Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

phân tích những giá trị chủ đạo của lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam? Nêu phương hướng vận dụng những giá trị đó đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.08 KB, 33 trang )

Câu 1: Đồng chí hãy phân tích những giá trị chủ đạo của lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam?
Nêu phương hướng vận dụng những giá trị đó đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay?
Bài làm:
Trong mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, từ thời đại các vua Hùng đến thời đại HCM, dân tộc ta
đã tích lũy được những tư tưởng chính trị quý báu. Những giá trị ấy đã trở thành một trong những
nguồn gốc quan trọng để hình thành tư tưởng HCM, đường lối, chính sách của Đảng và thẩm thấu trong
đời sống chính trị của nhân dân ta.
Những tư tưởng chính trị quý báu đó được hình thành và phát triển được quy định từ những nhân tố
về đặc điểm địa lý, hình thành, phát triển dân cư và nhà nước ta.
Thật vậy, khi nghiên cứu môn học chính trị học ta thấy: Một là, với đặc điểm địa lý-chính trị của
nước ta: Việt Nam đất không rộng, người không đông, tài nguyên phong phú, dồi dào, có vị trí địa lý
quan trọng, địa bàn chiến lược lợi hại vùng Đông Nam Á, luôn đứng trước hiểm họa của thiên nhiên và
của giặc ngoại xâm. Cho nên cuộc đấu tranh chống lại sức mạnh thiên nhiên, khai thác tài nguyên thiên
nhiên để không ngừng cải thiện và nâng cao cuộc sống vận chất và tinh thần của cả cộng đồng luôn là
thử thách đối với sự tồn vong suốt cả chiều dài lịch sử của dân tộc. Đồng thời, chiến đấu chống ngoại
xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia dân tộc trở thành quy luật
sống còn của con người Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện tại. Hai là, về đặc điểm hình thành phát
triển dân tộc và nhà nước: Việt Nam là đất nước đa dân tộc, đa tôn giáo-tín ngưỡng, đa sắc thái văn hóa
bản địa và là quốc gia sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước nên công việc thủy lợi, bao giờ cũng nổi lên
hàng đầu và yêu cầu phải thường xuyên chống kẻ thù ngoại xâm, đó là hai yếu tố tạo nên truyền thống
ĐK của dân tộc Việt Nam, đồng thời in dấu ấn nổi bật lên mối quan hệ giữa các dân tộc cùng sống
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là một khối thống nhất, tính cộng đồng chung đã đạt đến mức
độ tương đối bền vũng, cùng giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Thực tế lịch sử Việt Nam đã chứng minh
chính CN yêu nước Việt Nam là ngọn cờ ĐK các dân tộc anh em trên đất nước này; vượt lên lòng tự
hào dân tộc của người dân mỗi dân tộc, tất cả họ chung sống hòa thuận, cùng chung lưng đấu cật để xây
dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Như vậy, dân tộc và Nhà nước Việt Nam hình thành và phát triển
ngoài tính quy luật chung mà còn do nguyên nhân chủ yếu là yêu cầu tập hợp sức mạnh cộng đồng
chống trả với thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm. Cho nên, sự tồn tại, phát triển của Nhà nước và dân
tộc Việt Nam không tách rời nhau.
Những đặc điểm trên đã làm cho lịch sử Việt Nam nói chung, lịch sử tư tưởng chính trị nói riêng
phát triển một cách đặc thù trong dòng chảy của sự phát triển tư tưởng chính trị nhân loại.


Qua các thời kỳ lịch sử, sự phát triển tư tưởng chính trị Việt Nam khá phong phú và kết đọng lại ở
giá trị chủ đạo như là động lực chính yếu trong sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Những giá trị chủ
đạo đó được biểu hiện như sau:
Trước hết, toàn dân đồng tâm hiệp lực dựng nước và giữ nước dưới sự lãnh đạo của một tổ chức
người tiên tiến. Ở nước ta, công việc chống thiên nhiên và chống ngoại xâm là hai nhiệm vụ năng nề,
chỉ có thể được giải quyết bằng sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc. Thực tế lịch sử đã chứng minh,
một dân tộc đất không rộng, người không đông mà luôn chống chọi với thiên tai, sức mạnh của thiên
nhiên và chống ngoại xâm trên 12 thế kỹ và là mối đe dọa thường xuyên, nguy hiểm nhất đối với sự
sống còn của dân tộc. Cho nên, ĐK, thủy chung, kiên cường, đồng tâm hiệp lực cùng vượt qua thử
thách đã trở thành đạo lý, thành quy luật cho sự tồn tại và phát triển của quốc gia, dân tộc Việt Nam.
Nhiệm vụ năng nề đó, đồi hỏi phải có sự chỉ huy, điều hành một cách thống nhất trên quy mô rộng
lớn ở nhiều lĩnh vực. Để làm được điều đó, cần phải có người lãnh đạo đủ “Đức”, đủ “Tài”, tiêu biểu
cho phẩm giá, tài năng và bản lĩnh của con người, của quốc gia dân tộc với một tổ chức chặt chẽ, thống
nhất. Vì vậy, những người lãnh đạo phải tổ chức mình và tổ chức cộng đồng một cách tối ưu theo yêu
cầu của từng nhiệm vụ cụ thể. Lịch sử chứng minh rằng, khi triều đình thối nát, người đứng đầu kém
tài, thiếu đức thì đất nước điêu linh, nhân dân khốn khổ. Đó cũng chính là cơ hội mà kẻ thù ngoại bang
luôn rình chờ để thôn tính dân tộc ta. Có thể chứng minh điều này qua cuộc xâm lăng của nhà Minh vào
đất nước ta khi mà cuộc cải cách của Hồ Quý Ly đã làm mất lòng dân một cách trầm trọng và việc nhà
Thanh kèo 20 vạn quân vào nước ta núp dưới danh bảo vệ ngai vàng cho Lê Chiêu Thống …
Hai là, tính tự lực tự cường xây dựng và phát triển nền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia ngang
tầm thời đại. Từ những bài học của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước đã chứng minh rằng, chỉ có
thể vươn lên bằng sức mạnh của chính mình, những giá trị của nhân loại chỉ có thể phát huy được tác
Trang 1


dụng khi gia nhập vào giá trị của dân tộc và được dân tộc nội sinh ra giá trị mới. Dân tộc Việt Nam luôn
biết tận dụng các tác nhân bên ngoài, nhưng vẫn xác định sức mạnh nội sinh, tính tự lực, tự cường của
dân tộc chính là yếu tố quyết định vận mệnh và chủ quyền quốc gia dân tộc mình mà vượt qua tất cả.
Lịch sử dân tộc cho thấy dân tộc Việt Nam, từ khi dựng nước cho đến nay, dân tộc ta phải tiến hành 18
cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc cùng với hàng trăm cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng, thời

gian chống ngoại xâm cộng lại trên 12 thế kỹ, nhưng bằng chính sức mạnh của mình, dân tộc Việt Nam
vẫn giữ được nền độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ. Do đó, để tồn tại và phát triển, dân tộc ta phải tự
vươn lên bảo vệ các quyền thiêng liêng của mình, tự xây dựng và phát triển đất nước bằng chính sức
của mình.
Ba là, thực thi nền chính trị nhân bản vì con người và quốc gia dân tộc. Thực tế lịch sử dân tộc đã
chỉ ra rằng, chỉ có nền chính trị chăm lo đến con người, đại diện cho quyền lợi của quốc gia, dân tộc
mới hợp đạo lý của con người Việt Nam, mới tập hợp và khơi dậy được sự đồng tâm hiệp lực của cả
cộng đồng chống lại giặc ngoại xâm và chế ngự thiên nhiên. Dân tộc và giai cấp luôn đứng trước thử
thách sống còn của giặc ngoại xâm và tai họa của thiên nhiên nên một nền chính trị thuần túy phục vụ
cho lợi ích của giai cấp sẽ trở thành xa lạ với quãng đại quần chúng nhân dân; sẽ không huy động được
sức mạnh của toàn dân để vượt qua thách thức. Thiên nhiên khắc nghiệt, kẻ thù hùng hãn và tàn bạo,
con người phải thương yêu, che chở và nương tựa vào nhau mà tồn tại và chiến đấu. Chính nhân bản
còn là vũ khí vô cùng lợi hại để chiến thắng kẻ thù và là phương thức cơ bản để nhân hóa chính mình.
Cho nên, đường lối chính trị “khoan dân” - “nhân nghĩa” đã tạo nên thế trận lòng dân vững chắc cho
những cuộc chiến tranh nhân dân mang tính lịch sử của dân tộc. Chỉ có nền chính trị nhân bản mới đáp
ứng được yêu cầu tồn tại và phát triển của đất nước
Như vậy, lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam là lịch sử của sự phát triển đường lối chính trị đấu
tranh cho nền độc lập dân tộc, chủ quyền của quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đấu tranh vì
những giá trị của con người. Những giá trị ấy soi sáng con đường xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ
quốc thân yêu của chúng ta suốt mấy ngàn năm lịch sử.
Từ những giá trị chủ đạo của lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam, cùng với CN Mác-Lênin và tư
tưởng HCM, Đảng ta đã vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo và đạt được những kết quả to lớn. Qua
thực tiển 20 năm đổi mới, Đảng ta càng tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm. Những phương hướng vận
dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới là:
Thứ nhất: Tiếp tục thực hiện và thực hiện có hiệu quả cao hơn về “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên
nền tảng liên minh GCCN với GCND và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa
quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đờng thời, “vấn
đề dân tộc và đồn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các
dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng

nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xố đói giảm nghèo,
nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hố, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt
đẹp của các dân tộc”.
Hai là: Tạo sự chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất
GCCN và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, đồn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa
học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực. Đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa
sống cịn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Ba là: Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối
hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống
pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ
chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công
quyền.
Bốn là: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trị rất quan trọng trong việc tập
hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của
nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hố, xã
hội, quốc phịng, an ninh vào cuộc sống, góp phần xây dựng sự đồng thuận trong xã hội.
Trang 2


Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đồn thể nhân dân thực hiện tốt vai trị giám sát và
phản biện xã hội. Các cấp uỷ đảng và cấp chính quyền có chế độ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân
dân; thường xuyên lắng nghe ý kiến của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh với Đảng, Nhà
nước những vấn đề mà nhân dân quan tâm, tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật. Thực
hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Quy chế dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các đoàn thể và các
tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị.
Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và các hội quần
chúng, khắc phục tình trạng hành chính hố, phơ trương, hình thức; làm tốt cơng tác dân vận theo

phong cách trọng dân, gần dân và có trách nhiệm với dân.
Năm là: Cán bộ phải là người có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với
Đảng, hết lịng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững vàng, khơng
dao động trước những khó khăn, thử thách; có năng lực hồn thành nhiệm vụ được giao; có nhân cách
và lối sống mẫu mực, trong sáng; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tơn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân.
Khắc phục những biểu hiện cá nhân, cục bộ, không công tâm, nể nang, tuỳ tiện trong công tác cán bộ.
Cụ thể hoá và thể chế hoá nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán
bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của tổ chức và người đứng đầu của tổ chức trong hệ thống chính trị
về cơng tác cán bộ.
Tóm lại: Lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam là lịch sử của sự phát triển đường lối chính trị đấu
tranh cho nền độc lập dân tộc, chủ quyền của quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đấu tranh vì
những giá trị của con người. Những giá trị ấy soi sáng con đường xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ
quốc thân yêu của chúng ta suốt mấy ngàn năm lịch sử. Những giá trị bất hủ đó cũng đã góp phần tạo
nên sức mạnh cho cả dân tộc làm nên Cách mạng tháng Tám - lập nên Nhà nước dân chủ cộng hòa đầu
tiên ở Đông Nam Á, góp phần cho chiến thắng Điện Biên Phủ và đại thắng mùa xuân 1975 - thống nhất
Tổ quốc. Ngày nay, dân tộc ta đang tiếp tục xây dựng đất nước “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
Câu 2: Đồng chí hãy làm rõ các giá trị cơ bản của lịch sử tư tưởng chính trị phương Tây từ cổ đại
đến cận đại? Nêu phương hướng vận dụng các giá trị đó vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta hiện nay?
Bài làm:
Tư tưởng chính trị phương Tây từ cổ đại đến cận đại được thể hiện ra bằng nhiều học thuyết, trường
phái khác nhau. Mặc dù có không ít hạn chế, sai lầm, song từ bản chất hướng tìm các khách quan, duy
lý, tư duy chính trị phương Tây đã đóng góp cho nhân loại nhiều giá trị manh tính phổ biến cho việc tổ
chức và xây dựng NNPQ trong các chế độ xã hội.
Ở phương Tây thời cổ đại (TK IV TCN - TK III) với những cuộc đấu tranh một mất một cịn giữa
chủ nơ dân chủ và chủ nơ q tộc mà biểu hiện của nó là những cuộc cải cách dân chủ ở các thành bang
là đặc trưng cơ bản nổi bật của hệ tư tưởng lúc bấy giờ; trong cuộc đấu tranh đó, những tư tưởng chính
trị tiến bộ hình thành và phát triển khá mạnh mẻ, đặt nền móng hết sức căn bản cho sự phát triển tư
tưởng chính trị nhân văn của nhân loại về sau. Thời trung cổ (TK IV - TK XV) là sự kết hợp và xuyên

thấu lẫn nhau giữa “thần quyền” và “thế quyền” để thống trị thần dân mà biểu hiện cơ bản là sự thống
trị của thiên chúa giáo đối với tinh thần của nông nô; ở thời kỳ này KH-KT không phát triển, triết học
là nô lệ cho thần học và rơi vào CN kinh viện nên có rất ít tư tưởng chính trị tiến bộ. Sang thời cận đại
(TK XVI - TK XIX), đặc trưng cơ bản là sự phát triển mạnh mẽ của triết học khai sáng và là thời kỳ
của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản với sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động
đấu tranh cho các quyền cơ bản của con người mà điển hình là cuộc đại cách mạng tư sản Pháp (1789)
nên có nhiều giá trị mang tính nhân loại phổ biến. Đó là những nét tổng thể dệt nên nội dung cơ bản của
lịch sử phát triển tư tưởng chính trị ở các nước phương Tây thời kỳ trước Mác.
Việc làm rõ những giá trị cơ bản của lịch sử tư tưởng chính trị phương tây từ cổ đại đến cận đại sẽ có
ý nghĩa rất quan trọng trong việc vận dụng các giá trị đó vào việc xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta.
Những giá trị cơ bản đó được biểu hiện như sau:
Trước hết, khi nói về thủ lĩnh chính trị, đã có rất nhiều quan điểm, ý kiến của các học giả về vấn
đề này, tiêu biểu là Socrat (469 - 399 TCN), Democrite (460 - 370 TCN), Senophone (427 - 355 TCN),
Platon (427 - 374 TCN), Aristote (384 - 322 TCN), Ciceron (106 - 43 TCN) … Socrat, cho rằng, thủ
Trang 3


lĩnh chính trị phải là người có đạo đức, nhưng đạo đức phụ thuộc vào trí tuệ … Senophone, xem người
thủ lĩnh chính trị phải có kỷ thuật giỏi, phải có sức thuyết phục cao, người thủ lĩnh phải biết vì lợi ích
chung nghĩa là phải biết chăm sóc cho người bị trị, biết hợp lại và nhân sức mạnh của mọi người. Ông
là người đầu tiên đặt ra yêu cầu về thủ lĩnh chính trị khá tồn diện như: phải có chun mơn giỏi, có uy
tín, vì dân… Tởng kết những tư tưởng tiến bộ trước đó, xuất phát từ quan niệm chính trị như một sự bắt
nguồn từ nghĩa vụ đạo đức và duy trì đời sống cộng đồng, Ciceron đã yêu cầu người điều hành các
công việc nhà nước cần phải sáng suốt, công minh, có khả năng hùng biện và hiểu biết pháp luật. Đó là
con người có sự thơng thái, có trách nhiệm, có sự cao thượng về phẩm hạnh, phải thống nhất trong
minh giữa tài năng và quyền uy, biết hy sinh vì lợi ích chung, bỏ qua các lợi ích tiền bạc không chính
đáng …
Như vậy, các nhà tư tưởng chính trị thời kỳ này cho rằng, thủ lĩnh chính trị là người có đạo đức, mà
đạo đức đó là sản phẩm của trí tuệ và là người có tài năng. Là người biết vì lợi ích chung, biết kết hợp
lại và nhân lên sức mạnh của mọi người, do vậy phải là người biết tác động lên dân chúng. Chính phủ

duy nhất xứng đáng là chính phủ được nắm giữ bởi các thủ lĩnh thực sự có khoa học chính trị và có
những tính khí phù hợp. Đó còn là con người không vướng bận vế sở hữu tài sản hay lo âu giàu nghèo,
một con người luôn ở trung điểm và biết uốn mình theo những lời khuyên của các bên. Người cầm
quyền phải biết hướng quyền lực chung vào phục vụ cho dân, biết chỉ huy mình trước khi chỉ huy
người khác, phải biết xa lánh và làm cho nhân dân phải xa lánh việc ăn chơi xa xỉ. Có thể thấy, u cầu
về thủ lĩnh chính trị khá tồn diện.
Thứ hai, về vấn đề nguồn gốc quyền lực nhà nước. Ở thời kỳ cở đại và trung đại, một số quan
điểm nổi bậc của các học giả tiêu biểu ở thời cổ đại như: Heraclit (530 -470 TCN), Aristote (384 - 322
TCN), Ciceron (106 - 43 TCN), Qguystanh (357 - 430), Tomat Dacanh (1225 - 1274), … xuất phát từ
việc xem trạng thái tự nhiên của con người tự nó đã hồn hảo nên Heraclit cho rằng, qùn lực xã hội
là quy luật vĩnh viễn, pháp luật nhằm thực hiện tính tất yếu của quyền lực và là điều kiện tối cần thiết
cho sự thống nhất xã hội … Ciceron, thì quan niệm tổ chức quyền lực là tất yếu bắt nguồn từ bản chất
của con người, là kết quả của một quá trình lịch sử bởi nhân dân, chứ không sinh ra bởi cá nhân người
thực hành. Phát triển cao hơn tư tưởng quyền lực tự nhiên của các triết gia tiến bộ thời cổ đại,
Qguystanh (357 - 430), khẳng định do bản chất tự nhiên, con người cần đến một xã hội và một xã hội
cần đến quyền uy, nên quyền lực phải có hai phẩm chất quan trọng, trước hết, quyền lực là sở hữu
chung của cộng đồng xã hội; nếu quyền lực là sở hữu của cá nhân thì là một sai lầm cơ bản. Và hai là,
sứ mệnh của quyền lực là làm cho sự công bằng ngự trị, không có công bằng thì quyền lực đó sẽ trở
nên sai biệt …
Thời kỳ cận đại, tiêu biểu thời kỳ này là J.Locke (1632 - 1704), Mongteskyơ (1689 - 1755),
J.J.Rutso (1712 -1778) … Phát triển cao hơn tư tưởng về quyền lực tự nhiên thời cổ đại và trung đại,
J.Locke luận giải về nguồn gốc và bản chất của nhà nước, của quyền lực nhà nước như sau: Một là,
quyền lực nhà nước về bản chất là quyền lực của nhân dân; quyền lực của nhân dân là cơ sở, nền tảng
của quyền lực nhà nước; trong quan hệ với dân, nhà nước không có quyền riêng mà chỉ thực hiện sự ủy
quyền của nhân dân. Hai là, nhà nước-xã hội chính trị-xã hội công dân, thực chất là một “khế ước xã
hội”; trong đó, công dân nhượng một phần quyền của mình mà hình thành quyền lực chung - quyền lực
nhà nước để điều hành, quản lý… xã hội nhằm bảo toàn quyền tự nhiên của mỗi cá nhân con người. Ba
là, bảo toàn quyền tự nhiên của mỗi cá nhân con người, đó cũng là tiêu chí căn bản xác định giới hạn và
phạm vi hoạt động của nhà nước; đi quá giới hạn này, chính quyền trở thành chuyên chế, kẻ thù của tự
do, đối tượng của cách mạng … Từ phân tích trạng thái tự nhiên lý tưởng của con người, J.J.Rutso

