Tải bản đầy đủ (.pdf) (424 trang)

đảng cộng sản việt nam lãnh đạo công tác tư tưởng trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.95 MB, 424 trang )

Học viện Chính trị - hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh

Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu
đề tài khoa học cấp bộ năm 2008

đảng cộng sản Việt Nam lnh
đạo công tác t tởng
trong thời kỳ đổi mới
Mã số: B08-17
Cơ quan chủ trì: Viện Lịch sử Đảng
Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Danh Tiên
Th ký khoa học: Ths. Trần Thị Vui

7244
26/3/2009

Hà Nội - 2008


CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI: TS Nguyễn Danh Tiên
THƯ KÝ KHOA HỌC: Ths Trần Thị Vui

DANH SÁCH CỘNG TÁC VIÊN

CN Lê Xuân An

Viện Lịch sử Đảng

CN Bùi Hữu Hanh


Viện Lịch sử Đảng

PGS, TS Trần Thị Thu Hương

Viện Lịch sử Đảng

Ths Trần Thị Mỹ Hường

Viện Lịch sử Đảng

Ths Nguyễn Thị Hồng Mai

Viện Lịch sử Đảng

Ths Nguyễn Danh Lợi

Viện Lịch sử Đảng

CN Nguyễn Thị Tâm

Viện Lịch sử Đảng

Nhà Báo Trúc Thanh

Ban Tuyên giáo TW

Ths Đỗ Thị Oanh

Viện Lịch sử Đảng


Ths Nguyễn Xuân Ớt

Viện Lịch sử Đảng

Ths Lê Minh Phương

Viện Lịch sử Đảng

Ths Nguyễn Thị Xuân

Viện Lịch sử Đảng


MỤC LỤC

Mở đầu

4

Chương 1: Tình hình mới, yêu cầu mới đối với công tác tư tưởng

10

và sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng
1.1 Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt

10

Nam về công tác tư tưởng trước thời kỳ đổi mới
1.2. Tình hình mới, yêu cầu mới đối với công tác tư tưởng và sự lãnh


22

đạo của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng
1.3 Tình hình tư tưởng và những vấn đề đặt ra với công tác tư tưởng

34

trong thời kỳ mới
Chương 2: Quá trình Đảng lãnh đạo công tác tư tưởng trong thời

49

kỳ đổi mới
2.1 Chủ trương của Đảng đổi với công tác tư tưởng

49

2.2 Quá trình Đảng chỉ đạo công tác tư tưởng

66

2.3 Một số thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm trong quá trình Đảng

132

lãnh đạo công tác tư tưởng
Chương 3: Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp nâng cao sự

148


lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng trong tình hình hiện
nay
3.1. Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp chung

148

3.2 Một số phương hướng, giải pháp cụ thể

157

Kết luận

171

Danh mục tài liệu tham khảo

173


Chương 1
TÌNH HÌNH MỚI, YÊU CẦU MỚI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC
TƯ TƯỞNG VÀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG

1.1 Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam về công tác tư tưởng trước thời kỳ đổi mới
1.1.1 Khái lược về công tác tư tưởng
Theo quan điểm của các nhà kinh điển mác xít, công tác tư tưởng là
những hoạt động nhằm củng cố, phát huy hiệu quả của công tác lý luận, đưa

lý luận thâm nhập vào quần chúng, biến tri thức thành niềm tin vững chắc,
thành ý chí, tình cảm, nghị lực kiên định, biến lý luận thành sức mạnh vật chất
để cải tạo thế giới hiện thực: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể
thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ
bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất,
một khi nó thâm nhập vào quần chúng”1.
Như vậy, đây là hai mặt của một vấn đề, không thể tách rời. Khi nói về
mối quan hệ này, V.I. Lênin cho rằng công tác tư tưởng và công tác lý luận
không có mục đích tự thân, nó phải phục vụ cho công tác tư tưởng lại phải
tiến hành trên cơ sở công tác lý luận. Theo V.I.Lênin làm công tác lý luận của
Đảng tức là dựa trên cơ sở lý luận, trên cơ sở những kết luận khoa học đúc rút
được từ lý luận và thực tiễn để phổ biến, tuyên truyền và tổ chức thực hiện tư
tưởng của Đảng. Chính vì công tác tư tưởng và công tác lý luận có mối quan
hệ biện chứng như vậy, nên không thể coi nhẹ mặt nào. Bất kỳ một đảng cách
mạng nào cũng phải coi cả hai công tác đó làm một nhiệm vụ quan trọng, cần
phải tiến hành đồng thời như V.I.Lênin đã nói: “Không thể là một nhà lãnh
đạo tư tưởng mà lại không làm công tác lý luận nói trên, cũng như không thể
là một nhà lãnh đạo tư tưởng mà lại không hướng công tác đó theo những nhu

1

. C.Mác-Ăngghen, Toàn tập, tập 1, Nxb.CTQG, Hà Nội, 1994, tr. 580.

1


cầu của sự nghiệp, mà lại không tuyên truyền trong công nhân những kết luận
của lý luận đó”1.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, công tác tư tưởng - lý luận
có vai trò rất quan trọng. Đó là khâu đột phá mở đường để trang bị cơ sở lý

luận cho các hoạt động thực tiễn, đúng như C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết:
“Các hệ thống lý luận tạo thành “bối cảnh xã hội” và “cơ sở lý luận” của các
phong trào thực tiễn”2.
Vai trò định hướng, dẫn đường của công tác lý luận cũng được
V.I.Lênin nêu rõ: “Chỉ đảng nào được lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới
có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”3. Với vai trò như vậy, công
tác tư tưởng - lý luận có ảnh hưởng rất lớn đến sự thành bại của cách mạng.
C. Mác và Ph.Ăngghen đã nói rõ điều đó: “Mỗi sai lầm phạm phải, mỗi thất
bại đều là hậu quả không tránh khỏi những luận điểm lý luận không chính xác
của cương lĩnh ban đầu”4.
Công tác tư tưởng - lý luận không những đóng vai trò định hướng, dẫn
đường, là cơ sở của các hoạt động thực tiễn, mà còn là sức mạnh góp phần cải
biến hiện thực. V.I.Lênin khẳng định: “Tư tưởng trở thành sức mạnh khi nào
tư tưởng thâm nhập vào quần chúng”5.
Theo quan điểm của các nhà kinh điển mác xít, công tác tư tưởng - lý
luận có vai trò rất lớn, do đó, Đảng của giai cấp vô sản cần phải xác định công
tác tư tưởng - lý luận là một nhiệm vụ quan trọng và phải được tiến hành
thường xuyên trong suốt quá trình thực hiện mục tiêu của Đảng.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, công tác tư tưởng - lý
luận có những nhiệm vụ sau:
1- Bảo vệ hệ tư tưởng cộng sản chủ nghĩa đấu tranh với hệ tư tưởng tư
sản.
1

. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 1, Nxb.Tiến bộ Mátxcơva, 1978, tr. 382.
. C.Mác-Ăngghen, Toàn tập, tập 34, Nxb.CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 725.
3
. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 6, Nxb.Tiến bộ Mátxcơva, 1975, tr. 32.
4
. C.Mác-Ăngghen, Toàn tập, tập 36, Nxb.CTQG, Hà Nội, 1999, tr. 786.

