Tải bản đầy đủ (.docx) (75 trang)

RÈN LUYỆN kỹ NĂNG NGHỊ LUẬN về vấn đề xã hội đặt RA TRONG tác PHẨM văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.11 KB, 75 trang )

Hội thảo Duyên Hải Bắc Bộ - Môn Ngữ Văn
Năm học 2014 – 2015

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NGHỊ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
ĐẶT RA TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC

NHÓM TÁC GIẢ: Nhóm Văn chuyên
Trường THPT…………………………………..

………………….., tháng 08.2015
1


MỤC LỤC
NỘI DUNG
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
II. Mục đích của đề tài
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Lý thuyết
1. Khái niệm
1.1. Nghị luận
1.2. Nghị luận xã hội
1.3. Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
2. Các dạng đề
2.1. Dạng đề nghị luận về tư tưởng đạo lý rút ra từ tác phẩm văn học
2.2. Dạng đề nghị luận về hiện tượng đời sống rút ra từ tác phẩm văn học
2.3. Dạng đề nghị luận về nhiều vấn đề xã hội rút ra từ tác phẩm văn học
3. Kỹ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
3.1. Tìm hiểu đề và tìm ý
3.1.1. Tìm hiểu đề


3.1.2. Tìm ý
3.2. Lập dàn ý
3.2.1. Dạng đề nghị luận về tư tưởng đạo lý rút ra từ tác phẩm văn học
3.2.2. Dạng đề nghị luận về hiện tượng đời sống rút ra từ tác phẩm văn học
3.2.3. Dạng đề nghị luận về nhiều vấn đề xã hội rút ra từ tác phẩm văn học
3.3. Hướng dẫn viết bài và sửa chữa, đánh giá
3.3.1. Hướng dẫn viết bài
3.3.2. Đánh giá và sửa chữa bài viết.
II. Thực hành
1. Dạng đề nghị luận về tư tưởng đạo lý rút ra từ tác phẩm văn học
1.1. Một số đề minh họa
1.2. Gợi ý hướng dẫn một số đề minh họa
2. Dạng đề nghị luận về hiện tượng đời sống rút ra từ tác phẩm văn học
2.1. Một số đề minh họa
2.2. Gợi ý hướng dẫn một số đề minh họa
3. Dạng đề nghị luận về nhiều vấn đề xã hội rút ra từ tác phẩm văn học
3.1. Một số đề minh họa
3.2. Gợi ý hướng dẫn một số đề minh họa
C. PHẦN KẾT LUẬN
D. PHỤ LỤC (Một số bài văn minh họa của học sinh)
E. THƯ MỤC THAM KHẢO

TRANG
1
1
2
4
4
4
4

4
5
7
7
8
9
10
10
10
10
11
11
12
12
13
13
14
14
14
14
19
24
24
29
34
34
40
52
53
71

2


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Nghị luận xã hội là một thể văn quan trọng hướng tới việc tìm hiểu, phân tích,
bàn bạc về những vấn đề liên quan đến các mối quan hệ phức tạp của con người trong
đời sống xã hội. Việc làm văn nghị luận xã hội sẽ giúp mài sắc năng lực nhận thức về
cuộc sống, đồng thời giáo dục về tư tưởng đạo đức cho học sinh. Học sinh trung học
phổ thông đã có những hiểu biết nhất định về các vấn đề xã hội nên khi được bày tỏ suy
nghĩ, chính kiến về các vấn đề này, các em thường rất hứng thú. Đưa văn nghị luận xã
hội vào chương trình Ngữ văn là một nỗ lực nhằm đổi mới bộ môn Ngữ văn theo hướng
thiết thực, bám sát đời sống, phát huy năng lực tư duy, sáng tạo ở học sinh. Từ năm học
3


2006-2007, cùng với bộ Sách giáo khoa Ngữ văn mới, văn nghị luận xã hội đã được đưa
vào giảng dạy trong chương trình. Từ năm 2008 đến nay, nghị luận xã hội luôn xuất
hiện trong các đề thi tốt nghiệp, tuyển sinh đại học, chọn học sinh giỏi và chiếm số
điểm tương đối cao (với đề thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học là 3/10 điểm, với
đề thi chọn học sinh giỏi các cấp thường là 8/20 điểm).
Đề nghị luận xã hội trong nhà trường phổ thông được phân chia thành ba dạng
chính:
- Bàn về vấn đề tư tưởng đạo lý thông qua những nhận xét, phán đoán về tinh
thần, tình cảm, tư tưởng, đạo lý, lối sống;
- Bàn về hiện tượng, con người, sự việc có thật trong cuộc sống ở mọi phương
diện, khía cạnh của nó;
- Bàn về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.
Trong ba dạng đề này, dạng thứ ba là dạng đề khó nhất, thách thức nhất, đòi hỏi
học sinh tổng hợp nhiều kiến thức, kỹ năng, tư duy nhất. Dạng bài này khiến học sinh

dễ lẫn với bài nghị luận văn học vì buộc phải đi qua khâu tìm hiểu, phân tích tác phẩm
để xác định vấn đề cần nghị luận. Nhưng nếu yêu cầu của nghị luận văn học là bàn bạc,
phân tích để đánh giá những đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của văn bản tác phẩm; thì
yêu cầu của dạng đề nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là nhằm
rút ra và làm sáng tỏ vấn đề xã hội được đặt ra ở tác phẩm đó trước khi tiến hành nghị
luận ở phần chính. Vì thế, nếu khi làm bài nghị luận văn học, người viết cần cắt nghĩa,
phẩm bình cái hay, cái đẹp của các yếu tố của văn bản như ngôn ngữ, hình tượng về cả
hai phương diện nội dung ý nghĩa và hình thức nghệ thuật; thì khi làm bài nghị luận xã
hội, người viết chỉ cần chú ý đến mặt nội dung, cụ thể là những tư tưởng, đạo lý, hiện
tượng đời sống, những bài học cuộc sống quý giá… được tác giả gửi gắm qua tác phẩm.
Có thể nói, đây là dạng đề đắc dụng trong công tác kiểm tra, tuyển lựa và bồi
dưỡng học sinh giỏi, góp phần mài sắc tư duy tổng hợp và kiến thức văn học, đặc biệt là
kiến thức đời sống của học sinh. Rèn luyện dạng đề này là một công tác vô cùng quan
trọng và cần thiết để bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp.
II. Mục đích của đề tài
Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là dạng đề thường
xuyên xuất hiện trong các đề thi chọn học sinh giỏi và có thể là trong các đề thi tuyển
sinh Đại học những năm tới; nhưng đôi khi, nó còn chưa được chú trọng trong nhà
4


trường THPT. Vì vậy, với đề tài này, chúng tôi muốn nhấn mạnh vai trò quan trọng
cũng như đưa ra các kỹ năng cần thiết nhằm giúp học sinh dễ dàng tiếp cận và triển khai
dạng đề nghị luận vốn mang tính thử thách cao ngay cả với học sinh giỏi quốc gia này.
Thông qua việc rèn luyện kỹ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác
phẩm văn học, chúng tôi cũng muốn đòi hỏi ở học sinh năng lực tích hợp kiến thức, tư
duy tổng hợp, khả năng phân tích, khái quát cụ thể. Trên thực tế, năng lực văn học của
học sinh biểu hiện chủ yếu ở ba phương diện: nhận thức (bao gồm các cấp độ: biết,
hiểu, ứng dụng, phân tích tổng hợp, đánh giá) một hiện tượng, một sự kiện văn học, xã
hội; qua đó bộc lộ cá tính, tình cảm, thái độ, quan niệm của người viết trước đối tượng