(1712 -1778) cho rằng,để chống lại chế độ tư hữu bất công thì mọi người liên hiệp lại với nhau hình
thành xã hội công dân và nhân dân thiết lập nhà nước như một “khế ước xã hội”, nhưng nhà nước bị tha
hóa làm cho sự bất công kinh tế và xã hội tăng lên dẫn đến bất công chính trị, người trao quyền lại vô
quyền. Do đó, để thủ tiêu sự chuyên chế đó, phải chuyển quyền của mỗi cá nhân thành viên tập trung
hình thành quyền lực chung tối cao. Ở đây, có sự chuyển nhượng tự do cá nhân cho “Cơ chế xã hội”, có
nghĩa là khi nhà nước vi phạm “khế ước” thì nhân dân có quyền bãi bỏ “khế ước” bằng ý chí chung.
Như vậy, các nhà tư tưởng chính trị phương Tây từ cổ đại đến cận đại cho rằng, quyền lực chính trị
là sức mạnh của cộng đồng để điều hòa, phối hợp tạo ra sự ổn định và phát triển chung của toàn xã hội,
tạo ra môi trường cho từng cá nhân có điều kiện sống, hoạt động và mưu cầu hạnh phúc. Từ quyền lực
của nhân dân , thông qua “khế ước xã hội” mà lập nên nhà nước để phục vụ cho nhân dân. Cho nên, về
bản chất, nhà nước tự nó không có quyền mà chỉ là sự ủy quyền của nhân dân. Nhân dân thực hiện sự
Trang 4


kiểm tra, giám sát chặt chẽ quyền lực nhà nước do mình ủy quyền và một khi nhà nước xuất thân từ
“khế ước” mà vi phạm “khế ước” thành độc quyền, lộng quyền, lạm quyền chống nhân dân thì nhân
dân cũng có quyền thay đổi “khế ước”, kể cả bằng bạo lực cách mạng.
Thứ ba, bàn về thể chế nhà nước. Thời kỳ cổ đại, Herodot (480 - 425 TCN), Ông là người đầu
tiên trong lịch sử nhân loại đã phân biệt và so sánh các thể chế của nhà nước khác nhau với ba hình
thức cơ bản: Một là, “Quân chủ chuyên chế”, đây là một thể chế nhà nước do một người cầm quyền đó là vua. Thể chế này về ưu điểm, do ra đời thường là những người có cơng khai quốc, thường là vì lợi
ích chung của nhân dân, nó là một bàn tay sắt cần thiết khi chế độ dân chủ bị rối loạn. Tuy nhiên thể
chế này có nhược điểm là dễ rơi vào sự độc tài, chuyên quyền, dễ bị xu nịnh, ln có xu hướng là lạm
dụng quyền lực. Hai là, “Cộng hòa quý tộc”, là thể chế của một số ít người thông thái và tiêu biểu về
phẩm hạnh của quốc gia để cầm quyền. Ở thể chế này về ưu điểm, đây chính là chính quyền của những
người có trình độ cao nên mọi cơng việc, các quyết sách chính trị đều được bàn bạc giữa những người
trí tuệ nên cơng việc có khoa học, ít sai lầm. Song, giữa các nhà thông thái làm việc bên nhau sớm
muộn cũng sẽ tiêu diệt lẫn nhau, vì khơng ai chịu thua ai, các nhà thông thái đều muốn làm thầy của
nhau, đó chính là nhược điểm của thể chế này. Ba là, “Cộng hòa dân chủ”, đây là thể chế của đơng đảo
nhân dân nắm quyền và nó được thành lập bởi chế độ bỏ phiếu để bầu ra các pháp quan. Ưu điểm của
thể chế này là các quyết định quyết sách chính trị đều do tập thể bàn bạc một cách dân chủ, nó có xu

hướng cơng bằng vì lợi ích chung, chăm lo cho nhân dân. Tuy nhiên, nhược điểm của thể chế này là do
có số đơng người ít học cầm quyền thì khó có khả năng chống độc tài, chuyên chế, dễ rơi vào tiểu tiết
mà quên đi tầm chiến lược, thường thấy những chuyện trước mắt mà không thấy trước những chuyện
lâu dài và dễ bị kẻ xấu kích động lơi kéo. Tuy nghiêng về thể chế quân chủ, nhưng theo Ông, loại hình
thể chế chính trị tốt nhất là thể chế hổn hợp những đặc trưng (ưu điểm) của ba loại hình cơ bản nói trên.
Theo Aristote (384 - 322 TCN), Ông cho rằng thể chế nhà nước dân chủ là thể chế người giàu, người
nghèo không bên nào số lượng tuyệt đối. Và cho rằng mọi thể chế đều có nguy cơ biến chất, thay đổi
bằng cuộc cách mạng. Ông là người đầu tiên phân loại quyền lực nhà nước: Lập pháp, hành pháp, tư
pháp; đề cao vai trò của pháp luật đối với việc ổn định xã hội. Nhà nước có chức năng bảo đảm cho xã
hội được sống hạnh phúc. Polybe (201 - 120 TCN), kế thừa tư tưởng trước đó vào thể chế nhà nước,
ơng cho rằng thể chế nhà nước là phải kết hợp những ưu điểm các thể chế chứ khơng theo một tiêu chí
thuần túy nào bởi vì trong thuần túy đã chứa đựng mầm mống sự yếu kém khi phát huy tối đa sẽ bộc lộ
yếu kém.
Thời kỳ cận đại, phát triển tư tưởng về thể chế nhà nước thời cổ đại, J.Locke (1632 - 1704) cho
rằng, nhà nước-xã hội, chính trị-xã hội công dân, thực chất là một “khế ước xã hội”; trong đó, công dân
nhượng một phần quyền của mình mà hình thành quyền lực chung - quyền lực nhà nước để điều hành,
quản lý… xã hội nhằm bảo toàn quyền tự nhiên của mỗi cá nhân con người. Để chống độc tài, phải
thực hiện phân quyền và quyền lực phải được phân chia theo ba lĩnh vực: Lập pháp, hành pháp và liên
hợp (quan hệ quốc tế). Đặc biệt “bằng mọi giá phải tách việc soạn các luật pháp ra khỏi việc thi hành
chúng”. Còn Mongteskyơ (1689 - 1755), từ phân tích các hình thức nhà nước cụ thể, tiếp thu và phát
triển tư tưởng phân quyền ở J.Locke, Ông đã xây dựng học thuyết phân quyền với mục đích tạo dựng
được những thể chế chính trị bảo đảm tự do chính trị cho các cơng dân và Ơng cho rằng, cách hữu hiệu
nhất để chống lạm quyền và chống độc quyền là phân chia để sao cho “quyền lực kềm chế quyền lực”,
đó là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Tư tưởng phân quyền của Mongteskyơ ảnh
hưởng sâu rộng trong lịch sử chính trị nhân loại, nó mở đường cho thể chế lập hiến - thể chế Hiến pháp
1791 ở Pháp và nền Cộng hòa Tổng thống ở Mỹ với Hiến pháp Philadenphia 1787. Ở J.J.Rutso (1712
-1778), các quan điểm của Ông về chính trị cấp tiến hơn nhiều so với Mongteskyơ. Mongteskyơ bảo vệ
tư tưởng quân chủ lập hiến, tư tưởng đại diện nhân dân, còn J.Rutso thì tiến xa hơn, coi nguyên tắc cơ
bản trong học thuyết của mình là tư tưởng chủ quyền nhân dân. Ông chủ trương quyền lực nhà nước
phải tập trung thớng nhất, theo Ơng, nếu qùn lực có phân ra các cơ quan nắm giữ các nhiệm vụ khác

nhau, cũng phải coi các cơ quan đó là công cụ của chủ thể nhân dân và lệ thuộc vào chủ quyền nhân
dân. Ảnh hưởng của tư tưởng J.Rutso đặc biệt mạnh mẽ trong thời kỳ Cách mạng Pháp. Kể từ J.Rutso,
hàng loạt hình thức hành động chính trị dân chủ được thể hiện và thực thi trong đời sống chính trị
phương Tây và nhân loại (như: Tranh luận công khai, tiếp xúc giữa người ủy nhiệm và được ủy nhiệm,
việc điều trần trước Q́c hợi …).
Như vậy, tư tưởng chính trị ở phương tây thường gắn liền với pháp luật trong khi tư tưởng chính trị
phương đơng thường gắn liền với đạo đức. Tư tưởng chính trị phương tây thường xuất phát từ “trạng
Trang 5


thái tự nhiên” của con người, thường đề cao động lực “quyền lợi” của con người. Chính trị học của giai
cấp tư sản phương tây thường dựa trên cơ sở của chủ nghĩa cá nhân, tuyết đối hoá quyền lợi cá nhân.
Tư tưởng chính trị của giai cấp tư sản so với tư tưởng chính trị của giai cấp phong kiến là một bước tiến
bộ trong việc giải phóng con người nhưng vẫn chưa đặt con người như là mục đích, tức là vẫn chưa thể
giải phóng đại đa số nhân dân lao động.
Tuy nhiên, trong lịch sử tư tưởng chính trị của nhân loại, sự ra đời của tư tưởng chính trị
Macxit là một cuộc cách mạng vĩ đại, lần đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, một giai cấp bị áp
bức bóc lột, GCCN đã có một hệ tư tưởng cách mạng và khoa học là kim chỉ nam cho hành động của
mình. Trên thực tế Mác-Ănggghen đã xây dựng tư tưởng chính trị của mình khác về chất so với những
tư tưởng chính trị duy tâm trước đó. Sự ra đời của tư tưởng chính trị của hai ông là bước ngoặc cách
mạng trong lịch sử tư tưởng chính trị nhân loại. Với hai ơng, chính trị lớn nhất là giải phóng con
người, mà muốn giải phóng con người thì phải giải quyết vấn đề giai cấp, phải giành lấy các nguồn lực
chính trị, đó là con đường giải phóng một cách khoa học và như vậy chủ nghĩa Mác chính là chủ nghĩa
nhân đạo hiện thực chứ không phải là chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng chỉ dựa vào đạo đức và lòng
thương người. Trong q trình đấu tranh, GCCN và nơng dân, các dân tộc bị áp bức, tư tưởng chính trị
Macxit đã trở thành ngọn cờ chủ đạo.
Trên đây là những vấn đề cơ bản của các học thuyết chính trị thường đề cập đến và cũng là những
bài học kinh nghiệm mà chúng ta cần xét đến trong quá trình xây dựng hệ thống chính trị nói chung,
xây dựng NNPQ XHCN nói riêng ở nước ta hiện nay.
Ở Việt Nam ta, có thể nói tư tưởng về NNPQ của Đảng ta chỉ mới bắt đầu định hình từ Đại hội Đổi

mới - Đại hội VI (12/1986). Đây là Đại hội đổi mới về chất của Đảng CSVN về mọi mặt, trong đó có
cả quan điểm về Nhà nước XHCN. Báo cáo chính trị của Đại hội khẳng định: "Nhà nước ta là công cụ
của chế độ làm chủ tập thể XHCN. Trong TKQĐ, đó là Nhà nước chun chính vơ sản thực hiện chế
độ dân chủ XHCN. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chức năng của Nhà nước là thể chế hóa bằng pháp luật
quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lí kinh tế, xã hội theo pháp luật ". Ta thấy
rằng, mặc dù Đảng vẫn xem Nhà nước ta là Nhà nước chuyên chính vơ sản nhưng vè chức năng của nó
đã được Đảng ta chỉ rõ là xây dựng pháp luật, quản lí xã hội và pháp luật đó phải "thể chế hóa quyền
hạn, lợi ích, nghĩa vụ của nhân dân", tức pháp luật phải là pháp luật dân chủ. Tư tưởng về pháp quyền
của Đảng được thể hiện trong Đại hội này là ở chỗ đó. Tại Đại hội VI cũng đã nêu ra phương châm "lấy
dân làm gốc" và cơ chế "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" thể hiện chếư độ nhân dân lao động
tự quản lí Nhà nước của mình, coi trọng cơng tác vận động quần chúng, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
Tiếp tục tư tưởng đó, tại Đại hội VII (06/1991), lần đầu tiên, khái niệm Nhà nước chun chính vơ
sản khơng cịn đề cập đến nữa, mà thay vào đó là "xây dựng Nhà nước XHCN, Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, và vì nhân dân" và nền "dân chủ XHCN". Đây được xem là của tòan bộ tổ chức và hệ
thống chính trị của nước ta trong giai đọan mới. Đảng ta cũng khẳng định Nhà nước là "tổ chức thực
hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, Nhà nước ta phải có đủ quyền lực
và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức quản lí mọi mặt đời sống xã hội bằng luật pháp. Sửa đổi hệ
thống tổ chức Nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện tịan các cơ quan lập pháp để thực hiện có
hiệu quả chức năng quản lí Nhà nước". Đảng ta xác định: "Tiếp tục cải cách bộ máy hành chính theo
phương hướng: Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân. Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức và họat động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện thống
nhất quyền lực nhưng phân công, phân cấp rành mạch; bộ máy tinh giản, gọn nhẹ, và họat động có chất
lượng cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật quản lí". Đảng cũng khẳng định: "Nhà
nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự phân cơng rành mạch ba
quyền đó". Đây là lần đầu tiên các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp được định danh đúng với
nó trong VK của đảng - các quyền. Đây có thể được xem là những dấu hiệu đầu tiên trong việc xây
dựng NNPQ của Đảng ta. Và tại Hội nghị đại biểu tịan quốc giữa nhiệm kỳ, khóa VII (năm 1994) đã
chính thức đưa vấn đề xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam vào VK của Đảng. Trong VK của Đảng tại
Hội nghị này đã nêu ra nhiệm vụ: "Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền

Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội
bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng XHCN. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được
xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đồn kết tồn dân, lấy liên minh giữa GCCN với
nơng dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo”. Đây là lần đầu tiên trong VK của
Trang 6