5
. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 34, Nxb.Tiến bộ Mátxcơva, 1976, tr. 137.
2

2


2- Tuyên truyền, giải thích các quan điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng.
3- Đảm bảo sự thống nhất trong toàn Đảng.
Từ thực tiễn phát triển của xã hội loài người và trên cơ sở học thuyết
mác xít có thể khẳng định, công tác tư tưởng hình thành từ khi xã hội có giai
cấp. Mọi chính đảng, nhà nước đều tiến hành công tác tư tưởng và coi đó là
hoạt động quan trọng bậc nhất của mình.
Có nhiều cách tiếp cận khi đề cập đến khái niệm công tác tư tưởng.
Nếu xét theo quá trình hình thành, phát triển và truyền bá hệ tư tưởng
của giai cấp giữ vị trí thống trị trong lịch sử thì “Công tác tư tưởng là hoạt
động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng, nhằm hình thành và phát
triển hệ tư tưởng, truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng, thúc đẩy quần
chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng”1. Nếu tiếp cận theo quan
điểm của giai cấp vô sản thì “Công tác tư tưởng là hoạt động đa dạng và quan
trọng vào bậc nhất của Đảng Mác-Lênin và Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhằm
xây dựng, xác lập, phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, hình thành niềm
tin, định hướng giá trị đúng đắn, góp phần xây dựng thế giới quan khoa học
cho con người, thúc đẩy con người hành động tích cực và sáng tạo, để thực
hiện thắng lợi lý tưởng và mục tiêu xã hội chủ nghĩa”2. Cũng theo cách tiếp
cận này, “Công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành rất quan trọng trong
toàn bộ hoạt động cách mạng của Đảng. Công tác tư tưởng cùng với công tác
tổ chức góp phần xây dựng Đảng thành đội tiền phong, bộ tham mưu chiến
đấu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nó có nhiệm vụ giáo dục

chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối, chủ trương của Đảng cho cán bộ, đảng viên
và quần chúng, nhằm nâng cao tính tự giác, chủ động, sáng tạo của họ trong
việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị cụ thể do Đảng đề ra; đồng thời nó

1

. Lương Khắc Hiếu: Nguyên lý công tác tư tưởng, tập 1, Nxb.CTQG, Hà Nội, 1999, tr. 11-12.
. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương: Một số vấn đề lý luận và nghiệp vụ công tác tư tưởng,
Nxb.CTQG, Hà Nội, 1996, tr. 23.

2

3


cũng góp phần vào việc hình thành đường lối, chủ trương của Đảng…góp
phần xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa”1…
Như vậy, theo nghĩa chung nhất, công tác tư tưởng là hoạt động có mục
đích của một giai cấp, một chính đảng, nhằm hình thành, phát triển, truyền
bá hệ tư tưởng trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích
của chủ thể tư tưởng. Công tác tư tưởng dưới chủ nghĩa xã hội là hoạt động
có mục đích của Đảng Cộng sản, nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư
tưởng xã hội chủ nghĩa thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị trong đời sống
tinh thần xã hội; hình thành, phát triển, truyền bá cương lĩnh, đường lối,
chính sách của Đảng trong xã hội, cổ vũ động viên mọi người hành động chủ
động, tích cực, sáng tạo vì lý tưởng, mục tiêu xã hội chủ nghĩa; đấu tranh
chống lại những luận điệu sai trái phản động; bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, giữ gìn và phát huy
bản sắc dân tộc.
Trong quá trình ra đời và lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt

Nam luôn xác định, công tác tư tưởng là nhiệm vụ trọng yếu.
Công tác tư tưởng có 3 bộ phận hợp thành: công tác nghiên cứu lý luận,
công tác tuyên truyền giáo dục và công tác cổ động.
Công tác nghiên cứu lý luận là bộ phận quan trọng hàng đầu của công
tác tư tưởng, nhằm tổng kết thực tiễn, phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từng bước làm phong phú hệ tư tưởng của
Đảng.
Công tác tuyên truyền giáo dục là một bộ phận của công tác tư tưởng
có nhiệm vụ truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm làm cho mọi
cán bộ, đảng viên và nhân dân từng bước nhận thức được quy luật tồn tại và
phát triển của xã hội loài người, thấm nhuần đường lối, chủ trương có căn cứ
khoa học, trên cơ sở đó nâng cao niềm tin, hành động tự giác và sáng tạo.

1

. Đào Duy Tùng: Một số vấn đề công tác tư tưởng, Nxb.CTQG, Hà Nội, 1999, tr. 7-8.

4


Công tác cổ động nhằm tác động trực tiếp vào tâm lý, tình cảm của
quần chúng. Bằng việc thông tin, giải thích cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
hiểu biết kịp thời những sự kiện đang diễn ra trong đời sống. Nắm bắt đường
lối, chủ trương, chính sách; cổ vũ động viên mọi người hành động vì mục tiêu
xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh.
Ba bộ phận công tác tư tưởng tuy có khác nhau về mục tiêu, phương
thức tiến hành, song có quan hệ gắn bó với nhau, cùng tác động đến nhận thức
tư tưởng, tâm lý, tình cảm của quần chúng, tạo sự thống nhất về ý chí và hành

động, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng. Trong
công tác tư tưởng, Đảng phải kết hợp ba bộ phận đó sao cho hiệu quả nhất.
Công tác tư tưởng có các chức năng chủ yếu là: nhận thức lý luận; giáo
dục, tuyên truyền và cổ động, hình thành giá trị tinh thần giải phóng tư tưởng,
dự báo sự phát triển xã hội và đấu tranh tư tưởng. Các chức năng đó đều thực
hiện thông qua hoạt động tư tưởng và tâm lý của con người bằng lực lượng
(các cán bộ làm công tác tư tưởng), bằng tổ chức và bộ máy với một hệ thống
hết sức đa dạng, phong phú, linh hoạt về phương pháp, biện pháp và các hình
thức thể hiện. Để thực hiện các chức năng đó, công tác tư tưởng cần có sự
phân công hoạt động: các cán bộ tư tưởng chuyên nghiệp, các cấp uỷ và đảng
viên đều phải tham gia.
1.1.2 Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta về công tác
tư tưởng trước đổi mới
Trong các thời kỳ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng luôn
quan tâm lãnh đạo công tác tư tưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập
và rèn luyện Đảng ta đã tiếp thu những tinh hoa tư tưởng của nhân loại trên
nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin. Vấn đề nền tảng tư tưởng của Đảng là một
trong những vấn đề Hồ Chí Minh coi trọng hàng đầu trước khi thành lập
Đảng. Người khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt,
trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không

