Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Nghiên cứu, biên soạn và xuất bản lịch sử nghệ an từ nguyên thủy đến năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.02 KB, 74 trang )

PHẦN I:

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của dự án:
Nghệ An là một tỉnh có diện tích rộng lớn, dân số đông, chiếm giữ một vị
trí quan trọng trong bức tranh tổng thể của đất nước. Đây là vùng đất có lịch sử
lâu đời và rất vẻ vang. Nghệ An không chỉ là địa phương có truyền thống yêu
nước và cách mạng rất đỗi tự hào mà còn nổi tiếng cả nước là vùng đất hiếu
học, là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Trải qua bao thời đại,
nhân dân Nghệ An đã đóng góp phần công sức xứng đáng của mình cho sự
nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Chúng ta thấy, đến nay đã có
nhiều tỉnh thành của nước ta đã hoàn thành việc nghiên cứu, biên soạn và xuất
bản bộ thông sử của địa phương mình (như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh,
Hải Phòng, Thanh Hóa, Hà Tĩnh...). Tuy nhiên cho đến nay, Nghệ An vẫn chưa
có bộ thông sử, hay nói đúng hơn là bộ Lịch sử Nghệ An đúng nghĩa của nó.
Bởi thế việc nghiên cứu, biên soạn và xuất bản bộ Lịch sử Nghệ An trở nên hết
sức cần thiết.
Cho dù các công trình nghiên cứu như: Lịch sử Nghệ Tĩnh, tập 1, xuất bản
năm 1984; Nghệ Tĩnh hôm qua và hôm nay, xuất bản năm 1986; Lịch sử Đảng
bộ Nghệ An, gồm 3 tập, xuất bản vào các năm 1998, 1999, 2008… được biên
soạn khá công phu và nghiêm túc. Nhưng do lớp bụi thời gian, sự hạn chế về
mặt tư liệu, và bởi nhiều lý do khách quan khác mà các công trình nêu trên vẫn
còn một số hạn chế. Đến nay, trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu
của những người đi trước, sự bổ sung về nguồn tư liệu, sự cập nhật các kết quả
nghiên cứu mới…, chúng ta có thể khắc phục được cho việc nghiên cứu, biên
soạn và xuất bản lịch sử tỉnh nhà. Mặt khác, cũng đã đến lúc nhu cầu của xã hội,
nhu cầu giáo dục, tìm hiểu và nghiên cứu của tuyệt đại đa số nhân dân về bộ
thông sử Nghệ An được đặt ra hết sức khách quan.

1




Xét về mặt cơ sở pháp lý, UBND tỉnh Nghệ An đã phê duyệt Đề án
“Nghiên cứu khoa học xã hội, tổng kết thực tiễn, xây dựng luận cứ khoa học
cho các chủ trương, chính sách của cấp ủy và chính quyền nhằm đẩy mạnh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Nghệ An giai đoạn 2008 - 2010 và đến
năm 2020” vào ngày 26/3/2008. Trong Đề án này, khi đề cập đến các công
trình Khoa học Xã hội và Nhân văn ưu tiên, Tỉnh xác định công trình nghiên
cứu, biên soạn và xuất bản lịch sử Nghệ An (thông sử) là nhiệm vụ trọng tâm.
Do đó, việc tiến hành nghiên cứu, biên soạn và xuất bản Lịch sử Nghệ An lúc
này chính là triển khai thực hiện Đề án trên.
Thực tế lịch sử cho thấy, từ ngày có Đảng lãnh đạo, lịch sử dân tộc cũng
như lịch sử Nghệ An đã đạt được những bước tiến dài. Thiết nghĩ, dưới sự quan
tâm chỉ đạo của cấp bộ Đảng và chính quyền, sự nghiên cứu công phu, nghiêm
túc, khách quan của các nhà khoa học thì nhất định chúng ta sẽ có được bộ Lịch
sử Nghệ An với chất lượng tốt, và nó thực sự là công trình có giá trị.
Thực hiện dự án này, trước hết đặt ra cho chúng tôi với tư cách là những
người nghiên cứu là sẽ phải tiến hành sưu tầm, xử lý, thẩm định một số tư liệu.
Cập nhật các kết quả nghiên cứu mới nhất có liên quan tới lịch sử Nghệ An.
Trên cơ sở đó để chỉnh lý, đính chính một số tư liệu và những kết quả trong các
công trình hiện hành đã trở nên lạc hậu.
Chúng tôi cũng thấy được rằng lập trường, quan điểm đánh giá, nhận xét
của các sử gia thời phong kiến và thực dân có nhiều mặt hạn chế. Trên một
phương diện nào đó, trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định đã trải qua, theo
chúng tôi nền sử học Việt Nam hiện đại, đã phần nào thiên về tính Đảng và tính
chính trị. Do đó, nghiên cứu dự án này, chúng tôi sẽ cố gắng khắc phục những
mặt còn hạn chế trên để phản ánh lịch sử như nó đã từng diễn ra.

2



Nghiên cứu dự án này còn góp phần vào việc hoạch định các chính sách của
Nghệ An trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2. Mục tiêu của dự án:
- Phục dựng lại một cách khách quan, có hệ thống và toàn diện về quá trình hình
thành và phát triển của tỉnh Nghệ An từ nguyên thuỷ đến năm 2005.
- Từ việc nghiên cứu dự án, sẽ rút ra những bài học kinh nghiệm về phát triển
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, xây dựng an ninh - quốc phòng tỉnh nhà.
- Dự án không chỉ làm sáng rõ, lưu giữ, bảo tồn mà còn góp phần đẩy mạnh việc
tuyên truyền, giáo dục và phát huy các giá trị lịch sử của cộng đồng cư dân
Nghệ An.
- Cung cấp nguồn tư liệu phong phú, có giá trị khoa học cho việc tra cứu, tìm hiểu
về lịch sử - văn hóa Nghệ An.
3. Cách tiếp cận dự án:
Từ trước đến nay, do hoàn cảnh lịch sử chi phối hoặc bởi những lý do
khác nhau, khi nghiên cứu lịch sử người ta thường chú ý nhiều hơn tới lịch sử
chống ngoại xâm, lịch sử chính trị. Ngày nay, trên quan điểm toàn diện, thực
hiện công trình này chúng tôi sẽ đồng thời còn chú ý tới sự phát triển kinh tế,
những thành tựu văn hoá…
Chúng tôi cũng cho rằng đối với việc nghiên cứu lịch sử dân tộc cũng như
lịch sử Nghệ An trước đây chủ yếu tập trung vào cộng đồng cư dân đa số
(người Kinh). Để khắc phục hạn chế trên, chúng tôi sẽ tiếp cận lịch sử xây
dựng vào bảo vệ quê hương, đất nước của cả cộng đồng cư dân Nghệ An (bao
gồm cả người Kinh và các dân tộc thiểu số).
Dĩ nhiên, lịch sử diễn tiến với những nét thăng trầm. Ngoài việc làm sáng
rõ những mặt ưu điểm, tích cực, trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học và

