Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tình hình của TTCK tại Viẹt Nam những năm gần đâyvà tổng quan về thị trường chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.25 KB, 21 trang )

I/LỜI MỞ ĐẦU

Hệ thống thò trường tài chính luôn được xem là trung tâm của nền kinh
tế quốc dân. Nó được ví như một trái tim hoạt động không mệt mỏi để bơm
vốn từ nơi dư thừa đến nơi thiếu, giúp các hoạt động kinh tế trong toàn xã hội
diễn ra một cách suôn sẻ với hiệu suất cao nhất. Hệ thống thò trường tài
chínhlà một cơ cấu hết sức phức tạp, bao gồm nhiều bộ phận cấu thành. Ở
đây chúng ta chỉ điểm qua đôi nét về thò trường tài chính và sau đó sẽ đi sâu
tìm hiểu một bộ phận không thể thiếu được của nó là thò trường chứnh
khoán, đăïc biệt là thò trường chứng khoán tập trung.

II/MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nhằm nói lên tình hình của TTCK tại Viẹt Nam những năm gần đây
và tổng quan về thò trường chứng khoán

III/

ĐỐI TƯNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Hai trung tâm giao dòch chứng khoán Hà Nội và TP.HCM những năm
2003-2005

IV/

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1


Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên
cứu, cụ thể :
 Nghiên cứu cơ sở khoa học của hoạt động ĐTNN tại Việt


Nam trong hai năm 2003 và 2004
 Sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, kết hợp với trừu
tượng hố để mơ tả, đánh giá thực trạng của hoạt động ĐTNN tại Việt
Nam trong hai năm qua, từ đó rút ra những kết luận khả quan .

A/

THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ VỊ TRÍ CỦA THỊ TRƯỜNG

CHỨNG KHOÁN TRONG THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

Các quocá gia trên thò trường thế giới có nền kinh tế phát triển đều có
hệ thống thò trường tài chính hoạt động tốt. Thò trường tài chính đã góp phần
thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng nền kinh tế các nướckể cả ở những quốc
gia mà tài nguyên thiên nhiên rất nghèo nàn. Một thò trường tài chính năng
động sẽ là một thứ tài nguyên bất tận, có khả năng làm tăng thêm sức mạnh
cho nền kinh tế hơn bất cứ loại tài nguyên nào,bất kể trữ lượng bao nhiêu.

Thò trường tài chính là tổng hoà các mối quan hệ cung cầu về vốn,
diễn ra với hình thức vay mượn, mua bán về vốn,tiền tệ và các chứng từ có
giá nhằm chuyển dòch về nơi cung cấp đến nơi có nhu cầu về vốn cho các
hoạt động kinh tế. Một hệ thống thò trường tài chính hoàn chỉnh phải bao
gồm hệ thống thò trường tiền tệ hoạt động chủ yế thông qua hệ thống ngân
2


hàng, kho bạc, các công ty tài chính và các công ty tài chính và hệ thống thò
trường vốn, trong đóthò trường chứng khoán là một đònh chế tài chính giữ vai
trò quan trọn. Việc phân ra hai loại thò trường cơ bản như trên căn cứ vào
tính chất, chức năng và phương thức hoạt động của các chủ thể tài chính và

các công cụ tài chính giao dòch trên thò trường tài chính:

+

Thò trường tiền tệ: Là nơi mà các công cụ nợ ngắn hạn (thường có thời

gian đáo hạn dưới 1 năm)được mua bán với số lượng lớn. Các công cụ nợ
ngắn hạn lưu hành trên thò trường tiề tệ do Nhà nướ, các ngân hàng, các công
ty lớn phát hành,có đặc điểm là tính thanh khoản cao và rủi ro thanh toán
thấp. Các công cụ nợ của thò trường tiền tệ bao gồm giấy tờ có giá ngắn hạn
như thương phiếu, kỳ phiếu thương mại,các phiếu thuận trả,các cam kết mua
lại, các loại chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng…

+

Thò trường vốn: Là nơi mà những công cụ vốn,công cụ nơ trung và dài

hạn(thường có thời gian đáo hạn trên 1 năm)do các tổ chức Nhà nước và các
công ty phát hành được trao đổi, mua bán, chuyển nhượng theo quy đònh của
pháp luật. Các trái phiếu dài hạn và các cổ phiếu đều được giao dòch trên thò
trường này.