5


có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”1.
Trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã thực hiện quá trình tư
tưởng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng là vấn đề cốt lõi của đời sống
tinh thần của con người, tư tưởng luôn giữ vai trò chủ đạo đầu tiên chi phối sự
suy nghĩ, hành động của con người. Người cho rằng, công tác tư tưởng là sự

tác động lên trạng thái tư tưởng, tình cảm, tinh thần của những đối tượng khác
nhau nhằm thúc đẩy cách mạng tiến lên. Tư tưởng đúng đắn, thông suốt, lập
trường giai cấp vững vàng, luôn luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu tạo nên
lòng quyết tâm, ý chí kiên cường của người chiến sĩ cách mạng; là tiền đề, là
cơ sở đề hành động thống nhất, mạnh mẽ và có hiệu quả.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, điểm quan trọng nhất trong công tác tư
tưởng là lòng tin vào con người, tin vào những gì tốt đẹp và cao thượng của
con người. Người chỉ rõ: Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong
lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa
mùa xuân và phần xấu bị dần mất đi, đó là thái độ của người cách mạng.
Chính lòng tin đó là cơ sở đưa đến những quan niệm cách mạng và khoa học
của Người về công tác tư tưởng.
Trong công tác tư tưởng, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác lý
luận: “Có lý luận soi đường thì quần chúng hành động mới đúng đắn, mới
phát triển được tài năng và lực lượng vô cùng tận của mình”. Tuy nhiên, Hồ
Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh, lý luận phải gắn với thực tiễn, học đi đôi với
hành, nói đi đôi với làm, tuyệt đối tránh tình trạng “lý luận suông”, “nói
suông” trong cán bộ, đảng viên, nhất là trong các cán bộ lãnh đạo.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam có
những nhận thức và hành động rất đúng đắn về công tác tư tưởng và vai trò
của công tác tư tưởng trong sự nghiệp cách mạng.
Thời kỳ chưa giành được chính quyền, Đảng đã tiến hành công tác tư
tưởng một cách kịp thời, sắc bén, gắn chặt với mục tiêu, nhiệm vụ chính trị
1

. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb.CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 268.

6



của từng thời kỳ cách mạng. Việc đánh giá đúng tình hình đã góp phần quan
trọng ổn định tư tưởng cán bộ, đảng viên, nâng cao lòng tin vào lý tưởng và
thắng lợi của cách mạng, đẩy lùi các hiện tượng bi quan, dao động. Việc giáo
dục khí tiết cách mạng trước kẻ thù, kiên cường đấu tranh trong các nhà tù…
đã nêu gương sáng về tinh thần hy sinh, bất khuất cho độc lập, tự do của dân
tộc. Hoạt động tư tưởng thời kỳ này đã góp phần to lớn vào việc bồi dưỡng,
đào tạo đội ngũ cán bộ về chính trị, tổ chức, phát động quần chúng, kinh
nghiệm công tác bí mật, giáo dục đảng viên nêu cao vai trò tiên phong cách
mạng, gắn bó chặt chẽ với quần chúng, chịu đựng hy sinh gian khổ, xây dựng
sự đoàn kết thống nhất trong Đảng phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
(1945-1975), dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác tư tưởng đã góp phần quan
trọng vào việc xây dựng đường lối giải phóng dân tộc và biến đường lối ấy
thành phong trào cách mạng của cả nước với tinh thần quyết chiến, quyết
thắng vì độc lập tự do của dân tộc.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Tổng Bí thư Trường Chinh
chỉ rõ: “Công tác tư tưởng là công tác tinh vi nhất vì nó động đến tâm tư, tình
cảm của con người, nó nắm được mạch sống của xã hội và có khả năng phát
huy tính tự giác, tính tích cực, chủ động và óc sáng tạo của quần chúng để
hoàn thành mọi nhiệm vụ của Đảng đề ra. Mỗi cơ quan lãnh đạo của Đảng
cần đi sâu nghiên cứu vấn đề lãnh đạo công tác tư tưởng, dùng công tác tư
tưởng làm đòn bẩy để đẩy mạnh mọi mặt công tác khác”1. Vì thế: “Toàn Đảng
phải làm công tác tư tưởng, toàn Đảng phải làm công tác tuyên truyền. Vì
công tác chính trị, công tác tư tưởng là linh hồn của mọi công tác, không
những nó nhằm phục vụ những nhiệm vụ cụ thể trước mắt mà còn nhằm cải
tiến bộ mặt tinh thần của toàn thể xã hội của hàng chục triệu con người”2. Tuy
nhiên, “Tuyệt đối không nên xem công tác tư tưởng như một liều thuốc “linh
đan” hoặc một thứ “bùa” đả thông thắc mắc khi cần thì dùng đến, khi không
1


. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương: 70 năm công tác tư tưởng văn hoá của Đảng truyền thống
vẻ vang, trách nhiệm to lớn, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2000, tr. 21.
2
. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương: 70 năm công tác tư tưởng văn hoá của Đảng truyền thống
vẻ vang, trách nhiệm to lớn, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2000, sđd, tr. 19.

7


cần thì xếp lại một bên. Làm như vậy là hạ thấp ý nghĩa và tác dụng của lý
luận Mác - Lênin, của công tác tư tưởng của Đảng, thu hẹp công tác tư tưởng
vào những công việc sự vụ, vụn vặt, và “Các cấp, các ngành cần nâng cao
trình độ lãnh đạo công tác của mình lên trình độ lãnh đạo chính trị, lãnh đạo
tư tưởng và xem công tác tư tưởng là then chốt để hoàn thành tốt mọi mặt
công tác”1.
Nhờ làm tốt công tác tư tưởng mà đường lối kháng chiến toàn dân, toàn
diện, trường kỳ kháng chiến của Đảng được quán triệt sâu rộng đến toàn thể
cán bộ, đảng viên và toàn dân, góp phần xây dựng và giữ vững ý chí quyết
chiến, quyết thắng, kiên cường, bất khuất, chịu đựng hy sinh gian khổ; chống
bi quan, sợ địch, hữu khuynh, thoả hiệp, mất cảnh giác, ngại hy sinh gian khổ,
đồng thời chống chủ quan, khinh địch, nóng vội, muốn thắng nhanh, giải
quyết nhanh. Công tác tư tưởng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược đã khơi dậy và huy động được sức mạnh của toàn dân tộc tham gia
cuộc kháng chiến, làm lên một “Điện Biên Phủ chấn động địa cầu”.
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng chỉ rõ, nhiệm
vụ của công tác tư tưởng là: “Làm cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta
trong mọi tình thế đều tin tưởng vững chắc vào đường lối chủ trương đối
ngoại của Đảng; có ý chí quyết chiến, quyết thắng đế quốc Mỹ xâm lược; ra
sức làm tốt nhất mọi công tác trong sản xuất và trong chiến đấu”2.
Đảng xác định nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư tưởng: “Toàn bộ

công tác tư tưởng trước mắt phải hướng vào việc phát huy cao độ vai trò của
cán bộ, đảng viên và các lực lượng nòng cốt trong quần chúng, tăng cường sự
nhất trí trong Đảng, sự đoàn kết trong các tầng lớp nhân dân, sự gắn bó giữa
quân và dân tạo ra một cao trào cách mạng sôi nổi và liên tục trong sản xuất
và chiến đấu”3.

1

. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương: 70 năm công tác tư tưởng văn hoá của Đảng truyền thống
vẻ vang, trách nhiệm to lớn, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2000, sđd, tr. 20.
2
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 26, Nxb.CTQG, H, 2003, tr. 128.
3
. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 26, Nxb.CTQG, H, 2003, sđd, tr . 130.