và vấn đề nêu trong đề bài; đồng thời biết trình bày rõ ràng trôi chảy những ý tưởng,
tình cảm của mình. Thực chất là học sinh thực hiện được ba yêu cầu về kiến thức, thái
độ và kĩ năng cụ thể. Như vậy, năng lực văn học là năng lực tư duy, năng lực vận dụng
và sáng tạo. Người học văn vừa phải có năng lực cảm thụ đọc hiểu văn bản vừa phải có
khả năng vận dụng ngôn ngữ để tạo lập văn bản. Lúc này, người học phải xây dựng
được hệ thống luận điểm, biết cách tổ chức lập luận, lựa chọn ngôn ngữ diễn đạt để làm
bài văn.
Theo định hướng phát triển năng lực, học sinh phải có khả năng và phương pháp
tự học, tự cảm thụ, tự phân tích, lí giải và đánh giá các hiện tượng, vấn đề văn học bằng
những cảm nhận, ý kiến của riêng mình. Vì vậy, dạng đề nghị luận về vấn đề xã hội đặt
ra trong tác phẩm văn học đã thể hiện rõ yêu cầu về phát triển năng lực, khuyến khích
những ý kiến cảm nhận riêng, mang đậm màu sắc cá nhân của học sinh, đề cao sự sáng
tạo, chống lối sao chép, lặp lại văn mẫu nhàm chán đơn điệu. Dạng đề này thể hiện
được định hướng phát triển năng lực học sinh, vừa đánh giá được cấp độ nhận thức vừa
tạo điều kiện để học sinh bộc lộ bản thân (cả về kiến thức, tri thức lẫn kĩ năng diễn đạt,
làm văn).

5


B. PHẦN NỘI DUNG
I. Lý thuyết
1. Khái niệm
1.1. Nghị luận
Nghị luận là bàn bạc đánh giá một vấn đề. Văn nghị luận là dạng bài văn người viết
bàn bạc, trao đổi ý kiến, trình bày quan điểm, thái độ của mình về một vấn đề nhằm
thuyết phục người đọc, người nghe chấp nhận, đồng tình với quan điểm của mình. Để
thực hiện điều này, người viết phải vận dụng hợp lý, nhuần nhuyễn các thao tác lập luận
như giải thích, chứng minh, lập luận, bác bỏ, so sánh... Văn nghị luận có tính khoa học,
đòi hỏi khả năng phân tích, tổng hợp bên cạnh khả năng diễn đạt, cảm thụ. Sức mạnh

6


của văn nghị luận là ở sự sâu sắc của tư tưởng, tình cảm, tính mạch lạc, chặt chẽ của
suy nghĩ và trình bày, sự thuyết phục của lập luận. Như vậy, làm văn nghị luận là một
cơ hội để học sinh bộc lộ được rõ nét nhất, tập trung nhất vốn hiểu biết về nhiều mặt
cùng những phẩm chất và năng lực của mình, đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo, năng
lực hoạt động ngôn ngữ.
Dựa vào phạm vi vấn đề được bàn bạc trong bài văn, có thể phân loại hai dạng
bài văn nghị luận: Nghị luận văn học và nghị luận xã hội.
1.2. Nghị luận xã hội
Nghị luận xã hội là một dạng bài trong văn nghị luận, dùng lí lẽ và dẫn chứng để
bàn bạc về một vấn đề xã hội nhằm thể hiện quan điểm, tư tưởng, lập trường của người
viết. Nghị luận xã hội không chỉ mang những đặc điểm chung của văn nghị luận mà còn
có những đặc trưng riêng. Trước hết, đề tài của dạng bài nghị luận xã hội hết sức rộng
mở gắn liền với đời sống thực tiễn phong phú đa diện đa chiều. Nó gồm tất cả những
vấn đề về tư tưởng, đạo lí, lối sống, quan niệm sống hay một hiện tượng tích cực hoặc
tiêu cực đang diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Bên cạnh đó, có thể nói, nghị luận xã
hội là dạng bài văn ghi đậm dấu ấn cá nhân của người viết nhất. Trước các vấn đề xã
hội, người viết có quyền bộc lộ thẳng thắn suy nghĩ, quan điểm của mình, có quyền
đồng tình hoặc không đồng tình, bảo vệ quan điểm của mình hoặc phản bác những ý
kiến đi ngược lại với nhận thức của bản thân.
Văn nghị luận xã hội được phân loại thành các dạng sau: nghị luận về hiện tượng
đời sống, nghị luận về tư tưởng đạo lí và nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác
phẩm văn học.
1.3. Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là một dạng bài của
nghị luận xã hội, cũng là dạng bài khó nhất. Ở dạng bài này, học sinh bày tỏ suy nghĩ
quan điểm của mình về một vấn dề xã hội, nhưng vấn đề đó lại được rút ra từ ý nghĩa
của tác phẩm văn học. Tác phẩm văn học được đưa ra trong đề bài dạng này thường từ

hai nguồn: các tác phẩm văn học đã được học trong chương trình hoặc các mẩu chuyện
nhỏ, những văn bản ngắn gọn học sinh chưa được học nhưng tương đối dễ tiếp nhận và
có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, chuyển tải những bài học cuộc sống quý giá.
7


Dạng bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học đòi hỏi ở học
sinh kĩ năng tổng hợp: đọc hiểu văn bản văn học, phát hiện vấn đề nghị luận, sử dụng
nhuần nhuyễn các thao tác nghị luận để bàn bạc về vấn đề... Do đó, đây là dạng bài
thường được sử dụng để đánh giá năng lực của học sinh khá giỏi.
Đề thi của Sở Giáo dục và đào tạo Nghệ An trong kì thi chọn đội tuyển dự thi
Học sinh giỏi Quốc gia lớp 12 năm học 2010-2011, câu 1 như sau:
NHỮNG VẾT ĐINH
Một cậu bé có tính hay nổi nóng. Một hôm, cha cậu đưa cho cậu một túi đinh và
bảo: “Mỗi khi con nổi nóng với ai đó thì hãy đóng một cái đinh lên hàng rào gỗ”.
Ngày đầu tiên, cậu bé đã đóng tất cả 37 cái đinh lên hàng rào. Nhưng vài tuần
sau, cậu đã tập kiềm chế và số lượng đinh cậu đóng lên hàng rào ngày một ít đi. Đến
một hôm, cậu đã không nổi nóng một lần nào trong suốt cả ngày. Cậu đến thưa với cha
và ông bảo: “Tốt lắm, bây giờ nếu sau mỗi ngày con không hề nổi giận với ai, con hãy
nhổ một cái đinh ra khỏi hàng rào”.
Ngày lại ngày trôi qua, đến một hôm cậu bé vui mừng tìm cha và hãnh diện báo
rằng đã không còn một cái đinh nào trên hàng rào nữa. Cha cậu liền đến bên hàng rào,
nhỏ nhẹ nói với cậu: “Con đã làm rất tốt, nhưng con hãy nhìn những lỗ đinh còn để lại
trên hàng rào đi. Hàng rào đã không còn như xưa nữa rồi. Nếu con nói điều gì trong
cơn giận dữ, những lời nói ấy cũng giống như những lỗ đinh này, chúng để lại những
vết thương khó lành trong lòng người khác. Cho dù sau đó con có nói xin lỗi bao nhiêu
lần đi nữa, vết thương đó vẫn còn lại mãi...”
(Lược thuật theo Mai Văn Khôi trong Quà tặng của cuộc sống,
NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2003)
Suy ngẫm của anh/chị từ câu chuyện trên?