Việc phân đònh các bộ phận trên thò trường tài chính chỉ là biện pháp
để thuận lợi cho quá trình nghiên cứu từng loại thò trường. Trên thực tế, rất
khó có thể xác đònh rõ ranh giới đâu là khu vực của thò trường tiền tệvà đâu
3


là phạm vi hoạt động của thò trường vốn. Hai thò trường này có mối quan hệ
hữu cơ với nhau. Các biến đổi về giá cả, lãi suất trên thò trường tiền tệ

thường kéo theo các biến đổi trực tiếp trên thò trường vốn ,mà cụ thể là thò
trường chứng khoán.Ngược lại những biến động trên thò trường chứng
khoán ,trò giá cổ phiếu cũng ảnh hưởng đến thò trường tiền tệ.

B/ CẤU TRÚC CƠ BẢN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1) Thò trường sơ cấp (Primary market):

Thò trường sơ cấp là nơi các chứng khoán được phát hành và phân
phôùi lần đầu tiên cho các nhà đầu tư. ở thò trường sơ cấp,các chứng khoán
vốn và chứng khoán nợ được mua bán theo mệnh giá cua nhà phát hành.Phát
hành ra công chúng lần đầu(Initial Public Offering – IPO) la đợt phát hành
và phân phối chứng khoán lần dầu tiên của một công ty cho rộng rãi công
chúng đầu tư. Đây là giai đoạn đòi hỏi khả năng nghiệp vụ ,trình độ chuyên
môn cao và chính xác, vì nếu tính toán xác đònh không đúng các điều kiện
phát hành thì đợt phát hành có thể bò thấ bại.Việc không phân phối hết
chứng khoán sẽ gây tổn thất tài sản và làm mất uy tín của tổ chức phát hành.

Việc xây dựng một thò trường sơ cấp hoạt động hiệu quả với lượng
hàng hoá đa dạng,phong phú, hấp dẫn công chúng và các nhà đầu tư,có ý
nghóa quyết đònh cho việc hình thành và phát triển thò trường thứ cấp. Pháp
4


luật về phát hành chứng khoán thường quy đònh các điều kiện phát hành
chứng khoán ra công chúng tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của từng nước.
Tuy nhiên, việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải đảm bảo một số
điều kiện cơ bản như:

+


Quy mô về vốn: Các tổ chức phát hành phải đáp ứng được yêu cầu

về vốn điều lệ tối thiểu ban đầu, tỷ lệ vố cổ phầnn do công chúng đầu tư
ngoài tổ chức phát hành nắm giữ và số lượng công chúng tham gia mua

+

Về hiệu quả hoạt động sản suất, kinh doanh: Hoạt động sản suất kinh

doanh của công ty có lãi khônh thấp hơn mức quy đònh, tronh một số năm
nhất đònh;

+

Về mục đích phát hành: Tổ chứ phát hành phải lập dự án khả thi về việc

sử dụng nguồn vốn thu được từ đợt phát hành;

+

Về năng lực chuyên môn, điều hành: Hội đồng quản trò và Ban điều hành

phải có đủ năng lực và trình đọ quản lý các hoạt động sản suất của công ty;

+

Về tỷ lệ nắm giữ và thời gian nắm giữ cổ phiếu của cổ dông sáng lập:

Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ một tỷ lệ cổ phiếu nhất đònh
tronh một khoảng thời gian nhất đònh(đối với cổ phiếu)


5


Chứng khoán được phân phối ở thò trường sơ cấp thường qua các
phương thức bảo lãnh phát hành như:

_ Bảo lãnh với cam kết chắc chắn;

_ Bảo lãnh với cố gắng cao nhất;

_ Bảo lãnh theo phương thức tất cả hoặc không.

