Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Lựa chọn vấn đề dạy và phương pháp ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia khi giảng dạy phần lịch sử việt nam giai đoạn 1930 đến 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.55 KB, 27 trang )

Phần thứ nhất
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nhiều năm qua, việc bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử nói riêng là nhiệm vụ thường xuyên, quan
trọng của mỗi giáo viên và học sinh trường THPT chuyên. Điều đó xuất phát
từ mục tiêu phải đào tạo những học sinh say mê, có năng khiếu và trình độ học
tập tốt môn học mà mình đã lựa chọn.
Thực tiễn đã xác nhận rằng, trong nhiều năm qua, giáo viên môn Lịch sử
ở các trường chuyên, lớp chuyên sử có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững
chắc, góp phần đào tạo nhiều học sinh giỏi, hoàn thành tốt việc học tập của học
sinh ở các trường THPT, thi đỗ vào nhiều trường đại học. Tuy nhiên, vẫn có
nhiều vấn đề cần bổ sung cho nhau, cần trao đổi kinh nghiệm ôn luyện cho học
sinh nhằm đáp ứng mục tiêu kép, tức là vừa phải thực hiện nhiệm vụ giáo dục
toàn diện của học sinh trung học phổ thông, vừa phải phát triển năng khiếu về
một môn học để sau khi vào đại học, các em sẽ trở thành những tài năng thực
sự trong lĩnh vực khoa học lịch sử.
Đặc điểm của học sinh chuyên là những học sinh xuất sắc ở các trường
trung học cơ sở của địa phương, nhiều em đã dự thi và đạt giải cao trong các kì
thi học sinh giỏi các cấp và trúng tuyển theo quy chế tuyển sinh vào các trường
Trung học phổ thông chuyên. Do đó, phương pháp dạy, phương pháp học ở
trường Trung học phổ thông chuyên phải tiên tiến nhất, phù hợp với đối tượng
học sinh của trường. Vì vậy, vai trò của người giáo viên lịch sử ở trường
chuyên là phải yêu cầu, hướng dẫn và tổ chức điều khiển học sinh phát triển tư
duy lịch sử, nhất là tư duy độc lập, sáng tạo, phải làm cho quá trình học tập của
học sinh trở thành quá trình chủ động học tập, tiến dần lên quá trình tự nghiên
cứu độc lập.
Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Hội nghị 8 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
đã nêu rõ: “Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở
để người học cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Chuyển
từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức học tập đa dạng...Đẩy mạnh ứng dụng


công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”.
Như vậy, đối với học sinh chuyên cần có một khối lượng lớn tri thức đã
được thông hiểu và nắm vững, biết vận dụng kiến thức đã học để hiểu biết kiến
thức mới và giải quyết được các dạng bài tập lịch sử. Để đạt được mục tiêu
trên, không chỉ đòi hỏi sự nhiệt huyết, yêu nghề mà còn phải là sự chuyên sâu
về kiến thức và có trình độ nghiệp vụ sư phạm của đội ngũ thầy, cô giáo lịch
sử dạy chuyên. Từ thực tiễn giảng dạy, nhóm giáo viên môn Lịch sử đã tập hợp
tài liệu và tiến hành nghiên cứu chuyên đề: “Lựa chọn vấn đề dạy và phương
1


pháp ôn tập cho học sinh giỏi quốc gia khi giảng dạy phần lịch sử Việt Nam
giai đoạn 1930 đến 1945”. Đây là một giai đoạn có vị trí quan trọng trong lịch
sử dân tộc Việt Nam và cũng là một trong những nội dung trọng tâm trong các
kì thi Đại học, Cao đẳng và thi Học sinh giỏi quốc gia. Mục tiêu của chúng tôi
nhằm chia sẻ với các thầy, cô giáo dạy lịch sử nói chung và các thầy, cô giáo
đang dạy đội tuyển cũng như học sinh giỏi đang ôn luyện đội tuyển cấp Tỉnh,
Khu vực và cấp Quốc gia môn lịch sử nói riêng về những kiến thức cơ bản và
phương pháp ôn luyện về giai đoạn lịch sử quan trọng này.

