Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Chất lượng đội ngũ kiểm toán viên của Kiểm toán nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 81 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HÀ THỊ MỸ DUNG

CHÊT L¦îNG §éI NGò
KIÓM TO¸N VI£N CñA KIÓM TO¸N NHµ N¦íC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
Mã số: 62 34 01 01

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG NGỌC LỢI
GS.TS. ĐOÀN XUÂN TIÊN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án này là công trình nghiên
cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong bản luận án là trung thực có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Hà Thị Mỹ Dung


MỤC LỤC
Trang
1



MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài
1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước liên quan đến đề tài
1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài và vấn đề cần
được tiếp tục nghiên cứu
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỘI NGŨ KIỂM TOÁN VIÊN NHÀ NƯỚC

2.1. Khái quát về kiểm toán và kiểm toán nhà nước
2.2. Khái niệm, nhiệm vụ và đặc điểm của kiểm toán viên nhà nước,
đội ngũ kiểm toán viên nhà nước
2.3. Khái niệm chất lượng kiểm toán viên nhà nước và chất lượng đội
ngũ kiểm toán viên nhà nước
2.4. Các yếu tố cấu thành chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước
2.5. Các tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước
2.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước
2.7. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc nâng cao chất lượng
đội ngũ kiểm toán viên nhà nước và bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam
Chương 3: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ KIỂM TOÁN
VIÊN NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

3.1. Thực trạng cơ cấu tổ chức và kết quả hoạt động của cơ quan
Kiểm toán nhà nước Việt Nam
3.2. Thực trạng chất lượng kiểm toán viên của Kiểm toán nhà nước
Việt Nam
Chương 4: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG

ĐỘI NGŨ KIỂM TOÁN VIÊN NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

4.1. Định hướng nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà
nước Việt Nam
4.2. Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước ở
nước ta
4.3. Một số khuyến nghị
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

7
7
15
21
24
24
34
41
42
44
52

61
76
76
87
109
109

114
138
147
150
151


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEANSAI

: Tổ chức Đông Nam Á các cơ quan Kiểm toán tối cao

ASOSAI

: Tổ chức Châu Á các cơ quan Kiểm toán tối cao

HĐND

: Hội đồng nhân dân

INTOSAI

: Tổ chức quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao

KTNN

: Kiểm toán nhà nước

NSNN


: Ngân sách nhà nước

SAI

: Cơ quan Kiểm toán tối cao

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Số lượng cuộc kiểm toán do cơ quan Kiểm toán nhà
nước thực hiện hàng năm (Từ năm 2009 đến năm 2014)

81

Bảng 3.2: Tổng hợp kết quả kiểm toán qua các năm của cơ quan
Kiểm toán nhà nước (từ năm 2009 đến năm 2014)

82

Bảng 3.3: Tổng hợp kết quả thực hiện kiến nghị kiểm toán qua các
năm của cơ quan Kiểm toán nhà nước (từ năm 2010 đến
năm 2014)


83

Bảng 3.4: Cơ cấu đội ngũ kiểm toán viên nhà nước theo giới tính
và cấp bậc (từ năm 1994 đến năm 2014)

92

Bảng 3.5: Cơ cấu đội ngũ kiểm toán viên nhà nước theo chuyên môn,
trình độ đào tạo và độ tuổi (từ năm 1994 đến năm 2014)

93

Sơ đồ 3.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan Kiểm toán nhà nước

79


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người là yếu tố quyết định trong mọi hoạt động chính trị, kinh tế,
xã hội. Chính vì vậy, từ trước tới nay việc phát triển nguồn nhân lực luôn luôn
được các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn hết sức quan tâm tìm tòi,
nghiên cứu, đưa ra những kiến nghị liên quan tới việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực và làm sao để sử dụng tiết kiệm nhất, đồng thời đem lại hiệu
quả cao nhất.
Về mặt nghiên cứu hàn lâm, các nhà khoa học hoạt động trong lĩnh vực
nghiên cứu về lao động và các nhà khoa học làm công tác giảng dạy đã có rất

nhiều công trình nghiên cứu tập trung vào những vấn đề cơ bản liên quan tới
con người và làm thế nào để phát huy được năng lực của họ. Các công trình
đó đã cho thấy rõ các vấn đề như: Thế nào là sức lao động; thế nào là lao
động sống, lao động quá khứ; thế nào là nguồn nhân lực; làm thế nào để quản
lý tốt nguồn nhân lực,…Tóm lại về lý thuyết, những vấn đề chung nhất như
vậy ngày nay đã có rất nhiều tài liệu để ai có quan tâm thì cũng tìm được một
cách không mấy khó khăn.
Nhưng trong thực tiễn, việc quản lý con người, quản lý nguồn nhân lực
của một lĩnh vực, một tổ chức cụ thể luôn là vấn đề thời sự. Hoạt động của
mỗi lĩnh vực, mỗi một đơn vị cụ thể đều có những đặc điểm nghề nghiệp
riêng, đòi hỏi về phẩm chất mỗi con người lao động và công tác quản trị
nguồn nhân lực cũng có những đặc thù riêng. Thậm chí cùng trong một lĩnh
vực, nhưng môi trường (bao gồm môi trường chính trị, xã hội, vị trí địa lý, thể
chế quản lý nhà nước,…) hoạt động khác nhau, thì những vấn đề liên quan tới
con người và quản lý con người cũng có điểm khác nhau.
Nghề kiểm toán, khác với nghề tài chính - kế toán - thanh tra; ngay
trong nghề kiểm toán cũng có sự khác nhau giữa kiểm toán độc lập, kiểm toán
nội bộ và kiểm toán nhà nước. Trong hoạt động kiểm toán nhà nước thì hoạt