3



khách quan, chúng tôi cũng sẽ cố gắng chỉ ra những mặt còn tồn tại, hạn chế
với tinh thần nói rõ sự thật, nói đúng sự thật như lịch sử đã từng diễn ra.
Đặt lịch sử Nghệ An trong mối quan hệ mật thiết với lịch sử dân tộc, với Hà
Tĩnh.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp sử học
Mácxit, Tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở phương pháp luận để chúng tôi tiến
hành nghiên cứu.
Phương pháp kế thừa: Trên cơ sở thu thập, tổng hợp, phân tích, đánh giá
các tài liệu, kết quả của các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp hoặc
gián tiếp về lịch sử Nghệ An, chúng tôi kế thừa có chọn lọc, đồng thời bổ sung,
so sánh cho kết quả nghiên cứu của công trình này.
Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này nhằm tranh thủ kiến thức và kỹ
năng nghiên cứu của các chuyên gia, các nhà chuyên nghiên cứu về Nghệ An.
Việc tranh thủ kinh nghiệm và tri thức của các chuyên gia là phương pháp
tiếp cận hàng đầu để thực hiện đề tài có kết quả. Nhóm thực hiện dự án sẽ tiến
hành mời các chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu trong
KHXH & NV, nhất là khoa học lịch sử tham gia đề tài. Các chuyên gia phối
hợp thực hiện đề tài là những nhà nghiên cứu đầu ngành của ngành sử học cả
nước đến từ Hội khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Sử học Việt Nam, Viện
Khảo cổ học, Viện Dân tộc học, Viện Hán Nôm, Viện Lịch sử Đảng, Viện Lịch
sử quân sự Việt Nam, khoa Lịch sử của Trường Đại học Sư phạm Hà Nôi, Đại
học KHXH&NV Hà Nội… Các chuyên gia sẽ đóng vai trò cố vấn khoa học,
cung cấp tư liệu, phối hợp xây dựng đề cương, tham gia hội thảo và thẩm định
tính chính xác của công trình nghiên cứu.

4


Phương pháp thu thập tài liệu, thống kê và phân tích nhằm tiếp cận một số

vấn đề về nghiên cứu lịch sử, văn hóa địa phương của Nghệ An và các tỉnh,
thành có liên quan. Trong quá trình thực hiện dự án, việc tiến hành điều tra
điền dã là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó, việc thu thập những nguồn tài liệu có
liên quan đến nội dung của dự án từ các nơi trên cả nước như Trung tâm lưu trữ
Quốc gia I, II, III; Thư viện Quốc gia, Thư viện Viện Hán Nôm, Thư viện Viện
Sử học, Thư viện Viện Lịch sử Đảng, Thư viện Viện Lịch sử quân sự, các trung
tâm nghiên cứu, các bảo tàng ở Trung ương và địa phương… Đồng thời không
thể không chú ý tới các nguồn tư liệu tại kho lưu trữ Tỉnh ủy và UBND tỉnh
Nghệ An, các huyện, thị, thành trên địa bàn Nghệ An… sẽ cung cấp nguồn tư
liệu để thực hiện dự án.
Ban Biên soạn cũng đã tổ chức đi sưu tầm tài liệu số liệu ở Cộng hoà Pháp
và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa nhằm góp phần bổ sung tư liệu mới nhằm
minh định một số sự kiện trong lịch sử tỉnh nhà giai đoạn này.
Trên cơ sở những nguồn tư liệu thu thập được, việc thống kê, phân tích và
xử lý nguồn tư liệu một cách chính xác, đảm bảo tính khách quan và khoa học
sẽ là khâu then chốt đảm bảo chất lượng của công trình nghiên cứu.
Phương pháp hội thảo: Thu thập những ý kiến đóng góp về nội dung, hình
thức, cách tiếp cận của công trình nghiên cứu.
Đây là công trình nghiên cứu đồ sộ nên việc chia tách nội dung của công
trình thành nhiều chuyên đề khác nhau và tiến hành hội thảo, thảo luận để nhìn
nhận vấn đề dưới nhiều góc độ, quan điểm khác nhau nhằm tiếp cận vấn đề một
cách gần nhất như lịch sử đã từng diễn ra là một việc làm hết sức cần thiết.
Điều đó cũng cho phép chúng ta có thể hiểu rõ hơn bản chất vấn đề, nhìn nhận
vấn đề một cách khách quan và khoa học để từ đó có được sự thống nhất về
quan điểm và đi đến sự hợp tác trong nghiên cứu.

5


Chúng tôi đã tổ chức 49 cuộc hội thảo với sự tham gia của hàng trăm lượt

các nhà khoa học trong và ngoài tỉnh nhằm góp ý nội dung của công trình.
Hệ thống phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành: Với đặc
trưng của khoa học lịch sử, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi còn sử dụng
hệ thống các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành như:
Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic là hai phương pháp cơ bản được sử
dụng trong quá trình nghiên cứu. Các phương pháp của khoa học liên ngành
như Khảo cổ học, Dân tộc học, Xã hội học, Thống kê... để đảm bảo tính khách
quan và trung thực nhất của những sự kiện đã diễn ra.
5. Khả năng ứng dụng, địa chỉ chuyển giao kết quả nghiên cứu
- Trọn bộ Lịch sử Nghệ An gồm hai tập được xuất bản.
- Sách dùng phục vụ cho công tác nghiên cứu về lịch sử Nghệ An cũng
như lịch sử dân tộc.
- Là tài liệu tham khảo không chỉ cho cán bộ và nhân dân Nghệ An mà cho
độc giả cả nước muốn tìm hiểu về Nghệ An.
- Phục vụ cho việc biên soạn và giảng dạy lịch sử - văn hóa địa phương.
- Góp phần giáo dục truyền thống, thúc đẩy kinh tế xã hội tỉnh nhà phát triển.
- Kết quả của dự án còn được công bố từng phần trên các tạp chí khoa học
của Trung ương và địa phương.
6. Các lợi ích mang lại và các tác động của kết quả nghiên cứu
- Đối với việc xây dựng đường lối, pháp luật, chính sách: Qua việc tổng kết
thực tiễn lịch sử, công trình góp phần cung cấp những kinh nghiệm cho các cấp
bộ Đảng và chính quyền địa phương đề ra chủ trương, đường lối, xây dựng
chính sách, pháp luật phù hợp hơn với sự phát triển của tỉnh nhà.
- Đối với phát triển kinh tế – xã hội: Công trình chỉ ra tổng thể diện mạo
kinh tế, xã hội Nghệ An qua các giai đoạn lịch sử. Trên cơ sở đó chúng ta sẽ

6


biết kế thừa những thành tựu, định hướng đúng đắn và xác định những mũi

nhọn cần phải đột phá trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay.
- Đối với nơi ứng dụng kết quả nghiên cứu: Công trình là tài liệu tham khảo
hữu ích đối với cộng đồng cư dân Nghệ An và với những ai quan tâm tới lịch
sử Nghệ An.
- Đối với phát triển lĩnh vực khoa học có liên quan: Công trình là nguồn tài
liệu tham khảo có giá trị đối với các ngành khoa học có liên quan như Văn học,
Địa lí, Kinh tế học, Chính trị học, Du lịch học, Xã hội học…
- Đối với công tác đào tạo cán bộ khoa học: Qua việc thực hiện dự án khoa
học này, đội ngũ các nhà khoa học ở địa phương và Trung ương trực tiếp tham
gia có điều kiện phát huy năng lực, hoàn thiện kỹ năng nghiên cứu. Đồng thời,
các tập thể tham gia nghiên cứu, biên soạn dự án như Khoa Lịch sử Trường Đại
học Vinh, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Nghệ An, Nhóm Nghiên
cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ An… cùng các cơ quan Sử học lớn của Trung
ương có điều kiện trao đổi khoa học, học tập kinh nghiệm.

