1
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT HẬU LỘC 1
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NGHỊ LUẬN VỀ TÁC PHẨM
TRUYỆN NGẮN VÀ TIỂU THUYẾT TRONG SÁCH
GIÁO KHOA NGỮ VĂN 11 – 12
(CHƯƠNG TRÌNH NÂNG CAO)
Họ tên: Bùi Thị Lan
Chức vụ: Tổ phó chuyên môn
SKKN môn: Ngữ văn
THANH HOÁ NĂM 2013
A.Đặt vấn đề
I. Lý do chọn đề tài:
Thứ nhất: Như chúng ta đã biết, việc hình thành và rèn luyện kỹ năng
trong quá trình làm văn cho học sinh là vô cùng cần thiết. Việc làm này cả 3
phân môn: Tiếng Việt, Đọc văn, Làm văn cùng đảm nhận, trong đó phân môn
Làm văn giữ vai trò chủ đạo. Phân môn này giúp học sinh hình thành một hệ
thống kỹ năng đảm bảo cho quá trình hoàn thiện một bài văn có hiệu quả: từ
kỹ năng tìm hiểu đề, tìm ý, lập ý, lập dàn ý cho đến lập luận (nêu luận điểm,
tìm luận cứ, sắp xếp luận điểm, luận cứ ….) rồi mở bài, chuyển ý, chuyển
đoạn, kết bài … Trên cơ sở những kỹ năng cơ bản đó, đối với mỗi thể loại,
giáo viên phải hình thành cho học sinh những kỹ năng riêng phù hợp với đặc
trưng thể loại (gọi là mô hình chung) như nghị luận về một tác phẩm kịch,
nghị luận về một tác phẩm thơ, đoạn thơ … và việc rèn luyện kỹ năng nghị
luận về một tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết cũng không ngoại lệ.
Thứ 2: Nhìn vào hệ thống chương trình của 3 khối lớp, chúng ta thấy số
lượng tác phẩm văn xuôi (đặc biệt là truyện ngắn, tiểu thuyết) chiếm tỉ lệ
tương đối lớn. Vì vậy trong hầu hết các kì thi lớn như thi tốt nghiệp, thi đại
học, thi học sinh giỏi….số điểm dành cho những câu hỏi thuộc tác phẩm
truyện, tiểu thuyết cũng chiếm tỉ lệ cao trong cấu trúc đề thi (có thể 50%, thậm
chí lên đến 70%). Chính vì thế quan tâm đến những giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả rèn luyện kĩ năng viết bài văn nghị luận về một vấn đề trong tác
phẩm văn xuôi là vô cùng cần thiết.
Thứ 3: Chúng ta biết, tác phẩm văn xuôi (đặc biệt tác phẩm truyện ngắn và
tiểu thuyết) là bức tranh thu nhỏ về đời sống hiện thực xã hội. Hiểu hết hết
được những ý tưởng nhà văn gửi gắm qua những tác phẩm là điều không dễ.
Số lượng nhât vật đông, sự kiện nhiều, tình tiết đa dạng. Thêm vào đó dung
lượng thường lớn (khác với tác phẩm thơ dung luợng chỉ khoảng ½ hoặc 1,5
đến 2 trang thì tác phẩm truyện hoặc các đoạn trích tiểu thuyết trong chương
trình thường dài, có thể 5-7 trang hoặc 10 đến trên 15 trang). Trong khi đó
2
việc học Văn đối học sinh hiện nay đã và đang có nhiều bất cập. Các em ít
theo khối C, D hoặc những em có nguyện vọng theo khối thường không thực
sự là những học sinh xuất sắc. Vì vậy đối với việc học Văn nói chung, các tác
phẩm truyện ngăn, tiểu thuyết nói riêngcủa học sinh thường diễn ra theo kiểu
đối phó, chiếu lệ. Nếu có đọc, học sinh cũng nắm một cách sơ sài, qua loa về
cốt truyện. Từ đó dẫn đến quá trình triển khai bài viết học sinh “vấp” nhiều
lỗi: hoặc ý nông, sơ sài, hoặc sai dẫn chứng, lệch lạc về cốt truyện so với văn
bản gốc, thậm chí kể lại một cách ngắn câu chuyện trong bài làm. Kết quả là
chất lượng bài làm thấp. Vì lẽ đó, tăng cường rèn luyện kĩ năng cho học sinh
là việc làm không thể thiếu.
Thứ 4: từ năm 2007- 2008, tôi đã trực tiếp được phân công dạy thêm ở
một vài lớp. Đặc biệt từ năm học 2010- 2011 đến năm học 2012- 2013, tôi
được BGH nhà trường, tổ chuyên môn phân công dạy ở 2 lớp theo khối C, D.
Lớp C1- khối D, lớp C2- khối C. Qua quá trình dạy chính khoá, dạy bồi
dưỡng rồi ôn thi đại học, ôn thi HSG Tỉnh, tôi nhận thức rất rõ tầm quan trọng
của việc rèn luyện kĩ năng nghị luận về 1 tác phẩm truyện ngắn và tiểu thuyết
cũng như hiệu quả mà nó mang lại. Tôi rất tâm huyết với vấn đề này.
Có thể khẳng định hình thành và rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết bài
đặc biệt kĩ năng viết kiểu bài nghị luận về một vấn đề trong tác phẩm truyện
ngắn và tiểu thuyết là khâu quan trọng, có tính chất quyết định sự thành bại
trong quá trình viết bài của học sinh. Vì vậy tôi luôn chú trọng đến vấn đề
này. Tôi xin bày tỏ cùng bạn bè, đồng nghiệp một số giải pháp mà tôi gọi đó
là kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn giảng dạy với đề tài: Một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả rèn luyện kĩ năng nghị luận về tác phẩm truyện
ngắn và tiểu thuyết trong sách giáo khoa Ngữ Văn 11- 12 (chương trinh
nâng cao).
II. Phạm vi, phương pháp nghiên cứu:
1. Phạm vi nghiên cứu:
3
Trong chương trình THPT ở cả 3 khối lớp, tỉ lệ các tác phẩm truyện ngắn
và tiểu thuyết tương đối lớn. Nhưng ở phạm vi đề tài này tôi chỉ đề cập một số
tác phẩm của chương trình Ngữ Văn 11- 12 (thuộc chương trình nâng cao) và
một số phần kiến thức làm văn, lí luận văn học có liên quan. Cụ thể:
- Bài lí luận: Đọc truyện ngắn và tiểu thuyết (SGK Ngữ Văn 11, tập 1
trang 196, 197)
- Bài: Nghị luận về tác phẩm, đoạn trích văn xuôi (SGK Ngữ Văn 12, tập
2 trang 19-> 21).