Đảng chính thức nêu cụ thể, tịan diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng NNPQ XHCN
Việt Nam. Từ đây, việc xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam trở thành chủ trương có tầm chiến lược, bao
trùm tịan bộ tổ chức, họat động của Nhà nước trong những năm tiếp theo.
Tiếp tục phát triển quan điểm về NNPQ, tại Đại hội VIII (06/1996), Đảng ta tiếp tục đề ra phương
hướng, nhiệm vụ xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam. Đảng khẳng định lại năm quan điểm và các nhiệm
vụ xây dựng, kiện toàn bộ máy Nhà nước mà Đảng đã nêu ra trước đó: "Tăng cường pháp chế XHCN,
xây dựng NNPQ. Quản lí xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức". Để
xây dựng, kiện tòan bộ máy Nhà nước vững mạnh, trong sạch, có hiệu lực và hiệu quả, Đại hội cũng đã
xác định cần thực hiện tốt các nhiệm vụ: đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối
cao của Quốc hội đối với tòan bộ họat động của Nhà nước, cải cách hành chính Nhà nước, cải cách tổ
chức và họat động tư pháp, đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng.
Không ngừng phát triển quan điểm về NNPQ, tại Đại hội IX (04/2001), nhận thức về NNPQ đã
được phát triển lên một tầm cao mới có tính đột phá về tư duy lí luận, là sự vận dụng sáng tạo học
thuyết NNPQ vào điều kiện Việt Nam. VKĐH IX khẳng định: "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân, là NNPQ của dân, do dân, vì dân. Quyền lực Nhà nước là thống
nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức
và mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật".
Thực hiện đường lối lãnh đạo của Đảng ta là xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ
của mình là hoàn thiện chức năng lập pháp, tám tháng sau Đại hội IX, tại kì họp thứ 10 của Quốc hội
khóa X (12/2001), Quốc hội đã thơng qua việc sửa đổi, bổ sung một số điều trong hành pháp năm 1992.
Điều 2 của Hiến pháp được sửa đổi, bổ sung ghi nhận: "Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về

nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa GCCN với GCND và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp".
Tại Đại hội X (04/2006), trên cở sở tổng kết lí luận và thực tiễn của 20 năm đổi mới, Đảng CSVN đã
khẳng định những yếu tố hợp thành xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng, trong đó có yếu tố xây
dựng NNPQ XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ta khẳng
định: " Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam".
Trong giai đọan hiện nay, xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam ngày càng trở thành yêu cầu mang tính
tính tất yếu thời đại. Xây dựng NNPQ XHCN Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ta là một quá trình
tất yếu phù hợp với lịch sử và khách quan của điều kiện Việt Nam. Ngay từ khi ra đời Nhà nước ta đã
mang yếu tố hợp hiến, hợp pháp và dân chủ-những nhân tố không thể thiếu của NNPQ. Công cuộc Đổi
mới trong giai đọan hiện nay với việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN và việc tăng cường hợp tác, hội nhập quốc tế, "đưa đất nước vươn mình ra biển lớn" đòi
hỏi chúng ta càng phải xây dựng và hoàn thiện NNPQ XHCN Việt Nam.
Phương hướng nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện
nay, Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền
XHCN, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản
pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động
và quyết định của các cơ quan công quyền.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện cơ chế bầu cử nhằm nâng cao chất
lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng đại biểu chuyên trách, phát huy tốt hơn vai trị của đại
biểu và đồn đại biểu Quốc hội. Tổ chức lại một số Uỷ ban của Quốc hội; nâng cao chất lượng hoạt
động của Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật,
giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của
đất nước và chức năng giám sát tối cao.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng
hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thơng suốt, hiện đại. Luật hố cơ cấu, tổ chức của Chính phủ;
tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, bảo đảm tinh gọn và hợp lý. Phân cấp mạnh, giao quyền chủ

Trang 7


động hơn nữa cho chính quyền địa phương, nhất là trong việc quyết định về ngân sách, tài chính, đầu
tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Trung ương.
Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý,
quyền con người. Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư
pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; thực hiện cơ chế công tố gắn
với hoạt động điều tra. Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân, bảo đảm quyền tự chủ và
tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò giám
sát của hội đồng nhân dân. Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân định lại thẩm quyền đối với
chính quyền ở nơng thôn, đô thị, hải đảo.
Thực hiện các giải pháp nhằm chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của cơ quan, cán bộ, công
chức. Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu nâng cao chất lượng cả
về năng lực và phẩm chất đạo đức. Thực hiện chế độ trách nhiệm trong đề cử, bổ nhiệm chức vụ lãnh
đạo theo hướng cấp trưởng giới thiệu cấp phó, cấp sử dụng trực tiếp giới thiệu để cấp có thẩm quyền
xem xét, quyết định. Có cơ chế kịp thời đưa ra khỏi bộ máy nhà nước những công chức không xứng
đáng, kém phẩm chất và năng lực”.
Tóm lại: Khi nghiên cứu tư tưởng chính trị của các thời đại lịch sử phương Tây, chúng ta khơng
được qn tính giai cấp của nó, mặt khác khơng vì thế mà phủ nhận tồn bộ nội dung, tri thức khách
quan trong các học thuyết chính trị mà phải biết chọn lọc, rút ra những cái giá trị để kế thừa, làm giàu
tri thức của mình, kể cả đối với tư tưởng chính trị tư sản hiện đại.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCNVN thực sự vững mạnh đồng thời nâng cao hiệu quả và
chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước đã trở một đòi hỏi bức thiết của cuộc sống, của sự
nghiệp đổi mới, sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta vì chỉ có xây dựng nhà nước pháp quyền đủ mạnh
mới có thể bảo vệ và phát huy những thành quả trong q trình đổi mới về mọi mặt (chính trị, kinh
tế,văn hố, quan hệ quốc tế…), mới có đủ khả năng giải quyết vấn đề mới nảy sinh do mặt trái của cơ
chế thị trường, của kinh tế nhiều thành phần mang lại, và mới có khả năng đương đầu và đập tan chiến

lược “diễn biến hồ bình” mà các thế lực chống đối đang ráo riết tiến hành.
Muốn thế, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta cùng nhau ra sức xây dựng nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam là nhà nước “của dân, do dân và vì dân”, “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân”; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân, vừa “Hồng”, vừa “Chuyên”, mà trước hết, mỗi cán bộ, công chức hàng giờ, hàng
ngày phải ra sức phấn đấu học tập, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức HCM./.
Câu 3: Từ lý luận về quyền lực chính trị, đồng chí hãy nêu những giải pháp cơ bản để phát huy
quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước ta hiện nay?
Bài làm:
Chính trị học là khoa học về đấu tranh cho quyền lực, là khoa học về giành, giữ và thực thi quyền
lực trong xã hội có giai cấp. Quyền lực chính trị là vấn đề trung tâm của mọi c̣c đấu tranh giai cấp,
mục tiêu trực tiếp của mọi chủ thể chính trị. Không nắm lấy được quyền lực chính trị thì lợi ích của giai
cấp hay dân tộc không thể nào thực hiện được. Song quyền lực chính trị chỉ xuất hiện và tồn tại khi xã
hợi có sự phân chia giai cấp, còn quyền lực đã xuất hiện cùng với lồi người được tổ chức thành xã hợi
và sẽ tồn tại cùng với đời sống xã hội.
Quan niệm về quyền lực, ngay từ thời cổ đại, trong tác phẩm “Chính trị Aten”, Arixtốt đã nghiên
cứu vấn đề quyền lực và xem xét những đặc điểm cơ bản của nó; theo Ơng, qùn lực khơng chỉ là cái
vớn có của mọi sự vật biết cảm giác, mà của cả giới tự nhiên vô cơ. Trong thời trung cổ, các nhà thần
học đưa “quyền lực thượng đế” lên vị trí hàng đầu; họ xem loài người chỉ là cái phát sinh từ quyền lực
thượng đế. Các nhà không tưởng và các nhà bách khoa thời phục hưng đã đặt vấn đề lật đổ quyền lực
PK để xác lập quyền lực tư sản là nhiệm vụ trung tâm của lực lượng dang lên đương đại (GCTS). Còn
ngày nay, quyền lực bao gồm quyền và lực, quyền lực chính là sức mạnh bắt người khác phải phục
tùng. Theo quan điểm chính trị học từ lập trường triết học xã hội, đặc biệt triết học DVBC, cho thấy:
Quyền lực là phạm trù rút ra từ hoạt động của con người, từ các quan hệ của họ khi xuất hiện giai cấp
Trang 8


và nhà nước. Quyền lực hiểu theo một cơ cấu xã hội, nó thuộc về quyền lực xã hội, bao gồm rất nhiều
“nhánh” khác nhau xuất phát từ tính đa dạng của các quan hệ xã hội.
Nhưng sự hiện diện của quyền lực không phải lúc nào cũng nằm trong tay của một thế lực. Nó có sự

ổn định, cũng có sự đảo lộn trật tự. Vì vậy việc tìm cách để thủ đắc quyền lực chính trị là vấn đề lôi
cuốn mọi cá nhân và thể chế. Thực tế lịch sử cũng cho thấy rằng, xung đột quyền lực là một hiện tượng
khách quan và phổ biến. Không phải mọi hiện tượng xung đột quyền lực đề có nghĩa tiêu cực đối với sự
phát triển. Khái quát thực tiễn lịch sử xã hội loài người từ khi phân chia thành giai cấp đến nay, CN
Mác-Lênin rút ra kết luận: Đấu tranh giai cấp là một trong những nguyên nhân, nguồn gốc, động lực
phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp. Ở đây, đấu tranh giai cấp là một trường hợp điển hình của
xung đột quyền lực trong mối quan hệ giữa các giai cấp. Sự xung đột quyền lực đó đóng vai trò động
lực phát triển xã hội, nghĩa là nó mang ý nghĩa tích cực.
Nhận thức trên là căn cứ nghiên cứu quyền lực chính trị. Vậy quyền lực chính trị chính là quyền lực
của một hay của liên minh giai cấp, tập đoàn xã hội hoặc của nhân dân (trong điều kiện của CNXH), nó
nói lên “Khả năng của một giai cấp thực hiện lợi ích của mình (C/Mác). Hay “Quyền lực chính trị là
bạo lực có tổ chức của giai cấp để đàn áp giai cấp khác” (Ph.Ăngghen). Với khái niệm này, ta thấy rằng
quyền lực chính trị ln gắn liền với giai cấp, gắn liền với bản chất nhà nước. Còn quyền lực chính trị
của nhân dân lao động là quyền quyết định của toàn dân đối với quyền lực nhà nước mà thực chất là
của bộ phận trung tâm trong nhân dân, bộ phận thống trị trong kinh tế. Và trong CNXH thì quyền lực
chính trị cơ bản thuộc về nhân dân lao động.
Quyền lực chính trị ra đời gắn liền với sự xuất hiện của các giai cấp trong xã hội, nhưng các chế độ
xã hội có bản chất khác nhau thì quyền lực chính trị cũng sẽ hiểu khác nhau. Song, dù chế độ xã hội
nào thì quyền lực chính trị cũng biểu hiện trên các đặc điểm cơ bản sau: Một là quyền lực chính trị bao
giờ cũng mang tính giai cấp. Hình thức tổ chức quyền lực chính trị có thể là thế chế chính trị chỉ một
giai cấp hoặc của sự liên minh giữa các giai cấp hay của nhân dân. Nhưng thực chất của quyền lực đó
bao giờ cũng thuộc về một giai cấp nhất định, giai cấp thực thụ cầm quyền (đây là đặc điểm hết sức
khác nhau giữa quyền lực chính trị và quyền lực xã hội); Hai là quyền lực chính trị biểu hiện ra bên
ngoài là thống nhất nhưng trong quan hệ nội tại thường hàm chứa sự khác biệt và thậm chí chứa đựng
mâu thuẫn đối kháng; Ba là sức mạnh của quyền lực chính trị là sức mạnh của giai cấp.
Quyền lực chính trị tiêu biểu tập trung ở quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là quyền lực của
giai cấp thống trị (giai cấp cầm quyền). Là một bộ phận quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước cũng
mang đầy đủ tính chất và đặc trưng của quyền lực chính trị. Nhà nước khơng chỉ biểu hiện tập trung và
mạnh mẽ nhất, quyền lực của giai cấp cầm quyền mà cịn nhân danh quyền lực cơng, quyền lực xã hội
đối với mọi giai cấp và tầng lớp khác. Ngồi ra, quyền lực nhà nước cũng có tính đặc thù riêng và với

chức năng thống trị giai cấp và chức năng xã hội.
Ngày nay, hình thức biểu hiện của quyền lực chính trị được biểu hiện ở hai hình thức: Một là, tuyệt
đại bộ phận các nước tư bản, hình thức biểu hiện của quyền lực chính trị được tổ chức theo kiểu phân
lập quyền lực, gắn với chế độ đa đảng đối lập, đa nguyên chính trị. Hai là, các nước XHCN và một số
nước tư bản, hình thức biểu hiện của quyền lực chính trị lại được tổ chức theo kiểu tập trung thống
nhất, gắn liền với chế độ nhất nguyên chính trị.
Qua nghiên cứu chính trị học ta thấy, trong các chế độ có bản chất chính trị - xã hội khác nhau thì
nội dung quyền lực chính trị cũng biểu hiện khác nhau vì cơ sở xuất phát của quyền lực chính trị là xuất
phát từ nền tảng chế độ kinh tế-xã hội và xuất phát từ lợi ích giai cấp và bảo vệ giai cấp.
Trong chế độ TBCN, sau khi lật đổ chế độ phong kiến thiết lập nên nhà nước tư sản của GCTS. Về
PTSX có tiến bộ hơn trước tuy nhiên PTSX TBCN là bóc lột giá trị thặng dư do QHSX dựa trên cơ sở
chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX. Do GCTS chiếm giữ TLSX nên GCTS nắm quyền lực chính trị.
Vì thế trong chế độ TBCN quyền lực chính trị không thuộc về nhân dân lao động. Đặc biệt để duy trì
bản chất bóc lột, CNTB sử dụng quyền lực chính trị bảo vệ GCTS là thiểu số và trấn áp đa số nhân dân
lao động. Vậy trong chủ nghĩa TB quyền lực chính trị thuộc vê một số ít người (giai cấp tư sản) chứ
không thuộc về đa số nhân dân lao động. Quan niệm quyền lực chính trị ”thuộc về nhân dân lao động “
đã xuất hiện từ thời cổ đại và được tuyên bố, ghi nhận một cách phổ biến trong hiến pháp của các nước
cộng hoà dân chủ tư sản nhưng trên thực tế cũng chỉ là hình thức rất hạn chế.
Xét chung cho các chế độ xã hợi có giai cấp đối kháng thì giai cấp bóc lột khơng ngừng củng cố và
xây dựng quyền lực nhà nước để quyền lực nhà nước có đầy đủ sức mạnh trấn áp các giai cấp khác. Do
Trang 9


vậy, trong các chế độ xã hội có giai cấp đối kháng, quyền lực chính trị cơ bản thuộc về giai cấp bóc lột,
cịn nhân dân lao động về cơ bản khơng nắm được quyền lực chính trị.
Khác với các chế độ XH nói trên, trong CHXH xét về mặt lợi ích thì quyền lực chính trị cơ bản
thuộc về GCCN, GCND, tầng lớp trí thức (hay nói khái qt là thuộc về nhân dân lao động) vì nó xuất
phát từ hai cơ sở : Một là xuất phát từ bản thân của chế độ XHCN mà nét đặc trưng nhất là chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất,nhân dân lao động là người nắm giữ TLSX chủ yếu nên nắm quyền lực kinh tế,
chính trị, văn hố, xã hội từ đó nắm được quyền lực nhà nước làm công cụ xây dựng xã hội mới; Hai là

xuất phát từ lợi ích của giai cấp cầm quyền. GCCN là giai cấp cầm quyền; lợi ích của GCCN trong chế
độ XHCN là cơ bản thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động.
Tóm lại, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân lao động, chỉ thực sự có được khi xuất hiện cơ sở
khách quan cho sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính nhân dân. Nhà nước trong các chế độ bóc lột
dựa trên sự thống trị của chế độ sở hữu tư nhân, giai cấp cầm quyền bao giờ cũng là giai cấp bóc lột,
một giai cấp có lợi ích căn bản đối lập với lợi ích của nhân dân lao động. Hơn nữa trong xã hội dựa trên
chế độ sở hữu tư nhân khơng có sự bình đẳng về kinh tế do đó khơng thể có sự bình đẳng về chính trịxã hội. Đặc biệt trong xã hội TBCN ngày nay, giai cấp tư sản nắm tồn bộ tư liệu sản xuất hình nên
những cơng ty độc quyền, đa quốc gia, xuyên quốc gia chi phối nền kinh tế thế giới thì càng chứng
minh rõ ràng quyền lực chính trị thuộc về giai cấp tư sản chứ không phải thuộc về nhân dân lao động.
Quyền lực chính trị của nhân dân lao động là quyền quyết định của toàn dân đối với quyền lực nhà
nước mà thực chất là của bộ phận trung tâm trong nhân dân, bộ phận thống trị trong kinh tế. Trong lịch
sử, có ba thể chế chính trị thực thi quyền lực của nhân dân, đó là: Thể chế chính trị dân chủ Athens cổ
đại; thể chế chính trị dân chủ TBCN và thể chế chính trị dân chủ XHCN. Ở từng loại thể chế đó, quyền
lực chính trị của nhân dân mang tính đặc trưng. Dưới chế độ xã hội XHCN nói chung, ở nước ta nói
riêng toàn bộ quyền lực chính trị, cơ bản nhất là quyền lực của nhà nước đều thuộc về nhân dân.
Kế thừa và phát huy về “quyền lực chính trị”, Hồ Chí Minh xác định, nhiệm vụ của cách mạng ở'
Việt Nam trước hết là giành được chính quyền vào tay nhân dân. Chỉ khi nào giành được chính quyền
vào tay mình, nhân dân mới có được quyền lực chính trị. Và sau khi ngành được chính quyền, quyền
lực đều thuộc về nhân dân, Người viết: ''Trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của chúng ta, tất cả
mọi quyền lực đều là của nhân dân, tức là của các giai cấp công, nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc''.
Theo Người, nhân dân ở đây được xác định là toàn thể những người dân yêu nước không phân biệt giai
cấp. Người chỉ rõ: ''Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử
khác yêu nưởc''. Nhân dân trong quan niệm của Hồ Chí Minh bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp khác
nhau, kể cả các giai cấp tư sản, Khẳng định mọi quyền lực trong Nhà nước ta là của nhân đân có nghĩa
là quyền lực đó phải là của tất cả các thành phần dân chúng khác nhau trong xã hội, chỉ trừ bọn phản
quốc, hại dân. Như vậy, theo cách nhìn nhận của Hồ Chí Minh, lực lượng người chủ quyền lực của Nhà
nước ta là rất rộng. Nó khơng chỉ bó hẹp là quyền lực của giai cấp cơng nhân, nông dân và những người
dân lao động mà của đông đảo các giai cấp, tầng lớp khác nhau có tinh thần yêu nước.
Quyền lực chính trị của NDLĐ của nước ta với nội dung rất phong phú và được đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng CSVN. Chúng ta, có thể xem xét trên các quyền cơ bản sau:

Một là, quyền tổ chức quyền lực nhà nước. Nhân dân thông qua ý chí chung lập ra Hiến pháp và
bầu ra QH. HP quy định những nguyên tắc cơ bản, kết cấu tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của quyền
lực nhà nước và từng cơ quan quyền lực nhà nước. QH là cơ quan quyền lực cao nhất có quyền lập
Hiến và lập pháp. Toàn bộ việc tổ chức quyền lực nhà nước từ TW đến địa phương và từng cơ sở đều
được quy định bởi pháp luật do nhân dân lập ra.
Hai là, quyền lãnh đạo quyền lực nhà nước. Nhân dân tổ chức ra quyền lực nhà nước nên phải
thực hiện sự lãnh đạo đối với quyền lực đó. Để sự lãnh đạo tập trung và thống nhất , nhân dân trao
quyền lãnh đạo nhà nước cho đội tiên phong của giai cấp và dân tộc; đội tiên phong đó chính là Đảng
CSVN. Nhưng để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng luôn đúng ý nghuyện của mình, nhân dân không chỉ
tham gia vào quá trình hình thành đường lối, chủ trương mà còn phải thực hiện quyền phản biện và
giám sát đối với hoạt động lãnh đạo của Đảng, nhà nước, giám sát đối với mọi cán bộ đảng viên và
công chức nhà nước..
Ba là, quyền quản lý quyền lực nhà nước. Để đại biểu cho mọi tổ chức và hoạt động của nhà nước
luôn xuất phát từ và vì lợi ích chung. Thông qua các tổ chức đại diện, các đại biểu do mình bầu ra và
qua các tổ chức chính trị-xã hội và bằng quyền làm chủ trực tiếp của mình, nhân dân phải thực hiện
Trang 10


quyền giám sát, kiểm tra, kiểm soát việc các cơ quan nhà nước sử dụng quyền lực mà mình ủy thác để
kịp thời điều chỉnh, uốn nắn khi phát hiện có những biểu hiện lệch lạc. Đồng thời, thông qua sự tác
động của xã hội công dân, nhân dân buộc nhà nước phải luôn phục tùng chủ quyền tối thượng của
mình.
Bốn là, quyền phán quyết và tự quyết, Tuy thông qua các đạo luật, các quyết nghị của cơ quan
quyền lực của mình, nhân dân ủy nhiệm quyền quản lý, điều hành công việc thường xuyên của đất
nước cho các cơ quan nhà nước. Song, đối với những vấn đề lớn có liên quan đến sự hưng suy của quốc
gia dân tộc phải do toàn thể nhân dân trực tiếp phán quyết thông qua các cuộc trưng cầu dân ý. Đối với
những việc liên quan trực tiếp đến từng bộ phận dan cư, là vấn đề chính yếu của bộ phận nhân dân đó
thì chỉ có họ mới có quyền tự quyết cho chính mình. Không một ai có thể thay thế quyền phán quyết và
quyền tự quyết này của nhân dân khi chưa được nha ủy thác.
Năm là, quyền chấp hành nhà nước. Nhà nước thực thi quyền lực của nhân dân đã trao cho nên

mỗi người dân đều có quyền tuân thủ quyền lực nhà nước mà không một ai có quyền cản trở. Bời vì,
chấp hành quyền của mọi người đã trao là chấp hành chính mình mà không chấp hành một ai, cả khi
mỗi người là thành viên của tất cả. Hơn nữa, làm tròn nghĩa vụ với nhà nước còn chính là quyền lợi của
mỗi người dân
Sáu là, quyền thực hiện quyền công dân. Là công dân của nhà nước, nhân dân có quyền được đề
cử, ứng cử, bầu cử người thay mặt mình và quyền được ứng cử, được bầu cử hay bổ nhiệm vào các
chức vụ của cơ quan nhà nước; quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, hoi
họp …; quyền chất vấn cán bộ, công chức nhà nước và quyền được nhà nước phải đáp ứng những điều
kiện vật chất và tinh thần đại biểu cho yêu cầu tồn tại, phát triển của một công dân … Đồng thời thông
qua ý chí chung, nhân dân còn có quyền bãi miễn đại biểu và cơ quan nhà nước do mình bầu ra một khi
đại biểu và cơ quan nhà nước đó không còn xứng đáng là đại biểu chân chính của nhân dân nữa.
Bảy là, quyền được thụ hưởng quyền con người. Là con người, mỗi người dân đề có những quyền
thiêng liêng bất khả xâm phạm là quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhà nước
phải tôn trọng, công nhận quyền tự tổ chức cuộc sống, tự lựa chọn những giá trị, nghề nghiệp, công
việc, nơi ở và làm việc. Nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ danh dự và phẩm giá, lợi ích và sự nghiệp, tính
mạng và tài sản của mỗi con người; đồng thời, còn phục vụ các phúc lợi xã hội và dịch vụ công ích …
vì cuộc sống của mỗi người và sự phát triển của con người.
Như vậy, ở nước ta quyền lực chính trị của NDLĐ là quyền của toàn dân và của từng công dân thực
hiện ý chí lợi ích của mình thông qua quyền lực nhà nước trên lập trường của GCCN, phù hợp với lợi
ích quốc gia dân tộc.
Trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân thơng qua cơ chế và hệ
thống chính trị ở nước ta đã đạt được một số thành tựu như: đã từng bước xây dựng mối khối đại đồn
kết dân tộc, xóa bỏ dần những mặc cảm do chiến tranh để lại, giữ vững chính quyền nhân dân trên cơ
sở đổi mới, bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng, dân chủ hóa một bước trong đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, việc thực hiện cơ chế quyền lực chính trị cũng cịn một số hạn chế về năng lực và hiệu
quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lỳ và điều hành của Nhà nước, kết quả hoạt động của các tổ chức
chính trị xã hội chưa ngang tầm với tình hình nhiệm vụ mới. Bộ máy Đảng, Nhà nước và đoàn thể cịn
chậm sắp xếp, cịn có các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, vi phạm quyền dân chủ … Việc tổ chức cho
nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, đồn thể và góp ý cho cán bộ, đảng viên ở khơng ít
nơi tiến hành một cách hình thức, số lượng và thành phần tham gia góp ý chưa nhiều. Đội ngũ cán bộ

chủ chốt chưa thực hiện đều đặn việc đối thoại trực tiếp, tự kiểm điểm trước dân và nghe dân góp ý phê
bình xây dựng. Chế độ tự phê bình chưa được thực hiện rộng rãi, chưa trở thành nền nếp ở cơ sở.
Hiện nay, để phát huy quyền lực chính trị thuộc về nhân dân lao động, đảng ta khảng định: “Dân chủ
xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước đại diện quyền làm chủ của
nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân”
và “Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và cơng chức phải thực sự là công bộc
của nhân dân. Xác định các hình thức tổ chức và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà nước đối
với nhân dân. Bộ máy nhà nước, các thiết chế khác trong hệ thống chính trị có nhiệm vụ đề xuất ý kiến
Trang 11


với Đảng trong quá trình xây dựng, hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng”.
Tuy nhiên, để hiện thực hóa điều đó địi hỏi phải giải quyết hàng lốt các vấn đề, trong đó xét từ sự
lãnh đạo của ĐCSVN hiện nay, ít nhất phải tập trung giải quyết các vấn đề cơ bản sau:
Một là, để đảm đương vai trò lãnh đạo xã hội, vai trò cầm quyền trong chế độ dân chủ, Đảng phải
thật sự là lực lượng đại diện cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc, thời đại (Lê-nin) hay là ''đội
tiên phong dũng cảm và bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả
dân tộc”, như vậy, nhiệm vụ đầu tiên cần đặc biệt lưu tâm là nâng cao trình độ trí tuệ, tư duy lý luận
của Đảng. Vấn đề này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, bởi chỉ có Đảng nào được vũ trang bằng lý luận
tiên phong của một giai cấp tiên phong thì mới làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong trong thực tế. Ở đây
có nhiều nội dung, nhưng điều cấp thiết nhất hiện nay là các loại vấn đề sau: Thứ nhất, nhận thức và
xử lý đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa bản chất giai cấp và vai trò lực lượng đại diện cho lợi ích
của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và lợi ích của cả dân tộc của ĐCSVN. Đảng phải lãnh đạo
xã hội theo lập trường giai cấp cơng nhân, nhưng phải vì lơi ích của nhân dân, sống trong sự đùm bọc,
chở che của nhân dân, của dân tộc thì mới trường tồn. Thứ hai, cụ thể hóa thành những nội dung có
tính thể chế và cơ chế để thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Chỉ có thể dựa
vào những quy định có tính thể chế và thơng qua cơ chế rõ ràng mới kịp thời phát hiện được những cá

nhân, tập thể, dùng quyền áp đặt những quyết định ảnh hưởng tiêu cực cho tập thể, cho đất nước. Đồng
thời phải thực hiện một cách thực tế, hiệu quả hơn nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng.
Hai là, lãnh đạo xã hội, lãnh đạo chính quyền trong thể chế dân chủ, một mặt, Đảng phải định
hướng cho sự phát triển của đất nước, xã hội bằng những quyết sách chính trị đúng đắn, có tính khả thi,
mặt khác, phải thơng qua cơng tác tổ chức và công tác cán bộ để xây dựng hệ thống chính trị nói chung
và bộ máy nhà nước nói riêng vững mạnh.
Một hệ thống chính trị vững mạnh, có hiệu quả là thước đo phản ánh tính chất và trạng thái của chế
độ chính trị. Trên cơ sở phương pháp phân tích hệ thống có thể thấy, sức mạnh, chất lượng và hiệu quả
của hệ thống chính trị ở nước ta không chỉ phụ thuộc vào chất lượng và hiệu quả của từng thành tố
(Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội), mà cịn phụ thuộc rất nhiều vào việc giải quyết mối
quan hệ giữa các thành tố đó trên cơ sở phân định rõ chức năng, thẩm quyền giữa các tổ chức nói trên.
Vấn đề đặt ra là làm sao vừa đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của cả hệ thống, vừa đảm bảo phát huy
tính độc lập tương đối của các thành tố, trong đó quan trọng nhất ở nước ta hiện nay là thẩm quyền,
chức năng và trách nhiệm của bộ máy nhà nước.
Với tư cách là trụ cột của hệ thống chính trị, bộ máy nhà nước mạnh, hoạt động có hiệu quả là tiêu
chí phản ánh tập trung sức mạnh và hiệu quả của cả hệ thống. Trong điều kiện hiện nay, đó là Nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Nhà nước đó tương thích với đặc trưng của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, vừa đảm đương tốt vai trò định hướng, điều tiết nền kinh tế thị trường, vừa
là cộng sự tích cực để kinh tế thị trường phát triển, đủ sức hội nhập quốc tế.
Nội dung xây dựng Nhà nước, củng cố, nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước là rất phong phú,
nhưng điểm mấu chốt hiện nay là cơ chế tuyển chọn và sử dụng một đội ngũ cơng chức trong bộ máy
nhà nước thật sự có tài năng, có phẩm chất và được quyết định trên cơ sở sự đồng thuận của Đảng và
của nhân dân. Trên cơ sở đội ngũ cơng chức có phẩm chất và năng lực; xác lập, phân định rõ ràng chức
năng, thẩm quyền của từng tổ chức trong bộ máy và từng vị trí cơng việc cụ thể trong bộ máy đó, tiến
hành bố trí cơng việc phù hợp cho mỗi người và có cơ chế, chế tài kiểm tra, thẩm định đúng, xử lý
(khen thưởng và kỷ luật) kịp thời, thỏa đáng, nghiêm lệnh đối với mọi tổ chức, mọi cá nhân.
Ba là, khi đã xem dân chủ XHCN là mục tiêu, động lực của CNXH ở nước ta hiện nay thì việc bảo
đảm và phát huy dân chủ trong hệ thống chính trị, trong xã hội là một trong những yêu cầu cấp thiết.
Đương nhiên, đây là một quá trình khơng ngừng hồn thiện cả về nhận thức lẩn tổ chức thực hiện, với
nỗ lực từ phía lãnh đạo, quản lý lẫn từ phía nhân dân.

Sức mạnh của đất nước, của dân tộc là sức mạnh của toàn dân, của chế độ. Phương thức và con
đường để tạo dựng và phát huy sức mạnh đó chính là sự đồng thuận, sự kết hợp thống nhất giữa ''ý
Đảng'' và ''lòng dân''.
Trong điều kiện một Đảng cầm quyền, dân chủ trong xã hội chỉ được đảm bảo thực thi có hiệu quả
khi trước hết phải thực hành dân chủ trong Đảng. Trong xã hội, lúc này, có thể xem việc thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở là khâu đột phá để hoàn thiện nền dân chủ XHCN ở nước ta.
Chỉ khi nào quần chúng nhân dân lao động ở nước ta cảm nhận được những giá trị đích thực của nền
Trang 12


dân chủ XHCN dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN mang lại cho họ thì lúc đó dân chủ XHCN, ngun tắc
quyền lực thuộc về nhân dân lao động mới trở thành hành động chung của toàn xã hội, từng bước được
hiện thực hóa..
Tóm lại, chúng ta đã và đang sống trong chế độ XHCN, nhiệm vụ của chúng ta là phát huy quyền
lực chính trị của nhân dân lao động, để đảm bảo vững chắc cho việc củng cố và đổi mới hệ thống chính
trị ở nước ta hiện nay. Muốn vậy chúng ta cần ra sức quán triệt tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng và
thực hiện có hiệu quả di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh : “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích
đều vì dân”. Và Người đã từng nói: ''Trong bầu trời khơng có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới,
khơng có gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của nhân dân... Trong xã hội khơng có gì tốt đẹp vẻ vang
bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân''
Câu 4: Vận dụng quan điểm của CN Mác-Lênin về mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế để
phân tích luận điểm sau: “Không có một lập trường chính trị đúng đắn thì một giai cấp nhất định
nào đó không thể giữ sự thống nhất của mình và do đó, cũng không thể hoàn thành được nhiệm
vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất”
Bài làm:
Chính trị và kinh tế là hai lĩnh vực quan trọng trong đời sống xã hội có Nhà nước. Vai trò lãnh đạo
của chính trị đối với kinh tế là một vấn đề mà mọi chủ thể kinh tế và chính trị đều quan tâm. Mối quan
hệ giữa chúng tác động trực tiếp đến quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài từ khi có sự phân chia
giai cấp nói chung và của từng quốc gia dân tộc nói riêng. Vì vậy, việc hình thành những quan điểm
đúng đắn về chính trị và kinh tế, xử lý tốt mối quan hệ giữa chúng là vấn đề sống còn của một chế độ

xã hội. Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, chúng ta không thể ho nghiên cứu vấn đề chính trị
với kinh tế.
Nói đến sự tác động của chính trị đến kinh tế, Lênin cho rằng: “khơng có lập trường chính trị đúng
đắn thì một giai cấp nhất định nào đó khơng thể giữ được sự thống trị của mình và do đó cũng khơng
thể hồn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất”. Để có quan điểm đúng đắn, xử lý tốt
mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế trong quá trình xây dựng đất nước, giữ vững định hướng XHCN
trong quá trình phát triển kinh tế, chúng ta hãy phân tích làm rõ luận điểm trên.
Theo Chính trị học, Chính trị được quan niệm là những công việc nhà nước hay xã hội. Phạm vi hoạt
động gắn với những quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt
nhân của nó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Về thực chất, chính trị là quan hệ về
lợi ích (trước hết và cơ bản là lợi ích kinh tế) giữa các giai cấp, các lực lượng XH, các quốc gia, dân tộc
mà việc thực hiện lợi ích đó phải thơng qua quyền lực nhà nước. Trong chính trị, vấn đề quyền lực
chính trị (mà trọng tâm là quyền lực nhà nước) luôn là mục tiêu của các giai cấp. Khi nắm được quyền
lực chính trị, quyền lực nhà nước tức là nắm được công cụ cơ bản nhất để giải quyết các vấn đề lợi ích
của các giai cấp. Do vậy, xét từ góc độ quan hệ với kinh tế thì vấn đề chính trị thực chất cũng chính là
vấn đề kinh tế bởi vì giải quyết vấn đề quyền lực chính trị sẽ trực tiếp tác động đến động lực của sự
phát triển kinh tế. Mác, Lênin đã rút ra kết luận: Quan hệ chính trị xét về bản chất là do quan hệ kinh tế,
chính sự ra đời và tồn tại của giai cấp, chính nhu cầu của các giai cấp quyết định nội dung của các lợi
ích chính trị.
Còn về kinh tế, được hiểu là toàn bộ các lĩnh vực, các ngành khác nhau của một nền kinh tế quốc
dân, mà cơ sở của nó là các quan hệ cơ bản: Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và
quản lý lao động XH, quan hệ phân phối sản phẩm làm ra. Phạm vi kinh tế là cơ sở cần thiết và sâu xa
nhất của xã hội loài người, gần như toàn bộ các mối quan hệ khác trong xã hội đều được quy định bởi
lĩnh vực kinh tế, vì vậy nó quyết định chế độ chính trị và quyết định quyền lực nhà nước.
Thực chất vấn đề chính trị với kinh tế, về cơ bản, đã được V.I.Lênin khái quát thành hai luận điểm
nang tính kinh tế như sau:
Một: Vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị. Kinh tế là nền tảng của chính trị, kinh tế
bao giờ cũng quyết định chính trị và điều này được khẳng định hồn tồn trong lý luận cũng như trong
thực tiễn. Về mặt lý luận, theo CN Mác-Lênin thì CSHT quy định cấu trúc, tính chất của KTTT và
TTXH quyết định YTXH. Kinh tế là nhân tố cơ bản thuộc CSHT, trong khi chính trị là nhân tố chủ yếu

của KTTT, vì vậy các quan hệ kinh tế quy định các quan hệ chính trị. Về mặt thực tiễn: Ở hình thái
kinh tế xã hội CHNL thì với QHSX của chế độ CHNL, thể chế chính trị thuộc về giai cấp chủ nơ, ở
hình thái kinh tế xã hội TBCN thì với QHSX của chế độ TBCH, thể chế chính trị thuộc về GCTS ở
Trang 13


