Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Thách thức với việc xuất khẩu hàng hoá của việt nam sang mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.04 KB, 7 trang )

Thách thức với việc xuất khẩu hàng hoá của việt nam sang mỹ

Thách thức với việc xuất
khẩu hàng hoá của việt nam
sang mỹ
Bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân

Những quy định của Mỹ về hàng nhập khẩu.
Luật pháp nước Mỹ quy định, tất cả mọi vấn đề có liên quan đến việc nhập khẩu hàng
hoá từ nước ngoài vào đều thuộc thẩm quyền của chính phủ Liên bang. Bộ Thương mại,
Văn phòng đại diện thương mại, Uỷ ban thương mại quốc tế và cụ thể nhất là Hải quan
Mỹ là những cơ quan có trách nhiệm đối với vấn đề này. Các giấy tờ cần xuất trình trong
quy trình nhập hàng vào Mỹ gồm: Giấy nhập khẩu hải quan; Hoá đơn thương mại; Danh
mục kiện hàng (nếu có); Giấy tờ khác theo yêu cầu cụ thể của chính quyền liên bang
hay địa phương. Mỹ có nhiều quy định pháp luật chặt chẽ và chi tiết trong buôn bán, các
quy định về chất lượng, kỹ thuật...Vì thế, khi các nhà xuất khẩu chưa nắm rõ hệ thống
các quy định về luật lệ của Mỹ thường cảm thấy khó làm ăn tại thị trường này.
Sau đây là các quy định của Mỹ về nhập khẩu:
Nhãn hiệu và thương hiệu:
Luật pháp Mỹ quy định các nhãn hiệu hàng hoá phải được đăng ký tại Cục Hải quan
Mỹ. Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã đăng ký
bản quyền của một công ty Mỹ hay một công ty nước ngoài đã đăng ký bản quyền đều
bị cấm nhập khẩu vào Mỹ. Bản sao đăng ký nhãn hiệu hàng hoá phải nộp cho Cục Hải
quan Mỹ và được lưu giữ theo quy định. Hàng nhập khẩu vào Mỹ có nhãn hiệu giả sẽ bị
tịch thu sung công.
Theo “Copyright Revision Act” (1976) của Mỹ, hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ theo các
bản sao chép các thương hiệu đã đăng ký mà không được phép của người có bản quyền
là vi phạm luật bản quyền, sẽ bị bắt giữ và tịch thu, các bản sao các thương hiệu đó sẽ
bị huỷ. Các chủ sở hữu bản quyền muốn được Cục Hải quan Mỹ bảo vệ quyền lợi cần
đăng ký khiếu nại bản quyền tại Văn phòng bản quyền theo các thủ tục hiện hành.



1/7


Thách thức với việc xuất khẩu hàng hoá của việt nam sang mỹ

Hạn ngạch nhập khẩu:
Đi đôi với những luật lệ và nguyên tắc về nhập khẩu hàng hoá, ở Mỹ còn áp dụng hạn
ngạch để kiểm soát về khối lượng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất định. Phần
lớn hạn ngạch nhập khẩu do Cục Hải quan quản lý và chia làm 2 loại: hạn ngạch thuế
quan và hạn ngạch tuyệt đối. Hạn ngạch thuế quan quy định số lượng đối với loại hàng
nào đó được nhập khẩu vào Mỹ được hưởng mức thuế giảm trong một thời gian nhất
định, nếu vượt sẽ bị đánh thuế cao. Hạn ngạch tuyệt đối là hạn ngạch về số lượng cho
một chủng loại hàng hoá nào đó được nhập khẩu vào Mỹ trong một thời gian nhất định,
nếu vượt quá sẽ không được phép nhập khẩu. Có hạn ngạch tuyệt đối mang tính toàn
cầu, nhưng có hạn ngạch tuyệt đối chỉ áp dụng đối với từng nước riêng biệt.
Một số mặt hàng sau đây khi nhập khẩu vào Mỹ phải có hạn ngạch:
+ Hạn ngạch thuế quan áp dụng đối với: sữa và kem các loại, cam, quýt, ôliu, xirô,
đường mật,wiskroom chế toàn bộ hoặc một phần từ thân cây ngô.
+ Hạn ngạch tuyệt đối áp dụng đối với: thức ăn gia súc, sản phẩm thay thế bơ, sản phẩm
có chứa 45% bơ béo trở lên, pho mát được làm từ sữa chua diệt khuẩn, sôcôla có chứa
5,5% trọng lượng là bơ béo trở lên, cồn êtylen và hỗn hợp của nó dùng làm nhiên liệu.
Ngoài ra Cục Hải quan Mỹ còn kiểm soát việc nhập khẩu bông, len, sợi nhân tạo, hàng
pha tơ lụa, hàng làm từ sợi thiên nhiên được sản xuất tại một số nước theo quy định.
Việc kiểm soát này được tiến hành dựa trên những quy định trong Hiệp định hàng dệt
mà Mỹ đã ký với các nước.
Tiêu chuẩn thương phẩm đối với hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ được quy định rất chi tiết
và rõ ràng đối với từng nhóm hàng. Việc kiểm tra, kiểm dịch và giám định do các cơ
quan chức năng thực hiện.
Hàng dệt:

Các sản phẩm dệt nhập khẩu vào Mỹ phải ghi rõ tem, mác quy định: các thành phần
sợi được sử dụng có tỷ trọng trên 5% sản phẩm phải ghi rõ tên, các loại nhỏ hơn 5%
phải ghi là “các loại sợi khác”. Phải ghi tên hãng sản xuất, số đăng ký do Federal Trade
Commission (FTC) của Mỹ cấp.
Pho mát, sữa và các sản phẩm sữa:
Pho mát và các sản phẩm pho mát phải tuân theo các yêu cầu của Cơ quan quản lý Thực
phẩm và Dược phẩm (FDA) và của Bộ Nông nghiệp Mỹ, và hầu hết phải xin giấy phép
nhập khẩu và quota của Vụ quản lý đối ngoại (FAS) thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ.

2/7


Thách thức với việc xuất khẩu hàng hoá của việt nam sang mỹ

Nhập khẩu sữa và kem phải tuân theo các điều luật về thực phẩm, và điều luật về nhập
khẩu sữa. Các sản phẩm này chỉ được nhập khẩu bởi những người có giấy phép nhập
khẩu do các cơ quan: Bộ Y tế, FDA, Trung tâm an toàn thực phẩm và dinh dưỡng, Văn
phòng nhãn hiệu thực phẩm và Bộ Nông nghiệp Mỹ cấp.
Thịt và các sản phẩm thịt:
Thịt và các sản phẩm thịt nhập khẩu vào Mỹ phải tuân theo các quy định của Bộ Nông
nghiệp Mỹ và phải qua giám định của Cơ quan giám định y tế về động - thực vật
(APHIS) và của Cơ quan giám định về an toàn thực phẩm trước khi làm thủ tục hải
quan. Các sản phẩm từ thịt sau khi đã qua giám định của Cơ quan giám định động - thực
vật (APHIS) còn phải qua giám định của Cơ quan quản lý Thực phẩm và Dược phẩm
(FDA).
Động vật sống:
Động vật sống khi nhập khẩu vào Mỹ phải đáp ứng các điều kiện về giám định và kiểm
dịch của APHIS, ngoài ra còn phải kèm theo giấy chứng nhận về sức khoẻ của chúng và
chỉ được đưa vào Mỹ qua một số cảng nhất định.
Gia cầm và các sản phẩm gia cầm:

Gia cầm sống, lạnh đông, đóng hộp, trứng và các sản phẩm từ trứng khi nhập khẩu vào
Mỹ phải theo đúng quy định của APHIS và của Cơ quan giám định an toàn thực phẩm
thuộc USDA.
Cây và các sản phẩm từ cây:
Cây và các sản phẩm từ cây phải tuân theo các quy định của Bộ Nông nghiệp, có thể bị
hạn chế hoặc cấm. Các sản phẩm này bao gồm cả trái cây, rau, cây trồng, rễ cây, hạt, sợi
từ cây kể cả bông và các cây làm chổi, hoa đã cắt, một số loại ngũ cốc, gỗ cây, gỗ sẻ,
đều cần có giấy phép nhập khẩu.
Hoa quả, rau và hạt các loại:
Rau, quả, hạt, củ các loại khi nhập khẩu vào Mỹ phải bảo đảm các yêu cầu về chủng
loại, kích cỡ, chất lượng, độ chín. Các mặt hàng này phải qua Cơ quan giám định an
toàn thực phẩm thuộc USDA để có xác nhận là phù hợp với các tiêu chuẩn nhập khẩu.
Đồ điện gia dụng:
Đồ điện gia dụng khi nhập khẩu vào Mỹ phải ghi trên nhãn mác các tiêu chuẩn về điện,
chỉ tiêu về tiêu thụ điện theo quy định của Bộ Năng lượng, Hội đồng Thương mại Liên

3/7


Thách thức với việc xuất khẩu hàng hoá của việt nam sang mỹ

bang, cụ thể là đối với: tủ lạnh, tủ cấp đông, máy rửa bát, máy sấy quần áo, thiết bị đun
nước, thiết bị lò sưởi, điều hoà không khí, lò nướng, máy hút bụi, máy hút ẩm.
Thực phẩm, thuốc bệnh, mỹ phẩm và trang thiết bị y tế:
Thuốc chữa bệnh, mỹ phẩm, trang thiết bị y tế khi nhập khẩu vào Mỹ phải theo các quy
định của Federal Drug and Cosmetic Act. Theo đó, những mặt hàng kém chất lượng
hoặc không bảo đảm vệ sinh an toàn cho người sử dụng sẽ bị cấm nhập khẩu, buộc phải
huỷ hoặc đưa về nước xuất xứ.
Nhiều mặt hàng thực phẩm như bánh kẹo, sản phẩm sữa, thịt, trứng, trái cây, rau còn
phải tuân theo các quy định như đã nêu ở trên.

Hải sản khi nhập khẩu vào Mỹ phải theo các quy định của National Marine Fisheries
Service thuộc Cục quản lý môi trường không gian và biển và Bộ Thương mại Mỹ.
Làm thủ tục hải quan:
Đối với các nhà xuất khẩu nước ngoài, khi muốn làm thủ tục hải quan để xuất khẩu vào
Mỹ có thể thông qua người môi giới hoặc thông qua các công ty vận tải. Thuế suất có
sự phân biệt rất lớn giữa những nước được hưởng quy chế Thương mại bình thường
(NTR) với những nước không được hưởng (Non-NTR), có hàng hoá có thuế, có hàng
hoá không thuế, nhưng nhìn chung thuế suất ở Mỹ thấp hơn so với nhiều nước khác.
Luật chống bán phá giá (ADs):
ở Mỹ có Luật chống bán phá giá (ADs). Nếu hàng hoá bán vào Mỹ thấp hơn giá quốc tế
hoặc thấp hơn giá thành thì người sản xuất ở Mỹ có thể kiện ra toà, và như vậy, nước bị
kiện sẽ phải chịu thuế cao không chỉ đối với chính hàng hoá bán phá giá mà còn đối với
tất cả các hàng hoá khác của nước đó bán vào Mỹ.
Luật chống bán hạ giá (CVDs):
Thuế chống bán hạ giá( CVDs) được áp dụng để làm vô hiệu hoá tác động của trợ cấp
xuất khẩu do Chính phủ nước ngoài dành cho hàng hoá của họ khi xuất khẩu sang Mỹ.
Những trợ cấp này làm giảm giá của hàng xuất khẩu vào Mỹ một cách cố ý, gây “chấn
thương” kinh tế cho các nhà sản xuất Mỹ.
Tại thị trường Mỹ, yếu tố giá cả đôi khi có sức cạnh tranh hơn cả chất lượng sản phẩm.
Người tiêu dùng Mỹ thường không muốn trả tiền theo giá niêm yết. Hàng hoá bán tại
Mỹ thường phải kèm theo dịch vụ sau bán hàng. Số lượng và chất lượng của dịch vụ
này là điểm mấu chốt cho sự tín nhiệm đối với người bán hàng. Các nhà kinh doanh tại
thị trường Mỹ phải chấp nhận cạnh tranh rất gay gắt như nhiều người mô tả là “một mất
một còn”. Cái giá phải trả cho sự nhầm lẫn là rất lớn. Người tiêu dùng Mỹ thường nôn
4/7