- Một số tác phâm truyện ngắn, đoạn trích tiểu thuyết:
+ Hai đứa tre (Thạch Lam- SGK Ngữ Văn 11, tập 1 trang 121-> 129)
+ Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân- SGK Ngữ Văn 11, tập 1 trang 142->
149)
+ Hạnh phúc của một tang gia (Trích tiểu thuyết “Số đỏ”- Vũ Trọng
Phụng- SGK Ngữ Văn 11, tập 1 trang 159-> 166 )
+ Chí Phèo (Nam Cao- SGK Ngữ Văn 11, tập 1 trang 178-> 189)
+ Đời thừa (Nam Cao- SGK Ngữ Văn 11, tập 1 trang 202-> 208)
+ Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài- SGK Ngữ Văn 12, tập 2 trang 3-> 15 )
+ Vợ nhặt (Kim Lân - SGK Ngữ Văn 12, tập 2 trang 22-> 32)
+ Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi- SGK Ngữ Văn 12, tập 2
trang 39-> 47)
+ Một người Hà Nội (Nguyễn Khải- SGK Ngữ Văn 12, tập 2 trang 39->
47)
+ Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu- SGK Ngữ Văn 12, tập 2
trang 89-> 98)
2. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu và viết đề tài này, tôi sử dụng một số
phương pháp như: so sánh, phân tích, phân loại, thống kê,…
B. Giải quyết vấn đề:
4
I.Tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng nghị luận về tác phẩm văn
xuôi cho học sinh:
Chúng ta đã biết, kết quả cuối cùng của quá trình học Văn ở học sinh được
đánh giá tập trung ở bài viết (qua kiểm tra, qua các kì thi). Hơn bao giờ hết,
các em đều mong muốn có được kết quả cao qua những bài làm văn của mình.
Để đạt được điều đó, các em cần có kĩ năng, phương pháp làm bài. Như vậy,
kĩ năng làm bài có vai trò như kim chỉ nam soi đường chỉ lối để học sinh đi
đúng hướng trong quá trình viết một bài văn. Trên cơ sở đó hình thành một
bài viết khoa học về bố cục, chặt chẽ, lô gíc trong lập luận.
II. Thực trạng ở trường THPT:
1.Đối với giáo viên:
Do dung lượng của tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết thường lớn, các vấn
đề phải khai thác lại nhiều, kiểu đề phong phú, đa dạng trong khi đó lượng
học sinh say mê với văn học vốn dĩ không nhiều. Vì vậy giáo viên thường có
tâm lí ngại đầu tư trong quá trình soạn giảng, đặc biệt khâu hướng giải đề cho
học sinh, ngoại trừ số ít giáo viên trực tiếp giảng dạy ở một số lớp theo khối.
2.Đối với học sinh:
Như đã nói ở trên, việc tiếp nhận văn bản văn xuôi cho đến khâu viết bài
của học sinh còn sơ sài, chiếu lệ. Việc học sinh thực sự yêu thích, say mê với
câu chuyện đề cập trong tác phẩm rồi nhập tâm, sống cùng nhân vật trong tác
phẩm là trường hợp hiếm hoi. Do đó khâu viết bài của các em chưa thực sự có
chất lượng thậm chí nhiều đơn vị kiến thức trong bài làm còn thiếu chính xác.
Đã thế các em lại ít đầu tư cho công việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp hoặc
tự luyện viết bài. Vì vậy kĩ năng triển khai một đề văn liên quan đến tác phẩm
truyện ngắn hay đoạn trích tiểu thuyết của các em còn non yếu.
III.Giải pháp và cách thức thực hiện:
Hiểu rõ được tầm quan trọng của việc hình thành và rèn luyện kĩ năng cho
học sinh trong quá trình giảng dạy tôi luôn trăn trở để tìm ra những giải pháp
5
nhằm nâng cao hiệu quả vấn đề. Vì vậy tôi đã chú trọng thực hiện một số
giải pháp sau:
1. Giúp học sinh nắm vững và vận dụng linh hoạt một số kiến về tác giả
có liên quan, hỗ trợ hữu ích cho việc đọc - hiểu văn bản:
Trên thực tế, chúng ta biết trước khi tiếp cận các đề văn về 1 vấn đề trong
tác phẩm truyện ngắn hoặc đoạn trích tiểu thuyết, học sinh thường phải trải
qua quá trình đọc rồi hiểu các giá trị về nội dung, tư tưởng cũng như những
nét độc đáo về nghệ thuật của tác phẩm đó rồi mới viết bài. Như vậy khâu đầu
tiên là đọc - hiểu thật tốt văn bản. Để đọc- hiểu hiệu quả văn bản, tôi hướng
dẫn các em hiểu và vận dụng một số kiến thức có giá trị từ cuộc đời, phong
cách hoặc một số thông tin liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp nhà văn. Bởi lẽ
tư tưởng, tình cảm cũng như phong cách nghệ thuật của nhà văn chi phối trực
tiếp đến quá trình sáng tạo văn bản, thậm chí in đậm dấu ấn trong những hình
tượng nhân vật, qua những trang viết của những nhà văn.
Chẳng hạn: Khi đọc- hiểu truyện ngắn Hai đúa trẻ (Thạch Lam), học sinh
sẽ có cái nhìn sâu sắc hơn về tình cảm mà nhà văn dành cho những con người.
đặc biệt những trẻ thơ cũng như cảnh vật quê hương nơi phố huyện nghèo nếu
các em nắm vững được những lời tâm sự của chị gái nhà văn là Nguyễn Thị
Thế về kỉ niệm tuổi thơ của 2 chị em: “ Năm Thạch Lam lên 7 tuổi, cha của
ông qua đời, cảnh nhà khó khăn, mẹ Thạch Lam phải tảo tần buôn bán để
nuôi con cái ăn học. Các anh của Thạch Lam đi học ở Hà Nội thi thoảng
mới về. Thạch Lam và chị Thế được mẹ giao trông coi một cửa hàng tạp
hoá”.Trong cuốn Hồi kí về gia đình Nguyễn Tường, chị Thế tâm sự: Tôi
không ngờ em Sáu (tên lúc nhỏ của nhà văn Thạc Lam) lại có trí nhớ dai
đến thế như truyện em tôi tả 2 chị em thức đợi chuyến tầu đêm đi qua rồi
mới ngủ. Năm đó tôi mới 9 tuổi, em tôi lên 8 mà mẹ tôi đã giao cho 2 chị em
coi cửa hàng, cửa hàng chỉ bán có rượu, bánh khảo, thuốc lào cốt để đưa
khách quen vào nhà bà ngoại. Như vậy chính kỉ niệm thời thơ ấu đã khắc sâu
trong tâm trí Thạch Lam rồi in dấu trên những trang văn của đời ông. Hay nói
6
khác đi, kỉ niệm êm đềm, trong sáng của tuổi thơ nơi phố huyện Cẩm Giàng-
Hải Dương đã nuôi dưỡng tâm hồn lãng mạn của Thạch Lam.