7


PHẦN 2: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Từ trước tới nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử Nghệ An
dưới những góc độ chuyên môn khác nhau được công bố.
Dưới thời phong kiến, trong một số công trình sử học chính thống về lịch
sử dân tộc, lịch sử Nghệ An được đề cập như một mảnh đất “phên dậu” của
quốc gia quân chủ Đại Việt. Qua Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên và
nhóm sử thần thời Lê, Nghệ An được xem là vùng đất quan trọng trong sự
nghiệp mở mang bờ cõi và là một địa bàn chiến lược trong lịch sử chống ngoại
xâm của dân tộc. Đặc biệt, qua một số công trình địa chí, Nghệ An được đề cập
nhiều hơn dưới nhiều góc độ diên cách, hình thể núi sông đến phong tục tập
quán và sinh hoạt văn hoá. Điều đó được thể hiện qua Dư Địa chí của Nguyễn
Trãi, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú và đặc biệt là Nghệ An

ký của Bùi Dương Lịch, Nghệ An phong thổ ký và Hoan Châu phong thổ ký của
Trần Danh Lâm. Đáng kể nhất là các bộ sử chính thống của Quốc sử quán triều
Nguyễn, lịch sử Nghệ An đã được đề cập 1 cách hệ thống hơn. Khâm định Việt
sử thông giám cương mục là bộ thông sử lịch sử dân tộc, nhờ việc kế thừa
thành tựu sử học các triều đại trước, với cách viết sử khách quan, khoa học, bộ
Việt sử đã đề cập nhất định đến vùng đất Nghệ An trong tiến trình phát triển
của lịch sử dân tộc. Đại Nam thực lục chính biên là cuốn sử được biên soạn
theo lối biên niên, ghi chép các sự kiện theo thứ tự thời gian của các vị vua
triều Nguyễn. Không chỉ tập trung phản ánh các vấn đề chính sự, bộ sử đồ sộ
này còn ghi chép tình hình kinh tế - xã hội Đại Nam thời Nguyễn. Đời sống của
nhân dân Nghệ An được phản ánh phần nào qua những bản tấu trình của các
quan lại địa phương cũng như “châu phê” của các vị vua Nguyễn. Ngoài ra, con
người và địa lý Nghệ An đã được phản ánh tương đối hệ thống qua Đại Nam

8


liệt truyện và Đại Nam nhất thống chí. Tính cách con người Nghệ An bộc trực,
trọng nghĩa khí, nhân dân Nghệ An có truyền thống hiếu học, vùng đất Nghệ
An có nhiều dòng họ khoa bảng, xuất hiện nhiều bậc hiền tài làm rường cột cho
quốc gia… đã được phản ánh qua liệt truyện. Địa lý – văn hoá Nghệ An từ
phân dã, diên cách, hình thể núi sông, khí hậu, phong tục tập quán đến đền
miếu, chùa quán, các đơn vị hành chính rồi dân số, thuế ruộng, chợ búa, trường
học đã được phán ánh tương đối rõ nét qua Đại Nam nhất thống chí quyển V.
Dù đề cập rất sơ lược nhưng Đại Nam nhất thống chí đã khái quát và hệ thống
hoá những vấn đề về lịch sử - địa lý, văn hoá tỉnh Nghệ An. Tuy nhiên, các
công trình lịch sử - địa lý nói trên không tránh khỏi những hạn chế của quan
điểm sử học đương thời, không có được cái nhìn toàn diện về lịch sử vùng đất
và đặc biệt không thấy được vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc trên đất Nghệ An.

Sang thời thuộc địa, các học giả Pháp đã có nhiều tìm tòi nghiên cứu về
lịch sử và văn hoá Việt Nam. Dựa trên những thành tựu về khảo cổ học, thư
tịch học và địa phương học, nhiều công trình lịch sử - địa lý lớn lần lượt được
xuất bản. Bỏ qua những hạn chế của quan điểm thực dân, một số học giả đã có
hướng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu tiên tiến để tìm hiểu về lịch sử
Việt Nam, đặc biệt là dưới góc độ địa phương học. Trong số các công trình
nghiên cứu về Nghệ An, phải kể đến An - Tĩnh cổ lục (Le Vieux An-Tĩnh) của
Le Breton. Với kinh nghiệm nhiều năm dạy học ở trường Quốc học Vinh, với
niềm say mê khám phá về xứ Nghệ, kế thừa kết quả nghiên cứu của các công
trình đã công bố cùng với sự giúp đỡ của đồng nghiệp và học trò, Le Breton đã
cho ra đời một công trình lớn về lịch sử - văn hoá Nghệ -Tĩnh. Ông đã kết hợp
được tri thức của nhiều bộ môn khoa học khác nhau và mạnh dạn đưa ra những
luận cứ mới mẻ. Le Breton không chỉ quan tâm đến lịch sử, địa lý mà còn chú ý

9


nhiều đến văn hoá dân gian, nhất là văn hoá làng, văn hoá vùng và văn hoá
dòng họ. Nhưng cũng chính dựa nhiều vào phương pháp folklore nên An -Tĩnh
cổ lục thiên về một công trình địa lý - văn hoá hơn là một công trình lịch sử.
Hơn nữa, Le Brton cũng chỉ mới khảo cứu về văn hoá vùng đồng bằng và ven
biển, chưa có điều kiện để nghiên cứu về lịch sử văn hoá ở vùng trung du và
miền núi.
Ngoài công trình địa phương học về xứ Nghệ kể trên, tình hình kinh tế - xã
hội và văn hoá Nghệ An cũng được đề cập rải rác trên một số sách báo, tạp chí
đương thời . Tập san “Bulletin des Amis du Vieux Hue” (Những người bạn cố
đô Huế), báo “Nam Phong”, “Tri Tân”, “Thanh - Nghệ - Tĩnh tân văn”, “Tiếng
dân”, “Sao mai”… đã đăng nhiều bài viết về văn hoá và đời sống xã hội nông
thôn Nghệ An thời thuộc Pháp. Kinh tế Nghệ An thời kỳ này cũng được đề cập
trong một số công trình chuyên khảo về kinh tế Việt Nam thời thuộc địa như