Thách thức với việc xuất khẩu hàng hoá của việt nam sang mỹ

nóng nhưng lại mau chán, vì thế nhà sản xuất phải sáng tạo và thay đổi nhanh đối với

sản phẩm của mình, thậm chí phải có “ phản ứng trước ”.
Mặc dù khi Hiệp định thương mại Việt- Mỹ được Quốc hội hai nước thông qua, hàng
hoá Việt Nam vào Mỹ sẽ được hưởng NTR, nhưng vẫn phải cạnh tranh quyết liệt với
hàng hoá của Trung Quốc, của các nước ASEAN và nhiều nước khác đang được hưởng
NTR trên thị trường Mỹ, trong cuộc chiến này chất lượng và giá cả là quyết định. Hàng
hoá của Việt Nam với chủng loại tương tự nhưng một số mặt hàng có chất lượng thấp
hơn và giá thành cao hơn, khó có thể cạnh tranh với hàng hoá của các nước nói trên vốn
đã có mặt tại thị trường Mỹ trước hàng hoá của Việt Nam hàng chục năm.
Như vậy, những quy định ngặt nghèo của Mỹ về hàng nhập khẩu là những trở ngại phi
thuế quan mà hàng hoá của Việt Nam không dễ vượt qua. Nếu Việt Nam được hưởng
NTR/GSP mà chất lượng hàng hoá không tăng và giá cả không hạ hoặc phía Mỹ vẫn áp
dụng các quy định nhập khẩu truyền thống thì việc tăng kim ngạch và cơ cấu hàng hoá
xuất khẩu của Việt Nam tại thị trường Mỹ là nan giải.
Để vào được thị trường Mỹ, ngoài việc nắm vững nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp
Việt Nam còn phải tìm hiểu và nắm vững hệ thống quản lý xuất nhập khẩu cũng như hệ
thống hạn ngạch của Mỹ. Mỹ có một hệ thống pháp luật về Thương mại vô cùng rắc rối
và phức tạp. Khi các doanh nghiệp Việt Nam vượt qua được những rào cản này thì việc
xâm nhập thị trường Mỹ sẽ trở nên dễ dàng hơn.

Vấn đề gian lận thương mại.
Vấn đề gian lận thương mại giữa các nước cũng được coi như là một thách thức đối
với Việt Nam khi được hưởng NTR. Khi đó nếu được Mỹ áp dụng GSP (Hệ thống ưu
đãi thuế quan phổ cập) đối với hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ thì sẽ xảy
ra tình trạng hàng hoá một số nước mạo danh là hàng của Việt Nam để được hưởng ưu
đãi. Trong khi giá thành sản xuất của các nước này thấp hơn nhiều so với hàng của Việt
Nam, thậm chí chỉ bằng một nửa giá thành của Việt Nam, lại được hưởng thuế suất ưu
đãi (thông thường dưới 5%), thì hàng của các nước này chắc chắn sẽ cạnh tranh và đánh
bật hàng của Việt Nam và chiếm được thị phần trong thị trường Mỹ.
Để chống gian lận thương mại hai bên phải tìm ra các biện pháp hữu hiệu như EU và
Việt Nam đã từng làm để hình thành cơ chế kiểm tra kép đối với mặt hàng giày dép trên

cơ sở giấy chứng nhận xuất xứ.