Hoặc các em sẽ hiểu được vì sao Tô Hoài – một nhà văn sinh ra, lớn lên
bên bờ sông Tô Lịch của mảnh đất Hà Thành lại có những trang viết chân
thực, hấp dẫn và cảm động đến thế về cuộc sống sinh hoạt, phong tục tập quán
cũng như thiên nhiên miền Tây (qua Vợ chồng A Phủ) nếu các em nắm vững
đặc điểm nổi bật trong phong cách truyện của Tô Hoài là thể hiện vốn hiểu
biết phong phú về nhiều lĩnh vực đời sống, đặc biệt là phong tục tập quán và
sinh hoạt đời thường.
Hoặc tương tự đọc truyện ngắn “ Những đứa con trong gia đình” học sinh
sẽ hết ngạc nhiên nếu các em hiểu rằng Nguyễn Thi sinh ra ở Nam Định
nhưng được mệnh danh là nhà văn của người nông dân Nam Bộ bởi đó là kết
quả của những năm tháng ông đã sống, gắn bó với chính những con người của
sông nước Nam Bộ. Thêm nữa, học sinh sẽ hiểu rõ vì sao trong truyện ngắn
Rừng xà nu, cây xà nu trở thành một hình tượng xuyên suốt tác phẩm với
nhiều ý nghĩa (ý nghĩa thực, ý nghĩa biểu tượng) nếu các em hiểu và nắm rõ
lời tâm sự của Nguyễn Trung Thành trong hồi ức về hình ảnh cây xà nu – Một
yếu tố tạo nên cảm hứng gián tiếp dẫn đến sự ra đời của tác phẩm này: Ông
tâm sự: Tháng 5 năm 1962, ông cùng nhà văn Nguyễn Thi hành quân từ
miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Đêm chia tay, mỗi người về chiến
trường của mình, họ đã sống giữa khu rừng bát ngát phía Tây Thừa Thiên
giáp Lào. Đó là một khu rừng xà nu tít tắp chân trời. Nhà văn có ấn tượng
sâu đậm và yêu cây xà nu từ đó. Ông thực sự xúc động trước cây xà nu, bởi
ấy là một loại cây hùng vĩ và cao thượng, man dại mà trong sạch, mỗi cây
cao vút, vạm vỡ, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi mênh mông,
tưởng như đã sống tự ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng cây, hàng
vạn, hàng triệu cây vô tận.
Như vậy cung cấp và giúp học sinh hiểu kỹ những kiến thức về tác giả sẽ
là một trong những yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả đọc – hiểu văn bản. Từ
7
đó sẽ hình thành ở học sinh khả năng tư duy, vận dụng, liên kết kiến thức
trong việc viết bài.
2. Nắm vững kiến thức đặc trưng thể loại và vận dụng có hiệu quả trong
khâu đọc – hiểu văn bản.
Sẽ thật khó thành công khi đọc - hiểu 1 văn bản mà học sinh không hiểu,
không nắm được kiến thức về đặc trưng thể loại. Vì vậy trong quá trình dạy
các tiết văn xuôi, tôi rất quan tâm đến việc hướng dẫn các em nắm vững và
vận dụng kiến thức đọc truyện và tiểu thuyết
a. Về hình tượng nhân vật:
Đây là yếu tố đầu tiên, quan trọng hàng đầu của thể loại truyện ngắn và
tiểu thuyết. Khi đọc văn bản học sinh cần phân biệt đâu là nhân vật chính, đâu
là nhân vật phụ và nhân vật đó được chú trọng miêu tả theo phương diện nào.
Từ đó hiểu được ý nghĩa của các phương tiện đó trong việc xây dựng nhân
vật.
Ví dụ: Đọc truyện “Vợ chồng A phủ” (Tô Hoài), các em cần thấy được ở
hình tượng nhân vật Mị, Tô Hoài không chú trọng miêu tả những nét chân
dung, ngoại hình mà ông quan tâm miêu tả tâm lý của Mị. Từ đó để khắc hoạ
cuộc đời, số phận bất hạnh cũng như ngợi ca sức sống tiềm tàng, mãnh liệt ở
người con gái Tây Bắc này. Hoặc tương tự đọc truyện “Vợ nhặt”, học sinh
cần thấy rằng ở nhân vật bà cụ Tứ, Kim Lân không quan tâm nhiều trong việc
miêu tả chân dung nhân vật mà chủ yếu khám phá thế giới nội tâm qua việc
miêu tả diễn biến tâm trạng nội tâm của bà cụ Tứ. Qua đó nhà văn ngợi ca vẻ
đẹp tâm hồn của người mẹ nghèo, sống nhân hậu, vị tha, đọ lượng và giàu tình
yêu thương các con …
Tiếp đó, học sinh cũng phải hiểu mối quan hệ giữa nhân vật với nhân vật,
giữa nhân vật với hoàn cảnh xung quanh. Vì đó là yếu tố để giúp nhà văn bộc
lộ địa vị, tính cách, số phận nhân vật. Ví dụ: Đặt nhân vật Chí Phèo trong tác
phẩm cùng tên của Nam Cao trong mối quan hệ với Bá Kiến, ta mới hiểu
được mối xung đọt giai cấp không thể điều hoà trong xã hội Việt Nam trước
8
Cách mạng tháng 8 năm 1945. Hay đặt người đàn bà hàng chài trong truyện
ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu) trong quan hệ với người
đàn ông vũ phu, với nghệ sĩ Phùng, với Chánh án Đậu ta mới thấy rõ được vẻ
đẹp của chị cũng như tính cách của từng nhân vật…
Hiểu được như vậy học sinh mới nhận thức rõ ý nghĩa của nhân vật trong
tác phẩm.
b. Cốt truyện, chi tiết:
Thật thiếu sót và sẽ khó khăn cho học sinh khi các em làm bài về một tác
phẩm truyện hoặc một đoạn trích tiểu thuyết mà không nắm vững được cốt
truyện của tác phẩm đó. Vì vậy, khi hướng dẫn đọc – hiểu văn bản cho học
sinh, tôi đặc biệt quan tâm đến vấn đề này
Cốt truyện được hiểu là hệ thống sự kiện xảy ra trong đời sống của nhân
vật có tác dụng bộc lộ tính cách, số phận của nhân vật. Trên thực tế tình trạng
học sinh nắm sơ sài nội dung cốt truyện rồi kéo theo trong bài làm những kiến
thức nông cạn về tác phẩm là điều không hiếm. Do đó khi đọc - hiểu văn bản,
cần hình thành cho học sinh thói quen tự tóm tắt cốt truyện. Bản thân các em
phải tự đặt cho mình câu hỏi: Câu chuyện đề cập trong tác phầm là gì?