“Economie agricole de L’Indochine” (Kinh tế nông nghiệp Đông Dương, Hà
Nội, 1932) của Y.Henry, “L’Utilisation du sol en Indochine Francaise” ( Sử
dụng ruộng đất ở Đông Dương thuộc Pháp, Pari, 1940) của P.Gourou… Một số
công trình thực nghiệm của các nhà nghiên cứu, quản lý về kinh tế Nghệ An
được đăng tải trên tạp san chuyên ngành như “Bulletin économique de
L’Indochine” (Tập san kinh tế Đông Dương), “L’Éveil économique de
L’Indochine” (Sự thức tỉnh kinh tế Đông Dương)…
Sau Cách mạng tháng Tám, nhất là sau năm 1954, sử học Việt Nam đã có
nhiều thành tựu vượt bậc. Trong một số công trình lớn về lịch sử Việt Nam,
lịch sử Nghệ An được đề cập và luôn có một vai trò quan trọng trong tiến trình
dựng nước và giữ nước của dân tộc. Từ sau năm 1975, công tác sưu tầm,
nghiên cứu, biên soạn lịch sử địa phương đã được tiến hành có hiệu quả. Với sự
cộng tác của các giáo sư, các nhà khoa học đầu ngành cùng các nhà nghiên cứu

10


địa phương, một số công trình về lịch sử Nghệ An được công bố. Đáng chú ý là
các công trình Lịch sử Nghệ Tĩnh (tập I, Vinh, 1984), Nghệ Tĩnh: hôm qua và
hôm nay (Hà Nội, 1986), Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Nghệ Tĩnh (tập
I, Vinh 1987)… Gần đây nhất là 3 tập Lịch sử Đảng bộ Nghệ An lần lượt được
xuất bản vào các năm 1998, 1999 và 2008. Hai công trình Lịch sử Nghệ Tĩnh
và Nghệ Tĩnh hôm qua và hôm nay đã đề cập trực tiếp đến Nghệ An dưới góc
độ thông sử. Dựa trên những thành tựu khoa học liên ngành từ khảo cổ học,
dân tộc học, thư tịch học đến văn hoá và văn học dân gian…các tác giả đã làm
nổi bật được quá trình phát triển của lịch sử xứ Nghệ một cách đầy đủ và tương
đối hệ thống. Tuy nhiên đây là công trình viết về Nghệ Tĩnh nói chung nên
chưa có điều kiện làm rõ về Nghệ An, chưa kể từ khi xuất bản đến nay cũng đã
là một thời gian dài nên không thể cập nhật những kết quả nghiên cứu mới nhất
về Nghệ An trong hơn 20 năm gần đây. Công trình Lịch sử Đảng bộ Nghệ An

gồm 3 tập đã hệ thống tương đối đầy đủ về lịch sử đấu tranh cách mạng ở Nghệ
An từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Tuy nhiên với phương pháp tiếp
cận chuyên ngành lịch sử Đảng, công trình này chưa trình bày được lịch sử
Nghệ An dưới góc độ thông sử… Trong những năm gần đây, hầu hết các huyện
thị trong tỉnh như thành phố Vinh, huyện Anh Sơn, Đô Lương, Nam Đàn, Nghi
Lộc, Thanh Chương, Tân Kỳ, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghĩa Đàn,
Quỳ Hợp, Quỳ Châu, Quế Phong… đã cho biên soạn lịch sử Đảng bộ huyện;
một số cơ quan ban ngành cấp tỉnh như Sở giáo dục, Sở văn hoá, Sở thuỷ sản,
Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Uỷ ban mặt trận tổ quốc tỉnh, Liên đoàn
Lao động tỉnh, Ban chỉ huy quân sự tỉnh, Bộ đội biên phòng, ngành thanh tra,
ngành xăng dầu… cũng đã tổ chức biên soạn lịch sử về ban ngành mình. Các
ấn phẩm của các huyện thị, cơ quan ban ngành kể trên chỉ dừng lại khái quát
những hoạt động trong phạm vi của đơn vị mình, thiếu tính hệ thống.

11


Ngoài các công trình về lịch sử tỉnh và các địa phương trong tỉnh kể trên,
vùng đất Nghệ An đã thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu trong và
ngoài nước từ những góc độ chuyên môn khác nhau và những mảng đề tài khác
nhau.
- Bác Hồ với quê hương Nghệ An. Nghệ An tự hào là quê hương Chủ tịch
Hồ Chí Minh và đây là mảng đề tài thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu. Đáng chú ý là các công trình Di tích chủ tịch Hồ Chí Minh ở Kim
Liên, Những người thân trong gia đình Bác Hồ của tác giả Trần Minh Siêu, Hồ
Chí Minh thời niên thiếu của Bùi Ngọc Tam (Nghệ An, 1994), Người mẹ của
một thiên tài của Chu Trọng Huyến (Hà Nội, 2005) đã mô tả về quê hương và
gia tộc cũng như công tác bảo tồn di tích về Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Nghệ An.
Ở nước ngoài William J. Duike trong cuốn sách Hồ Chí Minh (Hepérion, New
York, 2000) cũng đã có nhiều tìm tòi về gia thế và quê hương Chủ tịch Hồ Chí

Minh. Tuy nhiên các công trình kể trên mới chỉ phác thảo về mảnh đất và
truyền thống lịch sử Nghệ An đã góp phần hun đúc nên nhân cách và trí tuệ Hồ
Chí Minh.
- Các danh nhân và các nhà cách mạng tiêu biểu ở Nghệ An. Nghệ An là
mảnh đất địa linh nhân kiệt, đã có nhiều công trình nghiên cứu về quê hương
và gia tộc của một số danh nhân tiêu biểu như Nguyễn Huệ - Quang Trung,
Phan Bội Châu… các nhà cách mạng tiền bối như Phan Đăng Lưu, Lê Hồng
Phong, Phùng Chí Kiên… Qua các công trình nghiên cứu về các danh nhân tiêu
biểu, lịch sử Nghệ An cũng được tái hiện nhưng mức độ còn mờ nhạt.
- Phong trào yêu nước và phong trào cách mạng. Nghệ An là mảnh đất
kiên cường trong đấu tranh cách mạng, phong trào yêu nước và cách mạng của
nhân dân Nghệ An đã được tái hiện trong một số công trình như Nghệ Tĩnh với
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trong 30 năm đầu thế kỷ XX (Hà

12


Nội,2000) của Đinh Trần Dương. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời,
Nghệ An đã trở thành một trung tâm cách mạng của cả nước. Phong trào Xô viết
Nghệ Tĩnh đã trở thành một đề tài thu hút được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Thông qua hội thảo khoa học, công trình về Xô Viết Nghệ Tĩnh (Phạm Xanh chủ
biên, Nghệ An, 2000) đã được xuất bản. Nghệ An với quá trình vận động giành
chính quyền trong cách mạng tháng Tám cũng được trình bày khá hệ thống trong
luận án tiến sĩ của tác giả Trần Văn Thức. Nghệ An trong thời kỳ chiến tranh cách
mạng cũng được đề cập trong các công trình của Ban chỉ huy quân sự tỉnh (Nghệ
Tĩnh kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 – 1954, Nghệ An lịch sử kháng
chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ của Quân khu IV. Ngoài ra, phong trào cách mạng ở Nghệ An còn
được trình bày khá hệ thống trong các công trình về lịch sử Đảng bộ tỉnh, lịch sử
Đảng bộ huyện đã công bố. Nhìn chung, đây là mảng đề tài có nhiều công trình đã

xuất bản, tuy nhiên các ấn phẩm tập trung phản ánh phong trào cách mạng của
nhân dân Nghệ An từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, vị trí của Nghệ An
trong tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc còn mờ nhạt.
- Văn hoá dân gian. Xứ Nghệ là kho tàng của văn hoá dân gian. Trong số
các công trình nghiên cứu về văn hoá dân gian xứ Nghệ, đáng chú ý là các tác
phẩm của tác giả Ninh Viết Giao. Được xem là nhà Nghệ học, qua nhiều năm
miệt mài nghiên cứu, ông đã cho ra đời nhiều công trình có giá trị như “Hát
phường vải”, “hát ví”, “Thơ văn xô Viết Nghệ Tĩnh”, “Nghệ Tĩnh trong Tổ
quốc Việt Nam”, “Thơ văn nhà nho xứ Nghệ”, “Kho tàng truyện kể dân gian xứ
Nghệ”, “Kho tàng ca dao xứ Nghệ”, “Truyện cổ Thái”, “Tục thờ thần và thần
tích Nghệ An”…Qua các tác phẩm kể trên, văn hoá dân gian Nghệ An đã được
tác giả sưu tầm và biên soạn một cách hệ thống.

