Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

BÁO cáo hội THẢORÈN LUYỆN kĩ NĂNG NGHỊ LUẬN về vấn đề xã hội đặt RA TRONG tác PHẨM văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.8 KB, 33 trang )

BỘ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO
TRƯỜNG PT VÙNG CAO VIỆT BẮC

CHUYÊN ĐỀ:
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG NGHỊ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
ĐẶT RA TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC

Thái Nguyên, tháng 8 năm 2015


A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Môn Ngữ Văn là một môn học nền tảng về kiến thức và công cụ giao tiếp, có vị
trí quan trọng trong các môn học, góp phần tạo nên trình độ văn hóa cơ bản cho học
sinh.
Trong trường THPT việc rèn kĩ năng viết văn có vai trò rất quan trọng. Các bài
viết văn không chỉ đánh giá học sinh về mặt điểm số mà còn rèn luyện tính kiên nhẫn,
cách nói năng, bồi dưỡng tâm hồn cho học sinh.
Trong chương trình giảng dạy mới, nghị luận xã hội chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn so
với trước đây, nhằm mục đích tăng cường sự gắn bó của học sinh với đời sống xã hội,
tạo cho học sinh năng lực chủ động đề xuất, phát biểu những suy nghĩ của chính mình
trước nhiều vấn đề trong cuộc sống.
Thể văn nghị luận xã hội được đưa vào chương trình học tập từ trung học cơ sở. Các
em đã được học lí thuyết về phương pháp làm các dạng bài nghị luận xã hội và cũng
được viết nhiều bài làm văn thực hành. Tuy nhiên ở cả ba dạng bài nghị luận xã hội
(nghị luận về một hiện tượng đời sống, nghị luận về một tư tưởng - đạo lí, nghị luận
về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học) các vấn đề nêu ra để yêu cầu
nghị luận vô cùng phong phú, rộng lớn. Muốn làm tốt các dạng bài này, các em phải
nắm chắc phương pháp nghị luận nói chung và cách viết từng dạng bài cụ thể, mặt
khác các em phải có vốn kiến thức xã hội, văn hóa cần thiết để làm bài. Điều này phụ
thuộc rất nhiều vào quá trình học tập, quá trình tự tích lũy, bồi dưỡng kiến thức của


mỗi học sinh.
Với kiểu bài nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là
một trong ba tiểu loại của dạng bài nghị luận xã hội. Điểm khác của tiểu loại này so
với hai kiểu bài nghị luận trên là tuy cùng bàn về một vấn đề xã hội, rất gần với một
tư tưởng đạo lí, một hiện tượng xã hội nhưng vấn đề xã hội đó được rút ra từ tác phẩm
văn học. Nói cách khác là nhân một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm nào đó mà
bàn rộng ra, phân tích ở khía cạnh ý nghĩa xã hội của nó, nhìn nhận và đánh giá vấn
2


đề trong bối cảnh thực tế của cuộc sống xã hội hôm nay. Vậy để làm gì có thể củng
cố, rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh với kiểu bài nghị luận về một vấn đề xã
hội đặt ra trong tác phẩm văn học? Chúng tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm mình đã
tích lũy được qua quá trình dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT.
2. Mục đích của đề tài:
Đề tài này với mong muốn giúp các em viết tốt bài văn nghị luận xã hội theo
cấu trúc đề thi mới rõ ràng, mạch lạc, hoàn chỉnh, chúng tôi đưa ra giải pháp mới, đó
là: rèn luyện cho học sinh kĩ năng nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác
phẩm văn học.
3. Ý nghĩa của đề tài:
Trong tình hình hiện nay khi kĩ năng làm văn của học sinh chưa tốt và nhiều
em chưa có kĩ năng làm văn, đề tài này góp phần vào việc phát hiện ra và khắc phục
những lỗi viết văn mà học sinh trường THPT đang mắc phải. Người viết cũng hi
vọng, đồng nghiệp và học sinh sẽ có thêm tư liệu về các kĩ năng làm văn nghị luận xã
hội.
4. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh THPT
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này tôi dùng các phương pháp như: phân tích, tổng hợp, so
sánh và một số phương pháp khác.


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Các khái niệm:
1. Nghị luận: Bàn bạc và đánh giá một vấn đề. (theo Từ điển tiếng Việt- Hoàng
Phê)
2. Văn nghị luận
3


- Văn nghị luận : là văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc người nghe
một tư tưởng, quan điểm nào đó .(Ngữ văn lớp 7 tập 2).
- Văn nghị luận: thể văn dùng lí lẽ phân tích, giải quyết vấn đề. (theo Từ điển
tiếng Việt- Hoàng Phê )
- Văn nghị luận : là loại văn trong đó người viết (người nói) trình bày những ý
kiến của mình bằng cách dùng lý luận bao gồm cả lý lẽ và dẫn chứng để làm rõ một
vấn đề thuộc về chân lý nhằm làm cho người đọc (người nghe) hiểu, tin, đồng tình với
những ý kiến của mình và hành động theo những điều mà mình đề xuất. (theo Bảo
Quyến – Rèn luyện làm văn nghị luận – NXB Giáo dục, 2003)
3. Văn nghị luận xã hội
- Văn nghị luận xã hội hiểu đơn giản là những bài nghị luận về một hiện tượng
đời sống hoặc một tư tưởng đạo lí. (theo Thanh Vân – Nghị luận xưa nhưng không cũ
– Web: phongdiep.net)
- Nghị luận xã hội là kiểu bài nghị luận về một vấn đề xã hội ( – Rèn luyện làm
văn nghị luận – NXB Giáo dục, 2003)
Khái niệm xã hội được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm những vấn đề thuộc mọi
quan hệ, mọi hoạt động của con người trong mọi lĩnh vựcđời sống xã hội như chính
trị, kinh tế, giáo dục, môi trường, dân số v.v…
Nghị luận xã hội có thể đề cập tới rất nhiều mặt của đời sống xã hội. Từ những
vấn đề có tầm nhân loại như chiến tranh hòa bình, tình trạng ô nhiễm môi trường,

những vấn đề nhân sinh quan như quan niệm về lẽ sống và cái chết, về hạnh phúc và
tình yêu đến những vấn đề xã hội cụ thể như nạn tham nhũng, tệ cờ bạc, ý thức về
pháp luật…, tóm lại là mọi vấn đề liên quan tới đời sống của con người và xã hội đề
có thể trở thành đề tài của bài nghị luận xã hội. Tuy nhiên, đề tài của bài nghị luận xã
hội thông thường hướng vào những vấn đề có tính chất thời sự, có ý nghĩa thiết thực
và cấp bách đối với xã hội.
II. Các chủ đề nghị luận xã hội