Chuyện kể về ai? Kể như thê nào? rồi tự khắc các em sẽ nắm vững cốt truyện.
Chẳng hạn đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành, học sinh cần phải
hiểu cốt truyện của tác phẩm có sự đan lồng 2 câu truyện: Đó là câu truyện
của cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man và cuộc đời bi tráng của Tnú. Trong
đó câu chuyện về cuộc đời Tnú là câu chuyện chính. Và học sinh phải nắm
vững những sự kiện liên quan đến cuộc đời của nhân vật này: Sinh ra, lớn lên
như thế nào? cuộc đời, số phận của Tnú ra sao? …
Cùng với việc nắm cốt truyện, tôi lưu tâm học sinh để ý đến các chi tiết
trong tác phẩm.
Chi tiết được hiểu là những biểu hiện cụ thể, lắm khi nhỏ nhặt nhưng lại
cho thấy tính cách nhân vật và diễn biến quan hệ của chúng, đồng thời thể
hiện sự quan sát và nghệ thuật kể chuyện của nhà văn. Ví dụ đọc “Chiếc
9
thuyền ngoài xa’ của Nguyễn Minh Châu học sinh cần nắm vững ý nghĩa của
chi tiết cái vái lạy của người đàn bà hàng chài, chi tiết ngọn đèn chị Tý trong
tác phẩm “ Hai đứa trẻ” (Thạch Lam), chi tiết bát cháo hành thị Nở, tiếng
chửi của Chí Phèo trong truyện ngắn “Chí Phèo” – Nam Cao, Chi tiết tiếng
sáo trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ) – Tô Hoài. Hoặc chi tiết
khiêng bàn thờ ba má sang gửi nhà chú Năm của chị em Chiến – Việt trong
tác phẩm “Những đứa con trong gia đình” – Nguyễn Thi, rồi câu chuyện về
cây si già ở đền Ngọc Sơn trong truyện ngắn “Một người Hà Nội” – Nguyễn
Khải …
Những chi tiết này có giá trị lớn đối với tác phẩm. Vì vậy việc nắm vững,
hiểu rõ các chi tiết nhỏ để vận dụng trong quá trình làm bài là rất hữu ích.
c. Sự miêu tả hoàn cảnh:
Đọc – hiểu văn bản cần thấy được bối cảnh đời sống xã hội, lịch sử, văn
hoá mà nhà văn sáng tác. Đây là một trong những yếu tố quan trọng để học
sinh hiểu giá trị văn bản. Vì vậy tôi luôn ý thức việc cung cấp đơn vị kiến thức
này cho các em:
Chẳng hạn học sinh sẽ không hiểu hết được tình đời, tình người, cũng như
tinh thần lạc quan của người lao động trong truyện ngắn Vợ nhặt, đặc biệt là
niềm tin mãnh liệt của nhà văn vào người lao động, nếu các em không có hiểu
biết về bối cảnh của lịch sử xã hội Việt Nam vào năm 1945. Đó là bối cảnh
nạn đói thảm khốc chưa từng có trong lịch sử – nạn đói năm Ất Dậu (1945)
với hơn 2 triệu đồng bào chết đói, tính từ Quảng Trị đến Lạng Sơn. Có làng
chết gần hết, có nhà chết chẳng còn ai, nhiều người chết lả trên đường đi, chết
gục bên gốc cây, chết lăn trên hè phố, ngõ chợ … Nhiều gia đình phải ăn cháo
cám, rau má, củ chuối … cầm hơi mà vẫn không thoát chết. Gia đình nhà văn
Kim Lân cũng từng trải qua những ngày đói ấy. Sự kiện lịch sử bi thảm này đã
làm lay động trái tim nhiều nghệ sĩ. Hình ảnh nạn đói xuất hiện trong hàng
loạt những tác phẩm: Địa ngục (Nguyên Hồng), Mười năm (Tô Hoài), Vỡ bờ
(Nguyễn Đình Thi), Xuân đến và Đói! Đói! (Tố Hữu) và không thể không
10
nhắc đến Vợ nhặt của Kim Lân. Cũng thật thiếu sót nếu không cung cấp cho
học sinh đầy đủ kiến thức về bối cảnh lịch sử như dầu sôi, lửa bỏng dẫn đến
sự ra đời của những bài hịch thời đánh Mỹ như Rừng xà nu (Nguyễn Trung
Thành), và cũng không thể hiểu hết giá trị của truyện ngắn “Chiếc thuyền
ngoài xa” nếu các em thiếu kiến thức về bối cảnh đời sống xã hội Việt Nam
sau 1975.
d. Kết cấu: Kết cấu là cách tổ chức tác phẩm. Khi đọc – hiểu tôi thường lưu ý
học sinh phát hiện ra những trường hợp độc đáo về kết cầu để từ đó thấy được
ý đồ sáng tạo của nhà văn cũng như giá trị mà nó mang lại cho tác phẩm. Ví
dụ: đọc Chí Phèo, cần cho học sinh nhận ra kết cấu đặc biệt của tác phẩm, nhà
văn Nam Cao không miêu tả câu truyện theo trình tự thời gian mà theo kiểu
cấu trúc vòng tròn, đầu cuối tương ứng. Tương tự như thế, truyện ngắn Rừng
xà nu của Nguyễn Trung Thành, nhà văn mở đầu và kết thúc tác phẩm bằng
hình ảnh rừng xà nu. Đây là kiểu kết cấu đầu cuối tương ứng…
Đó là những lưu ý tôi thường thực hiện ở bước đọc – hiểu văn bản. Tôi
thiết nghĩ chừng nào học sinh còn chưa hiểu kỹ văn bản thì việc làm bài về tác
phẩm ấy còn là vấn đề nan giải đối với các em.