2


Phần thứ hai
NỘI DUNG
1. CƠ SỞ KHOA HỌC
1.2. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Xuất phát từ đặc trưng tri thức Lịch sử trong chương trình THPT
Đặc điểm của tri thức Lịch sử trong chương trình THPT là những sự kiện
diễn ra trong quá trình của lịch sử, nên mang tính quá khứ, chỉ xảy ra trong

một thời gian và không gian nhất định, không lặp lại. Khoa học Lịch sử là
khoa học nghiên cứu tiến trình lịch sử cụ thể của mỗi nước, mỗi quốc gia; lịch
sử mang tính lôgíc lịch sử; lịch sử thống nhất giữa “sử” và “luận” và có quan
hệ biện chứng giữa kiến thức lịch sử.
Vì vậy, học sinh hiểu những kiến thức cơ bản của khoa học lịch sử, không
chỉ là việc ghi nhớ sự kiện mà điều quan trọng là trên cơ sở nắm vững sự kiện
cơ bản của chương trình và sách giáo khoa, học sinh hiểu được bản chất, đánh
giá của sự kiện, hiện tượng và rút ra quy luật, bài học kinh nghiệm của quá
khứ với hiện tại.
1.2.2. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ của lứa tuổi học sinh trung
học
Hoạt động học tập của học sinh THPT có thay đổi quan trọng về chất.
Hoạt động tư duy của các em tích cực, độc lập hơn. Các em có khả năng tư
duy lí luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo. Các em thích khái
quát hóa, thích tìm hiểu những qui luật và những nguyên tắc chung của các
hiện tượng hàng ngày, của những tri thức phải tiếp thu. Tư duy của các em
chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất quán hơn; tính phê phán của tư duy cũng phát
triển.
Những đặc điểm này tạo điều kiện cho học sinh THPT nói chung và học
sinh chuyên nói riêng có thể thực hiện các thao tác tư duy lô gic, phân tích nội
dung cơ bản của khái niệm trừu tượng và nắm được mối quan hệ nhân quả
trong tự nhiên và xã hội...Tuy nhiên, hiện nay số học sinh THPT đạt mức độ tư
duy như trên chưa nhiều. Thiếu sót cơ bản trong tư duy của các em là thiếu
tính độc lập. Việc giúp các em phát triển khả năng nhận thức là một nhiệm vụ
quan trọng của giáo viên để phát triển trí tuệ của học sinh trước khi bước vào
các trường chuyên nghiệp
1.2.3. Đặc điểm nhận thức của học sinh chuyên và yêu cầu của việc
học tập lịch sử ở trường THPT chuyên
Mục tiêu đào tạo của trường chuyên là mục tiêu kép, nhiệm vụ trường
chuyên vừa phải thực hiện nhiệm vụ giáo dục toàn diện để hoàn thiện cho học