2) Thò trường thứ cấp(Secondary market):

Là thò trường mua đi bán lại các loại chứng khoán đã dược phát hành ở
thò trường sơ cấp, lúc này chứng khoán trở thành một loại hành hoá đặc
biệt.trên thò trường thứ cấp,hoạt động mua bán chứng khoán đã phát hành
trên thò trường sơ cấp diễn ra giữa các nhà đầu tư với nhau mà không làm
tăng thêm quy mô đầu tư vốn, không thu hút thêm được nguồn tài chính mới.
Khác với thò trường sơ cấp có chức năng huy động vốn đầu tư,thò trường thứ
cấp xét vế bản chất, là nơi luân chuyển các nguồn vốn đã đầu tư. Nếu ở thò
trường sơ cấp, chứng khoán duoc9775 mua bán theo mệnh giá ghi trên các
chứng khoán thì ở thò trường thứ cấp, giá chứng khoán được xác đònh ở các
yếu tố sau:

_ Quan hệ cung cầu trên thò trường;
6



_ Giá trò thực tế của doanh nghiệp;

_ Uy tín của doanh nghiệp;

_ Xu thế phát triển của doanh nghiệp;

_ Tâm lý của người mua bán chứng khoán ở những thời điểm nhất đònh;

_

Các thông tin, tin đồn về hoạt động của doanh nghiệp;

_ Tình hình ổn đònh của nền kinh tế.

Giữa thò trường thứ cấp và thò trường sơ cấp có moiá quan hệ nhân quả
phụ thuộc lẫn nhau. Sẽ không có thò trường thứ cấp nếu không có thò trường
sơ cấp. Thò trường thứ cấp phồn vinh sẽ thúc đẩy thò trường sơ cấp phát triển,
thò trường thứ cấp tiêu điều vắng vẻ thì thò trường sơ cấp sẽ giảm sút và bò
thu hẹp. Phân biệt thò trường sơ cấp và thò trường thứ cấp chỉ có ý nghóa về
mặt lý thuyết. Trong thực tế, ranh giới giữa thò trường sơ cấp và thò trường
thứ cấp đôi khi không rõ ràng, nghóa là trong một thò trường chứng khoán vừa
có giao dòch của thò trường sơ cấp vừa có giao dòch của thò trường thứ cấp. Đó
là lý do để gọi hai thò trường này là cơ cấu của thò trường chứng khoán.

7


Xét về phương thức tổ chức và giao dòch,thò trường chứng khoán được
phân chia thành hai loại:


a.

Sở giao dòch chứng khoán(thò trường chứng khoán tập trung):

Sở giao dòch chứng khoán không tham gia vào việc mua bán chứng
khoán mà chỉ là nơi giao dich, một trung tâm tạo điều kiện thuận lợi cho các
giao dòch được tiến hành một cách thuận lợi,dễ dàng, giảm thấp các chi phí
bằng cách đưa ra những luật lệ phù hợp . Sở giao dòch không có trách nhiệm
ấn đònh hoặc can thiệp vào giá cả chứng khoán mà chỉ đảm bảo sao cho việc
mua bán chứng khoán hoặc việc đấu thầu được diễn ra đúng pháp luật, công
bằng. Hay nói khác đi, Sở giao dòch chứng khoán là một cơ quan thực hiện
chức năng quản lí, điều hành các hoạt động diễn ra trên thò trường giao dòch
tập trung nhằm tạo điều kiện để các giao dòch được thực hiện công bằng,
minh bạch và đúng pháp luật. Sở giao dòch chứng khoán là nơi gặp gỡ của
các nhà môi giới chứng khoán để thương lượng, đấu giá, mua bán chứng
khoán, là cơ quan phục vụ cho mọi hoạt động giao dòch mua bán chứng
khoán. Sở giao dòch chỉ cho các thành viên thuê đòa điểm để mua bán giao
dòch chứng khoán và thực hiện niêm yết chứng khoán, tứ là đưa ra danh sách
của các loại chứng khoán được mua bán trên thò trường. Sở giao dòch chứng
khoán là nơi tập trung các giao dòch chứng khoán một cách có tổ chức, tuân
theo những luật lệ nhất đònh. Vai trò của sở giao dòch chứng khoán rất quan
trọng, nếu được tổ chức tốt sẽ thúc đẩy sự phát triển của thò trường chứng
8


khoán, đó là sự thúc đẩy việc thu hút và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi
vào đầu tư, đảm bảo an toàn và tính công bằng trong việc mua bán chứng
khoán, cụ thể là:

+ Cung cấp dòch vụ, giúp các công ty cổ phần đăng kí chứng khoán của họ

trên thò trường để những hàng hoá này đủ điều kiện giao dòch trong Sở;

+

Tổ chức việc giao dòch chứng khoán cho các nhà kinh doanh và những

người môi giới, giúp thực hiện nhanh chóng, thuận lợi các cuộc mua bán
chứng khoán theo lệnh của khách hành;’

+ Cung cấp rộng rãi nguồn thông tin của các công ty phát hành theo luật
công bố thông tin cho nhà đầu tư, các công ty chứng khoántrên những
phương tiện thông tin:

+

Nhận bảo quản chứng khoán của khách hàng gửi, thu cổ tức hộ khách

hàng;

+ Thực hiện việc kiểm tra, giám sát các hoạt động giao dòch chứng khoán.

b) Thò trường phi tập trung (Over-The-Counter-Market-Thò trường
OTC):

9


Tại hầu hết các nước, bên cạnh thò trường giao dòch tập trung (Sở giao
dòch chứng khoán) nơi diễn ra các hoạt động giao dòch chứng khoán của
những công ty lớn đã qua nhiều năm thử thách trên thò trường, còn có thò

trường phi tập trung (OTC) dành cho việc giao dòch chứng khoán của những
công ty vừa và nhỏ chưa hội đủ các điều kiện niêm yết trên thò trường giao
dòch tập trung. Thò trường OTC đại diện cho một thò trường thương lượng, nơi
mà người bán và người mua trực tiếp thương lượng với nhau về những điều
kiện chủ yếu của giao dòch như số lượng, giá cả… Thông thường, thò trường
giao dòch tập trung được thành lập trước, sau đó nhiều năm, thò trường OTC
mới được khởi động, vì việc thành lập thò trường OTC đòi hỏi nhiều vấn đề
như kinh phí, trang bò kỹ thuật và vấn đề giám sát. Điểm khác nhau cơ bản
giữa Sở giao dòch chứng khoán và thò trường OTC là tại Sở giao dòch, những
giao dòch chứng khoán niêm yết diễn ra trong đám đông trên sàn giao dòch,
đấu giá công khai; trong khi tren thò trường phi tập trung, các giao dòch được
đàm phán trực tiếp qua điện thoại. Chứng khoán giao dòch trên thò trường
OTC không đòi hỏi các tiêu chuẩn như ở Sở giao dòch chứng khoán, chỉ cần
chứng khoán đã phát hành nhưng theo quy đònh của pháp luật chưa được
đăng ký niêm yết giá ở Sở giao dòch chứng khoán. Ở một số nước, cơ quan
quản lý thò trường OTC thường là Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
quốc gia. Hiệp hội này ban hành quy chế thò trường,kết nạp và khai trừ thành
viên, giám sát việc thi hành quy chế. Thành viên của Hiệp hội cũng là thành
viên của thò trường.

10


C/

CÁC CHỦ THỂ THAM GIA THỊ TRƯỜNG CHỨNG

KHOÁN

Trong hoạt động của thò trường chứng khoán có nhiều loại chủ thể

khác nhau tham gia, hoặc là bán chứng khoán hoặc là mua chứng khoán,
hoặc chỉ làm trung gian môi giới cho hai bên mua bán để hưởng hoa hồng
môi giới. Bên cạnh đó,còn có các chủ thể là Nhà nước ,người tỗ chức thò
trường và các tổ chức phụ trợ.

+ Các doanh nghiệp:

Các doanh nghiệp tham gia thi trường với tư cách là người tạo ra hàng
hoá ở thò trường sơ cấp, và mua bán lại các chứng khoán ở thò trường thứ cấp.
Doanh nghiệp là công ty cổ phần có vò trí quan trọng nhất, nó tạo ra một khối
lượng hàng hoá lớn qua việc phát hành cổ phiếu để bán lần đầu ở thò trường
sơ cấp, nhằm tạo vốn cho công ty mới thành lập, hoặc phát hành bổ sung để
tăng vốn phục vụ cho quá trình sản suất kinh doanh của công ty. Công ty cổ
phần không chỉ là chủ thể bán chứng khoán, mà nó cũng là người mua chứng
khoán do các công ty phát hành với nhiều mục đích khác nhau như đầu tư
vào cổ phiếu của các công ty khác, mua bán chứng khoán của chính mình
hoặc tham gia các hoạt động mang tính tiêu cực như: thủ tiêu đối thủ cạnh
tranh hoặc khống chế,thao túng nhằm nắm quyền kiểm soát công ty…Các
doanh nghiệp khác cũng có thể phát hành thêm trái phiếu, hoặc cũng có thể
11


là những chủ thể mua bán chứng khoán hoặc tạo ra tính thanh khoản cho
những chứng khoán của mình.