4


Nghị luận xã hội được sử dụng trong việc bàn bạc đánh giá nhận định…về mọi
phương diện trong đời sống xã hội, vì vậy mỗi tài liệu lại có một cách chia chủ đề
khác nhau.
Theo giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, trong cuốn “Muốn viết được bài văn hay”
(NXB GD – 1994) thì nghị luận xã hội có thể chia ra thành 6 chủ đề lớn như sau:
-

Nghị luận về một vấn đề đạo đức nhân sinh

-

Nghị luận về một vấn đề chính trị

-

Nghị luận về một vấn đề tư tưởng văn hóa

-


Nghị luận về một vấn đề kinh tế

-

Nghị luận về một vấn đề lịch sử

-

Nghị luận về một vấn đề địa lý, môi trường

SGK Làm văn lớp 12 (NXB GD-1999) thì chia ra thành 3 chủ đề lớn:
-

Bình luận chính trị

-

Bình luận vấn đề xã hội

-

Bình luận vấn đề tư tưởng văn hóa

Còn SGK Ngữ văn lớp 12 (NXB GD- 2008) lại chia thành 3 chủ đề lớn:
-

Nghị luận về một tư tưởng đạo lý

-


Nghị luận về một hiện tượng đời sống

-

Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.

Dù chia chủ đề như thế nào thì văn nghị luận xã hội đều tập trung bàn bạc, trao đổi
một vấn đề nào đó liên quan trực tiếp đến đời sống xã hội về vật chất hoặc đời sống
tinh thần của con người.
III. Những yêu cầu của bài văn nghị luận xã hội
1. Yêu cầu chung
Bài nghị luận xã hội dù ngắn hay dài đều phải đạt được những yêu cầu sau:
1. 1. Bài nghị luận xã hội phải thể hiện sự hiểu biết chính xác tường tận về vấn
đề hay hiện tượng xã hội được bàn bạc. Người viết nghị luận phải chỉ ra được thực
chất cũng như xu hướng vận động của vấn đề hay hiện tượng đó.
5


1. 2. Bài nghị luận xã hội đòi hỏi người viết phải có chính kiến, phải bộc lộ
công khai lập trường quan điểm, tư tưởng của mình. Một bài bình luận xã hội không
thể thiếu phần đề xuất những ý kiến, nhận định, đánh giá về vấn đề xã hội được đem
ra bàn bạc. Trên cơ sở đó, người viết có thể đề nghị một giải pháp thích hợp.
1. 3. Bài nghị luận xã hội đòi hỏi phải có tính thời sự cao. Nó phải hướng tới
mục đích định hướng tư tưởng và hành động cho người đọc, thuyết phục họ tham gia
tích cực vào việc giải quyết những vấn đề xã hội đang được đặt ra
1. 4. Bài nghị luận xã hội là một kiểu bài nghị luận có tính chất tổng hợp cao,
đòi hỏi phải sử dụng hầu như tất cả các thao tác nghị luận. Một mặt, bài nghị luận xã
hội coi trọng việc giải thích làm sáng tỏ nội dung cụ thể của những thuật ngữ, hiện
tượng, vấn đề…được đề cập đến; mặt khác, nó đòi hỏi phải phân tích những phương
diện, những khía cạnh cụ thể của các hiện tượng, vấn đề xã hội đang bàn bạc. Bài

nghị luận xã hội cũng yêu cầu những nhận định, đánh giá phải có căn cứ xác đáng;
những ý kiến, nhận xét cần phải được chứng minh
1. 5. Trong nhà trường, bài nghị luận xã hội đòi hỏi học sinh chẳng những có
hiểu biết cụ thể, trình bày rõ ràng, thuyết phục một vấn đề xã hội đem bàn luận mà
còn phải nêu được suy nghĩ riêng của mình. Học sinh phải biết vận dụng những kiến
thức trong thực tế đời sống hay trong sử sách để luận giải các vấn đề xã hội, đồng thời
phải có một ngôn ngữ sắc bén, chính xác, gợi cảm, có khả năng khơi động được tư
tưởng và tình cảm xã hội của người đọc.
2. Yêu cầu đối với bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác
phẩm văn học.
Nghị luận xã hội là một dạng đề văn khó, nghị luận xã hội trong các tác phẩm
văn học càng khiến cho học sinh thêm khó khăn hơn, chính vì vậy với các vấn đề nghị
luận đều cần học sinh phải biết triển khai, tổng quát vấn đề, nhất là với dạng đề nghị
luận xã hội trong các tác phẩm văn học càng cần học sinh phải biết cách nhận thức,
tổng hợp để rút ra được vấn đề xã hội và nhìn nhận chúng thông qua các tác phẩm văn
học.
CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN
6


I. Vai trò vị trí của văn nghị luận xã hội :
1. Trong đời sống
Nghị luận xã hội là loại văn được ứng dụng hết sức rộng rãi trong đời sống . Ta
có thể dễ dàng bắt gặp nó trên bất kỳ một một phương tiện thông tin đại chúng nào,
nằm dưới dạng các bài bình luận, xã luận về một vấn đề nào đó, một hiện tượng nào
đó thuộc lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, v.v…hay những buổi trò chuyện, thuyết
giáo của các nhà giáo dục, bài giảng đạo đức của các mục sư, linh mục, … Dẫu tồn tại
dưới dạng nói hay dạng viết thì nghị luận xã hội luôn có một vị trí quan trọng trong
đời sống xã hội. Bởi nó giúp con người nhận thức một cách đầy đủ, cập nhật, khách
quan các vấn đề liên quan đến đời sống , để từ đó định hướng tốt cho sự phát triển

tích cực theo quy luật vận động của xã hội.
Trong những năm gần đây , việc cho thêm câu hỏi nghị luận xã hội vào đề văn
là một việc làm cần thiết và là một tín hiệu đáng mừng, thể hiện sự phát triển của đời
sống xã hội và vị trí quan trọng của loại văn này trong các nhà trường ,trong đời sống
xã hội .
Nghị luận xã hội là một yêu cầu cần thiết trong đời sống đặc biệt là cho học
sinh. Bởi vì qua đó, có thể kiểm tra chính xác năng lực tư duy, óc sáng tạo, sự hiểu
biết của học sinh; mặt khác tránh tình trạng "đạo văn" hay lệ thuộc nhiều vào sách vở.
2. Trong nhà trường
Văn nghị luận nói chung, văn nghị luận xã hội nói riêng được đưa vào chương
trình phổ thông cả hai cấp học (THCS và THPT) với vị trí trọng yếu trong hệ thống
thể loại văn bản được lựa chọn đưa vào tìm hiểu và rèn luyện kỹ năng thành lập.
2. 1. Chương trình trung học cơ sở:
Nghị luận xã hội được hướng dẫn khá kỹ ở lớp 9 với phần khái luận lẫn cách
làm bài và đề cập đến cả hai loại bài NLXH, với 4 bài cụ thể:
- Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống
- Cách làm bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống
- Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý
7