13


- Truyền thống khoa bảng và các dòng họ khoa bảng ở Nghệ An. Từ vùng
đất phên dậu của quốc gia Đại Việt, Nghệ An đã có sự vươn lên mạnh mẽ qua
từng triều đại và trở thành một vùng đất hiếu học, xuất hiện ngày càng nhiều
các nhà khoa bảng và dòng họ khoa bảng. Điều đó được thể hiện qua Quốc
triều đăng khoa lục của Cao Xuân Dục và gần đây là hàng loạt luận văn thạc sĩ,
khoá luận tốt nghiệp cử nhân của sinh viên các trường đại học, đặc biệt là khoa
Lịch sử, Đại học Vinh. Truyền thống của các dòng họ khoa bảng như họ
Hoàng, họ Hồ, họ Nguyễn ở Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu), họ Cao ở Diễn Châu, họ
Nguyễn Cảnh ở Đô Lương, họ Đặng, họ Nguyễn ở Thanh Chương…càng tô
đậm thêm truyền thống hiếu học của người Nghệ An. Tuy nhiên các công trình
kể trên chỉ dừng lại ở mức độ khái quát truyền thống khoa bảng cũng như lịch
sử các dòng họ, chưa đi sâu nghiên cứu những giá trị văn hoá tinh thần của
người Nghệ An.
- Kinh tế và tiềm năng kinh tế. Được xem như hình ảnh của nước Việt

Nam thu nhỏ, với đầy đủ các miền địa hình từ rừng núi, trung du đến đồng
bằng ven biển, điều kiện tự nhiên Nghệ An nhiều tiềm năng nhưng cũng lắm
thách thức cho việc phát triển kinh tế. Đây là mảng đề tài còn ít được chú ý
nghiên cứu, rải rác xuất hiện những bài viết về kinh tế Nghệ An. Gần đây, Sở
Khoa học & Công nghệ đã chủ trì nhiều đề tài nghiên cứu về kinh tế nhưng như
thế là chưa xứng tầm với tiềm năng cũng như thực trạng của nền kinh tế Nghệ
An. Đặc biệt 20 năm đổi mới ở Nghệ An còn thiếu những công trình đánh giá,
tổng kết.
- Cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Nghệ An. Trong suốt chiều dài lịch sử,
cộng đồng các dân tộc thiểu số Nghệ An đã chung lưng đấu cật trong việc bảo
vệ quê hương, xây dựng bản làng. Năm 1993, tác giả Nguyễn Đình Lộc đã cho
xuất bản công trình Các dân tộc thiểu số ở Nghệ An, bước đầu đã giới thiệu quá

14


trình xuất hiện và phát triển cũng như các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể
của các dân tộc thiểu số ở Nghệ An. Tuy nhiên, tác giả chưa có điều kiện đi sâu
nghiên cứu về lịch sử miền Tây Nghệ An.
Tóm lại, lịch sử Nghệ An là một đề tài rộng lớn. Các công trình đã công bố
chỉ mới đề cập lịch sử Nghệ An dưới những góc độ, cấp độ khác nhau và chưa
mang tính hệ thống. Số ít công trình đề cập trực tiếp đến lịch sử Nghệ An vẫn còn
nhiều vấn đề cần nhận thức lại, xác minh và bổ sung cho đầy đủ. Lịch sử Nghệ An
từ nguồn gốc đến nay (2005) đang là một đề tài mới mẻ. Với bề dày của truyền
thống cùng với những thành tựu trong cuộc sống hôm nay, Nghệ An đang cần có
một bộ thông sử quy mô, hệ thống từ nguồn gốc đến nay, xứng tầm với vị thế của
tỉnh trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam.

15



PHẦN 3: TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA DỰ ÁN
1. Về công tác học tập kinh nghiệm và xây dựng đề cương
Để thực hiện công trình, Ban biên soạn đã tổ chức học tập kinh nghiệm
tại 2 tỉnh bạn là Hà Tĩnh và Thanh Hóa. Đây là hai tỉnh trong khu vực Bắc
Trung Bộ có những điều kiện lịch sử gần gũi với Nghệ An và cũng đã biên soạn
lịch sử cả từng tỉnh tương đối tốt. Ban biên soạn đã gặp gỡ các nhà quản lý, các
nhà khoa học, Ban nghiên cứu lịch sử của hai tỉnh để học hỏi thêm về kinh
nghiệm rút ra từ việc biên soạn các công trình thông sử địa phương.
Tham khảo những công trình biên soạn trước, Ban biên soạn đã trực tiếp
thảo luận và soạn thảo đề cương. Đề cương được thông qua Hội đồng khoa học
khoa Lịch sử Đại học Vinh, Hội thảo khoa học với sự tham gia của các nhà
khoa học trong và ngoài Tỉnh. Đề cương cũng đã nhận được sự định hướng, góp
ý của Ban chỉ đạo cấp Tỉnh và Thường vụ Tỉnh uỷ tỉnh Nghệ An. Đề cương của
công trình được xây dựng khoa học, chặt chẽ, bám sát thực tiễn của lịch sử
Nghệ An, đồng thời cũng phản ánh được những nét lớn của lịch sử vùng đất này
trong tiến trình lịch sử dân tộc.
2. Công tác sưu tầm tư liệu
Về thu thập tài liệu, số liệu trong tỉnh: Ban chủ nhiệm dự án đã thu thập
tài liệu, số liệu ở một số địa điểm sau:
- Thành phố Vinh gồm 16 phường, 10 xã; 25 cơ quan cấp tỉnh như Kho
lưu trữ Tỉnh uỷ Nghệ An, Kho lưu rữ UBND tỉnh Nghệ An, Thư viện tỉnh
Nghệ An, Cục thống kê Nghệ An, Bảo tàng Quân khu IV, Bảo tàng Xô viết
Nghệ Tĩnh, Bảo tàng Tổng hợp Nghệ An, Phòng tư liệu Bộ chỉ huy quân sự
tỉnh Nghệ An, Phòng tư liệu Công an tỉnh Nghệ An, Sở Văn hoá, Thể thao và
Du lịch Nghệ An, Sở Khoa học và Công nghệ Nghệ An, Sở Kế hoạch và Đầu