Cũng nhằm lựa chọn Học sinh giỏi cấp tỉnh, câu 1 trong đề thi của Sở giáo dục và
đào tạo tỉnh Bắc Giang môn Ngữ văn lớp 12 năm học 2012-2013, là:
Hai biển hồ
Người ta bảo ở bên Pa-le-xtin có hai biển hồ… Biển hồ thứ nhất gọi là biển
Chết. Đúng như tên gọi, không có sự sống nào bên trong cũng như xung quanh biển hồ
này. Nước trong hồ không có một loại cá nào có thể sống nổi. Ai ai cũng đều không
muốn sống gần đó. Biển hồ thứ hai là Ga-li-lê. Đây là biển hồ thu hút khách du lịch
nhiều nhất. Nước ở biển hồ lúc nào cũng trong xanh mát rượi, con người có thể uống
8


được mà cá cũng có thể sống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều ở nơi đây. Vườn
cây xung quanh tốt tươi nhờ nguồn nước này.
Nhưng điều kỳ lạ là cả hai biển hồ này đều được đón nhận nguồn nước từ sông
Gioóc-đăng. Nước sông Gioóc-đăng chảy vào biển Chết. Biển Chết đón nhận và giữ lại
riêng cho mình mà không chia sẻ nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát. Biển hồ
Ga-li-lê cũng đón nhận nguồn nước từ sông Gioóc-đăng rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ
và sông lạch, nhờ vậy nước trong hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối,
muông thú và con người.
(Theo Quà tặng cuộc sống)
Theo anh/chị, bài học cuộc sống rút ra từ câu chuyện trên là gì?
Còn trong đề thi của Sở giáo dục và đào tạo Hải Dương trong kì thi chọn Học
sinh giỏi tỉnh lớp 12 năm học 2013-2014, câu 1 cũng thuộc dạng đề này:
Câu chuyện của hai hạt mầm
Có hai hạt mầm nằm cạnh nhau trên một mảnh đất màu mỡ. Hạt mầm thứ nhất
nói: Tôi muốn lớn lên thật nhanh. Tôi muốn bén rễ sâu xuống lòng đất và đâm chồi nảy
lộc xuyên qua lớp đất cứng phía trên...
Tôi muốn nở ra những cánh hoa dịu dàng như dấu hiệu chào đón mùa xuân...
Tôi muốn cảm nhận sự ấm áp của ánh mặt trời và thưởng thức những giọt sương mai
đọng trên cành lá.

Và rồi hạt mầm mọc lên.
Hạt mầm thứ hai bảo:
- Tôi sợ lắm. Nếu bén những nhánh rễ vào lòng đất sâu bên dưới, tôi không biết
sẽ gặp phải điều gì ở nơi tối tăm đó. Và giả như những chồi non của tôi có mọc ra, đám
côn trùng sẽ kéo đến và nuốt ngay lấy chúng. Một ngày nào đó, nếu những bông hoa
của tôi có thể nở ra được thì bọn trẻ con cũng sẽ vặt lấy mà đùa nghịch thôi. Không, tốt
hơn hết là tôi nên nằm ở đây cho đến khi cảm thấy thật an toàn đã.
Và rồi hạt mầm nằm im và chờ đợi.
Một ngày nọ, một chú gà đi loanh quanh trong vườn tìm thức ăn, thấy hạt mầm
nằm lạc lõng trên mặt đất bèn mổ ngay lập tức.
(Thảo Nguyên, Nguồn: Hạt giống tâm hồn - Từ những điều bình dị First News và NXB Tổng hợp TPHCM phối hợp ấn hành)
Suy nghĩ của anh/chị về vấn đề đặt ra trong câu chuyện trên?
9


Trong kì thi học sinh giỏi Quốc gia môn Ngữ văn năm 2010, câu hỏi nghị luận xã
hội cũng đã trích một phần ghi chép của nhà văn Nguyễn Minh Châu và yêu cầu thí
sinh bàn luận về lòng nhân ái và sự vô cảm của con người trong cuộc sống. Phần văn
bản được trích thực chất là câu chuyện về người đàn bà lạc mất con ở ga Hàng Cỏ. Do
đó có thể xem đề thi này là dạng đề nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm
văn học. Như vậy, qua khảo sát của chúng tôi, dạng đề nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra
trong tác phẩm văn học là một dạng đề được sử dụng khá thường xuyên để đánh giá
năng lực của học sinh giỏi môn Ngữ văn.
2. Các dạng đề
2.1. Dạng đề nghị luận về tư tưởng đạo lý rút ra từ tác phẩm văn học
Trong chương trình THPT, học sinh đã được học về kiểu đề nghị luận xã hội về
một tư tưởng đạo lí. Trong các đề bài thuộc kiểu đề này, vấn đề tư tưởng đạo lí có thể
được nêu trực tiếp (Ví dụ: Trình bày suy nghĩ của anh/chị về lòng dũng cảm) hoặc được
thể hiện qua một câu danh ngôn/câu tục ngữ, thành ngữ/câu thơ, câu hát… (Ví dụ:
Trình bày suy nghĩ của anh/chị về câu tục ngữ “Lá lành đùm lá rách”). Các vấn đề tư

tưởng, đạo lí đặt ra để bàn luận không phải là những vấn đề quá phức tạp, lớn lao mà
chỉ là những khía cạnh đạo đức, tư tưởng, tình cảm gần gũi với đời sống hàng ngày của
các em học sinh. Kiểu đề này tạo cơ hội cho học sinh được bày tỏ chính kiến của mình
về quan niệm sống, về các vấn đề đạo đức… để từ đó hướng đến việc bồi đắp nhân cách
cho thế hệ trẻ.
Các tác phẩm văn học với chức năng giáo dục cũng thường hướng đến việc thể
hiện một bài học nhân sinh, một thông điệp về lối sống của con người. Trong quá trình
đọc hiểu tác phẩm văn học, học sinh không chỉ tiếp nhận nội dung, cái hay cái đẹp của
bản thân tác phẩm mà còn có thể có những suy ngẫm sâu sắc về vấn đề tư tưởng đạo lí
được đặt ra trong đó. Do đó, đối với học sinh THPT đặc biệt là học sinh giỏi văn, cần
bồi dưỡng dạng đề nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí rút ra từ một tác phẩm văn
học. Dạng đề này giúp học sinh “kết nối” tác phẩm nghệ thụât với những vấn đề cuộc
sống, vừa bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học vừa định hướng tư tưởng, đạo lý đúng
đắn cho học sinh.
Dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí trong tác phẩm văn học không xuất
hiện trong các kì thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học (trước đây) cũng như kì thi
THPT Quốc gia năm 2015. Bởi lẽ đây là dạng đề tổng hợp tương đối khó, chủ yếu dành
10


cho đối tượng học sinh giỏi. Các tác phẩm được sử dụng trong dạng đề này có thể là các
tác phẩm đã học trong chương trình nhưng cũng có thể là các truyện ngụ ngôn, truyện
cực ngắn, truyện ngắn… học sinh lần đầu tiên tiếp cận. Theo tìm hiểu của chúng tôi,
dạng đề nghị luận một tư tưởng đạo lí trong tác phẩm văn học thường xuất hiện trong
các đề thi chọn học sinh giỏi của các tỉnh. Do đó, việc rèn luyện kĩ năng làm dạng đề
này là rất cần thiết.
Tuy nhiên đây cũng là một nhiệm vụ rất khó khăn. Bởi vì, đây là dạng đề mở chủ
yếu dành cho đối tượng học sinh giỏi. Khi làm dạng bài này, các em bày tỏ suy nghĩ
riêng của mình theo nhiều hướng khác nhau. Nhưng để làm tốt điều đó, học sinh cần
nắm chắc các kĩ năng cơ bản khi tìm hiểu đề, tìm ý, xây dựng dàn ý, huy động vốn kiến