- Cách làm bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lý
Ngoài ra còn được bổ trợ thêm qua phần đọc hiểu một số văn bản dạng nghị
luận xã hội như:
- Bàn về đọc sách (Chu Quang Tiềm)
- Tiếng nói của văn nghệ (Nguyễn Đình Thi)
- Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới (Vũ Khoan)
Nhận xét: Nhìn chung chương trình THCS chỉ mang tính giới thiệu và thực
hành NLXH ở mức độ sơ giản, chưa tập trung vào việc khắc sâu tri thức và rèn luyện
kỹ năng làm bài dạng nghị luận này. Nói đúng hơn đó chỉ là bước đệm để hoàn thiện

ở chương trình THPT
2. 2. Chương trình Trung học phổ thông (THPT)
Trong chương trình THPT, dạng nghị luận xã hội được thực hành khá kỹ, bắt
đầu từ lớp 11. Ngay bài viết số 1 ở đầu năm học lớp 11 đã được định hướng làm bài
NLXH, sau đó khi hướng dẫn häc sinh tiếp cận hàng loạt các thao tác lập luận như
phân tích, bác bỏ, bình luận, so sánh… và các ngữ liệu SGK đều lấy dạng NLXH.
Cụ thể:
- Bài :Thao tác lập luận phân tích có một đoạn ng÷ liệu viết về vấn đề dân số;
- Bài: Luyện tập thao tác lập luận phân tích có một đoạn ng÷ liệu viết về vấn
đề khoa học
- Bài :Thao tác lập luận bác bỏ có một đoạn ngữ liệu viết về vấn đề tiếng mẹ
đẻ, một đoạn viết về hút thuốc lá
- Bài :Thao tác lập luận bình luận: ngữ liệu luyện tập một đoạn bàn về giao
thông, một đoạn bàn về pháp luật
- Bài: Luyện tập thao tác lập luận bình luận : ngữ liệu một đoạn viết về lời
cảm ơn, một đoạn viết về vấn đề áo phao phòng chết đuối cho học sinh đi học qua
sông suối
- Bài viết số 6 lại tiếp tục được định hướng làm bài nghị luận xã hội.
Ở phần văn học cũng được tích hợp một số văn bản dạng NLXH như:
- Về luân lý xã hội ở nước ta (Phan Châu Trinh)
8


- Đọc thêm: Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức (Nguyễn An
Ninh)
- Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh)
- Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác (Ăng Ghen)
Các ngữ liệu trong bài: Phong cách ngôn ngữ chính luận cũng chọn dạng
NLXH:
- Cao trào chống Nhật cứu nước (Trường Chinh)

- Việt Nam đi tới (Báo QĐNDVN năm 2007)
- Tinh thần yêu nước của nhân dân ta
Đến lớp 12 thì phần nghị luận XH được đề cập ngay từ đầu năm học với ba bài
lý thuyết cụ thể:
- Nghị luận xã hội và nghị luận văn học
- Nghị luận về một tư tưởng đạo lý
- Nghị luận về một hiện tượng đời sống
Và bài viết làm văn số 1 cũng được ấn định là văn NLXH
Nhận xét: Như vậy nghị luận xã hội có vị trí hết sức quan trọng trong nhà
trường phổ thông. Ở đó học sinh không chỉ được tiếp cận dạng bài NLXH mà còn
được luyện tập thực hành thành lập văn bản một cách khá kỹ càng.
II. Thực trạng vấn đề
Ngữ văn là môn học có vai trò rất quan trọng, không chỉ cung cấp tri thức mà
quan trọng hơn cả là góp phần hoàn thiện nhân cách con người nhưng một thực tế cho
thấy nhiều năm trở lại đây, đa số học sinh không còn hứng thú trong việc học văn
nữa,“Gần 100% học sinh THPT chỉ cần học văn để thi đỗ tốt nghiệp mà thôi”(Theo
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống- Phó Vụ trưởng Vụ GD Trung học, Bộ GD&ĐT).
Từ việc bản thân các em học sinh không thích học môn Ngữ văn, dẫn đến
không tìm tòi, nghiên cứu để am hiểu các vấn đề xung quanh, lười suy nghĩ, không có
nhiều cảm xúc, trí tưởng tượng chưa phong phú, ít khi đọc sách tham khảo về môn
văn, đặc biệt là những bài văn mẫu. Từ đó dẫn đến thực trạng có rất nhiều học sinh
9


không biết làm văn nghị luận xã hội nói chung, nghị luận xã hội trong tác phẩm văn
học nói riêng.
Để thay đổi hiện trạng trên, đề tài nghiên cứu này chúng tôi đưa ra giải pháp:
- Trước khi làm bài văn nghị luận xã hội trong tác phẩm văn học, chúng tôi
hướng dẫn các em ôn tập lại kiến thức đã học về hai dạng nghị luận xã hội (nghị luận
về tư tưởng đạo lí và nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống).

- Sau đó hướng dẫn các em các bước làm bài văn nghị luận xã hội đặt ra trong
tác phẩm văn học.
Theo chúng tôi nguyên nhân trọng yếu nhất là học sinh không biết cách nói ra
những điều mình có, nghĩa là học sinh thiếu hẳn phương pháp cách thức làm bài và
các kỹ năng làm văn nghị luận xã hội, đặc biệt là cách làm bài văn nghị luận về vấn
đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.
CHƯƠNG III:
NHỮNG GIẢI PHÁP RÈN LUYỆN KĨ NĂNG NGHỊ LUẬN VỀ
VẤN ĐỀ XÃ HỘI ĐẶT RA TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC
I. Học sinh nắm một số lưu ý về văn nghị luận xã hội đặt ra trong tác
phẩm văn học
1. Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra từ tác phẩm văn học là kiểu bài nghị
luận xã hội không phải kiểu bài nghị luận văn học. Cần tránh tình trạng làm lạc đề
sang nghị luận văn học.
2. Vấn đề xã hội đặt ra từ tác phẩm văn học có thể là một tư tưởng, đạo lí hoặc
một hiện tượng đời sống.
3. Đề tài: Một vấn đề xã hội có ý nghĩa sâu sắc nào đó đặt ra trong tác phẩm
văn học. Vấn đề xã hội có ý nghĩa có thể lấy từ hai nguồn: tác phẩm văn học đã học
trong chương trình hoặc một câu chuyện nhỏ, một văn bản văn học ngắn gọn mà học
sinh chưa được học.
II. Học sinh nắm được các thao tác cơ bản
10