CNXH thì thể chế chính trị thuộc về GCCN.
Kinh tế thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của chính trị, thậm chí một vấn đề kinh tế khơng lớn nhưng
có thể trở thành một vấn đề chính trị phức tạp, có thể làm đảo lộn đời sống chính trị, xã hội. Lực lượng
nào, giai cấp nào nắm kinh tế thì lực lượng đó, giai cấp đó nắm quyền lực chính trị, chi phối đời sống
xã hội. Ngược lại, nếu một giai cấp, lực lượng xã hội đã làm chủ về quyền lực chính trị mà khơng xây
dựng và giữ được địa vị chủ đạo về kinh tế thì sớm muộn cũng sẽ khơng thể duy trì được quyền lực
chính trị. Chính vì vậy, Lênin viết “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Luận điểm này chỉ
rõ nguồn gốc chính trị là từ kinh tế, chính trị chỉ hình thành tồn tại và phát triển trên cơ sở đòi hỏi
khách quan bởi sự phát triển kinh tế. Từ thực trạng kinh tế, kết cấu giai cấp xã hội, mà hình thành nên
một chế độ tương ứng. Nền chính trị của một nước bao giờ cũng là sản phẩm trực tiếp của khuynh
hướng kinh tế chủ đạo, QHSX thống trị. Tính quy định của kinh tế đối với chính trị cịn thể hiện ở chỗ
nền chính trị của một nước tuy là phản ánh tổng thể các xu hướng kinh tế nhưng bao giờ cũng là sản
phẩm trực tiếp của xu hướng kinh tế chủ đạo.
Khẳng định tính quyết định của kinh tế đối với chính trị, chúng ta càng nhận thức rõ rằng trong quá
trình đổi mới ở nước ta hiện nay đang tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có cả thành
phần kinh tế XHCN lẫn TBCN và nền kinh tế này sẽ duy trì suốt thời kỳ quá độ; nếu như trong nền
kinh tế nhiều thành phần đó chúng ta không củng cố, xây dựng thành phần kinh tế XHCN trở thành một
thành phần kinh tế mạnh, chủ đạo, có khả năng chi phối các thành phần kinh tế khác thì khó đảm bảo
được định hướng XHCN. Đây cũng là vấn đề nguyên tắc trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
cũng như trong suốt thời kỳ quá độ, bởi vì thành phần kinh tế XHCN đóng vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế sẽ là cơ sở cho tồn tại vững chắc của hệ thống chính trị XHCN.
Hai: Vai trị chính trị đối với kinh tế: Kinh tế của vai trị quyết định đến chính trị, tuy nhiên chính
trị ln mang tính độc lập của nó và có tác động trở lại đến kinh tế một cách tồn diện. Chính trị thực
hiện khả năng nhận thức các qui luật kinh tế khách quan, nhận thức được thực trạng kinh tế của đất

nước và từ đó định hướng các qui luật vận động, phát triển nhằm đạt đến mục đích lợi ích giai cấp.
Chính trị với kinh tế là một khái niệm chỉ sự tác động của quyền lực chính trị mà trước hết và trực
tiếp là quyền lực nhà nước đến các quá trình kinh tế xã hội. Sự tác động này thực hiện bằng đường lối
kinh tế, thể chế chính trị với kinh tế, các chủ thể chính trị với kinh tế. Nó tác động đến mục đích phát
triển kinh tế, cơ cấu và cơ chế kinh tế, hiệu quả kinh tế XH, phương thức vận hành và phân phối sản
phẩm. Phạm vi tác động trên toàn bộ nền kinh tế, các lĩnh vực kinh tế cơ bản, các đơn vị kinh tế, các kỹ
thuật kinh tế-XH, các chủ thể kinh tế; từ quan hệ của các lĩnh vực cơ bản chính trị như: đường lối,
chính sách, tổ chức, thiết chế chính trị...đến tồn bộ nền kinh tế nói chung hoặc tác động đến các lĩnh
vực kinh tế cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Biểu hiện của sự tác động của chính trị với kinh tế có thể
khái quát một số nội dung sau:
Trước hết: Chính trị định hướng cho kinh tế phát triển dựa trên quy luật khách quan, nhận thức
được quy luật khách quan. Bất cứ một nền kinh tế nào cũng đều có sự định hướng chính trị, bởi nếu
khơng định hướng thì mục tiêu kinh tế, lợi ích kinh tế của giai cấp sẽ không được thực hiện, cũng như
kinh tế sẽ phát triển tự do, vô tổ chức sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội. Do đó, bất cứ chính trị
của giai cấp cầm quyền nào cũng phải làm nhiệm vụ định hướng kinh tế.Tuy nhiên, muốn định hướng
thì chủ thể chính trị phải có kiến thức, tri thức, trình độ nhất định để nhận thức đúng quy luật, để định
hướng đạt mục tiêu kinh tế phục vụ cho giai cấp của mình.
Thứ hai: Chính trị lựa chọn mơ hình phát triển kinh tế. Một mơ hình kinh tế được xác định đúng,
phù hợp là điều kiện hết sức quan trọng cho sự phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế, phù hợp với lợi
ích của giai cấp. Chính trị có khả năng nhận thức đầy đủ điều kiện thực trạng kinh tế, tài nguyên, con
người lao động và các điều kiện chính trị, xã hội, lịch sử...có khả năng xây dựng một mơ hình kinh tế
thích hợp.
Thứ ba: Chính trị điều tiết tốc độ phát triển kinh tế. Tốc độ phát triển kinh tế phù hợp là điều hết
sức cần thiết cho sự phát triển chung của một chế độ xã hội. Nếu kinh tế trì trệ, chậm phát triển, chính
trị phải tác động thơng qua đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế hoặc các biện pháp kích cầu khác
để kinh tế có độ tăng trưởng hợp lý. Trong trường hợp kinh tế tăng trưởng quá nhanh không phù hợp
với sự phát triển xã hợi thì chính trị phải có sự điều tiết. Sự phát triển không phù hợp giữa kinh tế với
xã hợi thường dẫn đến sự bất ổn về chính trị. Vì vậy, chính trị can thiệp vào kinh tế mà cụ thể là tốc độ
phát triển là hết sức cần thiết, nó cũng liên quan trực tiếp đến lợi ích kinh tế của giai cấp.
Trang 14



Thứ tư: Vai trị của chính trị tác động đến các chủ thể kinh tế. Chính trị của giai cấp cầm quyền
không thể không tác động đến chủ thể kinh tế. Bởi sự tác động này sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể
kinh tế phát triển và trong đó sẽ góp phần mang lại lợi ích nhất cho giai cấp cầm quyền. Hiện nay, mỗi
thành phần kinh tế được coi là chủ thể kinh tế. Vậy chính trị phải tác động lên các chủ thể, để đảm bảo
tất cả các chủ thể này đều phát triển tốt, trên cơ sở phát huy mặt tích cực và hạn chế của từng chủ thể
kinh tế. Tạo điều kiện cho chủ thể thực hiện lợi ích riêng, đồng thời góp phần thực hiện lợi ích chung
của quốc gia dân tộc trên cơ sở định hướng chính trị, vì vậy khơng thể khơng có sự tác động của chính
trị vào các chủ thể kinh tế.
Thứ năm: Vai trị của chính trị trong việc quản lý chính trị-XH, con người trong các cơ sở sản xuất.
Nói đến vấn đề quản lý sản xuất, quản lý kinh tế tức là là quản lý con người, quản lý xã hội, chính trị.
Quản lý này nhằm đem lại điều kiện tốt nhất để kinh tế phát triển. Đặc biệt, đối với nền kinh tế nhiều
thành phần trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, mà hệ thống chính trị của chúng ta khơng thể
khơng chi phối, kiểm soát đến tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt là các thành phần kinh tế tư bản tư
nhân. Vì vậy, để quản lý xã hội, quản lý con người của nước ta hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước
hoặc doanh nghiệp tư nhân phải có tổ chức Đảng, các tổ chức quần chúng trong các doanh nghiệp để
phát huy được vai trò của nhân tố con người.
Sự tác động của chính trị đối với kinh tế có thể theo hai hướng: Một là, nếu chính trị tác động cùng
chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó chính trị có vai trị tích cực, thúc đẩy phát triển LLSX và phân
công lao động xã hội theo hướng chun mơn hóa, hợp tác hóa. Hai là, nếu chính trị tác động ngược
chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó chính trị là vật cản đối với sự phát triển kinh tế
Từ những tác động trên của chính trị đến kinh tế, Lênin cho rằng “Chính trị không thể không giữ địa
vị ưu tiên so với kinh tế”. Luận điểm này khẳng định tính ưu tiên cho chính trị so với kinh tế, là hợp lý
vì ưu tiên cho chính trị là ưu tiên cho vấn đề cơ bản nhất, quyết định đến sự phát triển của bản thân kinh
tế. Theo luận điểm này, kết quả đạt được về phát triển kinh tế phải tính đến việc bảo vệ củng cố và phát
triển thành quả chính trị đạt được (củng cố và phát triển hệ thống chính trị) bởi vì có ổn định chính trị
thì kinh tế mới phát triển. Luận điểm này cũng cho thấy phải có quan điểm chính trị khi giải quyết các
vấn đề kinh tế và phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước đối với phát triển
kinh tế là tất yếu khách quan. Chính trị phải được ưu tiên và giữ hàng đầu so với kinh tế vì chính trị có

khả năng can thiệp một cách tự giác vào quá trình kinh tế khách quan. Ưu tiên cho chính trị thì vấn đề
đặt ra là khi giải quyết các vấn đề kinh tế cụ thể phải đứng trên quan điểm, lập trường chính trị đúng
đắn và phải thấy rằng việc giải quyết các vấn đề kinh tế phải góp phần duy trì và củng cố quyền lực
chính trị của chủ thể trong q trình phát triển kinh tế.
Đối với điều kiện nước ta thì việc giải quyết xử lý các vấn đề kinh tế cụ thể phải xuất phát từ lợi ích
của GCCN và đơng đảo quần chúng nhân dân lao động. Chính điều đó đảm bảo tính định hướng chính
trị trong q trình phát triển kinh tế. Thiếu quan điểm chính trị trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế
thì kinh tế có thể vẫn tăng trưởng cao nhưng lúc đó trung tâm quyền lực chính trị có thể khơng cịn nằm
trong tay giai cấp thống trị đương thời mà sẽ nằm trong tay thành phần kinh tế đang đóng vai trị chủ
đạo trong nền kinh tế. Như vậy, ưu tiên cho chính trị ở đây chính là ưu tiên cho vấn đề quyền lực chính
trị của một giai cấp. Lênin viết ““Khơng có lập trường chính trị đúng đắn thì một giai cấp nhất định nào
đó khơng thể giữ được sự thống trị của mình và do đó cũng khơng thể hồn thành được nhiệm vụ của
mình trong lĩnh vực sản xuất”. Mặt khác, trong kinh tế dù cải tổ hay đổi mới như thế nào cũng phải
luôn giữ vững hệ tư tưởng chính trị vì hệ tư tưởng chính trị quy định phương hướng mục tiêu, bản chất
của chế độ xã hội. Trong điều kiện cách mạng XHCN, sự ưu tiên của chính trị so với kinh tế là tất yếu
để xây dựng CNXH, đó chính là giành, giữ và sử dụng quyền lực chính trị và xây dựng nền kinh tê
mới, nền kinh tế XHCN.
Cần lưu ý rằng trong mối quan hệ chính trị với kinh tế, nhiều trường hợp đã có chính sách chính trị
đúng đắn nhưng trình độ năng lực, tổ chức, chỉ đạo thực tiễn, phương thức hoạt động hệ thống chính trị
khơng vươn tới ngang tầm nhiệm vụ chính trị đề ra, thì chính trị vẫn có thể cản trở kinh tế hoặc để kinh
tế phát triển chệch hướng, trái với đường lối chính trị đã lựa chọn. Vì thế chính trị phải tự đổi mới, phải
có cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, thiết chế vận hành phù hợp với cơ sở kinh tế. Từ những
phân tích trên cho thấy rằng các Đảng chính trị khơng thể sai lầm về đường lối chính trị. Trong những
điều kiện nhất định, có thể hy sinh kinh tế cục bộ để đảm bảo sự phát triển kinh tế bền vững lâu dài
theo sự định hướng của chính trị.
Thực tế ở nước ta đã khẳng định rằng những thay đổi lớn kinh tế, thường bắt đầu từ những quyết
Trang 15


sách chính trị mang tính bước ngoặc.

Nhìn lại q trình Đảng lãnh đạo đất nước từ trước năm 1986, chúng ta thấy rằng tình hình nước ta
nói riêng và các nước XHCN nói chung đã có thời gian khá dài do tuyệt đối hóa vai trị của đường lối
chính trị, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã dẫn đến sự kiềm hãm sự phát triển kinh
tế và dẫn đến khủng hoảng trầm trọng. Chúng ta đã hành động trái quy luật “kinh tế quyết định chính
trị” khi cho rằng mâu thuẫn nổi lên ở đầu thời kỳ quá độ là mâu thuẫn giữa chế độ chính trị tiên tiến
với QHSX lạc hậu, do đó phải đẩy mạnh cải tạo QHSX (mà trong đó chủ yếu là cải tạo xóa bỏ các
thành phần kinh tế phi XHCN) nhằm làm cho QHSX phù hợp với chế độ chính trị tiên tiến. Từ đó nảy
sinh ra mâu thuẩn chủ yếu giữa QHSX với LLSX , nhiệm vụ cơng nghiệp hóa được đẩy lên một cách
duy ý chí trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết. Từ những sai lầm về đường lối chỉ đạo này, dẫn
đến nền kinh tế chậm phát triển, xã hội rơi vào khủng hoảng.
Trên cơ sở đánh giá đúng những nguyên nhân sai lầm trên, Đảng và Nhà nước ta đã có những quyết
sách quan trọng để cải cách đổi mới toàn diện tất cả các lãnh vực của đời sống KT-XH, đưa đất nước ra
khỏi khủng hoảng và phát triển ngày càng vững chắc. Để tiếp tục đưa công cuộc đổi mới tiến lên, làm
cho đất nước ta phát triển nhanh, vững bền theo định hướng XHCN trong thời kỳ đổi mới địi hỏi phải
nâng cao hơn nữa tính tự giác trong sự lãng đạo chính trị đối với kinh tế. Xử lý mối quan hệ chính trị
với kinh tế trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, cần chú ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Xác định mối quan tương quan giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Chủ
trương của Đảng là lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, xây dựng Đảng là khâu then chốt, tùy theo thành
quả và yêu cầu của đổi mới kinh tế mà từng bước đổi mới về chính trị. Thực hiện quan điểm đó, chúng
ta chuyển từng bước nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp với tình trạng QHSX bị quan liêu hóa, LLSX
trong tình trạng vô chủ ở nhiều cấp độ khác nhau sang nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế thị trường
với các bước đi thích hợp, biến nền kinh tế về cơ bản dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể đối với
TLSX thành nền kinh tế dựa trên sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu TLSX. Đổi mới cơ chế quản lý
từ trạng thái kế hoạch hóa tập trung cao độ, mệnh lệnh hành chính sang cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước theo định hướng XHCN … Trên cơ sở của những thành tựu mà Đảng ta thực hiện từng
bước đổi mới về chính trị, để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo; Nhà nước đổi mới để đảm bảo vai trị quản lý
nền kinh tế có hiệu quả nhất. Các tổ chức chính trị-xã hội của quần chúng nhân dân từng bước hồn
thiện để góp phần tích cực vào cơng việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội và góp phần quản lý kinh tế
đổi mới nói chung.
Thứ hai: Định hướng XHCN với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Mục tiêu kiên định

trong quá trình đổi mới ở nước ta đó là CNXH, mà trong suốt TKQĐ là định hướng XHCN. Để tiếp cận
mục tiêu ấy, chúng ta thực hiện kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong nội dung phát triển của xã hội
hiện nay, ĐH Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư
nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể,
kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để
Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần
kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của
nền kinh tế”. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như Đảng ta khẳng định là hoàn toàn phù
hợp với quy luật vận động khách quan của lịch sử, phù hợp với thực trạng và trình độ của nền kinh tế ở
nước ta hiện nay.
Thứ ba: Kinh tế hàng hóa nhiều thành phần dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng CSVN.
Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, nhưng như thế không có nghĩa kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần thì tất yếu phải có đa thành phần trong chính trị, tức là phải thực hiện cơ chế đa nguyên chính trị,
đa đảng đối lập.Đảng ta không chấp nhận đa nguyên, đa đảng là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu
XHCN, vì mục tiêu ấy chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở lãnh đạo của Đảng CS. Một Đảng, nhất
nguyên chính trị còn là điều kiện đảm bảo sự ổn định chính trị để phát triển kinh tế.
Thứ tư: Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước. Thực tế lịch sử cho thấy, bất cứ một chế độ kinh tế nào cũng đều phải có sự can thiệp của
nhà. Bản thân sự can thiệp ấy là đảm bảo cho kinh tế phát triển theo đúng định hướng của giai cấp cầm
Trang 16


quyền và mục đích cuối cùng là đem lại lợi ích kinh tế cao nhất cho giai cấp ấy. nước (VD như trong
khủng hoảng kinh tế tư bản ở thập niên 30 TK XX và hiện nay (2008-2009), các nước tư bản như Mỹ,
Nhật, Anh, Pháp …cũng phải có sự can thiệp của nhà nước để giảm suy thoái và vượt dậy nền kinh tế,
thoát ra khỏi khủng hoảng). Mặt khác, kinh tế hàng hoá nhiều thành phần bao giờ cũng có hai mặt: tích