thức… Học sinh cũng cần nắm chắc kĩ năng làm bài nghị luận xã hội về một tư tưởng
đạo lí để kết hợp với kĩ năng đọc hiểu văn bản văn học để hoàn thành tốt dạng bài này.
2.2. Dạng đề nghị luận về hiện tượng đời sống rút ra từ tác phẩm văn học
Nghị luận về một hiện tượng đời sống là bàn bạc về một hiện tượng đang diễn ra
trong thực tế đời sống xã hội mang tính chất thời sự, thu hút sự quan tâm của nhiều
người. Đó có thể là một hiện tượng tốt hoặc xấu, đáng khen hoặc đáng chê.
Nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống đặt ra trong tác phẩm văn học là
dạng bài nghị luận trình bày quan điểm tư tưởng của người viết về hiện tượng đời sống
rút ra từ tác phẩm văn học. Đó có thể là tác phẩm văn học trong chương trình hoặc tác
phẩm ngoài chương trình nhưng đều là những văn bản nghệ thuật có ý nghĩa nhân sinh
sâu sắc. Dạng bài này yêu cầu học sinh phải có năng lực đọc hiểu văn bản, năng lực
cảm thụ tác phẩm và năng lực bàn luận đánh giá về một vấn đề xã hội. Học sinh cần
huy động cả kiến thức về tác phẩm và kiến thức về xã hội đời sống. Tuy nhiên cần xác
định đây là dạng đề nghị luận xã hội chứ không phải là nghị luận văn học. Vấn đề trong
tác phẩm chỉ là duyên cớ nhằm khơi gợi suy nghĩ về một hiện tượng đời sống nào đó.
Do đó học sinh cần có kĩ năng nhận định đề chính xác, tránh nhầm lẫn với các kiểu bài
nghị luận khác.
Dạng đề nghị luận về một hiện tượng đời sống đặt ra trong tác phẩm văn học
thường gồm hai phần: phần thứ nhất nêu một hoặc nhiều tác phẩm, hoặc trích dẫn một
phần văn bản tác phẩm. Phần thứ hai là câu lệnh yêu cầu suy nghĩ về hiện tượng hoặc
vấn đề rút ra từ tác phẩm đã nêu. Học sinh có thể nhận diện dạng đề này qua những cấu
trúc quen thuộc: Từ tác phẩm/đoạn trích… suy nghĩ về vấn đề/hiện tượng…; Ý nghĩa
11


thời sự trong tác phẩm…; Suy ngẫm về vấn đề/hiện tượng đặt ra trong tác phẩm… Hiện
tượng đời sống rút ra trong tác phẩm văn học có thể được nêu trực tiếp trong câu lệnh
(ví dụ đề 1, đề 2, đề 3, đề 4, đề 7 trong phần đề minh họa) hoặc không nêu cụ thể (ví dụ
đề 5, đề 6, đề 8 trong phần đề minh họa); tuy nhiên học sinh có thể nhận diện qua các từ
khóa như vấn đề, hiện tượng, ý nghĩa thời sự… (khác với dạng đề nghị luận về tư tưởng

đạo lý rút ra từ tác phẩm văn học, từ khóa thường là ý nghĩa, bài học cuộc sống). Đây
thực sự là một dạng đề khó, người giáo viên vừa phải rèn năng lực cảm thụ để học sinh
thấy được cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn học, vừa phải hướng dẫn học sinh biết cách
bàn luận về những hiện tượng đời sống đa dạng, phức tạp, mang tính thời sự diễn ra
quanh ta. Chính từ ý nghĩa và yêu cầu trên, dạng đề này có khả năng chọn lựa những
học sinh vừa có kiến thức phong phú, sâu rộng, lại vừa có tư duy sắc sảo và tâm hồn
giàu cảm xúc. Thiết nghĩ, dạng đề này cần tiếp tục được chú trọng trong các kì thi học
sinh giỏi thành phố, học sinh giỏi quốc gia.
2.3. Dạng đề nghị luận về nhiều vấn đề xã hội rút ra từ tác phẩm văn học
Xuất phát từ một trong những đặc trưng cơ bản quan trọng nhất của văn học –
văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống, một tác phẩm văn học có thể đặt ra rất nhiều
các vấn đề xã hội, cả về tư tưởng đạo lý và hiện tượng đời sống, truyền tải những bài
học cuộc sống sâu sắc tới người tiếp nhận. Các thông điệp mà nhà văn gửi gắm có thể
được đan cài rất sâu trong tác phẩm, đòi hòi người viết phải suy nghĩ thận trọng, rút ra
những vấn đề xã hội phức tạp ẩn chứa bên trong.
Cũng giống như hai dạng đề đã trình bày ở trên, dạng đề nghị luận về nhiều vấn
đề xã hội rút ra từ tác phẩm văn học cũng có cấu tạo hai phần. Phần thứ nhất nêu một
hoặc nhiều tác phẩm, hoặc trích dẫn một phần văn bản tác phẩm. Phần thứ hai là câu
lệnh yêu cầu suy nghĩ về các vấn đề rút ra từ tác phẩm đã nêu. Điểm khác biệt của đề
bài dạng này là trong câu lệnh của đề thường không gọi trực tiếp vấn đề xã hội cần nghị
luận mà đưa những câu hỏi có tính gợi mở cho người đọc tự tư duy, khám phá, tìm hiểu.
Ví dụ như: Suy nghĩ của anh/chị được gợi ra từ câu chuyện trên; hay Anh/chị rút ra
những bài học gì từ tác phẩm này?... Các tác phẩm được lựa chọn nêu trong phần một
thường là những văn bản có nhiều tầng ý nghĩa, gợi mở nhiều vấn đề xã hội. Có thể nói,
đây là dạng đề khó nhất trong các dạng đề nghị luận xã hội, đòi hỏi học sinh tư duy tổng
hợp cao, có khả năng nắm bắt, lựa chọn, phân tích vấn đề, biết cách triển khai các luận
điểm một cách hợp lý, tránh lan man, dàn trải, thiếu tập trung hoặc tham kiến thức.
12



3. Kỹ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
3.1. Tìm hiểu đề và tìm ý
3.1.1. Tìm hiểu đề
Tìm hiểu đề là bước khởi đầu quan trọng, có ý nghĩa định hướng. Trước hết học
sinh cần đọc kĩ đề để nhận diện đúng dạng đề. Như chúng tôi đã trình bày ở trên, đề bài
nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học có các yếu tố hình thức riêng
biệt giúp học sinh dễ dàng nhận diện (đề bài có nêu tên hoặc trích dẫn tác phẩm/ đoạn
trích; lệnh đề yêu cầu bàn luận về vấn đề từ tác phẩm hoặc liên quan đến tác phẩm)
Từ việc nhận diện đúng dạng đề, học sinh cần đọc kĩ nội dung đề bài để xác định
ba yêu cầu sau:
- Yêu cầu về nội dung: Vấn đề nghị luận xã hội được rút ra từ tác phẩm văn học
là gì? Vấn đề đó cần được triển khai thành những ý nào? mối quan hệ giữa các ý ra sao?
- Yêu cầu về phương pháp: cần sử dụng các thao tác lập luận nào để nghị luận về
vấn đề được đặt ra trong đề bài.
- Yêu cầu về phạm vi dẫn chứng: trong văn học hay trong thực tiễn đời sống.
3.1.2. Tìm ý
Để làm dạng bài này, học sinh cần tiến hành theo hai bước:
- Phân tích tác phẩm để phát hiện và làm rõ vấn đề nghị luận xã hội được thể hiện
trong tác phẩm. Để thực hiện nhiệm vụ này, học sinh có thể đặt các câu hỏi tìm ý sau:
Nội dung chính của tác phẩm là gì? Hình tượng trung tâm của tác phẩm mang ý nghĩa
nào? Thông điệp nào được nhà văn gửi gắm qua tác phẩm?
- Bàn luận về vấn đề tư tưởng đạo lí đã được rút ra ở bước một. Để thực hiện
nhiệm vụ này, học sinh có thể lần lượt tìm ý qua các câu hỏi sau: Vấn đề nghị luận xã
hội được đặt ra trong tác phẩm đã cho là như thế nào? Vấn đề đó đúng hay sai? Vì sao
đúng/sai? Vấn đề này có ý nghĩ gì đối với cuộc sống, với con người, với bản thân?
3.2. Lập dàn ý
Lập dàn ý là một kĩ năng quan trọng trong quá trình làm văn nghị luận, đặc biệt
là văn nghị luận xã hội. Nhưng, phần đông học sinh hiện nay, trong đó có cả học sinh
giỏi đang coi nhẹ vai trò của kĩ năng này. Thực tế cho thấy, các em học sinh khi làm
bài, đặc biệt trong các cuộc thi do sợ “tốn thời gian” mà vội vàng bắt tay vào viết mà bỏ

