỡng phải chú trọng sử dụng kinh phí một cách có hiệu quả, phải đảm bảo
thực hiện tốt ở tất cả các khâu từ xác định nhu cầu đào tạo, lập kế hoạch, thực
hiện đào tạo đến khâu đánh giá đào tạo.
Nguyễn Thu Trang - KH7C

23


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt

1.2.2. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
Quyết định số 03/2004/QĐ-TTg ngày 07/1/2004 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
xã, phường, thị trấn đến hết năm 2010 đã đưa ra các định hướng cơ bản cho
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã như sau:
1.2.2.1. Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
Mục tiêu chung đến năm 2010: xây dựng, chuẩn hóa và từng bước trẻ
hóa đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, đặc biệt là cán bộ chủ chốt, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có phẩm chất và năng lực, bảo đảm đủ về số lượng, tiêu

chuẩn, đồng bộ về cơ cấu, trình độ, tính kế thừa giữa các thế hệ nhằm đổi mới
và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
Mục tiêu cụ thể: đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã theo tiêu
chuẩn chức danh, trang bị, bổ sung những kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ
và kỹ năng quản lý điều hành, tạo điều kiện cho cán bộ, công chức cấp xã
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Mục tiêu này được chia làm hai giai đoạn
thực hiện:
Đến hết năm 2005, phấn đấu đạt: 70 - 80% cán bộ chuyên trách giữ
chức vụ qua bầu cử được đào tạo, bồi dưỡng đạt tiêu chuẩn quy định về trình
độ lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ và
kỹ năng quản lý điều hành; 80% công chức cấp xã ở vùng đồng bằng và đô thị
đạt trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên; 100% cán bộ chủ chốt và các
chức danh chuyên môn ở các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít
người, hải đảo được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về quản lý hành chính nhà
nước và chuyên môn nghiệp vụ đạt trình độ sơ cấp; lựa chọn để quy hoạch
đào tạo trình độ trung cấp cho 25% đội ngũ cán bộ, công chức này.
Từ năm 2006 đến năm 2010, trên cơ sở kết quả đạt được và kinh
nghiệm của giai đoạn này, phấn đấu nâng trình độ cán bộ, công chức cấp xã
giữ các chức danh được đào tạo đạt trình độ trung cấp trở lên; đạt mục tiêu trẻ
hoá đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, đặc biệt là cán bộ chủ chốt; bảo đảm
đủ về số lượng, tiêu chuẩn, đồng bộ về cơ cấu.
Nguyễn Thu Trang - KH7C

24


Học viện Hành chính
nghiệp

Khóa luận tốt


1.2.2.2. Hệ thống cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã
Tổ chức thực hiện hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức
được Đảng và Nhà nước chú trọng, quan tâm thông qua việc đầu tư xây dựng
phát triển các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức đã được hình thành, xây dựng, củng cố và đã có
những đóng góp rất lớn vào việc trang bị, nâng cao kiến thức, kỹ năng nghiệp
vụ của đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng và chất lượng, hiệu quả hoạt động
của nền hành chính nhà nước trong những năm qua nói chung, góp phần tạo
nên sự ổn định chính trị và phát triển đất nước.
Hiện nay có các trung tâm lớn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, bên cạnh đó còn có
Học viện Quốc phòng tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cao cấp.
Các Bộ, ngành cũng có trường hoặc trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức của bộ, ngành mình. Các địa phương đều có trường Chính trị
tỉnh, thành phố thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của
địa phương mình và các huyện, quận, thị xã đều có Trung tâm bồi dưỡng
chính trị tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cơ sở (Sơ đồ)
Đối với cán bộ, công chức cấp xã, công tác đào tạo, bồi dưỡng do hai
cơ sở đảm nhiệm là Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
và Trung tâm bồi dưỡng chính trị quận, huyện.

Chính
phủ

Học viện
CT-HC QG
HCM

Học viện

QP
Trường CT
cấp tỉnh

Bộ,
ngành

Trường ĐT,BD
CB,CC các Bộ,
ngành

Địa
phương
Trung tâm
bồi dưỡng CT
cấp huyện

Nguyễn Thu Trang - KH7C

25


×