2
động kiểm toán nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam
khác với hoạt động kiểm toán nhà nước của Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên bang
Úc, khác với nhiều nước khác nữa. Kiểm toán nhà nước Việt Nam ngày nay
cũng khác với giai đoạn trước khi chưa có Luật Kiểm toán nhà nước và càng
khác khi hiện nay địa vị pháp lý của cơ quan Kiểm toán nhà nước đã được
Hiến định. Điều đó dẫn đến sự khác nhau về yêu cầu đối với nguồn nhân lực
hoạt động kiểm toán trong các điều kiện môi trường khác nhau.
Bên cạnh đó, hiện nay và trong thời gian tới để đáp ứng với yêu cầu
của Đảng và Nhà nước về nhiệm vụ thực hiện hàng năm đối với tất cả các cơ

quan, đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước với chất lượng kiểm toán cao cùng
với việc đưa ra các kiến nghị, đề xuất để từ đó giúp cho Quốc hội, Chính phủ
xem xét, thẩm tra dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách Trung ương
đồng thời sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật, góp
phần bảo đảm quản lý nền tài chính lành mạnh và đảm bảo tính đầy đủ, đồng
bộ và khả thi của hệ thống pháp luật thì vẫn chưa đáp ứng được. Nguyên nhân
là do đội ngũ công chức trực tiếp làm công tác kiểm toán của cơ quan Kiểm
toán nhà nước (còn gọi là kiểm toán viên nhà nước) đang thiếu cả về số lượng
và chất lượng. Nhất là cơ cấu ngành nghề đào tạo, các ngạch, bậc kiểm toán
viên nhà nước chưa phù hợp; việc trang bị đầy đủ kiến thức và nhận thức về
đạo đức nghề nghiệp, ứng xử trong công tác cho đội ngũ công chức này còn là
vấn đề cần được tiếp tục quan tâm.
Nhận thức được điều đó, cơ quan Kiểm toán nhà nước Việt Nam
nhiều năm qua cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan tới việc
xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới - giai đoạn
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những công trình đó đã làm rõ
được nhiều vấn đề cơ bản liên quan tới con người hoạt động trong lĩnh vực
kiểm toán nhà nước. Nhưng tiêu chí nào để đánh giá đúng chất lượng đội
ngũ kiểm toán viên nhà nước và những nhân tố nào đảm bảo những tiêu chí
đó trên thực tế vẫn còn là vấn đề bỏ ngỏ. Chính vì lẽ đó mà tác giả đã chọn


3
đề tài "Chất lượng đội ngũ kiểm toán viên của Kiểm toán nhà nước" làm
luận án tiến sỹ, chuyên ngành quản lý kinh tế.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn và đánh giá thực trạng chất
lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước, luận án làm rõ những tiêu chí đánh
giá chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước và những việc cần làm để

đảm bảo đạt được các tiêu chí đó đối với cơ quan Kiểm toán nhà nước nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam; từ đó đề xuất các định hướng và giải pháp nâng
cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước của Việt Nam trong giai đoạn phát
triển mới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là: Hệ thống hoá được khung pháp lý cho nghiên cứu chất lượng
đội ngũ kiểm toán viên nhà nước.
Hai là: Hệ thống, phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ
kiểm toán viên nhà nước, rút ra một số kết luận liên quan tới chất lượng đội
ngũ kiểm toán viên nhà nước.
Ba là: Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về cơ
quan Kiểm toán nhà nước và thực trạng chất lượng đội ngũ kiểm toán viên
nhà nước trong thời gian qua, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm về tuyển
dụng, đào tạo, quản lý, sử dụng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước của một số
nước trên thế giới, đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là chất lượng đội ngũ kiểm toán viên
của Kiểm toán nhà nước.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn bởi:


4
+ Về phạm vi hoạt động kiểm toán: Luận án chỉ tập trung nghiên cứu
về lĩnh vực kiểm toán nhà nước, bao gồm cả kiểm toán nhà nước cấp Trung
ương và kiểm toán nhà nước cấp Khu vực;
+ Về thời gian: Nghiên cứu các vấn đề liên quan tới chất lượng đội ngũ
kiểm toán viên từ năm 1994 đến hết năm 2014, chú trọng giai đoạn từ 2009

đến nay và đề xuất phương hướng, các giải pháp chủ yếu đến năm 2020;
+ Về nguồn nhân lực: Chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan
tới kiểm toán viên nhà nước (tức là những người trực tiếp thực hiện công tác
kiểm toán của cơ quan Kiểm toán nhà nước);
+ Kiểm toán viên của cơ quan Kiểm toán nhà nước được hiểu và trình
bày trong luận án là kiểm toán viên nhà nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên những quan điểm lý luận của Chủ
nghĩa Mác Lê nin, các chủ trương, đường lối, các nghị quyết của Đảng và
Nhà nước về hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà nước và xây dựng nguồn
nhân lực đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để hoàn
thành luận án, ngoài những phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung, tác
giả đặc biệt coi trọng phương pháp khái quát lịch sử quá trình vận động, phát
triển của cơ quan Kiểm toán nhà nước. Từ đó đổi mới nhận thức về sự kết
hợp giữa lý luận với thực tiễn trong việc đảm bảo chất lượng đội ngũ kiểm
toán viên nhà nước.
Tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
nhằm mô tả các tiến trình phát triển của vấn đề dựa trên những điều kiện kinh
tế, chính trị và lịch sử của xã hội. Hơn nữa, phương pháp này được tác giả sử
dụng để đánh giá và giải quyết vấn đề trên cơ sở điều kiện lịch sử cụ thể của
Việt Nam nhằm loại trừ sao chép máy móc.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện luận án này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học cụ thể sau đây:


5
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng ở cả 4 chương của luận
án nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận, khái quát hóa, đánh giá thực trạng và đề