16



tư Nghệ An, Sở Công thương Nghệ An, Sở Thông tin và Truyền thông Nghệ
An, Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nghệ An, Sở Giáo dục và Đào tạo
Nghệ An Liên đoàn Lao động tỉnh Nghệ An, Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Nghệ
An, Sở Nội vụ Nghệ An, Sở Y tế Nghệ An, Sở Tài nguyên và Môi trường
Nghệ An, Trung tâm Văn hoá - Thông tin Nghệ An, Tỉnh Đoàn Nghệ An, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Nghệ An, Sở Xây dựng Nghệ An.
- 10 huyện miền núi và 09 huyện đồng bằng ở Nghệ An.
Nguồn tư liệu thành văn và tư liệu điền dã thu thập được ở tỉnh Nghệ An
là cơ sở dữ liệu chính, quan trọng trong quá trình xây dựng công trình Lịch sử
Nghệ An từ nguyên thuỷ đến năm 2005.
Về thu thập tài liệu, số liệu ngoài tỉnh, Ban chủ nhiệm dự án đã tiến hành
khảo sát 15 địa điểm ở Hà Nội có lưu trữ thông tin về lịch sử Nghệ An gồm:
Trung tâm lưu trữ Quốc gia I, Trung tâm lưu trữ Quốc gia III, Viện Hán Nôm,
Thư viện Quốc gia Việt Nam, Kho lưu trữ Viện Sử học Việt Nam, Kho lưu trữ
Viện Thông tin khoa học xã hội Việt Nam, Kho lưu trữ Bộ Công an, Bảo tàng
Lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Dân tộc học, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bảo
tàng Lịch sử quân sự Việt Nam, Viện Nghiên cứu Hồ Chí Minh và các lãnh tụ
Đảng, Viện Lịch sử Đảng, Thư viện Quân đội, Viện Lịch sử quân sự Việt
Nam. Tại những cơ quan này, Ban biên soạn đã thu thập được nhiều tài liệu
quý hiếm, làm sáng rõ thêm những vấn đề còn tồn nghi trong lịch sử Nghệ An.
Tại Hà Tĩnh, Ban biên soạn đã tiếp cận và khai thác ở Kho lưu trữ UBND
tỉnh Hà Tĩnh, Kho lưu trữ Tỉnh uỷ Hà Tĩnh, Thư viện tỉnh Hà Tĩnh, Ban NCLS
Hà Tĩnh. Nguồn tư liệu ở đây góp phần bổ sung vào phần Lịch sử Nghệ An thời
cổ trung đại, giai đoạn nhập tách tỉnh 1976 – 1991….

17


Về thu thập tài liệu, số liệu nước ngoài: Ban Chủ nhiệm dự án đã đi thu
thập tài liệu, số liệu ở Pháp(8 ngày đầu tháng 10/2010) và Trung Quốc (7 ngày

đầu tháng 6/2009).
Tại Pháp, Ban biên soạn đã tiếp cận và khai thác tư liệu Trung tâm lưu
trữ quốc gia Pháp tại Pari, Đại sứ quán Việt nam tại Pháp và gặp gỡ một số
nhà khoa học Pháp nghiên cứu về Việt Nam. Nguồn tài liệu và các ý kiến trao
đổi ở Pháp đã góp phần minh định thêm cuộc đấu tranh của nhân dân Nghệ An
chống Pháp trong cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh, cuộc Binh biến Đô Lương,
Cách mạng tháng Tám ở Nghệ An, Vùng tự do Thanh Nghệ Tĩnh giai đoạn
1945 – 1954….
Tại Trung Quốc, Ban biên soạn đã tiếp cận và khai thác tư liệu Trung tâm
lưu trữ quốc gia Trung Quốc tại Bắc Kinh, Nam Kinh, Vũ Hán và Đại học sư
phạm Bắc Kinh. Nguồn tư liệu tiếng Trung liên quan đến Nghệ An lưu ở các
trung tâm này khá phong phú, trong đó đặc biệt làm sáng rõ thêm một số điểm
nhấn trong lịch sử Nghệ An như Mai Thúc Loan và khởi nghĩa Hoan Châu,
Vai trò của Nghệ An đối với triều đại Quang Trung….
Nhìn chung, hai nước hiện đang lưu giữ nhiều nguồn sử liệu gốc có giá
trị liên quan đến lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, lịch sử Nghệ An nói
riêng.
3. Tổ chức Hội thảo khoa học:
Để tiến hành dự án khoa học này có chất lượng, tranh thủ được nhiều ý
kiến, chúng tôi đã tổ chức 51 cuộc hội thảo khoa học, được phân chia thành 2
cấp độ như sau:
- Hội thảo khoa học loại 1, gồm 12 cuộc, với sự đồng chủ trì của Giám đốc
Sở KH&CN Nghệ An và Chủ nhiệm dự án. Mỗi hội thảo có 15 tham luận
của 15 nhà khoa học đầu ngành của trung ương và địa phương. Các hội thảo

18


này đã góp ý căn bản và toàn diện Lịch sử Nghệ An, với các nội dung chính
như: Đề cương tổng thể công trình; Những vấn đề lịch sử Nghệ An cổ trung đại; Những vấn đề lịch sử Nghệ An cận đại; Bản thảo lần 1, lần 2 tập

1; Những vấn đề lịch sử Nghệ An từ 1945 đến 1975; Những vấn đề lịch sử
Nghệ An từ 1975 đến nay; Bản thảo lần 1; lần 2 tập 2; Bản thảo toàn bộ
công trình; những bài học kinh nghiệm.
- Hội thảo khoa học loại 2, gồm 39 cuộc, với sự đồng chủ trì của Giám đốc
Sở KH&CN Nghệ An và Chủ nhiệm dự án. Mỗi hội thảo có 10 tham luận
của 10 nhà khoa học đầu ngành của trung ương và địa phương. Các Hội
thảo này đi sâu vào những vấn đề cụ thể trong từng chương, từng nhóm
chuyên đề nhánh nhằm thảo luận khách quan, khoa học và minh định rõ các
nội dung cụ thể đặt ra. Một số hội thảo thảo luận và góp ý cho phần Mở đầu,
kết luận, phụ lục của công trình.
Theo đánh giá của nhiều nhà quản lý và các nhà khoa học, chưa có một sông
trình lịch sử địa phương nào được tiến hành quy cũ, tổ chức được nhiều hội
thảo nhằm lấy ý kiến góp ý đa chiều nhưng đồng thuận và có tính xây dựng cao
như công trình Lịch sử Nghệ An. Các hội thảo trải dài trong gần 4 năm đã bám
sát, góp ý thiết thực cho những nội dung cơ bản của công trình. Có thể nói,
công trình là nơi hội tụ ý kiến của nhiều nhà khoa học trung ương và địa
phương, có tính khoa học và thực tiễn cao.
4. Những nét chính về lịch sử Nghệ An
Nghệ An là địa phương có lịch sử lâu đời, là một trong những chiếc nôi
đầu tiên của người nguyên thủy ở Việt Nam. Truyền thống lịch sử - văn hóa và
bản lĩnh anh hùng của cộng đồng cư dân Nghệ An qua từng thời kỳ lịch sử được
phản ánh đậm nét và sâu sắc qua từng sự kiện, từng nhân vật lịch sử tiêu biểu,