+ Các nhà đầu tư riêng lẻ:

Là chủ thể quan trọng tham gia thò trường chứng khoán với tư cách là
người mua bán chứng khoán, họ là những người có tiền tiết kiệm và muốn
đầu tư số tiền dể dành của mình vào chứng khoán để hưởng lợi tức hàng

năm. Họ cũng là người bán lại chứng khoán của mình trên thò trường chứng
khoán để rút vốn trước thời hạn hoặc để có những khoản chênh lệnh giá. Họ
tham gia thò trường bằng nhiều cách khác nhau, có thể là trực tiếp hoặc gián
tiếp.

+ Các tổ chức tài chính:

Các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí, quỹ tương hỗ tham gia thò
trường chứng khoán với tư cách vừa là người mua vừa là người bán để tìm
kiếm lợi nhuận thông qua hình thức nhận cổ tức, lãi trái phiếu, hoặc tìm kiếm
giá thặng dư, hoặc tìm kiếm thanh khoản. Vai trò của các tổ chức này ở các
nước có thò trường chứng khoán phát triển ngày càng to lớn. Các ngân hàng
thương mại tham gia thò trường chứng khoán với tư cách là người phát hành
cổ phiếu để tạo nguồn vốn khi mới thành lập hoặc tăng vốn bổ sung, cũng
như phát hành trái phiếu để huy động vốn. Ngân hàng thương mại còn thực
hiện các nhiệm vụ trên thò trường chứng khoán như tư vấn về phát hành, làm
12


đại lí phát hành để hưởng hoa hồng, hoặc bảo lãnh phát hành toàn bộ để
hưỡng phí bảo lãnh.

Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn thực hiện các nhiệm vụ khác với
tư cách là nhà trung gian môi giới chứng khoán như: mua bán chứng khoán
như khách hàng để hưởng phí hoa hồng; lưu giữ chứng khoán; nhận và trả cổ
tức cho khách hàng; làm dòch vụ thanh toán chứng khoán.

+ Nhà môi giới và kinh doanh chứng khoán:

Nhà môi giới là những người trung gian thuần tuy, họ hoạt động như

các đại lý cho những người mua bán chứng khoán. Sự tham gia của họ trên
thò trường chứng khoán góp phần đảm bảo các loại chứng khoán giao dòch
trên thò trường là chứng khoán thực, giúp cho thò trường hoạt động lành
mạnh, đều đặn, hợp pháp, phát triển và bảo vệ lợi ích cho nhà đầu tư.Người
kinh doanh chứng khoán là người thực hiện việc mua bán chứng khoán cho
chính bản thân mình nhằm mục tiêu lợi nhuận. Đây là lónh vực kinh doanh có
nhiều rủi ro lớn, nếu giá các chứng khoán tăng lên,người kinh doanh có lời,
ngược lại thì bò lỗ. Các công ty chứng khoán thường làm cả hai nghiệp vụ là
môi giới để hưởng phí hoa hồng, và tự kinh doanh để tìm chênh lệch giá.

+ Người tổ chức thò trường:

13


Là người cung cấp đòa điểm và phương tiện để phục vụ cho việc mua
bán chứng khoán, đó là sở giao dòch chứng khoán. Ngoài ra, người tạo lập thò
trường còn thực hiện chức năng quản lý, điều hành các hoạt động diễn ra tại
đây nhằm đảm bảo sự minh bạch, công bằng trong giao dòch chứng khoán.

+ Nhà nước:
Nhà nước là đối tượng tham gia thò trường chứng khoán với hai tư cách
khác nhau:

_ Sự tham gia của Nhà nước đảm bảo cho thò trường được hoạt động theo
đúng các quy đònh của pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, đảm
bảo cho thò trường được hoạt động công bằng, công khai, trật tự, tránh những
tiêu cực có thể xảy ra.