8


Về phương pháp, Đảng chỉ rõ: “Công tác tư tưởng phải kết hợp chặt
chẽ ba mặt: tuyên truyền giáo dục về tình hình, nhiệm vụ và đường lối, chủ
trương của Đảng trong hoàn cảnh mới; nâng cao trình độ hiểu biết về quản lý
kinh tế và kỹ thuật, về chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân; bồi
dưỡng phẩm chất và đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản”.
Bên cạnh đó, Đảng nhấn mạnh, công tác tư tưởng phải tăng cường công
tác tuyên truyền đối ngoại, nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ hơn
nữa của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là của Liên Xô và Trung Quốc, và
của nhân dân tiến bộ trên thế giới đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam và
bảo vệ miền Bắc của nhân dân ta.
Tại thời điểm gay go ác liệt nhất của cuộc kháng chiến (1965-1975) khi quân Mỹ trực tiếp tham chiến, Đảng ta xác định: Điều quan trọng nhất đối
với dân tộc ta là vấn đề tư tưởng. Quân dân miền Nam nói riêng, cả nước nói

chung phải xác định được lập trường kiên định, đó là cái gốc của mọi vấn đề,
là chiếc chìa khoá mở ra những thắng lợi huy hoàng từ đó về sau.
Trong thời điểm này, bằng nhiều hoạt động phong phú, công tác tư
tưởng của Đảng đã tiến hành động viên chính trị sâu rộng, mạnh mẽ, liên tục
trong Đảng và trong nhân dân, làm cho toàn Đảng, toàn dân tin tưởng vào
đường lối cách mạng của Đảng, phát huy đến đỉnh cao chủ nghĩa yêu nước,
chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ, với quan điểm “có vũ khí tư
tưởng sắc bén mới có vũ khí bằng sắt thép sắc bén để chiến thắng quân thù”,
Đảng đã huy động các cơ quan tuyên truyền và văn hoá của Đảng và Nhà
nước, các ngành, các giới, các lực lượng phối hợp tiến hành động viên chính
trị, giáo dục tư tưởng, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên những người có
trách nhiệm đi đầu, vận động và tổ chức phong trào quần chúng. Đặc biệt,
trước những bước ngoặt của cách mạng, khi tình hình trong nước và quốc tế
có những biến động phức tạp, khi địch dùng những thủ đoạn quyết liệt để
chống phá, khi cách mạng thắng lợi cũng như khi gặp khó khăn, tổn thất,
công tác tư tưởng đã căn cứ các nghị quyết của Đảng tạo sự thống nhất về

9


nhận thức, khắc phục những lệch lạc, định hướng đúng cho hành động của
toàn Đảng, toàn dân. Trong cuộc chiến đấu trường kỳ, quyết liệt và phức tạp,
công tác tư tưởng đã thường xuyên góp phần xây dựng, vun đắp và phát huy
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và tin vào sức mạnh của dân tộc, dám
đánh Mỹ, sáng tạo nhiều cách đánh Mỹ, kiên quyết đánh Mỹ đến thắng lợi
hoàn toàn.
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc
lập, tự do”, “yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội là một”, là những chủ đề
xuyên suốt trong hoạt động tư tưởng. Những tấm gương anh hùng, dũng sĩ

diệt Mỹ, những “người tốt việc tốt”, những cái hay, cái đẹp nảy sinh trong sản
xuất, chiến đấu và công tác được nêu cao, góp phần xây dựng đạo đức mới,
nếp sống mới của con người Việt Nam, đồng thời đấu tranh bảo vệ văn hoá
dân tộc, chống văn hoá nô dịch và đồi truỵ của Mỹ - nguỵ.
Công tác tư tưởng đã kết hợp tốt với công tác tổ chức, tập hợp rộng rãi
tất cả mọi người Việt Nam yêu nước, dấy lên một cao trào chống Mỹ, cứu
nước của toàn dân, với khí thế sôi nổi, hào hùng, thu hút mọi tầng lớp, mọi
lứa tuổi, miền xuôi, miền ngược, tiền tuyến, hậu phương, trên mọi lĩnh vực
sản xuất, chiến đấu và công tác. Với trí thông minh, sự sáng tạo của quần
chúng, tất cả các giai cấp, tầng lớp từ nông dân, công nhân đến bộ đội, du
kích và nhà khoa học… đều có những hành động thiết thực tạo nên sức mạnh
tổng hợp vì mục tiêu cao cả: “Tất vả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Mỗi
phong trào cách mạng của các ngành, các giới đều mang đậm khí phách của
dân tộc.
Trong quá trình tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,
Đảng chỉ rõ: Khi nhân dân lao động đã được giải phóng, thì yếu tố tinh thần
có tác dụng vô cùng to lớn trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới. Đảng
khẳng định: “Tư tưởng, văn hoá và kỹ thuật là những vũ khí sắc bén mà chính
đảng của giai cấp công nhân phải nắm lấy để thúc đẩy toàn bộ sự nghiệp cách
mạng tiến lên, thúc đẩy công cuộc xây dựng xã hội mới” và “Tư tưởng, văn
hoá, kỹ thuật là ba mặt có liên hệ chặt chẽ với nhau và thúc đẩy nhau phát
triển, nhưng tư tưởng vẫn là cơ sở. Cách mạng văn hoá và kỹ thuật không thể
10


tiến hành tốt, càng không thể giành được thắng lợi, nếu không dựa vững trên
những thành quả của cách mạng tư tưởng”1.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Hội nghị lần thứ 24 Ban
Chấp hành Trung ương, khoá III (9-1975) đã phân tích tình hình mọi mặt,
quyết định nhiệm vụ hoàn thành thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ

nghĩa xã hội. Về công tác tư tưởng, Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ phương hướng
chung là: “Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy
tinh thần tự hào dân tộc, tinh thần tự lực tự cường, vạch trần chủ nghĩa quốc
gia giả hiệu, chống hệ tư tưởng chính trị phản động… Tích cực tuyên truyền,
giáo dục chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa, ý thức xây dựng của công, xây
dựng nếp sống mới; đấu tranh chống ảnh hưởng của văn hoá tư sản, thực dân
mới”. Nghị quyết 24 của Ban Chấp hành Trung ương, khoá III đã xác định
đúng đắn phương hướng, nhiệm vụ công tác tư tưởng trong bước ngoặt mới
của cách mạng, định hướng kịp thời cho các hoạt động tư tưởng, góp phần
phát huy thắng lợi, hoàn thành sớm việc thống nhất Tổ quốc, chuyển sang giai
đoạn mới đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng xác định
nhiệm vụ trọng tâm của cách mạng tư tưởng và văn hoá trong giai đoạn cách
mạng mới là: “Xây dựng con người mới, nền văn hoá mới; giáo dục chủ nghĩa
Mác-Lênin, làm cho đường lối, chính sách của Đảng thấu suốt trong cán bộ,
đảng viên và quần chúng; tiến hành đấu tranh tư tưởng chống tư tưởng văn
hoá phản động của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân.
Nhằm đẩy mạnh công tác tư tưởng trong những năm đầu thập kỷ 80,
tháng 2-1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 36 về những
nhiệm vụ trước mắt của công tác tư tưởng. Nghị quyết chỉ rõ những yếu kém
của công tác tư tưởng: “Không vươn lên kịp sự phát triển của cách mạng
…không kịp thời giải quyết những vấn đề mới xuất hiện… không chủ động
ngăn ngừa và không kiên quyết đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực.
Công tác tư tưởng cũng đi theo phương hướng nóng vội, thường nêu thành
1

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 21, Nxb.CTQG, H, 2002, tr. 550.