qua khâu lập dàn ý. Do đó, giáo viên cần chú trọng rèn luyện kĩ năng này cho học trò.
Bởi lẽ, dàn ý giúp học sinh xác định các ý lớn cần có trong bài từ hình dung khái quát
13


về bài viết để bố trí dung lượng và thời lượng hợp lí. Điều này rất hữu ích vì khi làm bài
nghị luận về vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học học sinh có thể không “điều khiển”
được ngòi bút của mình, sa đà vào việc phân tích tác phẩm hoặc một khía cạnh của vấn
đề, không đảm bảo sự toàn diện, thấu đáo cho bài viết.
Việc lập dàn ý cho bài văn nghị luận về vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học
được thực hiện cụ thể ở từng dạng đề, tùy thuộc vào vấn đề đặt ra là hiện tượng xã hội
hay vấn đề tư tưởng đạo lí, là một vấn đề hay nhiều vấn đề. Sau đây là các mô hình dàn
ý khái quát cho từng dạng đề mà giáo viên có thể cung cấp và giúp học sinh rèn luyện.
3.2.1. Dạng đề nghị luận về tư tưởng đạo lý rút ra từ tác phẩm văn học
Dạng bài nghị luận xã hội về tư tưởng đạo lý trong tác phẩm văn học có thể được
triển khai theo bố cục:
* Phân tích văn bản văn học để rút ra vấn đề tư tưởng đạo lí cần bàn luận:
- Giới thiệu và tóm tắt nội dung tác phẩm văn học
- Phân tích ngắn gọn tác phẩm để chỉ ra vấn đề tư tưởng đạo lí cần bàn luận.
* Nghị luận về vấn đề tư tưởng đạo lí được nêu trong tác phẩm văn học:
- Giải thích tư tưởng, đạo lí cần nghị luận (nêu các khía cạnh nội dung của tư
tưởng, đạo lí này).
- Phân tích, chứng minh, bình luận các khía cạnh; bác bỏ, phê phán những sai
lệch (nếu có).
- Bài học liên hệ: Học sinh rút ra bài học nhận thức và hành động từ vấn đề tư
tưởng đạo lí nêu trong tác phẩm.

3.2.2. Dạng đề nghị luận về hiện tượng đời sống rút ra từ tác phẩm văn học
Dạng bài nghị luận xã hội về hiện tượng đời sống trong tác phẩm văn học thường được
triển khai theo bố cục như sau:

* Phân tích văn bản văn học để rút ra hiện tượng đời sống cần bàn luận:
- Giới thiệu và tóm tắt nội dung tác phẩm văn học
- Phân tích ngắn gọn để rút ra hiện tượng đời sống cần bàn luận
* Nghị luận về hiện tượng đời sống được nêu trong tác phẩm văn học:
- Nêu và mô tả hiện tượng (Hiện tượng xảy ra ở đâu? Trong thời gian nào? Diễn
ra ra sao?)
14


- Bàn luận về hiện tượng:
+ Giải thích nguyên nhân vì sao có hiện tượng đó.
+ Đánh giá tác động của hiện tượng đối với cá nhân và với cộng đồng xã hội:
Đây là hiện tượng tích cực hay hiện tượng tiêu cực? Hiện tượng này có ý nghĩa như thế
nào hoặc để lại những hậu quả ra sao?
- Bài học liên hệ: Học sinh rút ra bài học nhận thức và hành động từ hiện tượng
nêu trong tác phẩm.
3.2.3. Dạng đề nghị luận về nhiều vấn đề xã hội rút ra từ tác phẩm văn học
Dạng đề này đặt ra nhiều trường hợp đòi hỏi học sinh phải tư duy để xác lập bố
cục phù hợp nhất:
* Phân tích văn bản văn học để rút ra các vấn đề xã hội cần bàn luận:
- Giới thiệu và tóm tắt nội dung tác phẩm văn học
- Phân tích ngắn gọn để rút ra các vấn đề xã hội cần bàn luận
* Nghị luận về các vấn đề xã hội được nêu trong tác phẩm văn học:
- Trường hợp 1: Các vấn đề xã hội được nêu trong tác phẩm đều thuộc vấn đề
hiện tượng xã hội.
 Làm theo mô hình dạng đề nghị luận về hiện tượng đời sống rút ra từ tác phẩm
văn học.
- Trường hợp 2: Các vấn đề xã hội được nêu trong tác phẩm đều thuộc vấn đề tư
tưởng đạo lý.
 Làm theo mô hình dạng đề nghị luận về tư tưởng đạo lý rút ra từ tác phẩm văn

học.
- Trường hợp 3: Các vấn đề xã hội được nêu trong tác phẩm có vấn đề thuộc hiện
tượng xã hội, có vấn đề thuộc tư tưởng đạo lý.
 Làm theo mô hình dạng đề nghị luận về hiện tượng đời sống kết hợp với mô
hình dạng đề nghị luận về tư tưởng đạo lý rút ra từ tác phẩm văn học.
Chú ý: Cần lựa chọn vấn đề xã hội quan trọng nhất để ưu tiên bàn luận. Những
vấn đề khác có thể nêu và bàn luận lướt qua. Tránh viết lan man, thiếu tập trung dẫn
đến dàn trải.
3.3. Hướng dẫn viết bài và sửa chữa, đánh giá
3.3.1. Hướng dẫn viết bài

15


Sau khi tiến hành lập dàn ý để có định hướng cụ thể, học sinh tiến hành viết bài.
Ở khâu này, giáo viên cần rèn luyện cho học sinh một số kĩ năng cơ bản sau để không
chỉ có một bài viết đúng mà còn trúng và hay.
- Kĩ năng xây dựng luận điểm: Hệ thống luận điểm có vai trò lớn, giống như linh
hồn của bài văn. Kĩ năng tìm ý, lập dàn ý đã giúp học sinh tìm ra các luận điểm cần có
trong bài nhưng để triển khai hệ thống luận điểm đó thì học sinh cần phải đáp ứng nhiều
yêu cầu khác nữa. Luận điểm trong bài văn nghị luận cần được xây dựng sáng rõ, nổi
bật, nhờ luận điểm mà người đọc nhận thức sâu sắc vấn đề. Khi rèn kĩ năng xây dựng
luận điểm, giáo viên cần rèn kĩ cho các em việc cân nhắc đến vị trí, vai trò của mỗi luận
điểm, đặt chúng trong tương quan với nhau. Cụ thể ở dạng đề nghị luận về vấn đề xã
hội trong tác phẩm văn học thì luận điểm phân tích biểu hiện của vấn đề trong tác phẩm
sẽ có dung lượng ít hơn so với các luận điểm bàn luận về vấn đề đó. Bên cạnh đó, giáo
viên cần rèn cho học sinh kĩ năng vận dụng, kết hợp các thao tác nghị luận để triển khai
các luận điểm một cách hiệu quả. Trong phân phối chương trình, học sinh đã được học
về các thao tác lập luận và việc kết hợp chúng. Tuy nhiên với đối tượng học sinh giỏi,
có thể có thêm các giờ bài tập luyện tập sử dụng các thao tác lập luận, đặc biệt là các

thao tác: bình luận, so sánh, bác bỏ. Những thao tác này sẽ giúp học sinh có cái nhìn sâu
sắc, mới mẻ về vấn đề và trình bày quan điểm của mình một cách hấp dẫn, thuyết phục.
- Kĩ năng huy động và sử dụng dẫn chứng: một trong những yếu tố quan trọng
giúp cho bài văn nghị luận có sức thuyết phục và hấp dẫn là ở hệ thống dẫn chứng. Dẫn
chứng có thể lấy từ đời sống cũng có thể lấy trong sách vở nhưng nhất thiết phải được
lựa chọn kĩ lưỡng đảm bảo các tiêu chí: chính xác, phù hợp, tiêu biểu, hấp dẫn. Để thực
hiện kĩ năng này, học sinh cần có quá trình tích lũy kiến thức, đặc biệt là kiến thức từ
đời sống phong phú. Ở dạng bài nghị luận về vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học thì
chính bản thân tác phẩm được nêu trong đề bài đã là một dẫn chứng tiêu biểu cho vấn
đề nghị luận. Điều này là một thuận lợi với học sinh trong quá trình viết bài, tác phẩm
đó sẽ gợi ý cho học sinh lựa chọn đúng các dẫn chứng khác. Tuy nhiên trong quá trình
lập luận, học sinh không nên sử dụng lại dẫn chứng “nguồn” này để tránh trùng lặp.
- Kĩ năng diễn đạt: Đối với học sinh giỏi văn trong quá trình nghị luận về vấn đề
xã hội trong tác phẩm văn học cần có cách diễn đạt vừa chính xác vừa linh hoạt vừa
giàu cảm xúc.