1. Giải thích:
1.1 Yêu cầu đặt ra :
Đi sâu vào những phát ngôn rất súc tích để tìm hiểu và lý giải nội dung ý nghĩa
bên trong. Tức là ta phải làm sáng tỏ, giảng giải, bóc tách vấn đề cho người đọc hiểu
được thấu đáo cái đang được đề cập khi chúng còn đang mơ hồ.
1.2 Công việc cụ thể:

Để làm sáng tỏ vấn đề, ta phải đi vào lý giải từ ngữ, điển tích, khái niệm, đi vào
nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hẹp, nghĩa mở rộng, đi vào những cách nói tế nhị bóng
bẩy để hiểu được đến nơi đến chốn điều người ta muốn và cái lẽ khiến người ta nói
như vậy.
Trong thao tác giải thích, ta vừa dùng lý lẽ để phân tích, lý giải là chủ yếu; vừa
dùng dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề, xác lập một cách hiểu đúng đắn, sâu sắc có
tính biện chứng nhằm chống lại cách hiểu sai, hiểu không đầy đủ, không hết ý.
Bước kết thúc của thao tác giải thích là rút ra điều chúng ta cần vận dụng khi đã tìm
hiểu được chân lý. Phương hướng để vận dụng những chân lý này vào cuộc sống hàng
ngày, tuỳ theo cho cá thể hay cho cộng đồng mà có hướng vận dụng phù hợp, và mỗi
chúng ta phải như thế nào?
=> Từ những điều nói trên, ta rút ra một sơ đồ tổng quát theo ba bước:
- Làm sáng tỏ điều mà người ta muốn nói.(giải thích)
- Trả lời vì sao người ta đã nói như vậy?(tại sao?)
- Từ chân lý được nói lên, rút ra bài học gì trong thực tiễn?(để làm gì)
2.Chứng minh:
2.1.Yêu cầu đặt ra:
Làm sáng tỏ chân lý bằng các dẫn chứng và lý lẽ. Khi ta đã chấp nhận cái chân
lý thể hiện trong một phát ngôn nào đó, nhiệm vụ là ta sẽ phải thuyết phục người khác
cũng chấp nhận như mình bằng những dẫn chứng rút ra từ thực tế cuộc sống xưa và
nay, từ lịc sử, từ văn học (nếu đề yêu cầu) và kèm theo dẫn chứng là những lý lẽ dẫn
dắt, phân tích tạo ra lập luận vững chắc, mang đến niềm tin cho người đọc.
2.2.Công việc cụ thể:
11


Bước đầu tiên là phải tìm hiểu điều cần phải chứng minh , không những chỉ
bản thân mình hiểu, mà còn phải làm cho người khác thống nhất, đồng tình với mình
cách hiểu đúng nhất.
Tiếp theo là việc lựa chọn dẫn chứng. Từ thực tế cuộc sống rộng lớn, tư liệu

lịch sử rất phong phú, ta phải tìm và lựa chọn từ trong đó những dẫn chứng xác đáng
nhất, tiêu biểu, toàn diện nhất (nên chỉ cần vài ba cái để làm sáng tỏ điều cần CM).
Dẫn chứng phải thật sát với điều đang muốn làm sáng tỏ và kèm theo dẫn chứng phải
có lý lẽ phân tích - chỉ ra những nét, những điểm ta cần làm nổi bật trong các dẫn
chứng kia. Để dẫn chứng và lý lẽ có sức thuyết phục cao, ta phải sắp xếp chúng ->
một hệ thống mạch lạc và chặt chẽ: theo trình tự thời gian, không gian, từ xưa đến
nay, từ xa đến gần, từ ngoài vào trong hoặc ngược lại...miễn sao hợp logic.
Bước kết thúc vẫn là bước vận dụng, đặt vấn đề vào thực tiễn cuộc sống hôm nay để
đề xuất phương hướng nỗ lực. Chân lý chỉ giá trị khi soi rọi cho ta sống, làm việc tốt
hơn. Ta cần tránh công thức và rút ra kết luận cho thoả đáng, thích hợp với từng
người, hoàn cảnh, sự việc.
=> Từ những điều nói trên, ta rút ra một sơ đồ tổng quát theo ba bước:
- Làm rõ điều cần chứng minh trong luận đề được nêu lên.
- Lần lượt đưa ra các dẫn chứng và lý lẽ để làm sáng tỏ điều cần chứng minh.
- Rút ra kết luận về phương hướng nỗ lực.
3. Bình luận:
Đây là thao tác có tính tổng hợp vì nó bao hàm cả công việc giải thích lẫn
chứng minh. Nên những yêu cầu của giải thích và chứng minh cũng là yêu cầu đối với
văn bình luận, nhưng giải thích và chứng minh sẽ được viết cô đọng, ngắn gọn hơn so
với chỉ một thao tác chứng minh hoặc giải thích để tập trung cho phần việc quan trọng
nhất là bình luận - phần mở rộng vấn đề.
Trước khi bình luận, ta thường phải bày tỏ thái độ, để khách quan và tránh
phiến diện, ta phải xem xét kĩ luận đề để từ đó có thái độ đúng đắn, có ba khả năng:
- Hoàn toàn nhất trí.
- Chỉ nhất trí một phần. (có giới hạn, có điều kiện)
12


- Không chấp nhận. (bác bỏ)
Sau đó, ta bình luận - mở rộng lời bàn để vấn đề được nhìn nhận sâu hơn, toàn

diện hơn, triệt để hơn.
Cuối cùng, ta lại chỉ ra phương hướng vận dụng để đưa lý luận vào áp dụng
thực tế cuộc sống.
III. Cách làm dạng đề nghị luận xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
1. Hệ thống lí thuyết làm văn nghị luận xã hội
1.1 Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
1.1.1. Khái niệm, đề tài, yêu cầu và các thao tác chính:
1.1.1.1. Khái niệm: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí là quá trình kết hợp
những thao tác lập luận để làm rõ những vấn đề tư tưởng đạo lí trong cuộc sống.
1.1.1.2 Đề tài
Đề tài của nghị luận về tư tưởng, đạo lí là vô cùng phong phú, bao gồm:
- Các vấn đề về nhận thức như lí tưởng, mục đích sống,…
- Các vấn đề về tâm hồn, tính cách như:
+ Lòng yêu nước, lòng nhân ái, vị tha, bao dung, độ lượng,…
+ Tính trung thực, dũng cảm, chăm chỉ, cần cù, thái độ hòa nhã, khiêm tốn,…
+ Thói ích kỉ, ba hoa, vụ lợi,...
- Về các quan hệ gia đình như tình mẫu tử, anh em,...
- Về quan hệ xã hội như tình đồng bào, tình thầy trò, bạn bè,…
- Về cách ứng xử, những hành động của mỗi người trong cuộc sống.
1.1.1.3. Yêu cầu
- Hiểu được vấn đề cần nghị luận qua phân tích, giải thích để xác định vấn đề
- Phân tích, chứng minh những biểu hiện cụ thể của vấn đề, thậm chí so sánh,
bàn bạc, bãi bỏ,… nghĩa là biết áp dụng nhiều thao tác lập luận.
13