11



tích và thuận lợi một chiều… chưa phân tích đầy đủ mọi mặt khó khăn, thiếu
tính chiến đấu, thiếu chủ động và chưa sắc bén, chưa thật sự đi sát công tác
kinh tế và đời sống nhân dân, chưa gắn liền với công tác tổ chức, không làm
tất cả các tổ chức đều làm công tác tư tưởng”1.
Việc chỉ ra những hạn chế trong công tác tư tưởng đã giúp cho đại bộ
phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân hiểu đúng tình hình đất nước,
thấy được những cố gắng đổi mới bước đầu và những khuyết điểm, sai lầm
cần khắc phục, đồng thời tạo cơ sở để Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V
của Đảng kịp định hướng công tác tư tưởng trong thời gian tới. Nghị quyết
Đại hội xác định nhiệm vụ cơ bản của công tác tư tưởng trong những năm
1981-1985 là: Vũ trang cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta những kiến
thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội khoa học, xây dựng ý thức kiên cường, quyết
tâm sắt đá và trình độ hiểu biết cần thiết để làm tròn hai nhiệm vụ chiến lược:
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Để cải tiến công tác tư tưởng, Đảng chỉ rõ: Phải sâu sát thực tế, nhạy
cảm với cuộc sống, nghiên cứu, tổng kết, phổ biến những điển hình tiên tiến,
cổ vũ, vun xới cho những nhân tố tích cực sớm được nhân lên… Toàn Đảng
phải làm công tác tư tưởng, mọi đảng viên đều phải làm công tác tư tưởng.
Phối hợp tất cả các cơ quan, ban, ngành và đoàn thể; sử dụng tất cả các công
cụ thông tin, văn hoá, văn học, nghệ thuật, giáo dục… để làm công tác tư
tưởng; gắn chặt công tác tuyên truyền giáo dục với công tác tổ chức và tổng
kết thực tiễn để làm công tác tư tưởng.
Trong những năm cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1975-1985).
Thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương Đảng, công tác tư tưởng
đã huy động toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tích cực lao động sản xuất, anh
dũng phấn đấu, khắc phục khó khăn, vượt qua trở ngại giành những thắng lợi
quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Công tác tư tưởng, công tác lý luận đã góp phần
tích cực vào việc hình thành những chủ trương đổi mới từng phần như: Nghị

1

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb.CTQG, H, 2002, tr

12


quyết Hội nghị Trung ương 6, khoá IV; Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (1-1981)
về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động; Quyết định 25/CP, 26/CP
của Hội đồng Bộ trưởng về phát huy quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh
và cải tiến công tác kế hoạch; Kết luận của Bộ Chính trị về ba quan điểm
kinh tế. Đó là những đổi mới quan trọng trong công tác tư tưởng và nghiên
cứu lý luận, tạo tiền đề cho sự đổi mới toàn diện tại Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI.
1. 2. Tình hình mới, yêu cầu mới đối với công tác tư tưởng và sự
lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng
1.2.1. Tình hình quốc tế
Những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, trên bình diện quốc tế nảy sinh
nhiều mâu thuẫn cơ bản. Đó là:
1 - Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản không chỉ là
mâu thuẫn giữa các nước xã hội chủ nghĩa với các nước tư bản chủ nghĩa mà
còn bao hàm những mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản với các lực lượng, các
nhân tố xã hội chủ nghĩa trong từng nước tư bản và trên phạm vi thế giới.
Cụm từ “mâu thuẫn hai phe” không còn thích hợp với tình hình hiện tại. Sau
sự kiện Liên Xô tan rã, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản
không dịu đi mà tiếp tục diễn ra phức tạp.
2 - Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trong các
nước tư bản là biểu hiện về mặt chính trị - xã hội của mâu thuẫn cơ bản nhất
trong xã hội tư bản: Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của
lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu

sản xuất. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, toàn cầu hoá kinh tế, những
điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản không thể kiềm chế được mâu thuẫn nói trên,
mà càng làm cho mâu thuẫn sâu sắc thêm và phát triển nhanh hơn. Mâu thuẫn
giữa giai cấp tư sản và công nhân là hạt nhân của một mâu thuẫn đang phát
triển nhanh chóng. Đó là mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân rộng rãi với tư
sản độc quyền. Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, chính sách của các tập đoàn
tư bản độc quyền không chỉ tăng cường bóc lột giai cấp công nhân mà còn
13


xâm phạm và đe doạ lợi ích của các tầng lớp trong xã hội, kể cả một bộ phận
của giai cấp tư sản. Đó là những lợi ích về hoà bình, an ninh, về an sinh, về tự
do dân chủ, v.v.. Mâu thuẫn này được thể hiện ở các cuộc đấu tranh chống
toàn cầu hoá tư bản chủ nghĩa, chống chiến tranh xâm lược, chống chủ nghĩa
bá quyền…, đã lôi cuốn hàng chục triệu người thuộc nhiều tầng lớp xã hội
tham gia.
3 - Mâu thuẫn giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên
quốc gia, các trung tâm tư bản lớn với nhau là mâu thuẫn trong nội bộ chủ
nghĩa tư bản độc quyền, biểu hiện mới của mâu thuẫn giữa đế quốc với đế
quốc. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các cường quốc tư bản tìm mọi cách
hạn chế những bất đồng, tăng cường liên minh về chính trị và quân sự để đối
phó với Liên Xô và khối Vácsava. Sau khi Liên Xô sụp đổ, khối Vácsava
không còn, mâu thuẫn giữa các quốc gia và trung tâm tư bản lớn phát triển
nhanh hơn, bộc lộ công khai hơn. Biểu hiện của mâu thuẫn này là các cuộc
“chiến tranh” thương mại, tranh giành thị trường, giành khống chế các nguồn
tài nguyên, v.v… Nổi bật lên là mâu thuẫn gay gắt giữa Mỹ đang thi hành
chính sách bá quyền, đơn phương với các cường quốc tư bản đồng minh chủ
chốt của Mỹ. Các bên đều tìm cách giải quyết những bất đồng, song mâu
thuẫn cụ thể này tạm thời được khắc phục thì mâu thuẫn khác lại nổi lên, vì
nguồn gốc sâu xa của mâu thuẫn là chế độ chiếm hữu của tư bản độc quyền

toàn cầu hoá. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, mâu thuẫn này chưa có khả
năng phát triển thành xung đột lớn như trước đây.
4 - Mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát
triển là hình thức biểu hiện mới của mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và các
dân tộc bị áp bức. Về vấn đề này, Cương lĩnh năm 1991 cho rằng, các nước
độc lập dân tộc và các nước đang phát triển phải tiến hành cuộc đấu tranh rất
khó khăn, phức tạp, chống nghèo nàn, lạc hậu, chống chủ nghĩa thực dân dưới
mọi hình thức, chống sự can thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm
bảo đảm độc lập và chủ quyền dân tộc. Chủ nghĩa tư bản độc quyền không
muốn và không thể khắc phục mâu thuẫn này, vì việc duy trì “khu vực ngoại