_ Nhà nước còn tham gia thò trường chứng khoán với tư cách là người cung

cấp hàng hoá cho thò trường. Nhà nước tạo hàng hoá cho thò trường chứng
khoán thông qua việc Chính phủ hoặc chính quyền đòa phương phát hành trái
phiếu để vay nợ từ nhân dân và các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước ở thò
trường sơ cấp, nhằm phục vụ cho các mục tiêu đã đề ra. Ở thò trường thứ cấp,
Nhà nước đóng vai trò là người mua bán chứng khoán của các doanh nghiệp
trong các trường hợp như: Nhà nước muốn nắm tỷ lệ cổ phần chi phối ở một
mức nào đó đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước muốn quản lý, hoặc
ngược lại.
14


D/

CÁC TRUNG TÂM GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TẠI

VIỆT NAM
Hiện nay nước ta có hai trung tâm chứng khoán lớn là trung tâm giao
dòch chứng khoán Hà Nội và trung tâm giao dòch chứng khoán TP Hồ Chí
Minh

1) Trung tâm giao dòch chứng khoán Hà Nội:

Cuối cùng Trung tâm giao dòch chứng khoán Hà Nội(TTGDCK HN)
cũng sẽ đi vào hoạt động từ ngày 8/3/2005 sau 4 năm chờ đợi. Theo ông
Trần Văn Dũng, Giám đốc TTGDCK HN, việc ra đời TTGDCK HN sẽ góp
phần bổ sung và làm cho TTCK Việt Nam phát triển và hoàn chỉnh hơn.
Những hoạt động đấu giá cổ phần cũng như tổ chức hoạt động giao dòch thò
trường thứ cấp cho các chứng khoán chưa niêm yết sẽ là hai lónh vục chính
mà trung tâm triển khai ngay sau khi đi vào khai trương.


Theo quy đònh, các doanh nghiệp thực hiện bán đấu giá cổ phiếu lần
đầu ra công chúng theo Nghò đònh 187/CP có khối lượng cổ phần bán ra công
chúng từ 10 tỷ đồng trở lên phải thực hiện đấu giá qua TTGDCK. Tuy nhiên,
với các DN có khối lượng cổ phần bán ra trên 1 tỷ đồng đến dưới 10 tỷ đồng
được đấu giá qua các tổ chức tài chính trung gian song Bộ tài chính khuyến
15


khích các DN này tổ chức đấu giá thông qua TTGDCK. Các DN đã cổ phần
hoá thực hiện bán bớt phần sở hữu Nhà nước, các DN thực hiện huy động
thêm vốn để tăng vốn điều lệ mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng có nhu cầu
cũng được đấu giá qua TTGDCK. Bên cạnh đó, TTGDCK HN còn tổ chức
đấu thầu trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền đòa phương để huy
động vốn theo chương trình kế hoạch của Bộ tài chính và chính quyền các
đòa phương.

Tuy nhiên, theo ông Dũng, tại thời điểm này đang là thời điểm giao
thời thực hiện Nghò đònh 64 và Nghò đònh 187. Chính vì vậy hàng hoá cho
trung tâm những ngày đầu chưa thể dồi dào mặc dù số lượng DN Nhà nước
phải cổ phần hoá trong năm 2005 lên tới 1.500 DN và 30% trong số đó phải
tổ chức bán đấu giá cổ phần qua TTGDCK.

Trước mắt, ngay sau ngày khai trương, ba DN sẽ bán đấu giá tại
TTGDCK HN. Chiều ngày 8/3/2005, trung tâm sẽ tổ chức phiên đấu giá đầu
tiên cho nhà máy thiết bò bưu điện (Postef). Phiên đấu giá cổ phần của nhà
máy thuỷ điện Vónh Sơn-Sông Hinh sẽ diễn ra sau đó 2 ngày (ngày
10/3/2005)và Điện lực Khánh Hoà dự kiến đấu giá vào ngày 17/3/2005.