cực và tiêu cực. Vai trò của nhà nước tác động vào kinh tế là hạn chế mặt tiêu cực (sự phân hóa giàu
nghèo, ngược đãi công nhân, tình trạng thất nghiệp …) và phát huy cao nhất mặt tích cực (giải quyết
việc làm, phát triển kinh tế, phát triển LLSX tiên tiến, hiện đại …). Muốn đạt hiệu quả cao trong quá
trình tác động phải xuất phát từ thực trạng kinh tế của đất nước và nhận thức đúng, đầy đủ các quy luật
khách quan của kinh tế. Nhà nước tác động vào kinh tế cịn phải thể hiện rõ vai trị của mình trong việc
tạo môi trường, định hướng cho kinh tế, điều tiết hoạch định chính sách xã hợi, quản lý, phân phối
nguồn tài nguyên quốc gia …
Hiện nay, sự quản lý nhà nước đối với kinh tế vẫn còn nhiều hạn chế. Đó là sự thiếu đồng bộ của cơ
chế và chính sách kinh tế, mặc dù chuyển từ kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường
nhưng vẫn cịn 1 số chính sách quay lại chính sách kinh tế thời bao cấp, nhiều hoạt động SX-KD chưa
có cơ chế thích hợp, nhiều lĩnh vực kinh tế thiếu khung pháp lý, việc ban hành các văn bản và hướng
dẫn thực hiện nhiều khi không khớp nhau và chậm. Sự yếu kém của cán bộ trực tiếp quản lý kinh tế,
kém về trình độ năng lực, sa sút về đạo đức, bản lĩnh yếu trong quan hệ kinh tế đối ngoại, nhiều cán bộ
do thiếu bản lĩnh nên bị mắc lừa. Việc thực hiện đường lối chủ trương của Đảng và pháp luật của nhà
nước về kinh tế chưa nghiêm, tình trạng tự do, tuỳ tiện, bất chấp pháp luật, tự đặt ra quy định mà chỉ có
lợi cho việc quản lý , cịn khơng quan tâm đời sống của nhân dân như thế nào. Tình trạng trên nói dưới
khơng nghe, hiện tượng làm láu báo cáo hay, hiện tượng quên lãng nghị quyết, quên lãng pháp luật.
Việc cải cách hành chính mà nhất là hành chính về kinh tế còn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nền
kinh tế. Vì vậy, tăng cường sự lãnh đạo chính trị đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
ngày càng trở nên vấn đề trọng yếu trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước
Thứ năm: Đổi mới hệ thống chính trị cho phù hợp với đổi mới kinh tế. Trong thời kỳ quá độ tiến
lên CNXH ở nước ta hệ thống chính trị XHCN do ĐCS VN lãnh đạo. Để đảm bảo chính trị là động lực,
là mở đường cho kinh tế phát triển, thì hệ thống chính trị phải tiến hành đổi mới,. Khơng làm được điều
đó hệ thống chính trị sẽ không thể định hướng cho kinh tế và như thế nguy cơ chệch hướng kinh tế
hồn tồn có thể xảy ra. Nghị quyết Đại hội VII đã chỉ rõ nguy cơ chệch hướng kinh tế có thể bắt đều
từ chính hình thái chính trị. Đổi mới nâng cao hiệu lực hoạt động của hệ thống chính trị. Chính là yếu
tố quyết định đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Đổi mới hệ thống chính trị và từng
bước xây dựng, hồn thiện nền dân chủ XHCN có quan hệ biện chứng với nhau. Thực chất đổi mới và
kiện tồn hệ thống chính trị ở nước ta là xây dựng nền dân chủ XHCN. Dân chủ là quy luật hình thành,
phát triển và tự hồn thiện hệ thống chính trị XHCN. Làm tốt việc này chính là góp phần tạo ra động

lực tổng hợp cho sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
Để nền kinh tế thị trường ở nước ta ngày càng thật sự là phương thức thực hiện sự nghiệp “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”, sự lãnh đạo của chính trị phải giải quyết tốt
những vấn đề sau:
Một là, sự lãnh đạo về chính trị phải đảm bảo lợi ích của giai cấp và dân tộc trong sự phát triển của
kinh tế. Chính trị phải tập trung lãnh đạo việc xây dựng QHSX XHCN, xác lập cho được vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế quốc dân, phải làm cho hình
thức quản lý tập thể trở thành phổ biến, phải làm cho hình thức phân phối theo lao động là chính. Chính
trị phải lãnh đạo giải quyết tốt những mâu thuẩn phổ biến khi phát triển kinh tế thị trường (như: mâu
thuẫn giữa phát triển kinh tế với cơng ăn việc làm, phân hóa giàu nghèo, giữa sự phát triển kinh tế trước
mắt với sự phát triển kinh tế lâu dài của đất nước, giữa phát triển kinh tế với cơng bằng xã hội …).
Chính trị phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, đó là vừa
tranh thủ được vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm tiên tiến của thế giới, đồng thời chống chủ nghĩa thực dân
kinh tế của các đế quốc dưới mọi hình thức, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Hai là, chính trị phải làm cho kinh tế nâng cao hiệu quả KT-XH. Chính trị phải đảm bảo tốt phát
triển kinh tế với phát triển xã hội, phải làm cho sự phát triển kinh tế đem lại lợi ích cho mọi người, làm
cho sự phát triển đồng đều giữa các vùng, các miền trong địa phương cả nước. Chính trị phải lãnh đạo
việc đổi mới công nghệ, phải gắn liền với yêu cầu phát triển LLSX, hiện đại hóa tổ chức, quản lý sản
xuất và tăng thu nhập cho người lao động, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho quỹ phân phối lại của xã
hội; phát triển công nghệ hiện đại phù hợp với điều kiện Việt Nam, gắn với đảm bảo môi trường tự
Trang 17


nhiện, môi trường văn hóa và việc phát triển nhân tố con người. Phải lãnh đạo tốt việc phát triển kinh tế
gắn liền với bảo vệ tổ quốc, chiến lược kinh tế gắn liền với chiến lược an ninh quốc gia và tăng cường
tiềm lực phòng thủ đất nước.
Ba là, sự lãnh đạo của chính trị nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình khách quan thúc đẩy sự phát triển
của kinh tế. Chính trị phải tạo ra mơi trường cho các quy luật kinh tế phát huy tác dụng, phải vận dụng
những quy luật nhân tố ngoài kinh tế tác động vào kinh tế. Chính trị phải chủ động tạo ra sự gần gũi
giữa các chủ thể chính trị với các chủ thể kinh tế, làm cho kinh tế quán triệt ngày càng đầy đủ hơn quan

điểm, đường lối của Đảng về kinh tế chính trị. Ngược lại các nhà chính trị nắm vững hơn thực trạng xu
hướng phát triển của đất nước.
Bốn là, chính trị phải hạn chế đến mức tối thiểu mặt trái của kinh tế thị trường. Chính trị phải giải
quyết tốt các vấn đề kinh tế, phải trong sạch hóa đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ năng lực, nâng cao
bản lĩnh và đạo đức. Chính trị phải đấu tranh có hiệu quả với hoạt động kinh tế bất chính, đồng thời
trừng trị nghiêm những hoạt động kinh tế phi pháp, phê phán mạnh mẽ những hoạt động kinh tế bất
chính. Hạn chế đến mức tối thiểu sự phân hóa xã hội, phải rút ngắn khoảng cách thu nhập giữa các tầng
lớp, trước hết là thu nhập kinh tế, phải làm cho mọi người hiểu hết nến kinh tế thị trường.
Tóm lại: Chính trị với kinh tế là những lĩnh vực cơ bản trong đời sống XH, vì vậy giải quyết đúng
đắn mối quan hệ chính trị-kinh tế sẽ tạo ra những động lực lớn quyết định đến q trình phát triển của
chế độ xã hợi. Đối với nước ta hiện nay, việc nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa chính trị với kinh
tế và vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa chúng trong thực tiễn sẽ là động lực quan trọng để thực hiện
định hướng XHCN với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Đồng
thời sẽ góp phần trong việc thực hiện chiến lược phát triển KT-XH mà Đại hội toàn quốc lần thứ IX đã
khẳng định “Đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước
ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển LLSX, đồng thời xây dựng QHSX phù hợp theo
định hướng XHCN; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát
triển văn hoá, từng bước cải thệin đời sống vật chất và tinh thấn của nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng XH, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc
phòng an ninh”./.
Câu 5: Vận dụng lý luận về quyết sách chính trị để phân tích và chứng minh bài học sau: “Đường
lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới”
Bài làm:
Các chủ thể của quyền lực chính trị thường đưa ra những quyết định dưới các hoạt động khác nhau
vì mục đích đã định trước. Trong đời sống chính trị, ta thường gặp các quyết định chính trị với các hình
thức khác nhau như: Cương lĩnh, đường lối, sách lược của Đảng; các quyết định pháp lý của nhà nước;
các nghị quyết, chủ trương, khẩu hiệu hành động của các đoàn thể, tổ chức quần chúng. Toàn bộ những
hình thức trên chính là quyết sách chính trị. Quyết sách chính trị là những quyết định chính trị có khả
năng định hướng, điều chỉnh hành vi chính trị của các chủ thể, dự báo khuynh hướng phát triển xã hội.

Quyết sách chính trị do Đảng chính trị hoạch định xuất phát từ lợi ích giai cấp, phù hợp hoặc không
phù hợp với lợi ích xã hội và với quy luật. Quyết sách đúng đắn không thể là sản phẩm, ý chí thuần túy
chủ quan của cá nhân con người, mà là sản phẩm, ý chí của giai cấp, phản ảnh những khuynh hướng
phát triển khách quan của xã hội. Như vậy, quyết sách chính trị là quyết định của 1 tổ chức lãnh đạo hệ
thống (hay phong trào) chính trị vạch ra đường lối, xác định quan điểm, đề ra chủ trương, hoạch định
chính sách hoạt động chính trị cho cả hệ thống hay phong trào đó trong những cuộc vận động chính trị
nhất định dưới các hình thức cơ bản như: Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết chính trị của Đảng.
Quyết sách chính trị của Đảng cộng sản chính là khoa học là nghệ thuật lãnh đạo chính trị của
GCCN trong cuộc đấu tranh nhằm từng bước cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hợi mới. Quyết sách chính
trị xác định những mục tiêu chủ yếu, những phương hướng chủ yếu trong cuộc đấu tranh giai cấp của
GCCN, của chính đảng thuộc giai cấp đó và của lực lượng cách mạng nói chung trong một giai đoạn
lịch sử tương đối dài. Chỉ ra những kẻ thù giai cấp chủ yếu, những bạn đồng minh của GCCN trong
cuộc đấu tranh nhằm đạt mục tiêu chủ yếu.
Giữa đường lối và nghị quyết có sự đồng nhất và khác nhau. Với ý nghĩa đường lối là sự bao quát
một hệ thống quan điểm của Đảng mang tính chiến lược ở những giai đoạn cách mạng nhất định và
nghị quyết là sự cụ thể hoá đường lối với một ngành, một địa phương, một cơ sở… thì giữa nghị quyết
Trang 18


của TW, của Đảng bộ của các ngành và đường lối có sự đồng nhất về nội dung cơ bản. Nhưng xét về
mức độ của tính tồn diện, tính bao quát, về phạm vi tác động, mức độ của tính phổ biến… thì so với
đường lối mọi nghị quyết mang tính hạn hẹp hơn. Đồng thời phạm vi của mọi nghị quyết càng hạn hẹp
bao nhiêu thì mọi nội dung cùa nghị quyết càng mang tính cụ thể bấy nhiêu.
Việc xây dựng quyết sách chính trị và tổ chức thực hiện quyết sách chính trị được qui định một cách
khách quan gắn bó hữu cơ với chức năng lãnh đạo của Đảng. Thực tế lịch sử nhân loại đã cho thấy nơi
nào, Đảng nào đề ra được quyết sách chính trị và tổ chức thực hiện quyết sách đúng, nhận thức đầy đủ
vai trị của quyết sách chính trị thì đó sẽ là bước quyết định cho thắng lợi của cách mạng. Thực tiễn
cách mạng VN gần 80 năm qua đã chứng minh trước những nguy cơ, những biến cố của lịch sử, Đảng
ta ln có những quyết sách chính trị đúng đắn, sáng suốt kịp thời đã giành độc lập tự do cho dân tộc,
hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đang vượt qua mọi khó khăn thử thách để

giành thắng lợi trong cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Những quyết sách chính trị đúng đắn đó như:
Kiên định ĐLDT gắn liền với CNXH, thực hiện chế độ một Đảng, nhất nguyên chính trị; xác định đổi
mới kinh tế là trọng tâm, chính trị là khâu then chốt; đổi mới phát triển kinh tế với nhiều thành phần sở
hữu đan xen theo định hướng XHCN; Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước …; gia nhập tổ chức kt
quốc tế WTO, APEC…, hiệp hội ASEAN … những quyết sách đó đã tạo thế và lực cho công nhân Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, nền kinh tế nước ta không ngừng phát triển, đời sống xã
hội từng bước được nâng lên và có nền chính trị ổn định… Đạt được những thành quả cách mạng trên
là do Đảng ta là do có quyết sách chính trị đúng đắn trên cơ sở quán triệt tư tưởng của Lênin: " Đường
lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới”.
Vậy quyết sách chính trị là gì và vai trị của nó như thế nào đối với Đảng cầm quyền. Qua nghiên
cứu Chính trị học chúng ta thấy: Vai trò của từng quyết sách không giống nhau, song tất cả đều là sự
định hướng cơ bản, xác định đối tượng chủ yếu, định tính và định hướng chung, nội dung và hình thức
chính yếu, biện pháp đặc trưng cho từng cuộc vận động chính trị. Quyết sách của Đảng cầm quyền trở
thành đường lối hoạt động của nhà nước, quy định chiều hướng vận động cơ bản của xã hội, nhất là chế
độ độc đảng như nước ta hiện nay. Chính vì vậy quyết sách chính trị có vai trị quan trọng đặc biệt đối
với một Đảng. Nó bảo đảm tính tự giác, tính định hường đúng đắn và tính hiệu quả của hoạt động chính
trị nhằm biến đổi xã hội một cách thực tế theo hướng tiến bộ. Tầm quan trọng của quyết sách chính trị
được qui định bởi chính nội dung của nó. Nội dung của quyết sách chính trị được thể hiện ở ba nội
dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Quyết sách chính trị trước hết đó là đề ra mục tiêu của cách mạng bằng cương lĩnh
đường lối. Trên thực tế đối với một Đảng để hoàn thành SMLS của mình thì phải giải quyết nhiều
nhiệm vụ, nhưng nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là đề ra mục tiêu cho cách mạng, tức là phải đề ra được
cương lĩnh đường lối đúng. Minh chứng là quyết sách chính trị cùa Đảng ta được thể hiện đúng đắn với
chính cương vắn tắt và sách lược vắn tắt của Đảng tại hội nghi thành lập Đảng 3/02/1930, tuy còn sơ
lược nhưng đã vạch ra đường lối cơ bản, đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, và là cương lĩnh đầu tiên
của Đảng, đó là: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản”. Với cương lĩnh của Đảng, nhiệm vụ vủa cách mạng tư sản dân quyền là đánh đuổi đế quốc
pháp xâm lược và bọn phong kiến tay sai, làm cho nước nhà độc lập, tự do; tịch thu ruộng đất của bọn
đế quốc, phong kiến chia cho dân cày nghèo, quốc hữu hố tồn bộ xí nghiệp của bọn đế quốc, thành
lập chính phủ cơng nơng binh và tổ chức quân đội công nông. Đồng thời cương lĩnh xác định lực

lượng cách mạng trước hết là công-nông do GCCN lãnh đạo, song phải lôi kéo cho được nhiều thành
phần tiểu TS, trí thức, trung nơng về phía cách mạng. Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và TS Việt
Nam chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng hoặc trung lập, bộ phận nào rõ mặt thì phải đánh
đổ. Sự ra đời của Đảng và tính đúng đắn của cương lĩnh đã đánh dấu một bước ngoặc căn bản của lịch
sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kì khủng hoảng về đường lối cứu nước, là sự kiện có ý nghĩa
quyết định đối với tồn bộ quá trình phát triển cách mạng Việt Nam từ đó và về sau này.
Nội dung của quyết sách chính trị còn xác định kẻ thù, xác định bạn đồng minh để từ đó bố trí lực
lượng CM. Nội dung này đã được Đảng ta vận dụng trong quá trình CM Việt Nam mà tiêu biểu là trong
giai đoạn giành chính quyền (1945). Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh là cách mạng tháng
8/1945 với khẩu hiệu “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, Hội nghị toàn quốc của Đảng
họp từ ngày 13 đến 15/08/1945 khẳng định Đảng lãnh đạo toàn dân nổi dậy giành chính quyền trong cả
nước trước khi quân đồng minh kéo vào Đông dương, và khi được tin Nhật đầu hàng thì Đảng ta ra
quân lệnh tổng khởi nghĩa ngay đêm 13/08/1945 và sau hơn 2 tuần lễ cuộc tổng khởi nghĩa giành thắng
Trang 19