14


vi” gồm những nước đang phát triển và kém phát triển là điều kiện tồn tại và
là lợi ích sống còn của họ.
Xuất phát từ phân tích tình hình chính trị sau “chiến tranh lạnh”, Hội
nghị Trung ương 8, khoá IX của Đảng đã có sự phát triển trong tư duy về việc
xác định mâu thuẫn thời đại, nêu lên những nét mới về nội dung và hình thức
biểu hiện của mâu thuẫn, không dùng các khái niệm “mâu thuẫn cơ bản”
“mâu thuẫn cơ bản nhất”, “mâu thuẫn chủ yếu” mà khẳng định: “Tình hình
thế giới trong hơn một thập kỷ qua, nổi lên mâu thuẫn gay gắt giữa một bên
là thế lực hiếu chiến mưu toan thống trị thế giới và các thế lực theo đuổi
chúng, với một bên là nhân dân lao động và các lực lượng đấu tranh chống
chiến tranh, chống chủ nghĩa bá quyền, bảo vệ hoà bình, độc lập dân tộc, chủ
quyền, sự bình đẳng giữa các quốc gia và lợi ích của mỗi nước”.
Một thập kỷ cuối của thế kỷ XX tình hình thế giới diễn biến hết sức
phức tạp.
* Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là biến cố
lớn nhất làm thay đổi hẳn cục diện chính trị thế giới

Từ 1989 đến 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô lần
lượt sụp đổ, tạo nên cơn bão táp chính trị và bi kịch chính trị lớn nhất trong
lịch sử. Chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào. Tương quan lực lượng
và trật tự quốc tế thay đổi bất lợi cho cách mạng. Đây là thách thức lớn đối
với cách mạng Việt Nam. Cuộc đảo lộn chính trị không những làm cho cách
mạng nước ta mất đi những đồng minh chiến lược quan trọng, mà còn tác
động tiêu cực đến niềm tin của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng
nhân dân vào tiền đồ của chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta
chống các thế lực thù địch để bảo vệ Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội ngày càng
thêm gay go, phức tạp
Các thế lực thù địch, đứng đầu là Mỹ lợi dụng tình hình đó để đẩy
mạnh cuộc phản kích quyết liệt hòng xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn
lại. Trong cuộc phản kích này, chúng tập trung bác bỏ, xuyên tạc những quan
điểm lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, hòng phủ nhận hoàn toàn lý
15


luận của Đảng. Từ đó, đi đến xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thực
hiện mưu đồ thiết lập một trật tự thế giới mới - một thế giới không có chủ
nghĩa xã hội do Mỹ đứng đầu và mọi quốc gia trên thế giới phụ thuộc vào
Mỹ. Những hành động bao vây, cấm vận ngang ngược của Mỹ và sự can thiệp
thô bạo của Mỹ và NATO vào các quốc gia độc lập, có chủ quyền đang thách
thức dư luận tiến bộ trên toàn thế giới. Đặc biệt, sau sự kiện 11-9-2001 ở Mỹ,
nhân danh chống chủ nghĩa khủng bố, hành động can thiệp của Mỹ vào các
nước khác càng trắng trợn và ngang ngược hơn. Tình hình đó làm cho cuộc
đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa càng trở
nên quyết liệt, trong một tình thế không có lợi cho phong trào hoà bình, độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận
hiện nay nhằm củng cố, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng đã và đang trở
thành vấn đề cấp bách đối với các Đảng Cộng sản cầm quyền.

* Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã và đang tác động sâu
sắc đến tất cả các lĩnh vực của mọi quốc gia, dân tộc
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại là bước nhảy vọt mới cả về tính chất, trình độ, cơ cấu của lực lượng sản xuất. Nét nổi bật của bước
nhảy vọt này là sự chuyển biến từ nền công nghiệp truyền thống lấy sản xuất
cơ khí làm nền tảng sang nền công nghiệp hiện đại lấy công nghệ thông tin và
các ngành công nghệ cao khác làm nền tảng. Kinh tế tri thức có vai trò nổi bật
trong phát triển kinh tế. Lực lượng sản xuất của loài người chuyển sang giai
đoạn mới: giai đoạn toàn cầu hoá và tri thức hoá.
Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại làm biến đổi sâu sắc cơ cấu
xã hội, tính chất và cơ cấu giai cấp công nhân . Cách mạng khoa học - công
nghệ buộc các quốc gia phải thay đổi cách quản lý kinh tế - xã hội; phải từ bỏ
những mô hình, thể chế chỉ thích hợp với nền công nghiệp truyền thống. Ở
các nước xã hội chủ nghĩa, việc kết hợp tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội với
cách mạng khoa học - công nghệ trở thành vấn đề hết sức cơ bản và bức xúc.
Là động lực vĩ đại của lịch sử, song tự thân cách mạng khoa học - công
nghệ không trực tiếp giải quyết được mọi vấn đề của thời đại (như loại trừ

16


chiến tranh huỷ diệt, xoá bỏ áp bức, bóc lột bất công; thực hiện xã hội công
bằng, dân chủ văn minh, bảo vệ môi trường,…).
Đối với các nước, các khu vực khác nhau, tác động của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ không hoàn toàn giống nhau. Cách mạng khoa học công nghệ tạo cơ hội rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của các
nước đang phát triển, các nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, nó
cũng đặt cho những nước này nhiều vấn đề lớn, tạo nhiều thách thức lớn.
Trong thực tế, khoa học, công nghệ, vốn đầu tư đều do các nước tư bản phát
triển chi phối. Các nước đang phát triển và các nước đang xây dựng chủ nghĩa
xã hội đứng trước nguy cơ phụ thuộc vào bên ngoài và nguy cơ tụt hậu về
khoa học - công nghệ. Tuy nhiên, cách mạng khoa học - công nghệ đã tạo ra

cho các nước đang kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa những cơ hội lớn để
phát triển đất nước. Đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng ta
được thực tiễn chứng minh là đúng đắn, đang được hoàn thiện nhằm phát huy
mạnh mẽ hơn nữa sức mạnh tổng hợp của chủ nghĩa xã hội, của độc lập dân
tộc và của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại.
Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã và đang
tạo ra bước nhảy vọt trong nhận thức tư tưởng của nhiều quốc gia trên thế giới
trong đó có Việt Nam. Tiến bộ của khoa học - công nghệ đã phá vỡ sự ngăn
cách của các quốc gia, dân tộc, mở rộng tầm nhìn, giúp các dân tộc hiểu nhau
hơn, tạo sự xích lại gần nhau… Như vậy, cách mạng khoa học - công nghệ đã
tạo nên một cục diện mới trên mặt trận tư tưởng. Đó là sự đan xen, hoà nhập
giữa các hệ tư tưởng đối lập ở ngay trong mỗi quốc gia. Vì thế, cuộc đấu tranh
tư tưởng càng trở nên phức tạp hơn, đặt ra cho các Đảng Cộng sản cầm quyền
lãnh đạo công tác tư tưởng nhiều yêu cầu mới về cả nội dung, hình thức và
biện pháp tiến hành.
* Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan tác động ngày càng
mạnh mẽ đến tất cả quốc gia và quan hệ quốc tế