19


góp phần khẳng định sự bền vững, trường tồn của bản lĩnh Việt Nam trong tiến
trình lịch sử dựng nước và giữ nước trải hàng ngàn năm.
Công trình Lịch sử Nghệ An tái hiện lại toàn bộ hành trình lịch sử của
mảnh đất và con người xứ Nghệ, luôn sát cánh cùng đồng bào các dân tộc Việt

Nam trong cuộc trường chinh dựng nước, giữ nước và xây dựng đất nước.
Công trình gồm hai tập, 16 chương, tương ứng với hai thời kỳ lịch sử lớn.
Tập I gồm 10 chương, bao quát toàn bộ lịch sử Nghệ An từ thời nguyên
thủy đến trước ngày Tổng khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945, mở đầu một
trang sử mới đầy hào hùng của dân tộc Việt Nam.
Giai đoạn lịch sử được thể hiện trong tập I là một khung thời gian trải dài
hàng ngàn năm, thậm chí hàng vạn năm, do đó nội dung nghiên cứu rất đa dạng,
đa diện với nguồn tư liệu phong phú gồm tư liệu qua sử tịch, tài liệu khảo cổ
học, dân tộc học và văn hóa dân gian …
Trong chương 1: Nghệ An thời tiền sử và sơ sử, các tác giả chủ yếu căn cứ
vào tài liệu khảo cổ học đã khẳng định Nghệ An là một trong những chiếc nôi
của người nguyên thủy ở Việt Nam.
Nghệ An thời tiền sử và sơ sử trải dài hàng vạn năm, bắt đầu từ thời đại đồ
đá cũ, với sự xuất hiện của di chỉ khảo cổ học Thẩm Ồm .
Di chỉ Thẩm Ồm nằm trong dãy Phá Thắm, thuộc địa phận xã Châu Thuận,
huyện Quỳ Châu. Đây là một di chỉ hỗn hợp có giá trị to lớn đối với việc tìm hiểu, nghiên
cứu về cổ sinh, địa tầng, địa mạo và khảo cổ học thời đại đá cũ. Kết quả khai quật Thẩm Ồm
đã xác nhận sự có mặt của người vượn, người khôn ngoan, biết chế tạo công cụ trên đất Nghệ
An ngay từ thế Cánh Tân (Pleistocène).

20


Qua nghiên cứu răng người hóa thạch phát hiện ở Thẩm Ồm (Quỳ Châu)
cho phép đoán định là vào khoảng từ 14 vạn năm đến 25 vạn năm cách ngày
nay đã xuất hiện người nguyên thủy trên đất Nghệ An.
Việc phát hiện dấu tích con người thời tiền sử ở Thẩm Ồm, Nghệ An đã
đóng góp một cứ liệu quan trọng, củng cố thêm nhận định: Việt Nam có thể
được coi là nằm trong khu vực cái nôi phát sinh của loài người. Trong cái nôi
phát sinh của loài người đó, những chiếc răng người và động vật hóa thạch thời

Cánh tân ở Thẩm Ồm (Nghệ An) có một ý nghĩa đặc biệt. Sự có mặt của người
vượn (Homo erectus) - người hiện đại (Homo sapiens) ở Thẩm Ồm là một mắt
xích quan trọng trong quá trình tiến hóa của loài người trên thế giới nói chung,
của xã hội nguyên thủy Việt Nam nói riêng.
Không chỉ có vậy, Nghệ An là một trong những địa phương phản ánh rõ rệt
các di chỉ khảo cổ học từ thời đại đá cũ qua thời đại đá mới đến thời đại kim
khí: Thẩm Ồm (sơ kỳ đồ đá cũ); Làng Vạc (hậu kỳ đồ đá cũ, tương ứng với nền
văn hóa Sơn Vi); Thẩm Hoi, Đồng Trương… (sơ kỳ đồ đá mới – tương ứng với
văn hóa Hòa Bình); Quỳnh Văn (trung kỳ đá mới); Trại Ổi, Đồi Thần (Hậu kỳ
đá mới), Đền Đồi (Tiền Đông Sơn), Rú Trăn, Làng Vạc, Đồng Mỏm… tương
ứng với các giai đoạn văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn đến Phùng Nguyên - Đồng
Đậu - Gò Mun và Đông Sơn, trong đó di chỉ Làng Vạc là một điển hình cho sự
phát triển liên tục và bền vững của cộng đồng cư dân Nghệ An thời cổ đại. Di
tích Làng Vạc vừa mang đậm tính chất chung của nền văn hóa Đông Sơn,
nhưng cũng thể hiện rõ yếu tố địa phương, riêng biệt. Làng Vạc chính là một
trong những tụ điểm kinh tế - xã hội - chính trị để hình thành nên nhà nước
sơ khai - Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc. Ngoài ra, qua nghiên cứu

21


Di chỉ Đồng Mỏm và một số di chỉ khác cho phép khẳng định về sự sinh
sống của người Việt cổ trên vùng cương vực phía Nam của đất nước thời Hùng
Vương.
Nhà nước Văn Lang ra đời vào khoảng thế kỷ VII Tr.CN. Theo ghi
chép của một số thư tịch cổ thì: Nghệ An thời Hùng Vương thuộc bộ Việt
Thường.
Trong bối cảnh chung của nền văn minh Đông Sơn, người Việt cổ ở
Nghệ An thời dựng nước đã đạt được một trình độ phát triển nhất định trong
các lĩnh vực: kinh tế, kỹ thuật… cho phép tạo ra một đời sống vật chất, tinh

thần sung túc và phong phú tương đồng với cư dân vùng lưu vực sông Hồng,
sông Mã.
Cư dân Nghệ An thời Văn Lang - Âu Lạc vẫn tiếp tục sống trong các hang
động của các dãy núi đá vôi, cạnh các dòng sông. Hoạt động kinh tế bao gồm
sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi) và các nghề thủ công nghiệp, trong
đó kỹ thuật đúc đồng (Làng Vạc), nghề rèn sắt (Đồng Mỏm) rất phát triển (dụng
cụ sản xuất, các loại vũ khí săn bắt)..
Đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Nghệ An thời Văn Lang - Âu Lạc
rất phong phú (các hình ảnh thể hiện trên trống đồng, trên các loại vũ khí), các
đồ trang sức bằng đồngg, hạt thủy tinh…).
Chương 2: Nghệ An trong thời kỳ Bắc thuộc và chống Bắc thuộctừ thế
kỷ IITCN đến năm 905 đã phản ánh diện mạo lịch sử - văn hóa mảnh đất
Nghệ An trong đêm trường Bắc thuộc trải dài hơn 1 thiên niên kỷ.
Nội dung chương này đã trình bày một số nét khái quát về quá trình xếp
đặt các đơn vị hành chính (Hoan Châu, Diễn Châu, Cửu Đức – tức miền
Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay) cùng cương vực của nó để khẳng định cương
giới phía của nước ta thời bấy giờ).