sinh nền học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và

3


hướng nghiệp vừa phải thực hiện sự tác động đúng hướng để phát triển năng
khiếu của các em về một môn học.
Riêng về năng khiếu một môn học, khi mới tuyển vào học trường
chuyên thì học sinh mới chỉ là những em có kết quả học tập xuất sắc ở THCS,
có khả năng tiềm ẩn một năng khiếu (chứ chưa chắc đã có năng khiếu) Trong
quá trình học ở trường chuyên, nhà trường phải tiếp tục phát triển để đi tới
khẳng định năng khiếu. Trên cơ sở đó mà phát triển năng khiếu của các em,
giúp các em khi tốt nghiệp trường chuyên phải là những học sinh có năng
khiếu phát triển. Mục tiêu lâu dài sau của trường chuyên là các em phải tự đào
tạo thành những tài năng ở bậc đại học và sau đại học.
Học tập nói chung và học tập lịch sử nói riêng là sự tiếp thu tri thức. Tri
thức lại hết sức phong phú và đang tăng lên với tốc độ vô cùng nhanh chóng
mà trường chuyên cũng không sao truyền thụ hết được.Trong khi đó khả năng
hiểu biết và sự mong muốn của con người trong cả cuộc đời là vô cùng. Cho
nên, dạy học ở trường chuyên phải phù hợp với đặc điểm tâm lí và khả năng
nhận thức của học sinh năng khiếu, cần thiết phải làm cho quá trình học tập
của học sinh trở thành quá trình tự chủ động học tập, tiến dần lên quá trình tự
nghiên cứu độc lập. Muốn đạt được điều này, vai trò của người thầy là rất lớn,
phải yêu cầu, hướng dẫn và tổ chức điều khiển học sinh phát triển tư duy lịch
sử nhất là tư duy độc lập, sáng tạo.
Nhiệm vụ tư duy đặt ra cho học sinh chuyên phần lớn là những đề tài
tổng hợp, sâu rộng. Nếu không có vốn tri thức phong phú, không có một khối
lượng lớn những tri thức đã được thông hiểu và nắm vững, không có lòng ham
muốn hiểu biết, ham muốn học hỏi, tự học, tự tìm tòi và phải biết suy nghĩ,
biết vận dụng kiến thức đã học để hiểu kiến thức mới thì học sinh không thể

nào giải quyết đựơc các vấn đề được đặt ra như các bài tập lịch sử. Sự nỗ lực
trên của các em bao gồm cả tư duy trí tuệ, động cơ tâm lí, ý thức, thái độ tình
cảm. Nhưng khi đã giải quyết được vấn đề đặt ra học sinh sẽ cảm thấy phấn
khởi, hứng thú, say mê hơn với bộ môn; đồng thời có niềm tin vào bản thân và
ý chí vươn lên mãi mãi trong cuộc sống.
Tóm lại, yêu cầu học tập các bộ môn nói chung ở trường chuyên là rất
cao trong đó có bộ môn lịch sử nhằm đào tạo những nhân tài tương lai cho đất
nước. Nắm bắt đựơc yêu cầu này, người giáo viên giảng dạy lịch sử ở trường
chuyên phải căn cứ vào mục tiêu đào tạo, đặc điểm tâm lí và nhận thức của
học sinh chuyên để vạch kế hoạch sư phạm thích hợp, trong đó phải lựa chọn
phương pháp giảng dạy, phương tiện dạy học tối ưu nhất góp phần nâng cao
hiệu quả dạy học lịch sử ở trường chuyên và đáp ứng yêu cầu của mục tiêu
giáo dục- đào tạo.
1.2.4. Cơ sở đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá
4


Đổi mới phương pháp dạy học cần gắn liền với đổi mới về đánh giá quá
trình dạy học cũng như đổi mới việc kiểm tra và đánh giá thành tích học tập
của học sinh. Chương trình giáo dục định hướng năng lực (định hướng phát
triển năng lực) nay còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra đã trở thành
xu hướng giáo dục quốc tế. Dạy học theo định hướng hình thành và phát triển
năng lực người học không chỉ chú trọng phát triển các năng lực chung, cốt lõi
mà còn chú trọng phát triển cả năng lực chuyên biệt (môn học). Do đó, cần
tăng cường gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, ứng dụng trong thực
tiễn đối với môn học.
Theo quan điểm phát triển năng lực, việc đánh giá kết quả học tập không
lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trọng tâm, mà cần chú
trọng đánh giá khả năng vận dụng một cách sáng tạo tri thức trong những tình
huống ứng dụng khác nhau. Chương trình giáo dục định hướng năng lực đòi