17


Ngày nay, toàn cầu hoá kinh tế đã trở thành một xu thế lớn của thế giới
đương đại. Nó tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến đời sống của tất cả các dân tộc,
đến các quan hệ quốc tế - cả tích cực lẫn tiêu cực.
Toàn cầu hoá vừa là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, vừa
tạo động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, có tác dụng nhất định
trong việc tranh thủ những nguồn vốn, khoa học - công nghệ tiên tiến của các
nước phát triển, tạo cơ hội mở rộng thị trường để công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Về mặt chính trị - xã hội, toàn cầu hoá thúc đẩy sự phân hoá giàu nghèo,
đẩy nhanh sự phát triển các mâu thuẫn của thời đại, mở rộng cơ sở của đấu

tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, tạo ra tiền đề của chủ nghĩa xã hội.
Toàn cầu hoá hiện nay thực tế do các nước tư bản phát triển, các công
ty xuyên quốc gia chi phối. Vì vậy, mặt trái của toàn cầu hoá cũng không thể
xem thường, nhất là đối với các nước đang phát triển. Toàn cầu hoá tạo ra
những thách thức và nguy cơ không nhỏ đối với đa số các quốc gia, dân tộc
(như nguy cơ mất độc lập tự chủ, mất bản sắc dân tộc; kinh tế quốc dân phải
đương đầu với cuộc cạnh tranh quốc tế không cân sức, không thật sự cân bằng
và ngày càng quyết liệt, dễ chịu sự tác động xấu từ những biến động phức tạp
của thị trường thế giới; các nước thực dân lợi dụng toàn cầu hoá để can thiệp
về chính trị vào các quốc gia độc lập,v.v…). Toàn cầu hoá vừa có mặt tích
cực lại vừa chứa đựng những tiêu cực. Đề cập đến vấn đề toàn cầu hoá, Đảng
chỉ rõ rằng muốn phát triển, không thể đứng ngoài toàn cầu hoá, nhưng tham
gia toàn cầu hoá là tham gia một quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, xem
nhẹ mặt nào cũng không thể thành công. Vấn đề không phải là “thúc đẩy” hay
“chống” toàn cầu hoá, mà là tranh thủ mọi cơ hội do toàn cầu hoá đưa lại để
phục vụ lợi ích dân tộc.
Hiện nay, các nước muốn phát triển nhất thiết phải hợp tác, hội nhập
trong khu vực và thế giới. Đó là đòi hỏi tất yếu với mọi quốc gia, dân tộc,
không phân biệt chế độ chính trị và trình độ phát triển. Đại hội IX của Đảng
nhấn mạnh “Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày
càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa hợp

18


tác, vừa có đấu tranh”1. Nếu không nhận thức đầy đủ xu thế đó và thiếu chủ
động đấu tranh khắc phục “mặt tiêu cực” trong quá trình hội nhập đó đều là
sai lầm và dẫn đến hậu quả khó lường.
Quá trình toàn cầu hoá và quốc tế là quá trình lợi dụng cả hai phía. Các
nước chậm phát triển thì tận dụng cơ hội để thoát khỏi tình trạng tụt hậu, còn

các nước phát triển thì lợi dụng những yếu kém của các nước chậm phát triển
để thu lợi nhuận, đẩy nhanh tốc độ phát triển. Vì thế, hội nhập là quá trình đấu
tranh quyết liệt giữa các nước chậm phát triển với các nước phát triển. Trên
thực tế, chúng đang chi phối quá trình đó theo lập trường của giai cấp tư sản,
ép các nước chậm phát triển chấp nhận những điều kiện của chúng.
Hoà nhập không hoà tan, hoà nhập nhưng vẫn giữ được bản sắc văn
hoá dân tộc, giữ được độc lập chủ quyền đó là yêu cầu và cũng là điều kiện
tiên quyết, là lập trường có tính nguyên tắc của các quốc gia, dân tộc trong
quá trình hội nhập. Vì thế, cuộc đấu tranh về nhận thức tư tưởng trong quá
trình hội nhập có nội dung rộng lớn, phức tạp và không kém phần quyết liệt.
Hoà bình, hợp tác để phát triển là xu thế chung của các quốc gia, dân
tộc. Sau khi Liên Xô sụp đổ, các mâu thuẫn giữa các nước lớn vẫn tồn tại và
phát triển, nhưng chưa đến mức có thể dẫn tới nguy cơ xung đột, chiến tranh.
Các quốc gia lớn, nhỏ đều cần duy trì hoà bình để phát triển. Tuy nhiên,
những nhân tố đe doạ hoà bình vẫn tồn tại (như chạy đua vũ trang, chủ nghĩa
bá quyền, các giới quân phiệt hiếu chiến gia tăng thế và lực, chủ nghĩa phát xít, v.v.). Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố còn xảy ra ở nhiều
nơi với tính chất phức tạp ngày càng tăng. Nguyên nhân chủ yếu của tình
trạng trên là hoạt động xâm lược, can thiệp, lật đổ của Mỹ và các thế lực theo
đuôi Mỹ. Sau khi “Chiến tranh lạnh” chấm dứt, chiến lược của đa số các quốc
gia đều tập trung vào phát triển. Các nước lớn và các nước giầu cần phát triển
để giữ vững và nâng cao vai trò, địa vị của mình. Phát triển càng là vấn đề
sống còn đối với các nước nghèo. Các dân tộc thiết tha với phát triển đều hiểu
rõ rằng, cần giữ vững hoà bình, an ninh, xây dựng mối quan hệ hợp tác tin cậy
1

. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.CTQG, Hà Nội,
2001, tr. 32.