Cùng với hoạt động đấu giá cổ phần, TTGDCK HN sẽ tổ chức giao dòch
cho những chứng khoán chưa niêm yết. Theo khẳng đònh của ông Dũng, hoạt

động này sẽ khai trương vào giữa năm 2005, khi hàng hoá cho thò trường đã
16


được chuẩn bò đầy đủ. “Chúng tôi hy vọng là Hà Nội sẽ có 5 DN và 3 DN
Hải Phòng tham gia đăng ký giao dòch tại TTGDCK HN”, ông Dũng nhấn
mạnh.

Các loại chứng khoán đăng kí giao dòch tại TTGDCK HN bao gồm cổ
phiếu, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đòa phương, trá phiếu DN chưa niêm
yết. Theo quy đònh, điều kiện và thủ tục đăng ký giao dòch được giảm
thiểu.Với cổ phiếu điều kiện đăng ký giao dòch chỉ gồm DN cổ phần có vốn
từ 5 tỷ đồng trở lên, có ít nhất 50 cổ đông, có tình hình tài chính lành mạnh.
Hồ sơ đăng ký giao dòch gồm đơn đăng ký giao dòch, báo cáo tài chính một
năm được kiểm toán.

Đây cũng là kết quả lô gíc của những đợt nghiên cứu trước đây. Nếu
không thay đổi mô hình thì chắc HN sẽ khó khăn ở chỗ nếu chỉ phục vụ DN
vừa và nhỏ từ 5-10 tỷ đồng thì rất ít DN tham gia nêm yết trên TTGDCK
HN. Nhưng HN lại có cơ chế hỗ trợ đặc biệt phát triển TTGDCK HN. Thành
phố HN có quyết đònh hỗ trợ cho 6 DN sẽ tham gia đăng ký giao dòch tại
TTGDCK HN trong giai đoạn đầu với số tiền khoảng 100 triệu đồng.
2) Trung tâm giao dòch chứng khoán TP HCM:

Tuy đã thành lập được mấy năm song kết quả chưa đạt được như mong
muốn vì đầu tư vào chứng khoán đã chưa đem lại lợi nhuận cao hơn những
ngành khác và chỉ có lợi nhuận mới làm thò trường chứng khoán khởi sắc.
17



Nếu xét về cơ sở vật chất thì với những nổ lực của Chính phủ, của các
chủ thể tham gia TTCK, chúng ta có thể xây dựng được một hệ thống giao
dòch đủ khả năng kết nối,mà theo ông Trần Đắc Sinh, Giám đốc TTGDCK
TP.HCM là “ có thể trong thời gian sắp tới,trung tâm sẽ được trang bò hệ
thống giao dòch hiện đại nhất trên thế giới”.Nhưng nói về con người thì phải
thẳng thắn thừa nhận rằng,nhân sự điều hành và tác nghiệp trên thò trường
chứng khoán của VN còn quá non nớt về nghề nghiệp và kinh nghiệm so với
các TTCK khác trong khu vực. Các sàn giao dòch triền miên vắng khách; quá
nửa nhà đầu tư thua lỗ và rời bỏ TTCK. Con số thống kê của TTGDCK là số
tài khoản đã mở trên TTCK lên tới gần 20.000, nhưng thực chất lượng giao
dòch chỉ một vài tỷ đồng/ngày diễn ra gần một năm qua, dễ dàng nhận thấy,
số tài khoản đang hoạt động chỉ còn vài trăm, không thể đo bằng đơn vò
nghìn. Theo đánh giá của ông Trần Du lòch,Viện trưởng Viện kinh tế
TP.HCM thì TTCK Việt Nam còn phát triển ở mức độ rất thấp, những chỉ
tiêu phát triển cơ bản của TTCK chưa được thể hiện một cách rõ nét. Có một
thực tế đáng báo động là càng đưa thêm cổ phiếu vào thì danh sách cổ phiếu
ít có giao dòch ngày càng nhiều lên.