- Phải biết rút ra ý nghĩa của vấn đề.
- Người thực hiện nghị luận phải có lí tưởng và đạo lí.
1.1.1.4.Các thao tác lập luận cơ bản
Các thao tác lập luận cơ bản thường được sử dụng trong kiểu bài này là giải

thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận.
1.1.1.5. Nội dung cơ bản của bài làm:
- Giới thiệu, giải thích tư tưởng đạo lý cần bàn
- Phân tích những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến
vấn đề cần bàn
- Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động về tư tưởng, đạo lý
1.2. Nghị luận về một hiện tượng đời sống
Nghị luận về một hiện tượng đời sống là kiểu bài lấy một hiện tượng xảy ra
trong đời sống để bàn bạc. Từ hiện tượng này, người nghị luận phải phân tích để tìm
ra ý nghĩa xã hội về tư tưởng, đạo đức mà bàn bạc, đánh giá.
Đề tài bàn bạc gần gũi với đời sống, sát hợp với trình độ nhận thức của HS như
tai nạn giao thông, hiện tượng môi trường bị ô nhiễm, những tiêu cực trong thi cử,
nạn bạo hành trong gia đình, phong trào thanh niên tiếp sức mùa thi, cuộc vận động
giúp đỡ đồng bào hoạn nạn, những tấm gương người tốt việc tốt,
1.2.1 Các thao tác lập luận cơ bản
Các thao tác lập luận cơ bản thường được sử dụng trong kiểu bài này là giải
thích, phân tích, chứng minh, so sánh, bác bỏ, bình luận.
1.2.2. Nội dung cơ bản
- Nêu rõ hiện tượng bàn luận và vấn đề đặt ra trong hiện tượng đời sống bàn
luận .
14


- Phân tích mặt đúng mặt sai, mặt tích cực, mặt tiêu cực, mặt lợi mặt hại …của
hiện tượng đời sống .
- Chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết về hiện tượng xã
hội đó.
2. Diễn giải sơ đồ cấu trúc tổng quát cách làm cho dạng bài nghị luận về
một tư tưởng, đạo lí và về một hiện tượng đời sống.
Cách 1: Tìm ý và lập dàn ý dựa vào dàn ý khái quát.

Đây là cách thông thường người viết hay làm nhất, nhưng sẽ thuận lợi cho
những học sinh có khả năng tư duy và viết bài tốt, còn những học sinh yếu thì hơi khó
sử dụng. Người viết bám vào khung dàn ý khái quát và định ra một dàn ý cụ thể, thậm
chí còn có thể biến tấu trên khung này nếu năng lực tư duy tốt.
DÀN Ý KHÁI QUÁT
*. Dàn ý khái quát văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lý
a) Mở bài
- Giới thiệu vấn đề được đưa ra bình luận.
- Nêu luận đề: dẫn nguyên văn câu chứa nội dung tư tưởng, đạo lý
- Giới hạn nội dung và thao tác nghị luận sẽ triển khai.
b) Thân bài
- Giải thích tư tưởng, đạo lí cần nghị luận (nêu các khía cạnh nội dung của tư
tưởng, đạo lí này).
- Phân tích, chứng minh, bình luận các khía cạnh ; bác bỏ, phê phán những sai
lệch (nếu có).
- Khẳng định chung, nêu ý nghĩa, liên hệ thực tế, rút ra bài học nhận thức và
hành động.
c) Kết bài
15


- Tóm tắt các ý, nhấn mạnh luận đề đã nêu ở đầu bài nhằm chốt lại bài viết
hoặc dẫn thơ, văn để mở rộng, gợi ý thêm cho người đọc về vấn đề đang bàn luận.
- Rút ra bài học
- Nêu cảm xúc, suy nghĩ hành động của bản thân về vấn đề.
* Dàn ý khái quát văn nghị luận về một hiện tượng đời sống
a, Mở bài
- Giới thiệu hiện tượng đời sống cần nghị luận
- Xác định vấn đề đặt ra cần nghị luận trong hiện tượng.
b, Thân bài

- Nêu thực trạng của hiện tượng
- Xác định nguyên nhân của thực trạng hiện tượng
- Đánh giá, phân tích mặt tốt - xấu, tích cực – tiêu cực, lợi – hại…của vấn đề
- Đề xuất giải pháp cho vấn đề: phát huy, khắc phục…
c, Kết bài:
- Tóm tắt chốt lại vấn đề
- Rút ra bài học
- Nêu suy nghĩ và hướng hành động của bản thân đối với vân đề
Cách 2: Tìm ý và lập dàn ý theo khung câu hỏi
Đây là cách tìm ý và lập dàn ý rất phù hợp với năng lực của học sinh trung
bình, yếu vì nó có một hệ thống câu hỏi được lập thành một bộ khung; khung câu hỏi
này được xây dựng dựa trên cơ sở dàn bài khái quát, nhưng nó được cụ thể thành các
câu hỏi dễ hiểu, dễ trả lời. học sinh chỉ việc thuộc các câu hỏi này, khi tìm ý và lập
dàn ý chỉ cần trả lời các câu hỏi đó là tìm được ý, thậm chí viết thành văn bản luôn,
nếu là học sinh khá. Tuy nhiên nó hơi hạn chế về mặt sáng tạo. Học sinh đôi pkhi máy
móc, cứ cho rằng đây là “bảo bối” cho sẵn và dựa hẳn vào đó mà không suy nghĩ
thêm:

16


KHUNG CÂU HỎI TÌM Ý VÀ LẬP DÀN Ý
* Đối với nghị luận xã hội về một tư tưởng, đạo lí:
a. Mở bài:
- Vấn đề sắp trình bày là gì?
- Thái độ của xã hội nói chung đối với vấn đề như thế nào?
b. Thân bài :
- Vấn đề có ý nghĩa như thế nào?
- Vấn đề đúng hay sai, tốt hay xấu, tích cực hay tiêu cực…?
- Tình trạng của vấn đề đang diễn ra như thế nào trong xã hội?