19



lẫn nhau. Tuy còn những nhân tố đi ngược lại xu thế hoà bình, hợp tác để phát
triển, song các nhân tố tiêu cực ấy đã không ngăn chặn được xu thế nói trên.
Sau sự kiện Liên Xô tan rã, trước tình hình khó khăn, phức tạp, các
nước xã hội chủ nghĩa còn lại, đa số các Đảng Cộng sản, các lực lượng cách
mạng và tiến bộ trên thế giới vẫn kiên trì cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
* Phân hoá giàu nghèo giữa các nước phát triển và các nước đang
phát triển ngày càng tăng
Sự chênh lệch lớn về mức sống giữa các nước phát triển với các nước
chậm phát triển là một trong những nhân tố tác động đến tư tưởng và công tác
tư tưởng. Chủ nghĩa tư bản hiện đại nhờ ứng dụng được những thành tựu mới
của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã đạt được mức tăng trưởng kinh
tế đáng kể, tạo ra sự chênh lệch khá lớn về mức sống giữa các nước phát triển
với các nước chậm phát triển (trong đó có Việt Nam). Trong khi ở một số
nước phát triển thu nhập bình quân đầu người đạt trên 20.000
đôla/người/năm, thì chúng ta chưa đạt con số 500 đôla/người/năm. Tình hình
đó đã và đang tác động rất mạnh mẽ, sâu sắc tới nhận thức, tư tưởng của đông
đảo quần chúng nhân dân lao động, khiến cho nhiều người giảm sút niềm tin,
chao đảo, dao động về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Thực tế đó đã tạo nên tình thế không có lợi cho các Đảng Cộng sản
cầm quyền tiến hành cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận nhằm củng cố giữ vững
nền tảng tư tưởng của Đảng. Đồng thời, nó cũng đặt ra nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn đòi hỏi các Đảng Cộng sản phải giải đáp để thực hiện cuộc đọ sức
về kinh tế. Bởi cuộc đấu tranh “Ai thắng ai” giữa hai con đường: chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa xã hội chỉ giành được thắng lợi triệt để khi chủ nghĩa xã hội
chiến thắng chủ nghĩa tư bản trên mặt trận kinh tế.
* Các trào lưu tư tưởng và chủ nghĩa dân tộc, tôn giáo cực đoan phát
triển mạnh ở nhiều khu vực trên thế giới


20


Trào lưu xã hội dân chủ phát triển mạnh ở các nước Bắc Âu như: Thuỵ
Điển, Na Uy, Đan Mạch. Từ năm 1998 đến những năm đầu thế kỷ XXI, các
đảng trung tả trở thành lực lượng chính trị áp đảo ở Tây Âu. Mô hình phát
triển ở các nước này là sự kết hợp giữa cách tân tự do trong chính sách kinh tế
và chính sách tài khoá với việc nhấn mạnh vai trò của Nhà nước xã hội và
những quan điểm tự do cấp tiến trong các vấn đề về chính sách văn hoá, xã
hội. Tuy nhiên, những năm gần đây, các quốc gia Châu Âu chỉ còn lại ba
nước có người đứng đầu chính phủ là Đảng dân chủ xã hội. Mặc dù vậy, trào
lưu tư tưởng dân chủ xã hội vẫn tác động đến tư tưởng và việc lựa chọn con
đường phát triển của các quốc gia, dân tộc.
Những năm gần đây, tại châu Mỹ la tinh, sự thắng cử của lực lượng
cánh tả diễn ra ở một loạt nước. Đó là các nước có chế độ dân tuý “mang tính
chất dân chủ phong trào” như Veneduela, Bolivia, Ecuadov và các nước dựa
vào các đảng truyền thống trong khuôn khổ chế độ nghị viện thống nhất như
Chilê, Uruguay, Brazin, Áchentina. Nguyên nhân thắng lợi của những người
cánh tả Mỹ la tinh bắt nguồn từ tình trạng bất bình đẳng quá lớn về mặt xã hội
và chính sách kinh tế sai lầm đã tồn tại mấy thập kỷ ở các nước này. Sự
thống nhất giữa các chính phủ cánh tả Mỹ la tinh được thể hiện trên ba lĩnh
vực: chính sách kinh tế, chính sách xã hội và chính sách đối ngoại.
Trong chính sách kinh tế, hầu hết các nước theo quan điểm của chủ
nghĩa thực dụng thận trọng trong các quyết định kinh tế trọng tâm. Trong
chính sách xã hội, có sự gia tăng rõ rệt về các khoản trợ cấp xã hội, đặc biệt là
Veneduela. Về chính sách đối ngoại, các nước này (trừ Chilê) có thái độ phê
phán (tới mức thù địch) với Mỹ về các vấn đề khu vực Mỹ la tinh.
Triển vọng những năm tới về quyền lực của “những người cánh tả mới”
là rất tích cực. Triển vọng đó được gặt hái từ sự gia tăng về nguồn năng lượng

lớn và những tiến bộ trong chính sách về kinh tế, xã hội. Mặc dù còn phải có
sự kiểm nghiệm trong thực tế về tính bền vững của những cải cách, đổi mới,
song sự xuất hiện những mô hình chế độ xã hội mang tính “xã hội chủ nghĩa”
ở các nước Mỹ la tinh là một hướng đi mới tác động đến xu hướng vận động
của các nước thuộc châu Mỹ, châu Phi.
21


Bên cạnh đó, trào lưu xã hội dân chủ đang phản kích quyết liệt nhằm
phủ định lý luận Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Trào lưu
xã hội dân chủ đang thịnh hành ở nhiều nước Châu Âu. Những thập niên gần
đây, nhờ gặt hái được những thành tựu kinh tế - xã hội, “Con đường xã hội
dân chủ” đang trở thành trào lưu tư tưởng hấp dẫn. Một bộ phận giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và cả một số người cộng sản đã ngả theo khuynh
hướng đó. Do đó, cuộc đấu tranh ngăn ngừa, loại bỏ trào lưu xã hội dân chủ
để bảo vệ, giữ vững hệ tư tưởng Mác - Lênin là một thách thức, một khó khăn
rất lớn đối với các Đảng Cộng sản cầm quyền.
Cùng với các trào lưu tư tưởng mới, chủ nghĩa dân tộc cực đoan cũng là
yếu tố tác động đến tư tưởng và công tác tư tưởng của Đảng ta. Những thập
niên gần đây, nhân loại phải chứng kiến và lo ngại trước sự trỗi dậy của chủ
nghĩa dân tộc cực đoan. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan đã và đang làm bùng lên
những cuộc xung đột dân tộc, sắc tộc đẫm máu. Nhiều thành quả lao động
sáng tạo của các dân tộc đã bị tàn phá, một số nước đang bị đẩy xuống vực
thẳm của sự khốn cùng. Tận dụng cơ hội này, các nước đế quốc và các lực
lượng phản động tiến hành can thiệp làm cho các nước ấy càng lệ thuộc vào
chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Tình hình đó đặt ra cho các Đảng Cộng sản cầm quyền phải lãnh đạo
cuộc đấu tranh ngăn ngừa và chống lại chủ nghĩa dân tộc cực đoan, xây dựng
ý thức dân tộc chân chính theo lập trường của giai cấp công nhân, xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc.

Ngoài ra, vấn đề tôn giáo, đặc biệt là sự xuất hiện các phần tử cực đoan
ở một số quốc gia có đạo hồi đã đe doạ hoà bình, ổn định của thế giới. Từ sau
vụ khủng bố 11-9-2001 tại Mỹ, chủ nghĩa khủng bố đã hình thành và ngày
càng phát triển gây hoang mang, dao động cho nhân dân toàn thế giới, đặt
nhân loại trước nguy cơ của một cuộc “chiến tranh huỷ diệt” bởi vũ khí hoá
học và vũ khí hạt nhân. Thực trạng đó, đòi hỏi tất cả các quốc gia dân tộc phải
đoàn kết lại và kịp thời đề ra những đối sách nhằm ngăn chặn các vụ khủng
bố và ổn định tư tưởng cho các tầng lớp nhân dân.

22


×