xuất phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán viên nhà nước.
- Phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng ở Chương 3 nhằm đánh giá
quá trình phát triển, thực trạng chất lượng kiểm toán viên nhà nước Việt Nam.
- Phương pháp lo-gich được sử dụng trong việc xác định định hướng,
giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán viên nhà nước. Nghề kiểm toán nhà
nước ở Việt Nam còn khá mới mẻ, nâng cao chất lượng kiểm toán viên nhà
nước và đội ngũ kiểm toán viên nhà nước phải được đặt trong bối cảnh hội
nhập quốc tế và khu vực về kiểm toán nhà nước.
5. Những đóng góp về khoa học của luận án
Luận án là chuyên khảo đầu tiên ở Việt Nam được nghiên cứu một cách
toàn diện và có hệ thống về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao chất
lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước; vì vậy, có những đóng góp mới về
mặt khoa học sau:
- Luận án góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về kiểm toán nhà nước, cơ
quan Kiểm toán nhà nước, nhằm thống nhất nhận thức về khái niệm và đặc điểm
của nghề kiểm toán nhà nước cũng như của cơ quan Kiểm toán nhà nước.
- Áp dụng và đưa ra khái niệm và nội dung điều chỉnh, chỉ rõ đặc điểm
và vai trò của kiểm toán viên nhà nước; xác lập các tiêu chí đánh giá chất
lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước.
- Nghiên cứu yêu cầu, tiêu chí đối với kiểm toán viên nhà nước của một
số nước và theo quy định của Tổ chức quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao
để rút ra những bài học tham khảo cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm
toán viên nhà nước Việt Nam.
- Nghiên cứu sự hình thành và phát triển đội ngũ kiểm toán viên nhà
nước Việt Nam; đánh giá thực trạng và chỉ ra nguyên nhân của những tồn
tại về thực trạng chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước Việt Nam
hiện nay.


6

- Làm rõ thêm những yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng đội ngũ kiểm
toán viên nhà nước và đề xuất định hướng, các nhóm giải pháp trong việc
nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án rất có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn:
- Về lý luận: Luận án góp phần làm phong phú thêm lý luận về tiêu chí

xác định chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước và các yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước.
- Về thực tiễn: Luận án là công trình đầu tiên đề cập một cách có hệ

thống và toàn diện về đội ngũ kiểm toán viên nhà nước; đề xuất các định
hướng, giải pháp hoàn thiện chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước ở
nước ta. Kết quả luận án là tài liệu có giá trị và đáng tin cậy đối với nhà hoạch
định chính sách; có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý trong
lĩnh vực nguồn nhân lực của cơ quan Kiểm toán nhà nước và những nguời có
quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án được kết cấu thành 4 chương, 15 tiết.


7
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Trong những năm gần đây, các vấn đề liên quan đến kiểm toán nói
chung, kiểm toán nhà nước nói riêng, vai trò của hoạt động kiểm toán nhà
nước và vai trò của đội ngũ kiểm toán viên nhà nước đối với quản lý tài chính

công trong công cuộc chống tham nhũng đã có nhiều công trình nghiên cứu
của nhiều tác giả đề cập. Các công trình nghiên cứu đó đều nói lên tầm quan
trọng của hoạt động kiểm toán, nhất là hoạt động kiểm toán nhà nước và
những người trực tiếp làm công tác kiểm toán trong tiến trình phát triển kinh
tế - xã hội; đồng thời đưa ra những kiến nghị khoa học về phương hướng và
giải pháp đối với vấn đề này. Các công trình khoa học ở trong nước liên quan
đến luận án được chia làm hai nhóm chủ yếu sau:
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về hoạt động kiểm toán, kiểm
toán nhà nước, cơ quan Kiểm toán nhà nước và kiểm toán viên
Cuốn "Kiểm toán" của Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh [20],
đã trình bày về những vấn đề cơ bản nhất trong hoạt động kiểm toán, gồm:
tổng quan về kiểm toán trong đó có định nghĩa, phân loại kiểm toán, lịch sử
hình thành và phát triển hoạt động kiểm toán, kiểm toán viên và tổ chức kiểm
toán; đưa ra các chuẩn mực, hướng dẫn kiểm toán cho kiểm toán viên nhà
nước và các đơn vị được kiểm toán, bước đầu giúp cho độc giả hiểu về kiểm
toán, những nội dung cần thiết cho công việc kiểm toán, đặc biệt là kiểm toán
báo cáo tài chính doanh nghiệp. Trong tài liệu cũng đề cập đến việc ở các
quốc gia thông thường đều đòi hỏi một kiểm toán viên phải có một trình độ
chuyên môn và một phẩm chất đạo đức nhất định, và muốn hành nghề kiểm
toán thì các ứng viên phải đạt các tiêu chuẩn sau:
Được đào tạo về kế toán ở một trình độ nhất định;
Đã có kinh nghiệm thực tiễn về kiểm toán;


8
+ Trúng tuyển một kỳ thi quốc gia về các kiến thức kế toán, kiểm toán
và luật kinh doanh.
Cuốn "Giáo trình kiểm toán" của Vương Đình Huệ [24], đã nêu rõ bản
chất và mục đích của kiểm toán, các khái niệm cơ bản sử dụng trong kiểm
toán, phân loại kiểm toán theo chức năng và theo chủ thể kiểm toán cũng như

khái niệm về kiểm toán viên, các yêu cầu đối với một kiểm toán viên hành
nghề, khái niệm và vai trò của cơ quan Kiểm toán nhà nước.
Cuốn "Lý thuyết kiểm toán" của Nguyễn Quang Quynh [68], đã tập
trung làm rõ nhận thức về vị trí, chức năng, nội dung, phương pháp và tổ chức
kiểm toán nói chung; trong đó đi sâu vào các nội dung gồm: Bản chất, chức
năng kiểm toán; các loại kiểm toán; đối tượng của kiểm toán; các khái niệm
cơ bản thuộc nội dung kiểm toán; hệ thống và phương pháp kiểm toán; tổ
chức công tác kiểm toán và các chuẩn mực kiểm toán được ứng dụng.
Cuốn "Cẩm nang kiểm toán viên Kiểm toán nhà nước" của Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia [54], đã đưa ra các chuẩn mực, hướng dẫn kiểm toán
cho kiểm toán viên nhà nước và các đơn vị được kiểm toán thực hiện hoạt
động kiểm toán tuân thủ theo các chuẩn mực, hướng dẫn áp dụng chuẩn mực
kiểm toán quốc tế phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam.
Luật Kiểm toán nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005
quy định về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức của cơ
quan Kiểm toán nhà nước; nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm toán viên nhà nước;
trách nhiệm của đơn vị được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan; tổ
chức hoạt động và các điều kiện bảo đảm hoạt động của cơ quan Kiểm toán
nhà nước.
“Chiến lược phát triển Kiểm toán nhà nước đến năm 2020" của Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội [79], đưa ra một bức tranh tổng thể tạo cơ sở pháp
lý cho cơ quan Kiểm toán nhà nước hoạch định các chính sách dài hạn, trung
hạn và hàng năm đối với tất cả các các lĩnh vực của cơ quan Kiểm toán nhà
nước gồm: địa vị pháp lý, tổ chức bộ máy, phương pháp kiểm toán, ứng dụng


9
công nghệ thông tin trong hoạt động kiểm toán, hội nhập và hợp tác quốc tế;
đặc biệt nội dung xây dựng và phát triển đội ngũ kiểm toán viên nhà nước là
nội dung ưu tiên hàng đầu của Chiến lược.