16


-

-

Các kĩ năng nói trên là một số kĩ năng tiêu biểu nhất giáo viên cần rèn luyện cho
học sinh để thực hiện khâu viết bài một cách hiệu quả nhất. Ngoài ra có thể chú ý thêm
các kĩ năng viết mở bài, kĩ năng tạo dựng đoạn văn,...
3.3.2. Đánh giá và sửa chữa bài viết.
Đây là khâu cuối cùng trong quá trình làm văn nghị luận nói chung cũng như làm
văn nghị luận về vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học. Từ trước đến nay, việc đánh giá
và sửa chữa bài viết thường được cho là việc làm của riêng giáo viên. Tuy nhiên, với

đối tượng học sinh giỏi, đây là những kĩ năng cần có để các em rút kinh nghiệm, nâng
cao năng lực tạo lập văn bản. Giáo viên đóng vai trò người chỉ đường, học sinh cần vận
dụng các chỉ dẫn đó vào bài viết, tự mình đánh giá sản phẩm và sửa chữa lỗi sai. Kĩ
năng này cần được thực hiện trong sự tương tác chặt chẽ của giáo viên và học sinh.
II. Thực hành
1. Dạng đề nghị luận về tư tưởng đạo lý rút ra từ tác phẩm văn học
1.1. Một số đề minh họa
Đề 1. Bài học cuộc sống mà anh/chị rút ra được từ những vần thơ sau của Hồ Chí Minh:
Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công
(Nghe tiếng giã gạo - Hồ Chí Minh)
Đề 2.
Người ăn xin
Một người ăn xin đã già. Đôi mắt ông đỏ hoe, nước mắt ông giàn giụa, đôi môi tái
nhợt, áo quần tả tơi. Ông chìa tay xin tôi.
Tôi lục hết túi nọ đến túi kia, không có lấy một xu, không có cả khăn tay, chẳng có
gì hết. Ông vẫn đợi tôi. Tôi chẳng biết làm thế nào. Bàn tay tôi run run nắm chặt lấy
bàn tay run rẩy của ông:
Xin ông đừng giận cháu! Cháu không có gì cho ông cả.
Ông nhìn tôi chăm chăm, đôi môi nở nụ cười:
Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão rồi.
Khi ấy tôi chợt hiểu ra: cả tôi nữa, tôi cũng vừa nhận được một cái gì đó của ông.
(Theo Tuốc-ghê-nhép, Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục, 2005, trang 22)
17


Câu chuyện trên gợi cho anh/chị suy nghĩ gì về tình người trong cuộc sống?
Đề 3. Từ quan niệm về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm trong đoạn trích Đất nước

(trường ca Mặt đường khát vọng), hãy bày tỏ quan niệm riêng của anh/chị về vấn đề
này.
Đề 4.
Sự bình yên
Một vị vua treo giải thưởng cho họa sĩ nào vẽ được bức tranh đẹp nhất về sự bb nh
yên. Nhiều họa sĩ đã cố công dùng tài năng của mình để thể hiện sự bình yên ở nhiều
góc độ của cuộc sống. Nhà vua ngắm tất cả những bức tranh, nhưng ông chỉ thích có
hai bức, và phải chọn lấy một.
Trong hai bức tranh đó:
– Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ với những
ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng
bồng bềnh, trôi lững lờ. Tất cả những ai ngắm bức tranh đều cho rằng đây là một bức
tranh bình yên thật hoàn hảo.
– Bức tranh thứ hai cũng có những ngọn núi, nhưng là những ngọn núi trần trụi
và lởm chởm đá. Bên trên, bầu trời giận dữ đổ mưa như trút, kèm theo sấm chớp ầm
ầm. Bên vách núi là dòng thác cuồn cuộn nổi bọt trắng xóa. Thật chẳng bình yên chút
nào!
Nhưng sau khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây
nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Nơi đó, giữa dòng thác trút nước xuống một
cách giận dữ, có con chim mẹ đang thản nhiên đậu trên tổ của mình, bên cạnh đàn
chim con ríu rít… Bình yên thật sự…
“Ta chấm bức tranh này!”- Nhà vua công bố. “Sự bình yên không có nghĩa là
không ồn ào, không giận dữ. Bình yên có nghĩa là ngay chính khi đang ở trong phong
ba bão táp, ta vẫn cảm thấy còn có sự yên tĩnh hiện diện trong nội tâm mình. Đó mới là
ý nghĩa thực sự của sự bình yên”.

18


Từ câu chuyện trên, anh/chị hãy bày tỏ quan niệm của mình về sự bình yên trong

cuộc sống.
Đề 5.
Bóng nắng bóng râm
Con đê dài hun hút như cuộc đời, ngày về thăm ngoại, trời chợt nắng chợt râm.
Mẹ bảo:
- Nhà ngoại ở cuối con đê.
Trên đê chỉ có mẹ, có con. Lúc nắng mẹ kéo tay con:
- Đi nhanh lên, kẻo nắng vỡ đầu ra.
Con cố.
Lúc râm, con đi chậm, mẹ mắng:
- Đang lúc mát trời, nhanh lên kẻo nắng bây giờ.
Con ngỡ ngàng:
- Sao nắng, râm đều phải vội?
Trời vẫn nắng, vẫn râm…
Mộ mẹ cỏ xanh con mới hiểu: Đời, lúc nào cũng phải nhanh lên.
(Nguyễn Thiện Ý)
Từ câu chuyện trên, anh/chị hãy bày tỏ suy nghĩ về bài học cuộc sống “Đời, lúc
nào cũng phải nhanh lên”.
Đề 6. Từ truyện cổ tích Tấm Cám, hãy bày tỏ suy nghĩ của anh/chị về triết lý “Ở hiền
gặp lành”, “Ác giả ác báo” của cha ông ta.
Đề 7. Đọc truyện cổ tích Chử Đồng Tử, anh/chị suy nghĩ gì về chữ Hiếu?
Đề 8. Từ bài thơ Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão) và Nỗi lòng (Đặng Dung), hãy viết một bài
văn ngắn bộc lộ quan niệm của anh/chị về chí làm trai thời hiện đại.
Đề 9. Qua bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hãy bày tỏ suy nghĩ về triết lý sống
nhàn cũng như quan niệm về khôn và dại của anh/chị trong cuộc sống hiện đại ngày
nay.
Đề 10. Từ Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của tác giả Nguyễn Dữ, hãy bàn về
tinh thần dũng cảm, trọng công lý, “không nên kiêng sợ sự cứng cỏi” cần có của kẻ sĩ.
Đề 11. Đọc bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu, anh/chị có suy nghĩ gì
về khí phách anh hùng mà mỗi thanh niên cần có để bảo vệ đất nước trong thời đại ngày