- Cần có thái độ gì đối với tình trạng đó?
c. Kết bài :
- Cần tóm tắt, chốt lại vấn đề như thế nào?
- Bài học chung rút ra từ vấn đề là gì?
- Bản thân có suy nghĩ cảm xúc riêng và hành động như thế nào trước tư tưởng,
đạo lý?
* Đối với nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống :
a. Mở bài:
- Hiện tượng bàn luận là gì?
- Hiện tượng đặt ra vấn đề gì cần giải quyết?
b. Thân bài :
- Thực trạng của hiện tượng đang diễn ra như thế nào?
- Nguyên nhân nào dẫn đến hiện tượng và thực trạng đó ?
- Những hậu quả (tốt, xấu) từ hiện tượng là gì?
- Cần có thái độ, hành động như thế nào đối với hiện tượng?
c. Kết bài :
- Cần tóm tắt, chốt lại vấn đề như thế nào?
- Bài học chung rút ra từ hiện tượng là gì?
- Bản thân có cảm xúc suy nghĩ gì và cần phải làm thế nào trước hiện tượng?
Cách 3: Tìm ý và lập dàn ý theo từ khóa
17


Đây là cách lập dàn ý khá thú vị, mỗi ý của một phần đều được định hình bằng
một từ khóa gợi mở. Học sinh chỉ cần nhớ mấy từ khóa và lúc lập dàn ý chỉ dựa vào
đó và tự tìm câu hỏi và trả lời để lập ý. Cách này phù hợp với những học sinh t lười
học thuộc nhưng phải có tư duy biện chứng tốt:
HỆ THỐNG TỪ KHÓA TÌM Ý VÀ LẬP DÀN Ý
* Đối với nghị luận xã hội về một tư tưởng, đạo lí: đặt Từ khóa cho 3 phần
theo kết cấu của bài văn, như sau :

a. Mở bài: Gợi – Đưa – Báo
+ Gợi : là Gợi ý ra vấn đề cần nghị luận;
+ Đưa : là Đưa vấn đề cần nghị luận ra;
+ Báo : là Báo phải làm gì về vấn đề đưa ra nghị luận ( có tính chuyển ý )
b. Thân bài : Giải – Phân – Bác – Đánh
+ Giải: Giải thích rõ nội dung tư tưởng, đạo lí ( bằng cách giải thích các từ
ngữ,các khái niệm…)
+ Phân:Phân tích các mặt đúng của tư tưởng, đạo lí (dùng dẫn chứng từ cuộc
sống và văn học để chứng minh)
+ Bác: Bác bỏ những biểu hiện sai lệch liên quan đến tư tưởng, đạo lí (dùng
dẫn chứng từ cuộc sống và văn học để chứng minh)
+ Đánh: Đánh giá ý nghĩa tư tưởng, đạo lí đã nghị luận
c. Kết bài : Tóm – Rút – Phấn
+ Tóm : Tóm tắt, khái quát lại vấn đề đã nghị luận
+ Rút : Rút ra ý nghĩa, bài học nhận thức từ tư tưởng, đạo lí;
+ Phấn : Phấn đấu, suy nghĩ riêng của bản thân về vấn đề nghị luận;
* Đối với nghị luận xã hội về một hiện tượng đời sống : đặt Từ khóa cho 3
phần theo kết cấu của bài văn, như sau :
a. Mở bài: Gợi – Đưa – Báo
+ Gợi : là Gợi ý ra vấn đề cần nghị luận;
+ Đưa : sau khi gợi thì Đưa vấn đề cần nghị luận ra;
+ Báo : là Báo phải làm gì về vấn đề đưa ra nghị luận ( có tính chuyển ý )
18


b. Thân bài : Thực – Nguyên – Hậu – Biện
+ Thực : nêu lên Thực trạng hiện tượng đời sống đưa ra nghị luận;
+ Nguyên nhân: là Nguyên nhân nào xảy ra hiện tượng đời sống đó ( nguyên
nhân khách quan và chủ quan )
+ Hậu : là Hậu quả của hiện tượng đời sống mang lại, gồm có hậu quả tốt và

hậu quả xấu;
+ Biện pháp : là Biện pháp tác động vào hiện tượng đời sống để ngăn chặn
(nếu gây ra hậu quả xấu) hoặc phát triển (nếu hậu quả tốt)
c. Kết bài : Tóm – Rút – Phấn
+ Tóm : Tóm tắt, khái quát lại vấn đề đã nghị luận
+ Rút : Rút ra ý nghĩa, bài học từ hiện tượng đời sống đã nghị luận
+ Phấn : Phấn đấu, bày tỏ thái độ của bản thân về hiện tượng đời sống đã nghị
luận;
3. Diễn giải sơ đồ cấu trúc tổng quát cách làm cho dạng bài nghị luận về
vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học
3.1 Thực hành tìm hiểu đề
Trước bất cứ đề bài nghị luận nào GV đều phải hướng dẫn học sinh đọc kỹ,
gạch chân những từ quan trọng (từ khóa) và tự đặt ra câu hỏi:
- Vấn đề đặt ra trong đề bài là gì ?
- Vấn đề nghị luận về một tư tưởng đạo lý hay một hiện tượng đời sống?
- Cần sử dụng thao tác nào để nghị luận?
Rồi tự đi tìm câu trả lời để từ đó định hướng cho nội dung bài làm, cơ sở để tìm
ý và lập dàn ý.
3.2. Thực hành tìm ý và lập dàn ý
Thực hành tìm ý và lập dàn ý sẽ định hướng cho nội dung bài viết một cách đầy
đủ, logic, khoa học, giúp người viết làm chủ nội dung, làm chủ thời gian. Trong khi
đó học sinh phổ thông thông thường làm bài theo cảm tính, nghĩ gì viết nấy, nghĩ đến
đâu viết đến đấy, không có thói quen tìm ý và lập dàn ý trước. Vì vậy GV nhất thiết
phải hướng dẫn cho học sinh bước này.
19