lợi, ngày 2/9/1945 chính thức khai sinh ra nước VNDCCH, kết thúc chế độ phong kiến hàng nhìn năm,
sự thống trị gần 80 năm của thực dân, mở đầu kỉ nguyên mới, kỉ nguyên độc lập đi lên CNXH ở nước
ta. Một dẫn chứng khác nữa về tương quan lực lượng cách mạng là sau cách mạng tháng 8/1945, quân
tưởng với danh nghĩa giải giáp quân nhật kéo ồ ạt vào nước ta. Âm mưu đen tối của chúng là “diệt
cộng, cầm Hồ”. Chúng tiến hành đánh phá, cướp bóc nhiều nơi ở nước ta. Bác Hồ của chúng ta lặng lẽ
chia sẻ những đau thương do quân Tưởng và bọn bán nước gây ra. Song, Bác kết luận, phải nhận thức
đúng về ta (biết mìmh); về địch (biết người) nếu đánh Tưởng lúc này khó nói với thế giới vì chúng
mang danh nghĩa quân đồng minh, vả lại quân Tưởng “chúng ăn gạo lứt, đi giày cỏ, luồn rừng lội suối
khơng kém gì bộ đội ta. Điều quan trọng là chúng đang bị hai sức ép lớn là do Đảng cộng sản Trung
Quốc đánh chúng, hai là theo hiệp ước Pháp-Tưởng thì Tưởng sẽ rút tồn bộ qn lực về nước. Nghĩa
là không đánh ta cũng thắng.” Và thực tế đã chứng minh được điều đó: quân Tưởng đã rút về nước
theo đúng nhận định của Bác.
Quyết sách chính trị còn đề ra con đường, biện pháp và những bước đi cụ thể cho từng giai đoạn
cách mạng để từ đó tránh được bệnh hữu khuynh và tả khuynh. Điều này thể hiện rõ nét trong cách

mạng XHCN, Đảng ta đã chủ quan, nóng vội mắc phải nhiều sai lầm về một số vấn đề có tính chiến
lược như mơ hình kinh tế, CNH, hợp tác hố, cải tạo XHCN…, chúng ta đã xác định sai lầm bước đi,
không tập trung phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ mà thiên về xây dựng công nghiệp nặng,
ham làm nhanh, làm nhiều, không tận dụng và phát triển LLSX đã có, cải tạo ồ ạt, nhanh chóng xố bỏ
thành phần KTTN để xác lập một cách phổ biến hình thức sở hữu tập thể và toàn dân đối với TLSX
ngay cả khi LLSX cịn thấp kém…, duy trì q lâu mơ hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã đưa
đến sự trì trệ và khủng hoảng về KT-XH. Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đánh giá thực trạng
tình hình đất nước, thẳng thắn chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, những khó khăn về kinh tế và đời
sống nhân dân. Đảng đề ra đường lối đổi mới đúng đắn, đề ra con đường biện pháp và bước đi thích
hợp, phản ánh đúng quy luật vận động khách quan của lịch sử và thực trạnh tình hình kinh tế của nước
ta, nhờ đó nền kinh tế dần dần ổn định và phát triển.
Thứ hai: Quyết sách chính trị đúng thì chính là xu hướng chính trị tiến bộ, tạo điều kiện cho kinh
tế phát triển nhanh và ngược lại. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, để xây dựng xã hội
mới, xã hội XHCN. Những quyết sách sai lầm tất nhiên sẽ gây ra những phản ứng dây chuyền, nẩy sinh
những hậu quả nghiêm trọng. Quyết sách đúng hay khơng đúng có liên quan đến sự tồn vong, hưng suy
của một đơn vị, thậm chí một sự nghiệp. Quyết sách chính trị của Đảng từ TW đến cơ sở đều trở thành
quyết định của các đoàn thể nhân dân, trở thành cơ sở của các chính sách và pháp luật cùa nhà nước,
tác động trực tiếp đến đời sống của nhân dân và của tồn dân tộc. Vì vậy, mỗi sai lầm nhỏ của quyết
sách chính trị đều có ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của nhân dân và của toàn dân tộc. Xuất phát từ
các cơ sở trên, Lênin đã nhấn mạnh vai trị quan trọng của quyết sách chính trị: “Đảng khơng được
phạm sai lầm về chính trị” và Đảng ta khảng định: “Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết
định thành công của sự nghiệp đổi mới”. Vì vậy, để tìm ra quyết sách hợp lý địi hỏi người lãnh đạo
chính trị có một sự nhìn nhận toàn diện (từ toàn cục đến cục bộ, từ trước mắt đến lâu dài, từ giá trị kinh
tế đến hiệu quả xã hội), tìm ra vấn đề then chốt trong mối quan hệ phức tạp ... và tiến hành luận chứng
chặt chẽ, chi tiết các phương án, nêu ra quyết đốn có hiệu quả và khả thi. Để quyết sách chính trị của
Đảng (đường lối, nghị quyết) biến thành những nhân tố góp phần cải biến hiện thực thì phải đưa nó vào
nhân dân, làm cho quyết sách chính trị có được sức mạnh của nhân tố hoạt động thực tiễn và có tính vật
chất của nhân dân. Có nghĩa là quyết sách chính trị của Đảng phải xuất phát từ thực tiễn và được kiểm
chứng từ thực tiễn sinh động của quần chúng nhân dân, và điều này cho thấy nếu xây dựng mục tiêu sai
thì khơng bao giờ có hành động đúng.

Khi nhận thức đúng đắn vai trị của quyết sách chính trị, thì việc xây dựng cho được quyết sách
chính trị đúng và tổ chức thực hiện quyết sách đó có hiệu quả trong thực tiễn là những nhiệm vụ cơ bản
của một đảng chính trị. Để xây dựng được quyết sách chính trị đúng, các Đảng chính trị cách mạng
phải tuân thủ cơ sở phương pháp luận như sau: Một là, phải dựa trên cơ sở phép biện chứng duy vật.
Vì chỉ có như vậy thì mới giúp chúng ta nhận thức được nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng và quá
trình xã hội một cách đầy đủ và đúng đắn, từ đó mới tạo điều kiện cho các Đảng đưa ra được cương
lĩnh và đường lối chính trị phù hợp. Mặt khác, phép biện chứng duy vật còn giúp ta nhận định rõ ranh
giới giữa tính nguyên tắc với chủ nghĩa giáo điều, bệnh rập khn máy móc; giữa tính linh hoạt cách
mạng với chủ nghĩa cơ hội xét lại. Hai là, để xây dựng được quyết sách chính trị đúng đắn các
Đảng CM phải nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa khách quan và chủ quan. Vi sự phát triển
Trang 20


của xã hợi nói chung cũng như sự phát triển của CNXH nói riêng ln ln thống nhất giữa khách quan
và chủ quan, trong đó khách quan ln là tính thứ nhất, chủ quan là tính thứ hai. Quyết sách chính trị
đúng khơng thể thốt khỏi hiện thực khách quan, thoát ly hiện thực khách quan sẽ rơi vào bệnh giáo
điều duy ý chí. Đới với Đảng ta, nhận thức được hiện thực khách quan đòi hỏi Đảng phải có tri thức, có
tư duy lý luận cách mạng để từ đó nắm vững khoa học của CN Mác-Lê nin, tư tưởng HCM và các khoa
học khác, cách mạng phải gắn liền với khoa học. Ba là, phải nắm vững quan điểm chân lý và cụ thể.
Vì mọi quyết sách chính trị dù ở tầm vĩ mô hay vi mô đều xuất phát từ cụ thể và giải quyết những vấn
đề cụ thể. Thực tiễn là thước đo và kiểm nghiệm chân lý, do vậy quyết sách chính trị đề ra phải xuất
phát từ điều kiện cụ thể và đi vào giải quyết những vấn đề cụ thể. Song cụ thể ở đây là phải tránh rập
khn máy móc, phải phát huy được tính chủ động. Bốn là, phải nắm vững tính biện chứng của sự
phát triển XH là "diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua mâu thuẫn". Đây là một trong những cơ
sở phương pháp luận quan trọng trong việc đề ra quyết sách chính trị. Vì cơ sở phương pháp luận này
chỉ cho chúng ta những mâu thuẫn bên trong của sự vật, hơn thế nó cịn chỉ cho chúng ta đâu là mâu
thuẫn cơ bản để từ đó đề ra quyết sách chính trị phù hợp. Mặt khác cơ sở phương pháp luận này nó con
giúp cho chúng ta xác định bước đi và phương pháp hoạt động cách mạng phù hợp của từng giai đoạn
và cả tiến trình phát triển của cách mạng.
Xây dựng quyết sách chính trị đúng là một việc quan trọng, khó khăn. Nhưng tổ chức thực hiện nó

lại càng quan trọng và khó khăn hơn. Do vậy, Đảng chính trị cần thực hiện tớt các u cầu sau: Một là,
trong q trình tổ chức thực hiện quyết sách chính trị Đảng cần ln thống nhất và thực hiện phương
châm: "lời nói đi đơi với việc làm, kiên quyết tránh chủ nghĩa hình thức, phô trương lý thuyết suông".
Hai là, Đảng luôn luôn kết hợp chặt chẽ giữa việc kiên trì thực hiện mục tiêu với việc linh hoạt sử dụng
các biện pháp, loại trừ chủ nghĩa giáo điều máy móc và hết sức khắc phục tư tưởng nơn nóng, dao động
trước những biến cố của lịch sử. Ba là, Đảng luôn chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ là nhịp cầu nối
giữa quyết sách chính trị với nhân dân, phải là tấm gương cho nhân dân noi theo. Bốn là, để tổ chức
thực hiện quyết sách chính trị Đảng ln coi trọng việc tổng kết đúc rút kinh nghiệm để từ đó góp phần
cho việc xây dựng quyết sách chính trị tiếp theo.Năm là, quyết sách chính trị của Đảng chỉ trở thành
sức mạnh của quần chúng một khi quyết sách đó được thể chế hóa thành qui định, chính sách của Nhà
nước để buộc mọi công dân phải chấp hành.
Việc vận dụng lý luận vế quyết sách chính trị ở nước ta trong tiến trình cách mạng Việt Nam, nhất là
trong công cuộc xây dựng CNXH sau khi đã giành được trọn vẹn chính quyền cho thấy: Ngay từ khi ra
đời đến nay Đảng ta luôn lấy CN Mác-Lê nin làm kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của
Đảng, nhờ vậy mà trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng CSVN ln đề ra được quyết sách chính
trị đúng đắn, hơn nữa Đảng ta đã biến được sức mạnh quyết sách chính trị của Đảng thành sức mạnh
của triệu triệu quần chúng và đạt được những thắng lợi vẽ vang, hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Tuy nhiên, trong tiến trình xây dựng CNXH ở nước ta, cũng có lúc Đảng
ta mắc phải những sai lầm trong việc xây dựng các chủ trương, đường lối, chính sách. Qua thực tiễn
cách mạng ở nước ta 10 năm đầu sau khi thống nhất đất nước, cả nước quá độ đi lên CNXH, chúng ta
cũng đã có những sai lầm trong việc đề ra các đường lối, chính sách chính trị thời kỳ này. Việc đề ra
quyết sách chính trị thời kỳ này khơng bám sát những nguyên tắc khách quan của CN Mác-Lênin, tư
tưởng HCM và thực trạng của đất nước nên từ Đại hội lần IV và lần V, những chính sách, đường lối mà
Đảng đề ra có những khiếm khuyết, những sai lầm. Trước hết đó là những sai lầm trong việc giải quyết
mối quan hệ giữa LLSX và QHSX. Đánh giá những sai lầm, khuyết điểm về đường lối kinh tế giai
đoạn trước đổi mới, Đảng đã chỉ rõ đó là “chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp
giữa quan hệ SX với tính chất và trình độ của LLSX”. Hơn nữa, cả một thời gian dài, chúng ta đã hành
động trái quy luật khi cho rằng mâu thuẫn nổi lên ở đầu thời kỳ quá độ là mâu thuẫn giữa chế độ chính
trị tiên tiến với QHSX lạc hậu, do đó phải đẩy mạnh cải tạo QHSX (mà trong đó chủ yếu là cải tạo xóa
bỏ các thành phần kinh tế phi XHCN), làm cho QHSX phù hợp với chế độ chính trị tiên tiến. Từ đó nảy

sinh ra mâu thuẩn chủ yếu giữa QHSX với LLSX, nhiệm vụ cơng nghiệp hóa được đẩy lên một cách
duy ý chí trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết. Bên cạnh đó, do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời
kỳ quá độ lên CNXH là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trãi qua nhiều chặng đường và do tư
tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên các đường lối, chủ trương
của Đảng đưa ra trong giai đoạn này chưa xác định những mục tiêu của chặng đường đầu tiên, những
bước đi thích hợp đồng thời chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp đã lỗi
thời... Từ những sai lầm về đường lối chỉ đạo này, dẫn đến nền kinh tế chậm phát triển, xã hội rơi vào
Trang 21


khủng hoảng.
Song, Đảng đã sớm nhận thức và rút kinh nghiệm từ những sai lầm trên, đồng thời trên cơ sở kiên
định đi theo con đường xây dựng CNXH, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống KT-XH tại ĐH Đảng lần VI. Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng CSVN đã
đề ra được và từng bước bổ sung phát triển, hoàn thiện dần đường lối đổi mới, hình thành ngày càng rõ
hơn con đường đi lên CNXH ở VN. Tiếp theo những đổi mới bộ phận, đổi mới từng bước, đến ĐH lần
VII Đảng ta đề ra cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và các ĐH sau đó của
Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển đến nay đã hình thành một hệ thống các quan điểm chỉ đạo sự nghiệp
đổi mới ở Việt Nam. Đây là kết quả của cả một q trình tìm tịi, đổi mới tư duy lý luận, tổng kết thực
tiễn, mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ của tồn Đảng, tồn dân, nắm bắt được những vấn đề nảy sinh từ
cuộc sống trong khi kiên định mục tiêu, lý tưởng, kiên định những vấn đề có tính ngun tắc. Đường
lối phát triển KT-XH mà Đảng đã đề ra trong cương lĩnh xây dựng đất nước cũng là sự thể hiện lập
trường quan điểm giai cấp, xuất phát từ thực tế khách quan, đứng trên quan điểm của CN Mác-Lênin và
tư tưởng HCM để giải quyết những mâu thuẫn và thách thức từ thực tế đặt ra. VKĐH toàn quốc lần thứ
IX đã khẳng định đường lối kinh tế của Đảng ta là “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng
nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển LLSX, đồng
thời xây dựng QHSX phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ
nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững;
tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thấn của
nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh

tế-xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh”, “Phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN” là một chủ
trương nhất quán của Đảng ta trong suốt thời kỳ quá độ. Chủ trương, đường lối kinh tế này là hợp lý,
phù hợp với quy luật khách quan, cho phép giải phóng được tối đa mọi năng lực sản xuất vì vậy trên
thực tế nó đã tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của KT-XH, tạo được một nền
kinh tế phát triển năng động, giàu sức sống và hiệu quả cao. Bên cạnh đó, Đảng ln có ý thức đổi mới
sáng tạo, dám từ bỏ những cái cũ khơng cịn thích hợp, cả trên lĩnh vực kinh tế cũng như trên lĩnh vực
văn hóa-xã hội, cả đối nội và đối ngoại, giải quyết tốt mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, quốc gia
và quốc tế, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, đồn kết quốc tế, tập trung sức cho cơng cuộc xây dựng
và bảo vệ đất nước. Nói cách khác, Đảng CSVN kiên trì nắm vững nguyên tắc và phương pháp biện
chứng duy vật, không phiến diện, cực đoan hoặc giản đơn từ cực này nhảy sang cực kia.
Từ những đường lối chính trị đúng đắn đó, thơng qua việc thể chế hóa đường lối bằng những chủ
trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các tổ chức chính chính trị xã hợi, việc thực hiện đường
lối chính trị của Đảng thời gian qua đã được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân nhờ tính đúng đắn của
đường lối, phản ánh được xu thế vận động của lịch sử, đồng thời phù hợp với nguyện vọng và lợi ích
chân chính của đa số nhân dân. Chính đường lối cách mạng của Đảng có vai trị to lớn trong việc thống
nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, củng cố niềm tin vào Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi những khuynh
hướng sai lầm về chính trị và tư tưởng làm cho Đảng ngày càng vững mạnh.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay để có được quyết sách chính trị đúng đắn phù hợp với điều kiện
đất nước và xu thế thời đại địi hỏi Đảng ta nói chung và các nhân tố trong hệ thống chính trị nói riêng
phải quán triệt sâu sắc yêu cầu, nội dung cơ sở phương pháp luận về quyết sách chính trị để đề ra
đường lối NQ, chủ trương đúng đắn phù hợp để đưa đất nước không ngừng phát triển theo con đường
mà Đảng và Bác Hồ lựa chọn là con đường xây dựng chủ nghĩa XH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam XHCN./.
Câu 6: Từ lý luận về văn hóa chính trị, đồng chí hãy phân tích những giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao phẩm chất, năng lực của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay?
Bài làm:
Nếu văn hóa là phương thức nhân hóa con người thì văn hóa chính trị là phương thức cơ bản và trực
tiếp nhân đạo, văn minh hóa và thẩm mỹ hóa hoạt động thực tiển của chủ thể chính trị. Trong đời sống
chính trị hiện đại, văn hóa chính trị là một nhân tố hết sức quan trọng góp phần thúc đẩy hoạt động

chính trị của mọi cơng dân. Vì vậy, việc tìm hiểu về văn hóa chính trị là cần thiết, tất yếu để nâng cao
trình độ chính trị, chất lượng hoạt động chính trị của các chủ thể chính trị.
Trước hết, “chính trị” là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia, các lực lượng xã
hội trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, mà tập trung ở quyền lực nhà nước.. Còn “Văn
Trang 22