"Cơ sở khoa học để xây dựng chức danh, tiêu chuẩn và cơ chế thi
tuyển các chức danh công chức Kiểm toán nhà nước" của Vương Hữu Nhơn
[57], đã đề cập đến yêu cầu của các chức danh kiểm toán viên nhà nước và
làm thế nào để tuyển dụng được đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ theo từng chức danh cụ thể. Tuy nhiên, do Đề tài được nghiên cứu ở
giai đoạn đầu thành lập cơ quan Kiểm toán nhà nước (KTNN), trong điều
kiện chưa có Luật Kiểm toán nhà nước, đến nay tình hình đã có những thay
đổi rất cơ bản, nên những vấn đề lý luận và thực tiễn mới chỉ được nghiên cứu
rất cơ bản, chưa toàn diện và sâu sắc.
"Tăng cường hoạt động của cơ quan Kiểm toán nhà nước, góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” của Đỗ Bình Dương
[7], đã đề cập đến vị trí, vai trò của cơ quan Kiểm toán nhà nước trong sự
nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(XHCN) Việt Nam và hội nhập quốc tế; đồng thời, nêu ra những phương hướng
cơ bản phát triển cơ quan Kiểm toán nhà nước, trong đó có định hướng cơ bản
về xây dựng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước đủ về số lượng, giỏi về chuyên
môn nghiệp vụ và đặc biệt là phải có đạo đức nghề nghiệp trong sáng, công
minh, chính trực, khách quan, độc lập, công bằng, cẩn trọng và siêng năng về
nghề nghiệp. Việc hoàn thiện hệ thống chức danh kiểm toán viên nhà nước, xây
dựng kế hoạch thường xuyên kiểm tra, sát hạch đánh giá phân loại kiểm toán
viên nhà nước để sắp xếp công việc phù hợp năng lực thực tế là đòi hỏi thực hiện
thường xuyên và bắt buộc. Cần có kế hoạch và chiến lược đào tạo, bồi dưỡng
kiểm toán viên nhà nước để trong thời gian ngắn nhất có những kiểm toán viên
nhà nước tiếp cận trình độ khu vực và quốc tế. Đây là những quan điểm định
hướng cho việc xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ kiểm toán viên nhà nước
nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới.


10
"Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành chuẩn mực đạo đức nghề

nghiệp và văn hoá ứng xử của kiểm toán viên nhà nước" của Ông Đỗ Bình
Dương [8], đã đề cập đến việc để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ thì đối với
kiểm toán viên nhà nước, yêu cầu về năng lực chuyên môn chưa đủ mà vấn đề
đạo đức và văn hóa khi đến làm việc với các đơn vị là một đòi hỏi bắt buộc.
Đạo đức kiểm toán viên nhà nước và văn hóa ứng xử là những bài học bắt
buộc đầu tiên cho mỗi kiểm toán viên nhà nước.
"Định hướng chiến lược và những giải pháp xây dựng, phát triển hệ
thống kiểm toán ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đất nước" của Vương Đình Huệ [25], đây là một đề tài lớn nghiên cứu về hệ
thống các cơ quan kiểm toán ở nước ta gồm kiểm toán nhà nước, kiểm toán
độc lập, kiểm toán nội bộ. Đề tài đề cập đến sự cần thiết khách quan của sự ra
đời, thực trạng phát triển của hệ thống các cơ quan kiểm toán và định hướng
phát triển của hệ thống kiểm toán trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại
hoá đất nước. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu rộng, bao gồm cả kiểm toán
nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ, nên đề tài chưa nghiên cứu
sâu và toàn diện về phát triển kiểm toán nhà nước.
"Chiến lược phát triển cơ quan Kiểm toán nhà nước đến năm 2020,
phục vụ đắc lực sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” của
Vương Đình Huệ [28], bài viết đánh giá cao việc Uỷ ban thường vụ Quốc hội
ban hành Chiến lược phát triển cơ quan Kiểm toán nhà nước đến năm 2020,
tạo cơ sở pháp lý quan trọng để nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của cơ quan Kiểm toán nhà nước, góp phần phát huy chức năng kiểm
tra, kiểm soát tài chính nhà nước, phục vụ tốt hơn sự lãnh đạo của Đảng, vai
trò quản lý, điều hành của Nhà nước và quyền làm chủ, giám sát của nhân
dân, đáp ứng yêu cầu đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc
tế. Bài viết đề cập toàn diện các mục tiêu chiến lược và giải pháp phát triển cơ
quan Kiểm toán nhà nước đến năm 2020; trong đó, có chiến lược và giải pháp
phát triển nguồn nhân lực của cơ quan Kiểm toán nhà nước theo hai giai đoạn