22


- Về các hoạt động kinh tế của người Nghệ An trong giai đoạn này có
những bước phát triển nhất định trên một số lĩnh vực, đặc biệt là bên cạnh
nghề nông truyền thống, các nghề thủ công đã có những tiến bộ nhất định,
đặc biệt là nghề rèn sắt Nho Lâm, nghề đúc đồng Diễn Tháp, nghề gốm, nghề
dệt lụa, dệt vải, đan lát v.v…
- Bản lĩnh của mảnh đất và con người xứ Nghệ với ý chí quật cường, bất
khuất đã được khẳng định ngay từ buổi đầu cùng cả nước đấu tranh chống
giặc ngoại xâm, giành quyền tự chủ cho dân tộc. Điều đó được thể hiện qua
tinh thần quật khởi của người dân Nghệ An trong các cuộc đấu tranh chống

lại ách đô hộ của phong kiến phương Bắc và bảo vệ lãnh thổ phía Nam của
Tổ quốc như tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40 - 43); khởi nghĩa Bà
Triệu (năm 248), khởi nghĩa Lý Bí (năm 542) v.v…
- Điểm sáng nhất và cũng là dấu son chói lọi nhất trong giai đoạn lịch sử
này của Nghệ An là cuộc khởi nghĩa Hoan Châu do Mai Thúc Loan lãnh đạo
diễn ra và giành thắng lợi từ năm 713, tồn tại đến năm 722. Bằng những
nguồn tư liệu mới, với hướng tiếp cận mới, một số quan điểm, đánh giá về
cuộc khởi nghĩa Hoan Châu của Mai Thúc Loan đã thật sự mang tính khoa
học và khách quan.
Nội dung chương 3: Nghệ An từ thời học Khúc đến thời Lý – Trần (905 1400) xuyên suốt một giai đoạn lịch sử dài 4 thế kỷ với những thành tựu to lớn
mà mảnh đất và con người xứ Nghệ đã giành được. Từ đầu thế kỷ X, Nghệ An
trở thành một bộ hữu cơ gắn bó của quốc gia Đại Cồ Việt - Đại Việt. Cũng từ
đây, cùng với nhân dân cả nước, người dân xứ Nghệ bắt tay vào xây dựng quê
hương, từng bước ổn định chính trị, xây dựng bộ máy chính quyền, phát triển
kinh tế và tạo dựng cho mình một truyền thống văn hóa đặc sắc.

23


- Là bức phên giậu vững chắc ở phía Nam của quốc gia Đại Việt, Nghệ An
là một trong những địa phương các triều đại phong kiến đặc biệt quan tâm.
Công cuộc khẩn hoang, lập làng ở Nghệ An trong thời kỳ này được xúc tiến
khẩn trương và hiệu quả.
- Dưới thời Lý - Trần, công cuộc khẩn hoang lập làng được đẩy mạnh,
đặc biệt là ở địa vực ven sông Lam, ven biển Diễn Châu, Nghi Lộc hay vùng
đồng bằng màu mỡ Đông Thành. Đó là các làng xã do nhân dân địa phương và
một số dòng họ khẩn hoang lập nên hoặc do tầng lớp thân vương, quý tộc tổ
chức nhân dân khai khẩn mà thành. Nhiều vị thủy tổ của các dòng họ đã được
tôn vinh là tiên công, tiên hiền ở các làng xã Nghệ An như ba ông tổ họ Hồ, họ
Nguyễn, họ Hoàng lập ấp ở thôn Đồng Tương gọi là trang Thổ Đôi (nay là

Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu); Hồ Cao tổ chức nhân dân khai phá vùng Kẻ Cuồi, lập
ra làng Tam Thọ, quê hương của Trạng nguyên Hồ Tông Thốc; công chúa Trần
Thị Ngọc Chân, Trần Thị Ngọc Hoa và Hoàng tử Đông Triều nhà Trần khai phá
vùng Tam Lễ. Hiện ở thôn Lễ Nghi, có đền Tam Tòa thờ hai vị công chúa này.
Phu nhân thứ ba của Trần Quang Khải là Hồng Thị Châu Nương cũng đã có
công khai phá và lập trang trại ở Hạnh Lâm và Đào Viên thuộc Diễn Châu.
Vùng Yên Thành có Phan Vân chiêu tập dân nghèo khai khẩn đất hoang được
hơn 600 mẫu, lập thành thôn Chánh sứ, sau này hình thành 5 thôn: Thượng Thọ,
Thái Bình, Thuần Hậu, Phúc Thành (nguyên là Kẻ Rộc) và Cự Phú (nguyên là
Kẻ Ruỗi)…
- Gắn với quá trình tạo dựng xóm làng trù mật, phát triển kinh tế, văn hóa,
giáo dục … là vai trò to lớn của các nhân vật lịch sử được sử sách ghi nhận như
Uy Minh vương Lý Nhật Quang (thời Lý); các tôn thất thời Trần (Trần Quốc
Khang) hay một số nhân vật lịch sử quê hương như Bạch Liêu, Hồ Tông
Thốc…

24


- Dựng nước đi đôi với giữ nước là một đặc điểm nổi bật của lịch sử Việt
Nam. Đối với Nghệ An cũng vậy, khi đất nước có ngoại xâm, người dân xứ
Nghệ lại nhất tề đứng dậy cùng nhân dân cả nước chống quân xâm lược. Trong
cuộc kháng chiến chống Tống (thế kỷ XI), Nghệ An xuất hiện vị tướng Phạm
Trọng Y đã cùng đội quân của mình tham gia đánh Tống trên phòng tuyến sông
Như Nguyệt và tham gia chống sự xâm lấn của quân Bồn Man ở phía Tây. Đặc
biệt trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông (thế kỷ
XIII), Nghệ An vừa là tiền tuyến, vừa là hậu phương vững chắc của cuộc kháng
chiến. Trong cuộc kháng chiến quân Nguyên - Mông lần thứ II (1285), trên địa
bàn Nghệ An ngày nay từng diễn ra nhiều trận chiến quyết liệt. Dưới sự chỉ huy
của Trần Nhật Duật, lực lượng của triều đình và nhân dân địa phương đã tổ

chức các trận đánh lớn nhỏ nhằm ngăn chặn hướng tiến công ra Bắc của chúng.
Tại vùng cảng Xước (ven núi Xước và kênh Son) đã diễn ra cuộc chặn đánh
quân Nguyên Mông do Toa Đô cầm đầu. Quân Trần do Trần Nhật Duật thống
lĩnh. Hai bên kịch chiến. Cả hai đều tổn thất nặng nề, thây chết máu đỏ cả sông
Mai. Câu Quỳnh Lưu chiến địa, Mai Giang huyết hồng là nói về trận đánh này.
Vị vua anh hùng Trần Nhân tông từng tự hào khi nhắc đến hậu phương Hoan
Diễn trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông:
Cối Kê cựu sự quân tu ký
Hoan, Diễn do tồn thập vạn binh
Dưới triều Lý, Nghệ An là phên giậu phía Nam của quốc gia Đại Việt
nên thường phải đối phó với các cuộc xâm lấn của quân Chiêm Thành và Chân
Lạp. Đặc biệt, trong vài thập niên đầu thế kỷ XII, quân Chiêm Thành và Chân
Lạp thường xuyên tràn ra cướp phá các địa phương Nghệ An.
Là địa bàn “xung yếu giữa Nam và Bắc”, trong các thế kỷ X - XIV, Nghệ
An đã làm tròn sứ mệnh mà lịch sử giao phó, xứng đáng là "thành đồng, ao

25


×