3. Từ đọc – hiểu văn bản đến hình thành kỹ năng làm bài cho học sinh
thông qua hướng dẫn giải đề:
Chúng ta biết trong sách giáo khoa cơ bản và nâng cao 12 đều có 1 tiết
nghị luận về 1 tác phẩm, đoạn trích văn xuôi. Mục đích của tiết học này ở cả 2
chương trình là đều hình thành mô hình chung cho học sinh khi giải quyết 1
vấn đề trong tác phẩm, đoạn trích văn xuôi. Giáo viên có thể triển khai tiết dạy
bằng nhiều hướng đi khác nhau. Có thể từ những đề văn rồi rút ra các bước
cần thiết đảm bảo trong bài làm cho các em. Cụ thể:
Bước 1: giới thiệu tác giả hoặc đoạn trích văn xuôi cần nghị luận.
Bước 2: Phân tích các giá trị nội dung và nghệ thuật theo định hướng của
đề hoặc 1 số khía cạnh đặc sắc nhất của tác phẩm, đoạn trích.
Bước 3: Đánh giá chung về tác phẩm, đoạn trích.
11
Từ mục tiêu đó, trong quá trình hướng dẫn giải đề, giáo viên cần linh
hoạt để giúp học sinh hình thành một giàn ý cụ thể hơn so với từng kiểu đề
nếu không vẫn chỉ là một mô hình trừu tượng, chung chung trong tư duy của
học trò.
Nhận thức rõ điều này, tôi đã thực hiện từng công việc cụ thể ở khâu
hướng dẫn giải để từ đó giúp các em có kỹ năng làm bài hiệu quả hơn. Cụ thể:
a). Bước 1: ở bước này tôi lưu ý học sinh về đối tượng (hay còn gọi là kiểu
đề) của bài văn nghị luận về tác phẩm, về đoạn trích văn xuôi là vô cùng
phong phú, đa dạng: có thể là giá trị nội dung và nghệ thuật, có thể chỉ là 1
phương diện, thậm chí chỉ là 1 khía cạnh nhỏ của nội dung hoặc nghệ thuật …
trên cơ sở đó theo mỗi chuyên đề tôi giới thiệu cho học sinh những dạng câu
hỏi (đề văn) cơ bản.
Chẳng hạn: sau khi đọc – hiểu Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân, tôi giới
thiệu hệ thống câu hỏi ôn tập cho các em bao gồm:
1. Trình bày hoàn cảnh ra đời, ý nghĩa nhan đề tác phẩm Vợ nhặt?
2. Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt?
3. Vẻ đẹp của các nhân vật: Tràng, thị, bà cụ Tứ?
4. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng trong phần kết thúc truyện Vợ nhặt?
5. Hình ảnh bữa cơm ngày đói trong truyện ngắn Vợ nhặt?
6. Giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện ngắn Vợ nhặt?
7. Hãy phân tích để chứng minh ý kiến tâm sự của nhà văn Kim Lân khi
viết truyện Vợ nhặt: “Trong sự túng đói, quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh
khốn khổ nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên cái chết thê
thảm để mà vui, để mà hi vọng”
Từ hệ thống câu hỏi đó, bản thân học sinh bước đầu đã nhận thấy kiểu đề
về một tác phẩm đoạn trích văn xuôi rất phong phú và đa dạng.
b) Bước 2: Tôi hướng dẫn học sinh giải quyết một số đề cụ thể. Trước một đề
văn tôi thực hiện quy trình giải đề với 1 số việc cụ thể sau đây:
b1) Hình thành kỹ năng phân tích đề cho học sinh:
12
Tôi nhận thấy, học sinh không thể đọc 1 đề văn là có thể cần bút viết
ngay thành bài mà giáo viên cần định hướng cho các em các kỹ năng cụ thể.
Từ đó xây dựng một bài viết có chất lượng. Kỹ năng phân tích đề chính là
việc làm quan trọng hàng đầu, phân tích đề là xác định các yêu cầu của đề văn
(luận đề) thao tác lập luận, phạm vi tư liệu…). Tôi hình thành cho học sinh
thói quen tư duy đề trước khi thực hiện các công đoạn tiếp theo. Đứng trước
một đề văn, học sinh cần tự đặt câu hỏi: đề văn yêu cầu bàn về vấn đề gì
(tức luận đề)? Có thể sử dụng những tư liệu nào để viết bài (phạm vi tư
liệu)? Những thao tác lập luận cần huy động là gì? Làm được như vậy chắc
chắn các em sẽ không lạc đề, nói khác đi có một định hướng chính xác cho
quá trình chuyển khai bài làm. Nghĩa là học sinh sẽ biết ngăn đề lựa chọn
vùng kiến thức để viết bài cho phù hợp.
b2. Hình thành kỹ năng lập dàn ý cho học sinh:
Ở khâu này, tôi thường định hướng cho học sinh lập dàn ý theo bố cục 3
phần: Mở, thân, kết bài trên cơ sở yêu cầu của đề văn.
*) Trong phần mở bài: tôi lưu ý học sinh yêu cầu của mở bài rồi hướng
dẫn các em phương pháp viết mở bài sao cho hiệu quả. Căn cứ theo mục tiêu
của bài văn nghị luận về một tác phẩm, đoạn trích văn xuôi, phần mỏ bài cần
giới thiệu tác phẩm hoặc đoạn trích văn xuôi cần nghị luận (nói cách khác cần
nêu vấn đề nghị luận), tôi cụ thể hoá cho học sinh những nội dung cần triển
khai để có một mở bài thu hút người đọc.
Cụ thể: học sinh có thể mở bài trực tiếp hay gián tiếp tuỳ theo khả năng,
năng lực riêng của mình. Thông thường các em hay giới thiệu về tác giả, tác
phẩm rồi nêu luận đề. Nhưng thực tế không phải học sinh nào cũng biết cách
giới thiệu hợp lý. Ngược lại đã không ít những học sinh đã trình bày rất dài
dòng, thậm chí lan man tất cả những thông tin tiểu sử về nhà văn. Xuất phát từ
thực tế đó tôi định hướng cho học trò một số cách mở bài mà tôi cho là có
hiệu quả.
13
Thứ nhất, học sinh có thể vận dụng những nhận định đánh giá liên quan
đến tác giả kết hợp với việc giới thiệu những thông tin cần thiết về tác giả, tác
phẩm trong phần mở bài từ đó nêu luận đề.