Đội ngũ chuyên nghiệp của TTCK là các công ty chứng khoán (CTCK)
tuy có tăng về số lượng (13 công ty),nhưng chất lượng lại không có chuyển
biến đáng kể. Trong 5 chức năng hoạt động, các CTCK vẫn chủ yếu kinh
doanh bằng hoạt động môi giới (hình thức kinh doanh đơn giản nhất) và hầu
như không thể tự nuôi sống bằng chính nghề của mình. Các nghiệp vụ chính
18


như bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán còn bò bỏ ngỏ, bởi ngay
cả các CTCK cũng chưa đủ “dũng khí” bỏ vốn kinh doanh cổ phiếu thì không
thể phát trểin mảng hoạt động này. Theo góc nhìn của ông Huy Nam,
chuyên viên kinh tế tại TP.HCM, thời gian qua, nhiều CTCK dã tỏ ra năng

động, nhưng gần như họ mới “thực hành chức năng”, xoay sở kiếm sống, chứ
chưa có khai thác chiều sâu nghiệp vụ và làm dòch vụ chuyên ngành chứng
khoán.

Cung cách điều hành, quản lý TTCK cũng không có chuyển biến rõ
nét, mà cụ thể là còn mang tính thụ động, chưa đi sâu, đi sát với diễn biến
của thò trường. Theo đánh giá của nhà đầu tư, các nhà quản lý TTCK hiện
nay vẫn chỉ chú tâm đến việc đưa hàng hoá vào niêm yết, hầu như không
quan tâm đến những diễn biến thường nhật của TTCK. Thực ra, việc theo dõi
và làm trong sạch những diễn biến thường nhật trên TTCK là rất quan trọng
để tạo niềm tin đối với người tham gia. Tuy nhiên, ngay đại diện cơ quan
quản lý TTCK đã từng thừa nhận rằng, công tác thanh tra, giám sát trên
TTCK còn nhiều yếu kém. Với một thực lực như vậy, việc đầu tư xây dựng
một TTGDCK có hệ thống giao dòch hiện đại nhất thế giới liệu có giúp Việt
Nam trỗi dậy hay không?
Theo quyết dònh số 163/2003/QĐ-TTg ngày 5/8/2003 Thủ tướng Chính
Phủ đề ra một số chỉ tiêu phát triển TTCK Việt Nam như sau: đưa quy mô
TTCK từ 2-3% GDP năm 2005 lên 10-15% năm 2010. Bên cạnh đó, để
chuẩn bò cho quá trình hội nhập TTCK, ngày 27/7/2004 vừa qua, Thủ tướng
19


Chính phủ đã kí Bản thoả thuận về “Kết nối thò trường tài chính” với
Singapore, trong đó đề cập 4 nội dung chính: từng bước kết nối TTCK Việt
Nam với Sở giao dòch chứng khoán Singapore; niêm yết một số công ty của
Việt Nam trên TTCK của Singapore; phát triển thò trường giao dòch hàng hoá
tương lai; đào tạo nguồn nhân lực trong lónh vực tài chính và thò trường vốn.
Quá trình hội nhập trong tương lai của TTCK Việt Nam là điều không
thể khác, nhưng đến bao giờ chúng ta mới có thể liên kết, hội nhập? Câu hỏi
này chưa tìm được câu trả lời, ít nhất là trong cuộc hội thảo trên.


V/ KẾT LUẬN

Việc TTCK Hà Nội được khai trương sẽ giúp cho TTCK của Việt Nam
thêm phần khởi sắc. Mặt khác việc cổ phần hoá của doanh nghiệp nhà nước
cũng như việc cho phép các ngân hàng thương mại Nhà nước và các nhân
hàng thương mại cổ phần được niêm yết cổ phần của mình lên sàn chứng
khoán sẽ giúp cho TTCK được thêm nhiều hàng hoá nhờ thế mà việc giao
dòch sẽ sôi động. Người mua có nhiều cơ hội để lựa chọn đầu tư và việc huy
động vốn qua TTCK sẽ giúp cho việc huy động vốn phục vụ cho việc sản
xuất kinh doanh thêm phần thuận lợi.

Chúng ta mong đợi TTCK Việt Nam sẽ làm tốt được vai trò của mình
cho nền kinh tế của đất nước nhất là trong giai đoạn “Hội nhập” hiện nay.
Chúng ta cũng mong đợi các giới hữu quan tạo điều kiện thuận lợi cho trung
20


tâm chứng khoá được phát triển và Chính phủ sẽ đào tạo được nhiều chuyên
viên cho TTCK.

21



×