11
(từ 2010 đến 2015 và từ 2016 đến 2020). Đây là những định hướng mang
tính chiến lược cho việc phát triển đội ngũ kiểm toán viên của cơ quan
Kiểm toán nhà nước trong ngắn hạn và trung hạn.
"Nâng cao vai trò của cơ quan Kiểm toán nhà nước trong đấu tranh
phòng, chống tham nhũng đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam" của Đinh Tiến Dũng [6], đã làm rõ vai trò, trách
nhiệm của cơ quan Kiểm toán nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham
nhũng; phân tích những kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế và
nguyên nhân tồn tại trong phòng, chống tham nhũng của cơ quan Kiểm toán
nhà nước, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của cơ quan
Kiểm toán nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Mặc dù bài
viết có giải pháp về nâng cao năng lực đội ngũ công chức, kiểm toán viên nhà
nước, song chỉ giới hạn ở một số yêu cầu chung về bản lĩnh chính trị, đạo
đức, trình độ nghiệp vụ và tăng cường cơ chế kiểm soát chặt chẽ chất lượng
kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên nhà nước.
"Kiểm toán nhà nước một thiết chế bảo đảm tính dân chủ trong Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của Nguyễn Hữu Vạn [80],
đã khẳng định việc bổ sung thiết chế độc lập là Kiểm toán nhà nước - cơ quan
kiểm tra tài chính, tài sản công vào Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả và tính minh bạch trong hoạt động của
các cơ quan, tổ chức quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân; phù hợp nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất,
có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đồng thời bài báo cũng khẳng định với vị thế là cơ quan do Quốc hội thành
lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc
quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công, cơ quan Kiểm toán nhà nước đóng
vai trò quan trọng đảm bảo tính minh bạch trong quản trị quốc gia, góp phần
đảm bảo tính dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Mặc dù bài viết đề cập



12
đến việc tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy của cơ quan Kiểm toán
nhà nước và nâng cao năng lực đội ngũ công chức, kiểm toán viên nhà nước,
nhưng nội dung bài viết chỉ dừng lại là những quan điểm chỉ đạo để thực hiện
Chiến lược phát triển cơ quan Kiểm toán nhà nước đến năm 2020, như: Tiếp
tục kiện toàn tổ chức bộ máy đảm bảo đồng bộ, có đủ cơ cấu và lực lượng đáp
ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong tình hình mới; xây dựng đội
ngũ công chức, kiểm toán viên nhà nước bảo đảm đủ về số lượng, giỏi về
chuyên môn nghiệp vụ và đặc biệt là phải có đạo đức nghề nghiệp trong sáng,
công minh, chính trực, nghệ tinh, tâm sáng, tích cực thực hiện chiến lược đào
tạo để trong thời gian không dài có một đội ngũ chuyên gia đầu ngành đối với
từng lĩnh vực chuyên môn, tiếp cận trình độ kiểm toán của các nước tiên tiến
trong khu vực và trên thế giới.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về chất lượng kiểm toán viên
nói chung và chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước nói riêng
"Xây dựng phương thức và nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ công chức Kiểm toán nhà nước" của Nguyễn Đình Hựu
[30], đã đánh giá nội dung, chương trình đào tạo của cơ quan Kiểm toán nhà
nước và đề cập đến vấn đề làm thế nào để xây dựng được bộ tài liệu phục vụ
cho công tác đào tạo cán bộ, kiểm toán viên nhà nước ở Việt Nam nhằm góp
phần nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước. Tuy nhiên, do đề
tài nghiên cứu ở giai đoạn đầu thành lập cơ quan Kiểm toán nhà nước nên
mới chỉ chủ yếu đề cập đến xây dựng được bộ tài liệu phục vụ cho công tác
đào tạo cán bộ, kiểm toán viên nhà nước ở Việt Nam phù hợp với loại hình
kiểm toán báo cáo tài chính, chưa đi sâu phân tích về loại hình kiểm toán tuân
thủ, kiểm toán hoạt động; phương thức và chương trình đào tạo còn chung
chung chưa cụ thể đối với từng ngạch kiểm toán viên nhà nước.
“Giải pháp nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng công

chức, kiểm toán viên theo định hướng Chiến lược phát triển cơ quan Kiểm
toán nhà nước đến năm 2020” của Đoàn Xuân Tiên [72], đã làm rõ thực trạng


13
về công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, kiểm toán viên của cơ quan Kiểm
toán nhà nước trong những năm qua và những khó khăn, bất cập, nguyên
nhân để từ đó đề ra các giải pháp khá toàn diện về nâng cao chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng công chức, kiểm toán viên nhà nước theo định hướng chiến lược
phát triển cơ quan Kiểm toán nhà nước đến năm 2020.
“Giải pháp tăng cường chất lượng công tác kiểm soát đạo đức nghề
nghiệp kiểm toán viên nhà nước” của Đặng Văn Thanh [70], đã đánh giá một
cách khách quan, đầy đủ thực trạng kiểm soát đạo đức nghề nghiệp kiểm toán
viên nhà nước và vai trò của tổ chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán Việt
Nam; hình thành lý luận, phương pháp luận, định hướng và chính sách, giải
pháp kiểm soát đạo đức nghề nghiệp kiểm toán viên nhà nước và vai trò của
tổ chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán Việt Nam phục vụ có hiệu quả tiến
trình đổi mới đất nước. Đề tài cũng khẳng định kiểm toán viên là những người
kiểm tra, đánh giá thông tin nên phải có một trình độ chuyên môn nhất định.
Bởi vậy, khi tiến hành các cuộc kiểm toán, cơ quan Kiểm toán nhà nước phải
chia ra các bộ phận, mỗi bộ phận đi sâu vào từng lĩnh vực. kiểm toán viên nhà
nước phải có những hiểu biết về pháp luật, phải có nhân cách về chính trị.
Trước một số liệu, thông tin, một ý kiến không thuần túy là vấn đề chuyên
môn mà còn gắn nó với điều kiện, tình hình thực tế. Vì thế, kiểm toán viên
nhà nước ngoài năng lực, kỹ năng chuyên môn phải có đạo đức, phẩm chất
nghề nghiệp. Để đảm bảo cung cấp các dịch vụ cho Nhà nước có chất lượng
cao nhất, kiểm toán viên nhà nước cần phải tuân thủ các yêu cầu có tính
nguyên tắc về đạo đức nghề nghiệp. kiểm toán viên nhà nước phải luôn duy
trì được tính độc lập, trung thực, khách quan trong quá trình kiểm toán.
"Về một chiến lược phát triển nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán" của

Nguyễn Đình Hựu [31], đã làm rõ vai trò của kế toán viên, kiểm toán viên trong
công tác kiểm toán trong tình hình hội nhập và phát triển và đề ra định hướng
làm thế nào để tăng cường đội ngũ này trong thời gian tới. Tuy nhiên, do bài viết
đề cập đến phạm vi rất rộng về chiến lược phát triển nguồn nhân lực kế toán,