Ví dụ: đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ trong truyện
ngắn Vợ nhặt của Kim Lân? Học sinh có thể mở: Kim Lân (1920-2007)là
một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn học hiện đại Việt
Nam. Ông là nhà văn một lòng một dạ đi về với đất, với người, với thuần
hậu nguyên thuỷ của cuộc sống nông thôn (Nguyên Hồng). Vợ nhặt (1954)
là một trong những tác phẩm ưu tú của Kim Lân. Tác phẩm được viết trên
nền hiện thực của nạn đói năm 1945- Ất Dậu. Sau đó in trong tập truyện
con chó xấu xí (1962). Trong tác phẩm Kim Lân không chỉ thành công ở
việc xây dựng tình huống chuyện độc đáo mà còn hấp dẫn người đọc bởi
tài năng miêu tả tâm lý nhân vật, đặc biệt là diễn biến tâm trạng của bà cụ
Tứ .
Thứ 2, học sinh có thể trích dẫn những ý kiến hay những lời thơ phù hợp
với đề bài cần triển khai.
Ví dụ: Hướng dẫn học sinh triển khai đề: Phân tích giá trị nhân đạo
của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), tôi hướng dẵn học sinh một
trong các cách sau: lấy nhận định của Nam Cao trong truyện ngắn Đời thừa
để mở: Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và
giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa
đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó
ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần
người hơn. Đó là những lời khẳng định của Nam Cao về giá trị nhân đạo
của một tác phẩm văn học. Với những ý nghĩa đó, Vợ chồng A Phủ xứng
đáng là một tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc.
Hoặc một số câu nói nổi tiếng của các nhà lý luận, phê bình có thể dùng
cho nhiều mở bài:
14
- Tác phẩm nghệ thuật chân chính không chấm dứt ở trang cuối cùng,
không bao giờ hết khả năng kể chuyện (Chingiz ĂjMatov)
- Tác phẩm nghệ thuật đích thực nhất là tác phẩm nghệ thuật ngôn từ bao
giờ cũng là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung .(Lêônit
– Lêônốp) hoặc một số lời thơ có ý nghĩa tương đồng liên quan đến luận đề.
Ví dụ: Khi hướng dẫn giải một số đề của hai tác phẩm Những đứa con
trong gia đình (Nguyễn Thi) và Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành), tôi cung
cấp cho học sinh một số đoạn, câu thơ có liên quan để các em vận dụng:
1, Yêu biết mấy những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh vươn lên
Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loại sên
(Tố Hữu)
2, Ôi Việt Nam xứ sở lạ lùng
Đến em thơ cũng hoá những anh hùng
Đến ong dại cũng luyện thành chiến sĩ
Và hoa trái cũng biến thành vũ khí!
(Êmêlicon – Tố Hữu)
3, Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông.
(Sao chiến thắng – Chê Lan Viên)
4, Lớp cha trước, lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành
Đó là những lời thơ học sinh có thể vận dụng linh hoạt vào phần mở bài
cho các đề:
15
- Vẻ đẹp con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ qua hai tác
phẩm Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi) và Rừng xà nu (Nguyễn
Trung Thành)?
- Cảm nhận vẻ đẹp của hình tượng nhận vật Tnú (Rừng xà nu – Nguyễn
Trung Thành) và hình tượng nhân vật Việt (Những đứa con trong gia đình –
Nguyễn Thi)?
- Chủ nghĩa anh hùng cách mạng qua hai tác phẩm Những đứa con trong
gia đình (Nguyễn Thi) và Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành)?
- Nét chung và riêng trong tính cách của Chiến và Việt trong tác phẩm
Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi)?
Thứ 3, học sinh có thể vào bài bằng chính ấn tượng, tình cảm của mình về
tác phẩm, đoạn trích văn xuôi hoặc bằng những liên tưởng, tưởng tượng để
mở bài.
Ví dụ: Đề bài: Cảm nhận hình ảnh đôi bàn tay Tnú trong tác phẩm Rừng
xà nu – Nguyễn Trung Thành? Học sinh có thể mở: Gấp lại trang văn Rừng
xà nu của Nguyễn Trung Thành, tôi thực sự cảm phục hình tượng cây xà
nu anh dũng, kiên cường trong lửa đạn chiến tranh với một sức sống bất
diệt. Tôi cũng không tránh khỏi sót xa nhưng cũng rất đỗi tự hào về hình
ảnh những con người Tây Nguyên anh dũng: Cụ Mết,Tnú, Mai, Dít, bé
Heng … và đặc biệt tôi không sao quên được hình ảnh đôi bàn tay Tnú –
chi tiết nhỏ nhưng mang ý nghĩa lớn. Đôi bàn tay – một cuộc đời.
Hoặc khi triển khai đề bài: Chi tiết báo cháo hành của nhân vật thị Nở
trong truyện ngắn Chí Phèo – Nam Cao? Học sinh có thể viết mở bài: Ta đã
từng day dứt, ám ảnh bởi hình ảnh ngọn đèn chị Tý trong truyện ngắn Hai
đứa trẻ của Thạch Lam, ta đã từng trăn trở, băn khoăn trước cái vái của
quản ngục với Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù (nguyễn Tuân),
hay ấn tượng về đôi bàn tay Tnú trong thiên truyện Rừng xà nu (Nguyễn
Trung Thành) và cũng không thể nào quên chi tiết bát cháo hành của thị
16
Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao – một chi tiết nhỏ làm nên
giá trị lớn cho tác phẩm.
Chung quy lại, trước một đề văn học sinh có thể vào bài bằng nhiều cách
khác nhau. Phương pháp của tôi là không áp đặt hay gò các em theo một
khuôn mẫu nào mà trên cơ sở những định hướng tôi tạo cho học sinh thói
quen vào bài hay, độc đáo, ấn tượng bằng việc vận dụng linh hoạt những gì
được học.
*) Ở phần thân bài: Tôi định hướng học sinh hình thành hệ thống luận
điểm sao cho phù hợp với từng kiểu đề cũng như thang điểm trong đề bài,
Ví dụ 1: Hướng dẫn học sinh triển khai kiểu câu hỏi về hoàn cảnh ra đời, ý
nghĩa nhan đề của một tác phẩm, tôi giúp học sinh xây dựng một hệ thống ý
không chỉ giải quyết đề cho một tác phẩm mà có thể vận dụng cho những tác
phẩm tương tự. Cụ thể với các ý sau:
Ý1: Giới thiệu về khái niệm nhan đề, vai trò của nhan đề đối với tác phẩm
văn học nói chung.
Ý 2: Trình bày cơ sở hình thành nhan đề.
Ý 3: ý nghĩa của nhan đề:
+ Về phương diện nội dung.
+ Về phương diện nghệ thuật.
Ý 4: Đánh giá chung về vai trò giá trị của nhan đề đó của tác phẩm.