nay?
19


Đề 12. Bài thơ Tôi yêu em của Puskin đã khiến anh/chị suy nghĩ gì về một tình yêu
chân thành, cao thượng?
Đề 13. Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu và bài học: Sống cần có nghĩa, có tình, thủy chung
trọn vẹn.
Đề 14. Bài học cuộc sống được rút ra từ hai câu thơ của Chế Lan Viên trong bài Tiếng
hát con tàu:
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn
Đề 15. Hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
gợi cho anh/chị những suy nghĩ gì về lý tưởng và nhân cách của tuổi trẻ trong cuộc
sống?
Đề 16. Từ hình tượng ông lão đánh cá trong Ông già và biển cả của Hê-minh-uê, hãy
viết một bài văn ngắn về vai trò của niềm tin và nghị lực trong cuộc sống.
Đề 17. Từ tác phẩm Số phận con người của nhà văn Sô-lô-khốp, suy nghĩ về nghị lực
và tuổi trẻ.
Đề 18. Từ vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, anh/chị hãy nêu quan niệm thế nào là
một cuộc sống có ý nghĩa?
Đề 19. Hãy đọc kĩ câu chuyện sau:
Tại Thế vận hội đặc biệt Seatte (dành cho những người khuyết tật), có chín vận
động viên đều bị tổn thương về thể chất hoặc tinh thần, cùng tập trung về vạch xuất
phát để tham dự cuộc thi chạy 100m. Khi súng hiệu nổ, tất cả đều lao về phía trước với
quyết tâm giành chiến thắng. Trừ một cậu bé. Cậu cứ vấp ngã liên tục trên đường đua.
Và cậu bật khóc. Tám người kia khi nghe tiếng khóc, giảm tốc độ và ngoái lại nhìn. Rồi
họ quay trở lại. Tất cả, không trừ một ai! Một cô gái bị chứng Down dịu dàng cúi
xuống hôn cậu bé:
- Như thế này, em sẽ thấy tốt hơn.

Rồi tất cả chín người đều khoác tay sánh vai nhau đi về đích. Tất cả khán giả trong
sân vận động đều đứng dậy vỗ tay hoan hô không dứt.
Câu chuyện cảm động này đã lan truyền qua mỗi kỳ Thế vận hội về sau.
(Theo Quà tặng trái tim, NXB Trẻ 2003)
Từ câu chuyện trên, em hãy bày tỏ suy nghĩ của mình về sự chiến thắng trong cuộc
sống.
Đề 20. Bài học cuộc sống rút ra từ câu chuyện dưới đây:
20


Leonardo DaVinci vẽ bức tranh Bữa tiệc ly mất bảy năm liền. Đó là bức tranh vẽ Chúa
Jesus và 12 môn đệ trong bữa ăn cuối cùng trước khi Ngài bị môn đệ Judas phản bội.
Leonardo tìm người mẫu rất công phu. Giữa hàng ngàn thanh niên, ông mới chọn được
một chàng trai có gương mặt thánh thiện, một tính cách thanh khiết tuyệt đối làm người mẫu
vẽ Chúa Jesus. Da Vinci làm việc không mệt mỏi suốt sáu tháng liền trước chàng trai và hình
ảnh Chúa Jesus đã hiện ra trên bức vẽ.
Sáu năm tiếp theo ông lần lượt vẽ xong 11 vị môn đệ, chỉ còn có Judas, người môn đệ
đã phản bội Chúa vì 30 đồng bạc. Hoạ sĩ muốn tìm một người đàn ông có khuôn mặt hằn lên
sự hám lợi, lừa lọc, đạo đức giả và cực kỳ tàn ác. Khuôn mặt đó phải toát lên tính cách của kẻ
sẵn sàng bán đi người bạn thân nhất, người thầy kính yêu nhất của chính mình… Cuộc tìm
kiếm dường như vô vọng. Bao nhiêu gương mặt xấu xa nhất, độc ác nhất, Vinci đều thấy vẫn
chưa đủ để biểu lộ cái ác của Judas. Một hôm, Da Vinci được thông báo có một kẻ mà ngoại
hình có thể đáp ứng yêu cầu của ông. Hắn đang ở trong một hầm ngục ở Roma, bị kết án tử
hình vì giết người và nhiều tội ác tày trời khác…
Da Vinci lập tức lên đường đến Roma. Trước mặt ông là một gã đàn ông nước da đen
sạm với mái tóc dài bẩn thỉu xoã xuống gương mặt, một khuôn mặt xấu xa, hiểm ác, hiển hiện
rõ tính cách của một kẻ hoàn toàn bị tha hoá. Đúng, đây là Judas !
Được sự cho phép đặc biệt của đức vua, người tù được đưa tới Milan, nơi bức tranh
đang vẽ dang dở. Mỗi ngày tên tù ngồi trước Da Vinci và người hoạ sĩ thiên tài cần mẫn với
công việc truyền tải vào bức tranh diện mạo của kẻ phản phúc.

Khi nét vẽ cuối cùng hoàn thành, kiệt sức vì phải đối mặt với cái ác một thời gian dài,
Vinci quay sang bảo với lính gác: “Các ngươi đem hắn đi đi!”.
Lính canh túm lấy kẻ tử tù nhưng hắn đột nhiên vùng ra và lao đến quỳ xuống bên chân
Da Vinci, khóc nức lên: “Ôi, ngài Da Vinci! Hãy nhìn con! Ngài không nhận ra con ư?”.
Da Vinci quan sát kẻ mà sáu tháng qua ông đã liên tục nhìn mặt. Cuối cùng ông đáp:
“Không ! Ta chưa từng nhìn thấy ngươi cho đến khi ngươi được đưa đến từ hầm ngục Roma”.
Tên tử tù kêu lên: “Ngài Vinci… Hãy nhìn kỹ tôi! Tôi chính là người mà bảy năm trước ngài
đã chọn làm mẫu vẽ Chúa Jesus…”.
(Theo Internet)

1.2. Gợi ý hướng dẫn một số đề minh họa
21


-

Đề 1. Bài học cuộc sống mà anh/chị rút ra được từ những vần thơ sau của Hồ Chí Minh:
Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công
(Nghe tiếng giã gạo - Hồ Chí Minh)
Gợi ý hướng dẫn:
1. Phân tích ngắn gọn ý nghĩa của bài thơ “Nghe tiếng giã gạo”
- Bài thơ thể hiện suy nghĩ của Hồ Chí Minh về công việc giã gạo rất đỗi quen thuộc,
bình dị trong cuộc sống.
- Từ hình ảnh hạt gạo trắng tựa bông sau khi trải qua “bao đau đớn”, nhà thơ khái quát
một chân lý trong cuộc sống con người: “Gian nan rèn luyện mới thành công” - phải
trải qua quá trình phấn đấu rèn luyện lâu dài gian khổ thì mới có thể đạt được thành
công, thắng lợi. Đây là một bài học đúng đắn và sâu sắc cho mỗi chúng ta.

2. Nghị luận về vai trò của việc rèn luyện gian khổ lâu dài với mỗi người
- Con người cần có một quá trình gian nan rèn luyện mới đạt được thành công, bởi lẽ
trong cuộc sống để có những thành quả tốt đẹp là điều không dễ dàng.
- Trong thực tế đời sống có rất nhiều tấm gương bền bỉ kiên trì vượt qua gian nan thử
thách để đạt được thành công.
- Phê phán những kẻ nóng vội, lười biếng không chịu bỏ công sức mà chỉ chờ đợi thành
quả.
- Bài học nhận thức và hành động: Nhận thức được ý nghĩa của việc rèn luyện bản thân
để vươn lên đạt thành công trong cuộc sống. Cần chịu khó học hỏi, dám đương đầu với
khó khăn thử thách, năng động sáng tạo để vươn lên khẳng định mình.
Đề 2.
Người ăn xin
Một người ăn xin đã già. Đôi mắt ông đỏ hoe, nước mắt ông giàn giụa, đôi môi tái
nhợt, áo quần tả tơi. Ông chìa tay xin tôi.
Tôi lục hết túi nọ đến túi kia, không có lấy một xu, không có cả khăn tay, chẳng có
gì hết. Ông vẫn đợi tôi. Tôi chẳng biết làm thế nào. Bàn tay tôi run run nắm chặt lấy
bàn tay run rẩy của ông:
Xin ông đừng giận cháu! Cháu không có gì cho ông cả.
22