14
kiểm toán nói chung nên không có điều kiện đi sâu phân tích về khái niệm, đặc
điểm, yêu cầu của nguồn nhân lực đối với ngành Kiểm toán nhà nước.
“Ngành kiểm toán đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt nhân lực
đạt trình độ quốc tế” của Bùi Văn Mai [51], đã khẳng định ngành kiểm toán
của Việt Nam phát triển nhanh chóng; nguồn nhân lực kiểm toán Việt Nam
chưa phải là giỏi nhưng cũng không phải là quá chênh lệch về chất lượng so
với các nước trong khu vực. Vấn đề đặt ra là trình độ phát triển của ngành
kiểm toán có phù hợp với thị trường hay không. Bài phỏng vấn cũng đề cập
đến vấn đề hiện nay nguồn nhân lực đáp ứng cho kiểm toán, đặc biệt là nhân
lực đạt trình độ quốc tế đang là vấn đề khó khăn và cũng là cấp thiết nhất đối
với ngành kiểm toán Việt Nam và vấn đề đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho
kiểm toán của Việt Nam hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của quốc
tế. Nội dung bài phỏng vấn cũng đề cập đến việc trong thời gian tới để chất
lượng kiểm toán được nâng cao cần hợp tác với các tổ chức hành nghề kiểm
toán của thế giới, tăng cường hợp tác với các trường đại học nước ngoài nhằm
đẩy mạnh việc đào tạo nguồn nhân lực cho kiểm toán để các bên có thể công
nhận trình độ và chứng chỉ hành nghề của nhau. Tuy nhiên, bài phỏng vấn
chủ yếu đề cập đến lĩnh vực kiểm toán độc lập (các doanh nghiệp kiểm toán),
chưa quan tâm đến lĩnh vực kiểm toán nhà nước.
Ngoài ra, còn nhiều đề tài khoa học của cơ quan Kiểm toán nhà nước
đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về tổ chức hoạt động của cơ quan Kiểm
toán nhà nước, về địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan Kiểm toán nhà nước; nhiều tài liệu của các dự án Hỗ trợ Kỹ thuật của cơ

quan Kiểm toán nhà nước cung cấp rất nhiều nguồn tài liệu để tác giả có thể
tham khảo và hình thành nên những ý tưởng mới, đưa ra phương hướng và
giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước đáp ứng được
nhiệm vụ được giao.
Trên đây là các công trình nghiên cứu tiêu biểu trong nước có liên quan
đến đề tài luận án. Qua nghiên cứu cho thấy, nhìn chung các công trình đã
công bố nêu trên có những đóng góp quan trọng trên những khía cạnh nhất


15
định trong việc giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động kiểm
toán, kiểm toán nhà nước và kiểm toán viên nhà nước trong những giai đoạn
nhất định, có thể tham khảo, kế thừa có chọn lọc trong quá trình nghiên cứu
luận án. Từ tình hình nghiên cứu trên có thể khẳng định cho đến nay chưa có
công trình khoa học nào đã được công bố trong nước nghiên cứu một cách
hoàn chỉnh và có hệ thống về nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà
nước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NGOÀI NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Trong quá trình hình thành, xây dựng và phát triển cơ quan Kiểm toán
nhà nước Việt Nam, cơ quan Kiểm toán nhà nước luôn nhận được sự quan
tâm trợ giúp của các tổ chức quốc tế, các tổ chức nghề nghiệp và cơ quan
Kiểm toán nhà nước của các nước trên thế giới. Ngay từ khi mới thành lập,
năm 1995, Ngân hàng Phát triển Châu Á đã trợ giúp cho cơ quan Kiểm toán
nhà nước triển khai nghiên cứu xây dựng địa vị pháp lý và tăng cường năng
lực, đào tạo kiểm toán viên nhà nước với hai giai đoạn đã góp phần to lớn cho
việc triển khai nghiên cứu khoa học về kiểm toán nhà nước trên các lĩnh vực
khác nhau. Tiếp theo là sự trợ giúp chuyên môn của Kiểm toán nhà nước Liên
bang Đức với sản phẩm là rất nhiều tài liệu quan trọng liên quan đến hoàn
thiện cơ sở pháp lý, tổ chức bộ máy, hướng dẫn và đào tạo chuyên môn kiểm

toán cho cán bộ, kiểm toán viên nhà nước. Bên cạnh đó, tổ chức quốc tế các
cơ quan Kiểm toán tối cao (INTOSAI) với chức năng đưa ra các hướng dẫn
cho các cơ quan Kiểm toán tối cao thực hiện nhiệm vụ bao gồm cả các hướng
dẫn về tính độc lập của cơ quan cơ quan Kiểm toán nhà nước, tính độc lập của
kiểm toán viên và các công trình nghiên cứu khoa học quan trọng. Các công
trình khoa học ngoài nước có liên quan đến luận án được chia làm hai nhóm
chủ yếu sau đây:
1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về kiểm toán, về cơ quan Kiểm
toán nhà nước nói chung và kiểm toán viên nói riêng
Điển hình trong số đó là một số công trình sau đây:


16
Cuốn "Kiểm toán" của Alvin A.Arens [1], đã đưa ra những khái niệm
cơ bản về kiểm toán cũng như các chuẩn mực, quy trình, loại hình kiểm toán;
đồng thời mô tả công tác kiểm toán và khái niệm kiểm toán viên. Đặc biệt,
cuốn sách đã đề cập đến đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên, nhấn mạnh
tầm quan trọng về tính độc lập của kiểm toán viên và các nguyên tắc về hành
vi đạo đức của kiểm toán viên trong hoạt động kiểm toán, trách nhiệm pháp lý
của kiểm toán viên.
"Tuyên bố Lima" của Tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao
(INTOSAI) [73], Đại hội lần thứ IX của INTOSAI tháng 10/1977 tại Lima,
thủ đô của Pêru đã thông qua chỉ dẫn hoạt động kiểm toán cho các cơ quan
Kiểm toán tối cao gọi tắt là tuyên bố Lima. Nội dung của bản Tuyên bố này là
kết quả của sự hợp tác nghiên cứu giữa các thành viên của INTOSAI, đây là
những định hướng cơ bản và đã được thừa nhận như là thông lệ phổ biến đối
với việc thiết lập và tổ chức cơ quan Kiểm toán tối cao, tổ chức kiểm tra tài
chính cao nhất từ bên ngoài đối với nền tài chính công ở mỗi quốc gia.
Tuyên bố Lima được xem là một văn kiện chung thích hợp với mọi
hình thức tổ chức hệ thống kiểm tra tài chính ở các nước có cơ quan Kiểm