Đối với NLXH thì mỗi dạng bài, mỗi đề bài có một cách tiến hành tìm ý lập
dàn ý, và làm như vậy mới đảm bảo được tính đa dạng và sáng tạo của thể loại, tuy
nhiên cần tạo cho các em những bộ khung mang tính định hình để các em dựa và đó

mà tiến hành tìm ý, nếu có nhu cầu, khả năng sáng tạo thì cũng sáng tạo trên cơ sở đó.
Cũng giống như bố cục thông thường của một bài văn nghị luận, dạng bài
nghị luận về vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học triển khai bố cục ba phần :
Mở bài, Thân bài, Kết luận:
a. MỞ BÀI:
-Giới thiệu tác phẩm văn học
-Giới thiệu được vấn đề nghị luận ở dạng khái quát nhất và định hướng đi,
phạm vi của bài viết.
b. THÂN BÀI:
Bài viết cho dạng này, ở phần thân bài thường gồm hai nội dung lớn:
– Phần một:
Phân tích, giới thiệu và nêu vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.
+ Nếu đề văn nêu sẵn vấn đề rút ra từ một tác phẩm đã học, thì phân tích qua
vấn đề ấy đã được thể hiện như thế nào trong tác phẩm.
+ Nếu đề nêu một văn bản chưa học, không cho sẵn vấn đề, thì cần đọc hiểu,
phân tích để rút ra vấn đề xã hội và ý nghĩa của vấn đề trước khi vào phần hai.
– Phần hai (trọng tâm):
Nghị luận về vấn đề xã hội rút ra từ tác phẩm văn học (câu chuyện). Khi đã có
vấn đề (đề tài, chủ đề) cần bàn bạc rồi, thì mới bắt đầu làm bài nghị luận xã hội, nêu
lên suy nghĩ của bản thân mình về vấn đề ấy. Tùy thuộc kiểu bài ( nghị luận về tư
tưởng đạo lí, hay nghị luận về hiện tượng xã hội ) mà xác định các bước làm bài phù
hợp.
c. KẾT BÀI:
Phần kết bài có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá vấn đề đặt ra ở mở bài và đã giải
quyết ở thân bài, góp phần tạo tính hoàn chỉnh, trọn vẹn cho bài văn.
4. Hướng dẫn tích lũy kiến thức xã hội
20


Thực ra kiến thức xã hội của học sinh không thể tích lũy một sớm một chiều có

thể có được mà là cả một quá trình trải nghiệm, tiếp nhận, nhận thức. Vì thế nói
hướng dẫn tích lũy kiến thức xã hội trong một thời gian ngắn quả là điều không
tưởng. Tuy vậy giáo viên phải biết định hướng vùng kiến thức để các em kịp thời xâu
chuỗi bổ sung, thông qua sách vở, các phương tiện thông tin đại chúng, bạn bè, người
thân, thầy cô…
Tất nhiên không phải là hướng dẫn học sinh học tủ, nhưng chúng tôi bám
vào bản chất của nghị luận xã hội là thường bàn luận vào những vấn đề đang đặt ra
bức thiết đối với xã hội, mang tính thời sự cao để định ra một số vùng kiến thức cơ
bản để học sinh tự tìm cách bổ sung, hệ thống, xâu chuỗi.


Đối với nghị luận về một tư tưởng đạo đức: Hàng loạt vấn đề đặt ra

như: lý tưởng thanh niên, lẽ sống tuổi trẻ, tình yêu quê hương đất nước, sức mạnh
đoàn kết, truyền thống dân tộc, giữ gìn văn hóa….


Đối với nghị luận về một hiện tượng đời sống: Trong thời điểm hội nhập

quốc tế và kinh tế thị trường nẩy sinh ra rất nhiều vấn đề khiến xã hội đang rất quan
tâm, có thể gợi cho học sinh để ý tìm tòi về những vấn đề như: văn hóa, các quan hệ
xã hội, pháp luật, kinh tế...
5. Hướng dẫn thực hành viết bài
Có thể khẳng định đây là bước quan trọng nhất của làm văn, vì nó là
bước hoàn thiện “sản phẩm”. Sản phẩm là kết tinh tổng hợp của tài năng và trí tuệ, là
thước đo năng lực, là căn cứ đánh giá chất lượng…Chính vì vậy giáo viên và học
sinh phải tập trung đầu tư thời gian cho việc hướng dẫn và thực hành viết bài .
Sau khi đã lập dàn ý xong đương nhiên học sinh phải dựa vào “bảo bối”
này để viết, điều quan trọng nhất là học sinh phải tìm được cách diễn đạt trong sáng,
cách trình bày lý lẽ dẫn chứng một cách cô đúc mà chặt chẽ, giàu sức thuyết phục.

Khả năng này đòi hỏi thời gian rèn luyện nhiều, số lượng “sản phẩm” được “sản xuất”
ra nhiều và đa dạng thì mới thành công được. Vì qua đó học sinh sẽ rút ra được rất
nhiều kinh nghiệm trong quá trình thực hành.
21


Nhận thức như vậy, chúng tôi đã đặt ra kế hoạch thực hành mỗi tuần giải quyết
1 đề bài, ra đề, làm bài, chấm chữa, trả.
Thời gian đầu tất cả các bước đều thực hiện tại lớp:
- Giáo viên và học sinh cùng nhau tìm hiểu đề, lập dàn ý tại lớp, học sinh thực
hành viết từng đoạn, từng phần.
- Giáo viên cho học sinh trình bày ngay tại lớp, tập thể lớp nghe, nhận xét,
đánh giá, sửa chữa. Có thể nói thao tác này rất hiệu quả đối với học sinh, các em tiến
bộ rất nhanh, vì rút kinh nghiệm ngay sau khi thực hành.
- Sau khi học sinh đã nắm bắt được một cách cơ bản kỹ năng viết bài NLXH thì
giáo viên ra đề cho học sinh tự làm ở nhà, sau 1 tuần thu lại, chấm, nhận xét cụ thể,
đề xuất phương án chữa cho từng em. Đầu tuần sau trả bài và giao đề mới. Thỉnh
thoảng cho học sinh đọc bài và tự nhận xét, chấm bài cho nhau. Cách làm này đòi hỏi
giáo viên phải kỳ công trong việc chấm chữa cho học sinh có những nhận xét đánh
giá cụ thể, xác đáng, để trên cơ sở đó học sinh rút kinh nghiệm, sửa chữa khi làm bài
sau.
6. Bài tập minh họa
Đề số 1:
Từ truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, anh/chị
hãy phát biểu suy nghĩ về nạn bạo hành gia đình
.a.

Mở bài:

- Khái quát thực trạng nạn bạo hành gia đình trong xã hội hiện nay.