hóa”, là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong triến trình lịch sử vì
lẽ sinh tồn và sự hoàn thiện con người. Vậy, văn hóa chính trị là gì ? Theo quan điểm Mácxít cho thấy
rằng: “Văn hóa chính trị là chất lượng tổng hợp của tri thức và kinh nghiệm hoạt động chính trị, là tình
cảm và niềm tin chính trị của mỗi cá nhân tạo thành ý thức chính trị của mỗi cơng dân, thúc đẩy họ tới
những hành động tích cực, phù hợp với lý tưởng chính trị xã hợi”. Nếu xem xét văn hóa chính trị từ góc
độ rộng hơn của khoa học chính trị thì “Văn hóa chính trị là một phương diện văn hóa trong xã hội có
giai cấp, nói lên tri thức, năng lực sáng tạo trong hoạt động chính trị hiện thực cùng những thiết chế
chính trị tiến bộ được lập ra để thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của nhân dân phù hợp
với sự phát triển của lịch sử. Văn hóa chính trị nói lên phẩm chất và hình thức hoạt động chính trị của
con người cùng những thiết chế chính trị mà họ lập ra để thực hiện lợi ích giai cấp cơ bản của chủ thể
tương ứng”.
Cấu trúc của văn hóa chính trị là tổng thể các thành tố và các mối quan hệ giữa các thành tố ấy tạo
thành một chỉnh thể biểu hiện sự tồn tại hay một cơ chế tác động của hệ giá trị ấy đến đời sống chính trị
xã hội. Các thành tố của văn hóa chính trị bao gồm: Trí thức chính trị, đây là nền tảng của văn hóa
chính trị, là sự hiểu biết của con người về chính trị. Niềm tin và tình cảm chính trị, chính là sức mạnh
của văn hóa chính trị, tri thức chính trị qua niềm tin, tình cảm sẽ được “vật chất hóa” trong hành động
con người. Các truyền thống chính trị, đây được xem là bản sắc của văn hóa chính trị, đó là sự kế thừa
và phát triển những giá trị truyền thống phù hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể. Những lý tưởng cao đẹp
mà con người phấn đấu tới trong chính trị, những ý tưởng đó vừa đóng vai trò là động lực kích thích
hoạt động chính trị, vừa đóng vai trò là xung lực nội tại để hoàn thiện tư chất của chủ thể chính trị.
Những phương tiện chính trị, những chuẩn mực, những phương thức tổ chức và hoạt động của quyền
lực chính trị được sử dụng để đạt tới mục tiêu chính trị. Hệ tư tưởng chính trị, nó đóng vai trò hạt nhân
của văn hóa chính trị, quy định tính chất, nội dung, khuynh hướng phát triển và tích cực của văn hóa

chính trị. Ngoài ra còn nhiều yếu tố khác tham gia vào sự hình thành văn hóa chính trị, đóng góp vào
cấu trúc của văn hóa chính trị (như bầu không khí tâm lý, đạo đức, tôn giáo …).
Song, văn hóa chính trị bao giờ cũng mang tính giai cấp; phản ảnh quan hệ quyền lực chính trị; vừa
mang tính lịch sử lại vừa mang tính kế thừa; là sự tổng hòa tất cả các hình thái văn hóa cơ bản của xã
hội. In đó đặc trưng cơ bản nổi bật là văn hóa chính trị luôn luôn được đo bằng lập trường, quan điểm
và lòng trung thành với lý tưởng chính trị, tính trung thực và khiêm nhường, kiên quyết, khéo léo, mưu
lược, lòng nhân ái và vị tha; hướng về nhân dân và phục vụ nhân dân một cách có hiệu quả … Với
những đặc trưng đó kàm rõ bản chất của văn hóa chính trị.
Văn hóa chính trị với tư cách là sản phẩm của hoạt động thực tiển chính trị của các chủ thể, định
hướng của nó là những giá trị, những mục tiêu chính trị nhất định cho hoạt động của từng cá nhân, từng
giai cấp hoặc nhân dân nói chung. Văn hóa chính trị góp phần quan trọng trong việc điều chỉnh, nâng
cao chất lượng chính trị của các chủ thể, nâng cao hiệu quả vận hành của hệ thống chính trị. Đó chính
là những chức năng cơ bản của văn hóa chính trị. Tuy nhiên, tiêu chí cao nhất để xác nhận bản chất
nhân văn của bất kỳ hoạt động chính trị cụ thể nào chính là khả năng giải phóng con người với mọi góc
cạnh và mọi cấp độ.
Từ những trình bày trên cho thấy con đường hình thành và phát triển văn hóa chính trị trong xã hợi
nhất định là sự hồn thiện chế độ xã hợi cùng các tổ chức thiết chế chính trị và việc nâng cao năng lực
chính trị của xã hợi. Việc kế thừa và phát triển những giá trị vật chất, giá trị tinh thần do hoạt động
chính trị sáng tạo ra của nhân loại, của dân tộc là yêu cầu tất yếu trong quá trình phát triển văn hóa
chính trị ở nước ta hiện nay.
Nền văn hóa chính trị Việt Nam là một nền Văn hóa chính trị gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ
nước lâu dài đã tạo lập nên được nhiều truyền thống q báu, đến hơm nay vẫn đang tiếp tục phát huy
tác dụng to lớn trong những hình thức và biểu hiện mới. Những giá trị tiêu biểu của truyền thống văn
hóa chính trị Việt Nam bao gồm:
Thứ nhất, nền văn hóa chính trị VN đề cao tinh thần yêu nước, độc lập dân tộc và chủ quyền quốc
gia; chủ nghĩa yêu nước là kết tinh những giá trị tiêu biểu nhất của Văn hóa chính trị VN. Khắc phục
thiên tai và chống giặc ngoại xâm là hai đặc điểm truyền thống tạo nên tính cố kết cộng đồng trong đời
sống của con người VN. Chính trong quá trình dựng nước và giữ nước, trí tuệ, nhân cách và sức mạnh
sáng tạo của dân tộc VN được kết tinh. Tình cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm và tư tưởng lớn
nhất, bao trùm nhất của nhân dân, của dân tộc VN. Giáo sư Trần Văn Giàu viết: “Chủ nghĩa yêu nước

là sợi chỉ đỏ xuyên qua lịch sử VN biểu lộ rõ ràng, đầy đủ, tập trung hơn bất cứ chỗ nào khác. Yêu
Trang 23


nước thành một triết lý xã hội và nhân sinh của người VN và, nếu dùng từ “đạo” với nguyên nghĩa của
nó là “đường”, là hướng đi, thì chủ nghĩa yêu nước đích thực là đạo của VN”. Chủ nghĩa yêu nước VN
thể hiện qua một số nội dung cơ bản sau: Yêu quê hương xứ sở làng sớm, gắn bó kết cấu cộng đồng, có
lịch sử và văn hóa chung, ý thức dân tộc và tự hào dân tộc; ý thức sâu sắc về độc lập dân tộc, toàn vẹn
lãnh thổ và chủ quyền quốc gia, hướng về dân và lấy dân làm gốc.
Thứ hai, CN Mác-Lênin và tư tưởng HCM là bộ phận cốt lõi nhất trong Văn hóa chính trị VN hiện
nay. Đảng ta lấy CN Mác-Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng cho mọi hoạt động của mình.
CN Mác-Lênin và tư tưởng HCM ln vì con người và mang những giá trị nhân văn, luôn hướng mọi
hoạt động của con người đi đến chân, thịện, mỹ; chính vì thế mà đây là một bộ phận cốt lõi nhất trong
Văn hóa chính trị VN hiện nay. Từ khi Đảng ta được thành lập cho đến nay giá trị nhân văn của CN
Mác-Lênin và tư tưởng HCM là một trong những mục tiêu mà Đảng ta cần đạt tới, đó là vì con người,
đem lại tự do hạnh phúc cho con người.
Thứ ba, những chuẩn mực mang giá trị nhân văn trong hoạt động chính trị thực tiễn của VN. Văn
hóa chính trị Việt Nam luôn kế thừa và phát triển những chuẩn mực mang giá trị nhân văn, truyền
thống tốt đẹp trong hoạt động chính trị của nước ta qua các thời kỳ từ khi dựng nước đến nay, đó là:
Lấy nhân nghĩa để cứu nước, cứu dân; Truyền thống tư tưởng thân dân, khoan dân, yêu dân, dựa vào
dân là điều kiện sống cịn của nhà nước; Giàu tình khoan dung, đề cao và tôn trọng hiền tài trong việc
trị nước và Độc lập dân tộc, non sông đổi mới trong một thế giới hồ bình. Những giá trị này hiện nay
vẫn cịn phù hợp với nhân loại và là một xu thế tất yếu của các dân tộc tiến bộ trên thế giới.
Hiện nay đất nước ta đã hịa bình thống nhất, tiến hành hiện đại hoá đất nước, mọi đượng lối, chủ
trương của Đảng điều do dân và vì dân, phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hợi,
khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng, bên cạnh đó có những chính sách cụ thể nhằm giúp hộ
nghèo vươn lên thốt nghèo. Đó là những giá trị nhân văn mà Đảng ta đã kế thừa và phát huy trong giai
đoạn hiện nay.
Thứ tư, tiếp thu phê phán, chọn lọc những giá trị Văn hóa chính trị của nhân loại để bảo tồn và phát
triển văn hóa chính trị VN.

Tóm lại, ngày nay trong sự nghiệp đổi mới nhằm đưa đất nước đi lên theo hướng CNH-HĐH đất
nước, nhiệm vụ của các chủ thể chính trị hiện đại, mà trên hết là các chủ thể lãnh đạo vừa phải biết kế
thừa các giá trị tốt đẹp của dân tộc và nhân loại, mặt khác phải tìm cách hạn chế và khắc phục những
ảnh hưởng tiêu cực để góp phần tạo nên một mơi trường văn hóa chính trị VN tiên tiến, hiện đại, thúc
đẩy quá trình phát triển đất nước trên con đường CNH, HĐH. Cụ thể, nhiệm vụ của văn hóa chính trị
hiện đại ở VN là văn hóa chính trị được xây dựng trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, trong đó Đảng cộng sản VN là hạt nhân lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối các lĩnh
vực đời sống xã hội, biết kế thừa và phát huy một cách hợp lý những cái hay cái đẹp trong truyền
thống, đồng thời tiếp thu những cái hay cái đẹp của văn hóa chính trị hiện đại (kể cả của nước ngồi).
Thực trạng phát huy văn hóa chính trị ở nước ta: Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng với
mục tiêu định hướng XHCN là “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh” dựa trên
sức mạnh của văn hóa truyền thống, của văn minh nhân loại mà đỉnh cao là CN Mác-Lênin và tư tưởng
HCM đã kết tinh được một cách nhuần nhuyễn tinh hoa văn hóa thế giới; lý luận cách mạng và khoa
học của CN Mác-Lênin với nền văn hóa truyền thống của dân tộc và sự nghiệp cách mạng của nước ta
từ những năm 30 đến nay và sau này - đó là sức mạnh Văn hóa chính trị VN.
Trong nhiều năm qua, văn hóa chính trị ở nước ta đã xác lập được những giá trị căn bản làm nền
tảng, là tiền đề văn hóa và là động lực mạnh mẽ của công cuộc đổi mới. Dân tộc Việt Nam rất nhạy
cảm về chính trị và nhiệt tình tham gia vào công việc nhà nước. Trong thực tiễn những ưu điểm trong
việc hình thành giáo dục nâng cao văn hố - chính trị cho nhân dân được thể hiện qua một số kết quả cụ
thể trong phạm vi cả nước, cũng như từng địa phương, như báo cáo của Ban chấp hành trung ương
Đảng đã đánh giá là dân chủ được phát huy, lòng tin của nhân dân đối với chế độ và tiền đề của đất
nước, với Đảng và với nhà nước được khẳng định, trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hoá của nhân
dân khá hơn trước. Những thành tựu văn hóa chính trị có thể kể như: Đã có bước tiến quan trọng trong
phát triển tư duy lý luận, có bước tiến quan trọng trên con đường hiện thực hóa quyền lực chính trị của
nhân dân, đã có một đội ngũ cán bộ có trình độ văn hóa chính trị ngày một cao.
Mặc dù vậy, văn hóa chính trị nước ta đang đứng trước những vấn đề bức xúc phải giải quyết,
những khó khăn trong công tác giáo dục đào tạo, việc nâng cao mặt băng dân trí, nhất là ở vùng sâu,
Trang 24



vùng xa, miền núi cịn nhiều chênh lệch với đơ thị, những hoạt động văn hố khơng lành mạnh và các
tệ nạn xã hội, lối sống buông thả, thực dụng trong một số thanh thiếu niên vẫn phát triển … kỷ cương
kỷ luật, trật tự xã hội còn nhiều chỗ chưa tốt. Một số hạn chế bao gồm:
Một là, sự bất cập về tri thức chính trị. Nhiều vấn đề thực tiễn bức xúc chưa được lý giải về lý luận
và chưa kịp thời đúc rút kinh nghiệm. Hệ thống chính sách pháp luật cịn chồng chéo, chưa hồn chỉnh,
hoạt động pháp chế còn nhiều hạn chế (tùy tiện trong hành pháp, sai sót trong tư pháp...), thể chế chính
trị chưa hồn thiện, định chế của hệ thống chính trị chưa cụ thể, thiết chế tổ chức còn cồng kềnh, kém
hiệu lực ... Một bộ phận cán bộ, nhân dân cịn hạn chế trong tranh luận chính trị, những sinh hoạt chính
trị đóng góp xây dựng đảng, xây dựng chủ trương đường lối của Đảng, của nhà nước với khẩu hiệu
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” vẫn còn hình thức. Môt bộ phận cán bộ, nhân dân cịn xem
nhẹ định hướng chính trị trong các hoạt động kinh tế, bên cạnh đó là vấn đề đẳng cấp văn hố-chính trị
vẫn cịn chưa có sự bình đẳng trong chính trị.
Hai là, nguy cơ xói mịn các giá trị truyền thống. Một số giá trị có nguy cơ mai một dần, các giá trị
mới được xác lập chưa thật sự vững chắc, chưa mang tín h xã hội phổ biến. Mặt trái của tính tự trị và
tính cộng đồng làng xã dẫn đến hàng loạt các căn bệnh tâm lý - xã hội vẫn còn tồn tại và ảnh hưởng đến
quá trình phát triển đất nước hiện nay như: Bệnh làm ăn theo kiểu sản xuất nhỏ, bệnh gia đình chủ
nghĩa, bệnh xuề xịa đại khái, bệnh “phép vua thua lệ làng”, tác phong làm việc chậm chạp ... Một số
cán bộ có phong thái làm việc theo kiểu “quan cách mạng”, khơng ít tệ nạn và hành vi phản văn hóa
nảy sinh trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở cấp cao và lan ra trong xã hội.
Từ việc phân tích về thực trạng tình hình Văn hóa chính trị cho thấy việc hình thành và giáo dục Văn
hóa chính trị ở nước ta hiện nay đang là vấn đề thực tiễn cấp bách. Nó tập trung vào một số nhiệm vụ
cơ bản như: Trao dồi thế giới quan khoa học và lập trường chính trị, giữ vững nguyên tắc tập trung dân
chủ trong sinh hoạt chính trị, trong đời sống tinh thần, trong Đảng và xã hội, phát huy vai trò gương
mẫu và phẩm chất đạo đức của cán bộ đảng viên cũng như tính tiên phong trong hành động để nêu
gương thuyết phục quần chúng, tăng cường giáo dục tuyên truyền về lịch sử dân tộc, văn hóa dân tộc và
truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc Việt Nam và nhất là thực hiện có hiệu quả cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM”.
Từ những mục tiêu trên, để nâng cao trình độ văn hóa chính trị của nhân dân, mỗi địa phương tùy
theo đặc điểm và tình hình dân trí, đời sống chính trị của địa phương mình mà đề ra những giải pháp cụ
thể để nâng cao trình độ văn hóa chính trị cho cán bộ và quần chúng ở cơ quan, đơn vị dựa trên một số

phương hướng cơ bản như sau:
Thứ nhất: Phải nâng cao trình độ học vấn, trình độ văn hóa nói chung cho nhân dân, bởi lẽ trình độ
học vấn, trình độ văn hóa chính là cơ sở của Văn hóa chính trị. Việc nâng cao trình độ Văn hóa chính trị
cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tại các địa phương, đơn vị trước nhất phải được xem là
nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng trên 3 mặt (chính trị, tư tưởng và tổ chức), mà cụ
thể là tiếp thu quán triệt và tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII về một số
vấn đề cấp bách trong cơng tác xây dựng Đảng hiện nay, đặc biệt là về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống của cán bộ, đảng viên; và thực hiện tốt Nghị quyết TW 5, khóa VIII về xây dựng và phát triển nền
văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Xây dựng gia đình văn hóa trong thời kỳ CNH, HĐH cũng là một giải pháp rất quan trọng để phát
huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, làm cho những giá trị đó khơng chỉ thuộc về q khứ mà cịn trở
thành nhân tố trực tiếp xây dựng gia đình văn hóa mới.
Thứ hai: Phải đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị để góp phần hình thành thế
giới quan khoa học và niềm tin trong nhân dân, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên, trí thức, văn nghệ
sỹ, thanh niên, sinh viên ở các trường đại học và cao đẳng… Yêu cầu trong đổi mới cần chú ý những
nội dung sau: Coi trọng giáo dục tính cách mạng và khoa học của CN Mác Lênin, giáo dục phải phù
hợp với từng loại hình cụ thể, giáo dục trên cơ sở sáng tạo, khắc phục giáo điều trong thực tiễn, khuyến
khích tìm tịi trên một số định hướng đúng, trong quá trình học tập lý luận chính trị, học tập nghị quyết
thì cần phải khuyến khích tìm tịi và dân chủ trong tranh luận, phải đầu tư cho các mặt giáo dục lý luận
chính trị (Phương tiện, tài liệu, giáo viên, báo cáo viên, tài liệu học tập, giảng dạy, trường lớp…)
Thứ ba: Phải sử dụng tối đa các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền trong đông đảo
quần chúng nhân dân những nhận thức mới mẻ về CNXH, những triển vọng và thành tựu trong công
cuộc đổi mới đất nước, những thành tựu về kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật của nhân loại, gương
Trang 25


×