toán nhà nước là thành viên. Hầu hết các nước đều công nhận Tuyên bố Lima
là chuẩn mực cho mọi hoạt động kiểm toán nhà nước đạt hiệu quả mong
muốn. Chính vì vậy, tuyên bố Lima là cơ sở thích hợp để các cơ quan Kiểm
toán tối cao của nhiều nước vận dụng trong việc ban hành các quy định về tổ
chức, hoạt động và tuyển dụng nguồn nhân lực, kiểm toán viên phù hợp với
chức năng, quyền hạn của cơ quan Kiểm toán nhà nước. Mặc dù Tuyên bố
Lima không có tác dụng ràng buộc về mặt pháp lý quốc tế đối với phạm vi nội
bộ quốc gia, nhưng hầu hết các quốc gia đều công nhận Tuyên bố này là
chuẩn mực đối với việc kiểm tra tài chính công một cách hiệu quả.
"Nâng cao năng lực cho các cơ quan Kiểm toán nhà nước" của Tổ
chức quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao (INTOSAI) [74], đã đề cập đến
yêu cầu cần nâng cao năng lực cho các cơ quan Kiểm toán tối cao và làm thế


17
nào để nâng cao năng lực kể cả về thể chế và con người thực hiện nhiệm vụ
kiểm toán. Tuy nhiên, nghiên cứu mới đề cập đến việc nâng cao năng lực cho
các cơ quan Kiểm toán nhà nước ở tầm vĩ mô mang tính nguyên tắc chung
theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế (địa vị pháp lý, tính độc lập của cơ quan
kiểm toán tối cao), chưa đi sâu phân tích về những giải pháp nâng cao chất
lượng đội ngũ kiểm toán viên của các cơ quan kiểm toán tối cao của các nước
trên thế giới.
“So sánh quốc tế về địa vị pháp lý và các chức năng của cơ quan Kiểm
toán nhà nước" của Albert Von Mutius [34], cơ sở của báo cáo được soạn
thảo là Luật về cơ quan Kiểm toán nhà nước của 10 nước, gồm: Trung quốc,
Đức, Pháp, Vương quốc Anh, Malaysia, Nga, Thái lan, Cộng hòa Séc, Hàn
quốc, Việt Nam. Tuy nhiên về lịch sử hình thành và kinh nghiệm kiểm toán
thì có sự khác biệt giữa các cơ quan Kiểm toán nhà nước các nước, nhưng đối
với các cơ quan Kiểm toán nhà nước mới thành lập cũng có nhiều lợi thế do
tiếp thu kinh nghiệm của các nước đi trước. Nghiên cứu này cũng dựa nhiều

vào các thông số kiểm toán, các đề dẫn chung trong Tuyên bố Lima và được
xem đó là cơ sở hợp lý nhất cho việc so sánh luật về cơ quan Kiểm toán tối
cao của các nước trên thế giới, bao gồm các nước nêu trên mặc dù ở mỗi quốc
gia có một thể chế chính trị riêng.
Việc so sánh trực tiếp Luật Kiểm toán của các nước đã nêu theo các
góc độ đánh giá khác nhau qua đó làm rõ các định hướng của Tuyên bố Lima
đã được thực hiện đến mức độ nào, thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau:
Quyền hạn và nghĩa vụ của cơ quan Kiểm toán tối cao;
Tính độc lập của cơ quan Kiểm toán tối cao;
Tính độc lập của kiểm toán viên, quan hệ giữa cơ quan Kiểm toán tối
cao với các cơ quan quyền lực trong bộ máy quản lý nhà nước;
Tổ chức và nhân sự của cơ quan Kiểm toán tối cao.
Đây là tài liệu có ý nghĩa thực tiễn quan trọng trong việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật về kiểm toán nhà nước, trong đó có cả kiểm toán viên nhà


18
nước ở mỗi quốc gia bảo đảm tuân thủ nguyên tắc và chuẩn mực kiểm toán
quốc tế và phù hợp với thông lệ quốc tế.
1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến kiểm toán viên
nhà nước và nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên nhà nước
Trong phần này tác giả chỉ đề cập đến các công trình nghiên cứu liên
quan đến các nghiên cứu của INTOSAI và một số nước. Sau đây là một số
công trình tiêu biểu:
“Chuẩn mực quốc tế cho các cơ quan Kiểm toán tối cao - Bộ quy tắc
đạo đức” của INTOSAI [88], bộ quy tắc này là một tuyên bố mang tính toàn
diện về các giá trị và nguyên tắc để định hướng cho công việc hàng ngày của
kiểm toán viên nhà nước; khẳng định sự độc lập, thẩm quyền và trách nhiệm
của kiểm toán viên khu vực công đòi hỏi các cơ quan Kiểm toán nhà nước và
cán bộ mà cơ quan Kiểm toán nhà nước tuyển dụng hay thuê thực hiện kiểm

toán phải đáp ứng yêu cầu cao về đạo đức. Bộ quy tắc này của INTOSAI dành
cho kiểm toán viên, người đứng đầu của cơ quan Kiểm toán nhà nước, cán bộ
lãnh đạo và tất cả các cá nhân làm việc cho hay thay mặt cơ quan Kiểm toán
nhà nước tham gia vào công tác kiểm toán. Bộ quy tắc đạo đức này của
INTOSAI nhằm tạo lập một cơ sở nền tảng cho các Bộ quy tắc đạo đức của
từng quốc gia trong lĩnh vực kiểm toán nhà nước. Mỗi cơ quan Kiểm toán
nhà nước có trách nhiệm đảm bảo rằng tất cả kiểm toán viên của mình quen
và thực hiện theo các giá trị và nguyên tắc quy định trong Bộ quy tắc đạo
đức của nước đó. Việc thông qua và áp dụng chuẩn mực đạo đức cho kiểm
toán viên trong lĩnh vực công tăng cường niềm tin và độ tin cậy của kiểm
toán viên vào công việc của họ. Bộ Quy tắc cũng đề cập đến niềm tin, sự
tín nhiệm của cơ quan Kiểm toán nhà nước phụ thuộc vào việc kiểm toán
viên nhà nước tuân thủ nguyên tắc liêm chính, độc lập, khách quan, bảo mật
và đầy đủ năng lực.
“Quản lý nguồn nhân lực" của INTOSAI [87], đây là hướng dẫn do
Nhóm làm việc tăng cường năng lực cho các cơ quan Kiểm toán nhà nước của