Công tác xúc tiến thương mại còn nhiều hạn chế.
Bên cạnh những tác động tích cực mà công tác xúc tiến thương mại đem lại cho các
doanh nghiệp Việt Nam, vấn đề khó khăn nhất hiện nay vẫn là việc cung cấp thông tin

5/7


Thách thức với việc xuất khẩu hàng hoá của việt nam sang mỹ

chưa đầy đủ, cập nhật, chưa hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiếp cận thị trường nước ngoài
nói chung và thị trường Mỹ nói riêng.
Thông tin trong hoạt động xúc tiến thương mại đóng vai trò rất quan trọng và có ý nghĩa
quyết định. Đây là đối tượng nghiên cứu của các tổ chức xúc tiến thương mại và là mảng
hoạt động lớn nhất trong xúc tiến thương mại. Nếu tổ chức khai thác và chuyển tải thông
tin tốt, chất lượng thông tin cao thì hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại được khẳng
định và đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp. Ngược lại tổ chức thông tin thiếu chính
xác, không đầy đủ, không kịp thời hoặc chưa đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp thì
công tác xúc tiến thương mại sẽ không mang lại lợi ích gì cho doanh nghiệp, thậm chí
còn gây thiệt hại cho các doanh nghiệp.
Thông tin ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nói
chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Trong nền kinh tế thị trường thông tin
được coi là một trong những nguồn lực quan trọng của doanh nghiệp. Trong sự cạnh
tranh ngày càng gay gắt của thị trường, nắm bắt được nhu cầu khách hàng càng đầy đủ,
nhanh chóng thì mới có thể đáp ứng nhu cầu của họ tốt hơn và do đó hoạt động kinh
doanh có hiệu quả hơn, sản phẩm sẽ có tính cạnh tranh cao hơn.
Do chưa hiểu đầy đủ, cụ thể về một ngành nào hoặc một doanh nghiệp cụ thể nào và
về nhu cầu của doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất, kinh doanh nên thông tin từ các
tổ chức xúc tiến thương mại hỗ trợ cho doanh nghiệp còn mang tính chất chung chung,

chưa cụ thể và kịp thời. Trong khi đó các doanh nghiệp rất cần thông tin chuyên ngành
cụ thể về thị trường, mặt hàng...
Do trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân viên hạn chế, việc tiếp cận và xử lý thông tin
còn yếu nên nhiều khi chương trình xúc tiến không nhằm đúng đối tượng, lĩnh vực kinh
doanh làm cho hiệu quả thấp.
Do không được hỗ trợ về mặt kinh tế nên đa số các tổ chức xúc tiến thương mại hoạt
động theo nguyên tắc “ lấy thu bù chi”, do vậy họ hướng vào lợi nhuận hơn là hướng
vào lợi ích của quốc gia, lợi ích của các doanh nghiệp.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường xuất
khẩu, Việt Nam cần xây dựng một hệ thống xúc tiến thương mại theo hướng phục vụ
khách hàng rõ rệt. Ông Greg Dodds, Tổng giám đốc điều hành khu vực Đông Bắc á, cơ
quan xúc tiến xuất khẩu của Australia(Austrade) cho rằng “Xúc tiến thương mại là giúp
từng doanh nghiệp tăng doanh thu ở thị trường ngoài nước. Các cơ quan xúc tiến thương
mại cần tập trung đáp ứng nhu cầu thực sự của các cơ quan xuất khẩu do bản thân các
cơ sở này, chứ không phải ai khác đưa ra”.
Muốn làm ăn với Mỹ, chúng ta phải có hệ thống thông tin hiện đại. Phương tiện hữu
hiệu nhất hiện nay có thể đáp ứng nhu cầu thông tin cho các doanh nghiệp là Internet.

6/7


Thách thức với việc xuất khẩu hàng hoá của việt nam sang mỹ

Hiện nay giá dịch vụ Internet ở Việt Nam còn quá cao so với nhiều nước. Ngay ở Mỹ,
người sử dụng chỉ trả 1USD/ngày, còn ở Việt Nam là 1USD/giờ. Nhà nước cần tính đến
lợi ích chung của xã hội chứ không nên vì lợi ích của một số ngành mà để mất đi lợi thế
có tính toàn cầu này. Nếu chúng ta không có thông tin hiện đại thì không thể hội nhập
với thế giới, không thể xuất khẩu và cạnh tranh được.

7/7




×