Ví dụ 2: Hoặc hướng dẫn học sinh triển khai kiểu đề về tình huống truyện,
tôi cũng giúp các em hình thành kỹ năng chung để vận dụng cho nhiều trường
hợp. Chẳng hạn các tác phẩm có câu hỏi tình huống truyện như: Chữ người
tử tù – Nguyễn Tuân, Hạnh phúc của một tang gia (Trích Số đỏ – Vũ Trọng
Phụng), Vợ nhặt – Kim Lân, Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu,
… Từ một đề học sinh sẽ biết cách khai thác các ý cho các đề tương tự với hệ
thống luận điểm chặt chẽ như sau:
Ý1: Giới thiệu khái niệm, vai trò phân loại tình huống truyện trong tác
phẩm văn xuôi.
17
Ý2: Phân tích tình huống truyện trong tác phẩm đó:
+ Giới thiệu hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, cốt truyện của tác phẩm.
+ Nội dung tình huống truyện
+ Ý nghĩ tình huống truyện (về nội dung, về nghệ thuật)
Ý3: Đánh giá chung về tình huống truyện.
Trên cơ sở hình thành hệ thống luận điểm, học sinh sẽ không bỏ sót ý, lặp
ý hoặc thừa ý khi triển khai bài viết. Hơn nữa các em sẽ hình thành kỹ năng
triển khai bài viết một cách linh hoạt, khoa học, sáng tạo hơn.
*) Phần kết bài:
Nếu mở bài là phần thu hút, tạo ấn tượng, có thể nói là gọi mời người đọc
đến với bài viết thì kết bài có thể xem là phần neo lại lòng người những ấn
tượng về bài viết đó. Vì vậy, tôi nghĩ phần kết bài cũng không kém phần quan
trọng đối với bài văn của các em. Thông thường học sinh chỉ viết bài cho có,
thậm chí thiếu kết bài do không cân đối được thời gian hoặc chưa nhận thức
rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của khâu kết bài. trong quá trình dạy, tôi đã rất chú
ý đến việc hướng dẫn học sinh viết phần kết bài sao cho hiệu quả. Phần kết
bài vừa gói lại vấn đề, vừa thể hiện cái nhìn của người viết (cách đánh giá) về
những vấn đề đó. Do đó kết bài không những thâu tóm được nội dung trọng
tâm đã triển khai trong bài viết mà còn thể hiện được tình cảm của người viết
trước vấn đề. Phần kết phải vang thì bài văn mới thực sự tạo được dư âm cho
người đọc. Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh giải quyết đề: Chủ nghĩa anh hùng
cách mạng Việt Nam qua hai tác phẩm Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành
và Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Đình Thi, tôi hướng dẫn học sinh
kết bài như sau:
Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam hiển diện ở mọi nơi, khắp
mọi miền đất nước. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền
xuôi, từ đồng bằng đến miền núi … tất cả đã tạo nên một sức mạnh tổng
hợp có thể làm lung trời lở đất để nhấn chìm mọi bè lũ bán nước và cướp
nước. Đồng thời tạo ra Một dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ – Tổ quốc
18
bay lên bát ngát mùa xuân. Cuộc đời và sự hy sinh của con người Việt Nam
mãi mãi là bản hùng ca tươi đẹp cho các thế hệ sau noi theo.
4. Hướng dẫn học sinh vận dụng linh hoạt vốn sống, vốn hiểu biết về
đời sống, văn hoá, xã hội trong quá trình viết bài:
Chúng ta biết bài văn là thành quả không chỉ của những đơn vị kiến thức
được học qua sách vở trong nhà trường mà còn ở khả năng vận dụng vốn hiểu
biết của các em. Trong quá trình viết bài học sinh rất cần loại kiến thức này để
hoàn thiện một bài viết có chất lượng vừa sâu, vừa rộng về tư liệu. Chẳng hạn,
để giải quyết tốt các đề văn về truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn
Tuân, học sinh cần có những hiểu biết về nét đẹp văn hoá truyền thống qua
các thú chơi tao nhã từ xưa của người Việt: Thả thơ, chơi chữ … hoặc với
truyện ngắn Vợ chồng A phủ, các em cần có những hiểu biết nhất định về
phong tục tập quán, lối sống của đồng bào Tây Bắc như chợ tình mùa xuân,
tục cướp dâu, trình ma … hoặc học về Rừng xà nu, học sinh cũng cần có hiểu
biết về văn hoá Tây Nguyên: đó là những sinh hoạt văn hoá cộng đồng tại nhà
Rông, rồi tiếp nhận truyện ngắn Một người Hà Nội – Nguyễn Khải các em
không thể không vận dụng những hiểu biết về lịch sử văn hoá của vùng đất
ngàn năm văn hiến – Hà Nội.
IV. Hiệu quả:
Qua việc tiến hành những giải pháp trên, tôi đã thu được những kết quả
khả quan xin được chia sẻ cùng bạn bè, đồng nghiệp
1. Với học sinh:
Tôi nhận thấy các em thực sự nắm vững kiến thức trọng tâm của một tác
phẩm truyện ngắn hoặc đoạn trích tiểu thuyết. Không còn hiện tượng học sinh
hiểu sơ sài, hiểu nông cạn những vấn đề đặt ra trong tác phẩm, đặc biệt các em
đã thực sự có kỹ năng để vững tin triển khai một cách có hiệu quả bài văn
nghị luận về một vấn đề trong tác phẩm truyện ngắn hoặc đoạn trích tiểu
thuyết.
19
Tôi thực sự cảm thấy phần khởi khi không còn tình trạng học sinh lạc đề
hoặc triển khai những bài viết còn thiếu ý, lặp ý, sắp xếp ý lộn xộn hay kiến
thức bài viến còn nông cạn.