19
INTOSAI ban hành vào năm 2012. Hướng dẫn này với mục đích giúp cho các
nhà lãnh đạo, quản lý của các cơ quan Kiểm toán nhà nước hiểu được nguồn
nhân lực cơ quan Kiểm toán nhà nước là gì và họ cần gì từ đội ngũ cán bộ của
mình. Hướng dẫn này cũng là một tài liệu bổ ích dành cho các kiểm toán viên
nhà nước nhằm đảm bảo công việc của họ phù hợp với các thông lệ quốc tế
tốt nhất. Hơn nữa, hướng dẫn này rất hữu ích đối với tất cả cán bộ trong cơ
quan Kiểm toán nhà nước có vai trò lãnh đạo, điều hành. Khi các nhân viên
chuyên về công tác quản lý nhân lực xây dựng được cơ sở pháp lý, hệ thống
và các chính sách thì những nhà quản lý các cấp trong cơ quan Kiểm toán nhà
nước cần tạo cơ hội cho các nhân viên xây dựng và phát triển, khuyến khích
nhân viên hoàn thành tốt nhiệm vụ và ngay cả khi họ không đạt được kỳ vọng

đề ra thì cũng đảm bảo được rằng họ sẽ có cách ứng xử một cách phù hợp.
Hướng dẫn này cũng khẳng định một điều rằng vấn đề cốt lõi của một cơ
quan Kiểm toán nhà nước đó là khẳng định được cơ quan đó có khả năng thu
hút, sử dụng số lượng cán bộ phù hợp với kinh nghiệm và kỹ năng làm việc
hiệu quả. Hướng dẫn đề cập đến cách thức thành lập bộ phận quản lý nguồn
nhân lực trong một cơ quan Kiểm toán nhà nước, xây dựng chiến lược và
chính sách nguồn nhân lực, xây dựng các tiêu chí khả năng làm việc; tuyển
chọn nhân sự; khen thưởng và xử phạt, chế độ đãi ngộ; đào tạo và bồi dưỡng
cho kiểm toán viên nhà nước.
“Khái quát về pháp luật kiểm toán Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”
của ông Wang Chang Song [81], tại Hội thảo quốc tế “Địa vị pháp lý của cơ
quan Kiểm toán nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam".
Tham luận của ông Wang Chang Song, đại diện cho cơ quan Kiểm toán
nhà nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa có nội dung liên quan đến trách
nhiệm của kiểm toán viên nhà nước Trung hoa. Những quy định trong Hiến
pháp Trung Quốc về kiểm toán giám sát do Đại hội đại biểu nhân dân toàn
quốc Trung Quốc xây dựng gồm có 2 điều (Điều 91 và Điều 109) quy định
liên quan đến kiểm toán. Với những quy định trong đạo luật gốc như vậy,


20
tháng 8/1994 Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Trung Quốc khoá 8 đã
thông qua Luật Kiểm toán nhà nước, quy định một cách toàn diện những
nguyên tắc cơ bản và địa vị pháp lý của kiểm toán giám sát, trách nhiệm,
quyền hạn của cơ quan kiểm toán và trình tự kiểm toán, trách nhiệm pháp lý.
Trong các văn bản quy định do Quốc vụ viện hoặc cơ quan Kiểm toán nhà
nước xây dựng nhằm cụ thể hoá, hướng dẫn thực hiện Luật Kiểm toán có một
số điểm đáng chú ý về tính độc lập của kiểm toán là nêu cao kỷ luật liêm
chính hỗ trợ cho tính độc lập của kiểm toán viên, theo đó tính độc lập của
kiểm toán viên được xác định là có mối liên hệ chặt chẽ với kỷ luật liêm

chính và kỷ luật liêm chính đảm bảo cho tính độc lập của kiểm toán viên. Xác
định kỷ luật liêm chính là sự sống còn của công tác kiểm toán, tháng 1/2000
cơ quan Kiểm toán nhà nước Trung Quốc đã ban hành "Những quy định về
tăng cường kỷ luật kiểm toán của cơ quan Kiểm toán nhà nước" quy định
kiểm toán viên phải tuân theo "8 điều không được phép" của kỷ luật liêm
chính kiểm toán gồm: Để đơn vị được kiểm toán thu xếp chỗ ở; tiếp nhận việc
bố trí bữa ăn và chiêu đãi của đơn vị được kiểm toán; sử dụng phương tiện
giao thông của đơn vị kiểm toán mà không trả tiền; tham gia những hoạt động
du lịch, giải trí và liên hoan do đơn vị được kiểm toán thu xếp; nhận quà biếu,
tiền biếu và các loại chứng khoán có mệnh giá của đơn vị được kiểm toán;
nêu những yêu cầu không liên quan đến công tác kiểm toán; thanh toán những
phí tổn của công hoặc tư đối với đơn vị được kiểm toán. Quy định này đã xác
định rõ phạm vi, trách nhiệm của cơ quan Kiểm toán nhà nước và kiểm toán
viên nhà nước khi trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm toán tại đơn vị.
Các công trình nghiên cứu liên quan đến kiểm toán viên nhà nước và
chất lượng kiểm toán viên nhà nước của các tổ chức nghề nghiệp quốc tế và
một số nước trên đây đã cung cấp thêm cơ sở thực tiễn khẳng định vai trò,
tính độc lập của kiểm toán viên trong sự phát triển của cơ quan Kiểm toán nhà
nước của các nước trên thế gới; kinh nghiệm các nước trong việc xác định
trách nhiệm của kiểm toán viên nhà nước. Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ phản


×