- Dẫn dắt vào tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu
b. Thân bài:
* Bước 1: Nêu hoàn cảnh xuất hiện vấn đề có ý nghĩa xã hội
- Nêu hoàn cảnh xuất hiện vấn đề có ý nghĩa xã hội: Sau khi chụp được bức
ảnh "đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh" phóng viên Phùng lại chứng kiến cảnh người đàn
ông hàng chài đánh vợ một cách dã man, độc ác. Từ hành động vũ phu đó của người
đàn ông hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã cho chúng ta suy nghĩ nhiều về hiện tượng
bạo hành gia đình.
22


- Tóm tắt cảnh bạo hành trong gia đình hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền
ngoài xa:
+ Người đàn bà sau một đêm kéo lưới mệt mỏi, quần áo ướt sũng, hai con mắt
như đang buồn ngủ thì lại bị người chồng lôi lên bờ đánh tới tấp, lăng nhục đau khổ
+ Trước hành động vũ phu của chồng người đàn bà vẫn cam chịu, không van xin,
luôn sống trong cảnh "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng" từ người chồng
thô bạo, vũ phu.
+ Nhìn thấy mẹ bị đánh, thằng Phác - đứa con trai đã lao thẳng vào đánh bố.
Hành động thô bạo của hai cha con, người mẹ vô cùng thất vọng. Đó chính là hành
động bạo lực.
* Bước 2: Thực hiện các thao tác nghị luận
- Giải thích vấn đề bạo hành gia đình: Bạo hành gia đình là hiện tượng hành
động trấn áp người khác bằng lời nói, hành động, là sự khống chế, đàn áp về cả tinh
thần và thể xác để xúc phạm tinh thần nhau của những thành viên trong gia đình.
- Phân tích, chứng minh
+ Thực trạng của hiện tượng bạo hành gia đình: Là vấn đề xã hội bức thiết của
một quốc gia nhất là ở những nước kém phát triển và đang phát triển tình trạng này
diễn ra thường xuyên. Theo số liệu điều tra dân số tỉ lệ bạo hành xảy ra ở cả thành thị
lẫn nông thông, trong đó bạo hành gia đình xảy ra ở thành thị nhiều hơn ở nông thôn

và miền núi. Bạo hành xảy ra dưới nhiều hình thức: vợ chồng đánh đập nhau, cháu,
con chửi rủa ông bà, dùng những lời lẽ không tốt đẹp để nói về nhau...
+ Hậu quả của bạo hành gia đình: Bạo hành gia đình xảy ra để lại hậu quả đáng
thương, con mất mẹ, cháu mất ông bà, cha mẹ con cái từ nhau... gây ra biết bao tệ nạn
xã hội.
+ Nguyên nhân:
Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa anh hàng chài vì phải lo toan, bươn chải
gánh nặng gia đình, vì đói vì nghèo mà đánh đập vợ con để giải tỏa tâm hồn. Thực tế
xã hội phức tạp hơn: Đó là do cái nghèo, cái khổ của cuộc sống xô bồ của xã hội, do ý
thức, đạo đức biến chất tha hóa của một bộ phận người trong xã hội.
23


+ Giải pháp:
Để giải quyết vấn đề bạo lực gia đình cần có sự kết hợp của các cơ quan đoàn
thể, các tổ chức trong xã hội...Đảng và nhà nước cần có biện pháp tích cực như tuyền
truyền vận động mọi người giáo dục mỗi công dân về hạnh phúc gia đình. Phải trừng
trị nghiêm khắc những kẻ có hành vi bạo lực gia đình. Đưa ra những chính sách bảo
vệ cuộc sống và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
* Bước 3: Rút ra bài học cho bản thân
- Cần thẳng thắn lên án hành động bạo lực gia đình như nhân vật Phùng, Đẩu
trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
- Hãy sống chan hòa, đầm ấm để không có bạo hành gia đình.
c. Kết bài:
Đánh giá ý nghĩa của vấn đề xã hội trong tác phẩm
Đề số 2: Trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, tác giả Lưu Quang
Vũ đã để nhân vật Trương Ba bày tỏ quan niệm sống của mình là: “Không thể
bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo được”.Anh chị suy nghĩ như thế nào về
quan niệm trên?
DÀN Ý THAM KHẢO

a. Mở bài:
- Cuộc sống thật phong phú, đa dạng, phức tạp, chúng ta luôn tự hỏi: Sống thế
nào cho đúng? Làm thế nào để có một cuộc sống đẹp? Hãy sống là chính mình, trung
thực, chân thật, thẳng thắn, không giả dối và giàu lòng nhân ái.
- Trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, Lưu Quang đã để nhân vật
Trương Ba bày tỏ quan niệm sống của mình là: “Không thể bên ngoài một đằng, bên
trong một nẻo được”.
b. Thân bài:
Giải thích ý nghĩa câu nói:
24


- Bên trong: Là thế giới nội tâm của con người (gồm nhận thức, tư tưởng, khát
vọng). Đây là phần làm nên ý thức, chất người cao quý trong con người. Nếu thế giới
bên trong đạt được sự toàn vẹn, hoàn thiện, con người sẽ có được những phẩm chất
tốt đẹp, quý giá, sống một đời sống tinh thần phong phú, sâu sắc. Đây là phần mà
người ta không nhìn thấy được chủ có thể cảm nhận qua tiếp xúc, tìm hiểu và gắn bó.
- Bên ngoài: là cái có thể quan sát, nhận biết bằng thị giác (gồm hình thức,
hành vi, lời nói, việc làm).
- Quan hệ giữa bên ngoài và bên trong: Thường là quan hệ thống nhất – cái bên
ngoài là biểu hiện cụ thể của cái bên trong và ngược lại, cái bên ngoài cũng được cái
bên trong quy định, chi phối.
- Bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo: Không có sự hài hòa, thống nhất của
bên ngoài và bên trong, tức là lời nói, việc làm không thống nhất với suy nghĩ, tình
cảm, nhận thức. Sự không thống nhất này khiến con người rơi vào tình trạng sống giả
tạo, trở nên lệch lạc, mất thăng bằng. Dù ở trường hợp nào cũng đều là bi kịch.
- Ý nghĩa câu nói của Trương Ba: Thể hiện một quan niệm sống đúng đắn: Cần
phấn đấu để đạt sự hài hòa, cân bằng giữa nhận thức, hành vi, giữa cái bên trong với
cái bên ngoài. Mỗi người hãy sống là mình, luôn làm chủ bản thân cả về thể xác lẫn
tìn thần. Đó là cách sống để con người đạt được sự thanh thản.

Phân tích, chứng minh ý nghĩa câu nói:
* Thực tế cuộc sống của Trương Ba:
- Bên trong: Gắn liền với phần hồn Trương Ba- một người làm vườn chăm chỉ,
cần cù, tinh tế đã nâng niu chăm sóc vườn cây, một con người mẫu mực, sống đạo
đức và giàu tình nghĩa với vợ con, với cháu nội, với láng giềng xung quanh. Đó là
những phẩm chất quý giá khiến Trương Ba được mọi người nể trọng, quý mến.
- Bên ngoài: Gắn liền với xác hàng thịt – một con người thô bạo, tham lam, coi
trọng sự hưởng thụ vật chất.
- Vì một sự nhầm lẫn nên cả hai con người này đã bị đẩy vào một tình huống éo
le: hồn Trương Ba phải sống nhờ trong xác anh hàng thịt. Vấn đề là ở chỗ: hồn
Trương Ba vẫn có những nhu cầu về tinh thần song lại không thể điều khiển xác anh
25


×