2. Với giáo viên:
Tiến hành đúng hướng các giải pháp giúp học sinh hình thành và rèn luyện
kỹ năng nghị luận về một tác phẩm truyện ngắn hoặc đoạn trích tiểu thuyết,
tôi thực sự thấy việc giảng dạy trở nên nhẹ nhàng, suôn sẻ hơn nhiều. Qua
những năm trực tiếp giảng dạy ở các theo khối C, D, tôi đã thu được những
kết quả đáng mừng trong các kỳ thi:
*) Thi học sinh giỏi trường:
Năm học 2011 – 2012, tôi có 25 giải học sinh giỏi môn Văn (trong đó 1
giải Nhất, 3 giải Nhì, 9 giải Ba, 12 giải Khuyến Khích). Năm học 2012 –
2013, tôi có 26 giải: (trong đó: 1 giải Nhất, 2 giải Nhì, 16 giải Ba, 7 giải
Khuyến Khích)
*)Thi học kỳ: Đa phần học sinh nắm vững kỹ năng làm bài, triển khai bài
viết khoa học, rõ ràng, có sức thuyết phục. Kiến thức chắc, sâu, rộng và dung
lượng bài làm tương đối tốt. Nhiều học sinh có khả năng viết trên 2,5 tờ giấy
thi vơí thời gian làm bài 90 phút và đạt điểm 8; 8,5 thậm chí 9 điểm
*) Thi thử đại học: Qua các lần thi thử đại học do trường tổ chức học sinh
của các lớp theo khối C, D có sức viết tốt, nắm vững kỹ năng làm bài, hệ
thống luận điểm khoa học chặt chẽ, bài viết có khả năng thuyết phục cao.
Nhiều em khối D đạt điểm từ 24 trở lên, thậm chí 25,75 điểm, trong đó môn
Văn đạt 8,5 điểm. Nhiều em khối C đạt từ 23,5 điểm trở lên, trong đó điểm
Văn đạt 7,75 điểm, 8 điểm, 8,25 điểm …
*) Trong kỳ thi học sinh giỏi Tỉnh: Những năm gần đay trường chúng tôi
đều có thành tích cao, đặc biệt với riêng bộ môn Văn:
+ Năm học 2009 – 2010 đạt 9 giải
+ Năm học 2010 – 2011 đạt 8 giải
+ Năm học 2011 – 2012 đạt 10 giải
20
+ Đặc biệt năm học 2012 – 2013, đội tuyển Văn do tôi trực tiêp phụ trách
đạt 9 giải (6 giải Ba, 3 giải Khuyến Khích), xếp thứ 5 trên toàn tỉnh.
C. Kết luận và đề xuất:
Tôi nhận thấy cần tiếp tục chú trọng hơn nữa đối với việc hình thành và rèn
luyện kỹ năng là văn nghị luận cho học sinh, đặc biệt là kỹ năng nghị luận về
một vấn đề trong tác phẩm truyện ngắn hoặc trích tiểu thuyết không chỉ riêng
với học sinh theo khối C, D mà ở tất cả các đối tượng.
Tôi thiết nghĩ, bản thân mỗi giáo viên cần đầu tư thích đáng hơn nữa trong
quá trình giảng dạy, đặc biệt ở những giờ hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn
bản và các tiết dạy hình thành và rèn luyện kỹ năng làm văn cho học trò. Có
thể nói đây là công việc thường xuyên, liên tục mà mỗi giáo viên cần nhận
thức rõ và thực hiện tốt hơn nữa để không ngừng nâng cao hiệu quả cảm thụ
tác phẩm văn học, đặc biệt là quá trình hoàn chỉnh một bài văn đạt đảm bảo
chất lượng cao.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã từng tiến hành trong quá trình
hình thành và rèn luyện kỹ năng nghị luận một vấn đề trong tác phẩm truyện
ngắn hoặc đoạn trích tiểu thuyết. Những giải pháp đó có thể chưa phải là tối
ưu. Vì lẽ đó tôi rất mong tất cả bạn bè, đồng nghiệp góp ý xây dựng để SKKN
của tôi có hiệu quả thiết thực hơn nữa, góp phần nâng cao chất lượng giảng
dạy môn Ngữ Văn trong nhà trường nói riêng và địa bàn toàn tỉnh nói chung.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị Thanh Hoá, ngày 06 tháng 06 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác
Người viết
21
Bùi Thị Lan
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn nâng cao 11 – 12, nhà xuất bản GD Việt
Nam
2. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức – kỹ năng môn Ngữ văn -
nhà xuất bản GD Việt Nam 2010
3. Kỹ năng đọc – hiểu văn bản Ngữ văn 11 – Nguyễn Kim Phong chủ
biên - nhà xuất bản GD năm 2007
4. Kỹ năng đọc – hiểu văn bản Ngữ văn 12 – Nguyễn Kim Phong chủ
biên - nhà xuất bản GD năm 2009
5. Chuyên đề dạy học Ngữ văn 12 – Những đứa con trong gia đình
(Nguyễn Thi) – chủ biên Hoàng Dục – Nhà xuất bản GD năm 2008
6. Chuyên đề dạy học Ngữ văn 12 – Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) – chủ
biên Hoàng Dục – Nhà xuất bản GD năm 2008
7. Chuyên đề dạy học Ngữ văn 12 – Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành)
– chủ biên Hoàng Dục – Nhà xuất bản GD năm 2008
8. Ôn luyện kiến thức tác phẩm Ngữ văn 12 (Nguyễn Văn Hiếu –
Nguyễn Thị Mai Lan – Nguyễn Thị Tuyết Nhung). Nhà xuất bảnGD
Việt Nam năm 2010.
23
MỤC LỤC
A. Đặt vấn đề ………………………………………………………. 1
I. Lý do chọn đề tài ………………………………………………… 1
II, Phạm vi tư liệu, phương pháp nghiên cứu …………………… 2
1. Phạm vi đề tài ……………………………………………………. 2
2. Phương pháp nghiên cứu ……………………………………… 2
B. Giải quyết vấn đề ……………………………………………… 2
I. Tầm quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng nghị luận của một tác
phẩm cho học sinh ………………………………………………….
2
II. Thực trạng ở trường THPT …………………………………… 3
1. Đối với giáo viên ………………………………………………… 3
2. Đối với học sinh …………………………………………………. 3
III. Giải pháp và cách thức thực hiện ………………………………. 3
1. Giúp học sinh nắm vững và vận dụng linh hoạt một số kiến thức
về tác giả có liên quan, hỗ trợ hữu ích cho việc đọc – hiểu văn bản 4
24
2. Nắm vững kiến thức đặc trưng thể loại và vận dụng có hiệu quả
trong khâu đọc hiểu văn bản ……………………………………… 5
3. Từ đọc hiểu văn bản đến hình thành kỹ năng làm bài cho học
sinh thông qua hướng dẫn giải đề ………………………………… 7
4. Hướng dẫn học sinh vận dụng linh hoạt vốn sống, vốn hiểu biết
về đới sống văn hoá xã hội trong quá trình viết bài …. ……………. 12
IV. Hiệu quả: ………………………………………………………. 12
1. Với học sinh …………………………………………………… 12
2. Với giáo viên ……………………………………………………. 13
C. Kết luận và đề xuất ……………………………………………… 14
Tài liệu tham khảo …………………………………………………. 15
25