-

Ông nhìn tôi chăm chăm, đôi môi nở nụ cười:
Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão rồi.
Khi ấy tôi chợt hiểu ra: cả tôi nữa, tôi cũng vừa nhận được một cái gì đó của ông.
(Theo Tuốc-ghê-nhép, Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục, 2005, trang 22)
Câu chuyện trên gợi cho anh/chị suy nghĩ gì về tình người trong cuộc sống?
Gợi ý hướng dẫn:
1. Phân tích ngắn gọn ý nghĩa của truyện “Người ăn xin”

Truyện Người ăn xin thông qua cách ứng xử của hai nhân vật (ông lão ăn xin và
cậu bé) trong một tình huống vừa chân thực vừa đặc biệt để truyền tải những bài học
quý giá về tình người trong cuộc sống:
- Trong cuộc sống, con người phải biết yêu thương, giúp đỡ, che chở cho nhau, nhất là
những lúc khó khăn.
- Trong bần cùng, có những lúc con người không thể cho nhau những giá trị vật chất
nhưng vẫn có thể trao và nhận những tình cảm quý báu. Tình người quý giá, có sức
mạnh hơn cả vật chất.
- Trong cuộc sống luôn cần có thái độ, lời nói hết sức chân thành, thể hiện sự tôn trọng,
quan tâm tới người khác.
2. Nghị luận về tình người trong cuộc sống
- Tại sao cần có tình người trong cuộc sống?
+ Cuộc sống là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Bản thân mỗi cá nhân con người
không thể tồn tại một mình. Con người cần phải biết dựa vào nhau, nương tựa vào nhau
trong cuộc sống. Từ đó, nảy sinh tình người trong cuộc sống.
+ Trong cuộc sống, ai cũng có lúc gặp khó khăn nên cần có tình người để nâng đỡ, giúp
đỡ lẫn nhau.
+ Tình người là biểu hiện đẹp của nhân cách, là điều kiện để dựng xây một xã hội văn
minh, tốt đẹp hơn…
- Phê phán những kẻ coi trọng vật chất, sống thiếu tình người, thái độ vô cảm…
- Bài học nhận thức và hành động: Xác định lối sống biết yêu thương, cảm thông, giúp
đỡ và chia sẻ với mọi người xung quanh.
Đề 17. Từ tác phẩm Số phận con người của nhà văn Sô-lô-khốp, suy nghĩ về nghị lực
và tuổi trẻ hôm nay.
Gợi ý hướng dẫn:
23


1. Phân tích ngắn gọn ý nghĩa của tác phẩm “Số phận con người”
- Số phận bi kịch của những con người trong tác phẩm:

+ A.Xô-cô-lốp: Từng là một người lính, bị chiến tranh cướp đi những người thân yêu
nhất, bản thân bị bắt, bị thương, phải chịu nhiều đọa đày, bất hạnh. Sau chiến tranh, anh
vẫn không thoát khỏi những ám ảnh nhưng đã kiên cường nuốt thầm những giọt lệ đau
buồn.
+ Bé Va-ni-a: Không nhà cửa, mẹ cha… Cũng bị chiến tranh cướp đi tất cả.
- Vẻ đẹp của những con người trong tác phẩm:
+ Gặp bé Va-ni-a, Xô-cô-lốp đã dồn hết tình yêu thương cho cậu bé, giấu đi nỗi khổ,
tránh cho cậu bé khỏi tổn thương.
+ Qua đây, ta thấy vẻ đẹp của tâm hồn anh là đức hy sinh, là ý chí, nghị lực phi thường,
là lòng nhân hậu bao dung.
2. Nghị luận về nghị lực và tuổi trẻ hôm nay
- Bàn về nghị lực:
+ Cuộc sống luôn đặt ra những thử thách đối với con người, thậm chí là những mất mát
đau thương. Điều giúp con người vượt qua hoàn cảnh khắc nghiệt ấy chính là nghị lực.
+ Nghị lực là sự nỗ lực, cố gắng vươn lên, đó là sức mạnh giúp ta đương đầu với những
khó khăn của cuộc sống. Nghị lực giúp con người cứng cỏi, mạnh mẽ, dám đối diện và
chinh phục thử thách.
- Bàn về tuổi trẻ hôm nay:
+ Tuổi trẻ hôm nay may mắn được sống hòa bình, nhưng cuộc sống phát triển đồng thời
đặt cho những người trẻ nhiều cơ hội và thách thức, đòi hỏi họ phải có nghị lực để vượt
qua.
+ Tuổi trẻ hôm nay mang trong mình bầu nhiệt huyết khát khao chinh phục những đỉnh
cao, mong muốn được cống hiến, góp sức mình dựng xây Tổ quốc. (Nêu những tấm
gương thanh niên vượt lên hoàn cảnh số phận để học tập, lao động, chiếm lĩnh đỉnh cao
tri thức).
+ Phê phán một bộ phận thanh niên sống xuông xuôi, chạy theo những ý thích, ham
muốn tức thời, ngại khó, ngại khổ.
- Bài học nhận thức và hành động: Những người trẻ tuổi cần có nghị lực, ý chí vươn
lên. Chúng ta có thể thất vọng, đau buồn những không bao giờ được đầu hàng trước số
phận. Càng trong gian khó, con người càng cần khẳng định bản lĩnh và nghị lực, càng

24


trong đau thương mất mát, càng phải sống nhân hậu, yêu thương. Nói như tác giả của
cuốn Ông già và biển cả: “Con người có thể bị hủy diệt nhưng không thể bị đánh bại”.
Đề 18. Từ vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, anh/chị hãy nêu quan niệm thế nào là
một cuộc sống có ý nghĩa?
Gợi ý hướng dẫn:
1. Phân tích ngắn gọn ý nghĩa của vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
- Vở kịch được viết dựa trên cốt truyện dân gian, nhấn mạnh sự phản kháng của linh
hồn nhân hậu, thanh cao (hồn Trương Ba) chống lại sự lấn át và chế ngự của thể xác thô
lỗ phàm tục (da hàng thịt).
- Từ những xung đột bên trong con người qua cuộc đối thoại giữa linh hồn và xác thịt,
tác giả đề xuất và cổ vũ cho cuộc đấu tranh bảo vệ những phẩm chất, tính cách cao quý
của con người nhằm hướng tới khát vọng sống trong sạch, hài hòa giữa thể xác và tâm
hồn, vật chất và tinh thần để hoàn thiện nhân cách.
2. Nghị luận về một cuộc sống có ý nghĩa (theo quan niệm của bản thân)
- Quan niệm về một cuộc sống có ý nghĩa:
+ Sống là sự phấn đấu hướng tới hòa hợp, thỏa mãn cả nhu cầu vật chất và tinh thần,
phù hợp với quy luật cuộc sống. Nếu chỉ thiên về một trong hai phương diện ấy đều là
sự thiếu hụt khó bù đắp.
+ Được sống là mình, sống thành thực với chính mình, không phải chịu bi kịch sống giả
tạo, làm chủ được bản thân, đó là một điều hạnh phúc. Nếu không được sống là mình,
con người sẽ phải chịu những bất hạnh, giằng xé nhiều khi đến đau đớn tủi cực. Không
được là chính mình, con người trở nên giả dối, tha hóa và đó là một bi kịch trong cuộc
sống.
+ Sống có ý nghĩa còn là cuộc sống dám đấu tranh với cái sai, cái xấu, biết hy sinh vì
người khác. Sống thế nào để khi chết vẫn để lại một chút gì đẹp đẽ cho cuộc đời.
- Phê phán những biểu hiện của cuộc sống thiếu ý nghĩa: Những hiện tượng sống giả
tạo, không dám sống thật với con người mình, thiếu bản lĩnh, ích kỷ, chỉ biết sống cho

riêng mình.
- Bài học nhận thức và hành động:
+ Sống có lý tưởng, mục đích sống, có khát vọng cao đẹp.
+ Biết yêu thương, cảm thông, sẻ chia.
+ Có nghị lực để sống trung thực với chính mình.
25


×