hỏi các nhóm năng lực của giáo viên và học sinh như sau:
Đối với giáo viên: Được thể hiện qua 4 nhóm năng lực bao gồm: Năng
lực dạy học, năng lực giáo dục, năng lực chẩn đoán và tư vấn, năng lực phát
triển nghề nghiệp và phát triển trường học.
Đối với học sinh :giáo dục định hướng năng lực nhằm mục tiêu phát
triển năng lực người học. Năng lực người học được mô tả như sau:
Thứ nhất, về năng lực chuyên môn (Professional competency): Là năng lực
học tập của học sinh. Thể hiện nắm vững các khái niệm, phạm trù, quy luật, mối
quan hệ…Các kỹ năng để cần thiết kỹ năng khi xử lý một tình huống, một vấn
đề cụ thể; khả năng vận dụng, đánh giá nội dung của tri thức.
Thứ hai, về năng lực phương pháp (Methodical competency): Là khả
năng giải quyết các nhiệm vụ và vấn đề trong quá trình học tập. Được tiếp
nhận qua việc giải quyết vấn đề với những nội dung và tình huống khác nhau.
Thể hiện qua các kĩ năng thu thâp, xử lý, đánh giá, trình bày thông tin, phân tích,
tổng hợp, so sánh thông tin.
Thứ ba, về năng lực xã hội (Social competency): Là khả năng đạt được
mục đích phối hợp chặt chẽ với những thành viên khác. Nó được tiếp nhận qua
việc học giao tiếp. Thể hiện qua việc liên hệ các vấn đề tri thức với cuộc sống.
Thứ tư, về năng lực cá thể (Induvidual competency): Là khả năng xác
định, đánh giá được những cơ hội phát triển cũng như những giới hạn của cá
nhân, phát triển năng khiếu. Nó được tiếp nhận qua việc thể hiện tư duy và hành
động. Thể hiện qua việc nhận xét, đánh giá các vấn đề tri thức.
Những năng lực này không tách rời nhau mà có mối quan hệ chặt chẽ.
Vì vậy, người giáo viên không thể vận dụng một cách thiên lệch, không chú ý
đầy đủ đến nội dung dạy học thì có thể dẫn đến các lỗ hổng tri thức cơ bản và
tính hệ thống của tri thức.
5


Trong nhiều năm gần đây, loại đề thi học sinh giỏi chủ yếu là đề tự luận,

trong cấu trúc đề thường có khoảng 40% đến 50% số điểm cho khả năng nhận
biết, phần còn lại dành cho đánh giá khả năng thông hiểu và vận dụng kiến
thức. Nhận xét về loại đề thi bằng câu hỏi tự tự luận, cố Giáo sư Phan Ngọc
Liên đã nhấn mạnh ưu thế loại đề này là “đo được trình độ học sinh về lập
luận, đòi hỏi các em phải lập kế hoạch và tổ chức việc trình bày ý kiến của
mình có kết quả”(1). Như vậy, các đề thi Học sinh giỏi của nhiều năm trước đây
đã thể hiện việc đánh giá theo năng lực người học.
2. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VÀ CHUYÊN SÂU TRONG GIAI
ĐOẠN LỊCH SỬ VIỆT NAM 1919 – 1930
2.1. Mục tiêu
- Trình bày được tình hình kinh tế – xã hội Việt Nam trong những năm
khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933. Phát biểu ý kiến về tác động của khủng
hoảng đó đối với kinh tế, xã hội Việt Nam.
- Trình bày và được hoàn cảnh lịch sử, chủ trương của Đảng, ý nghĩa lịch
sử và bài học kinh nghiệm của các phong trào cách mạng 1930 – 1931 và 1936
– 1939.
- Trình bày và nhận xét được nội dung các phong trào cách mạng 19301931 và 1936-1939.
- So sánh được các giai đoạn cách mạng trong thời kì 1930 – 1945 (về kẻ
thù, mục tiêu, lực lượng và phương pháp đấu tranh).
- Phân tích được ảnh hưởng của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai đối với
Việt Nam trong giai đoạn 1939 – 1945.
- Trình bày và nhận xét được những chủ trương của Đảng trong việc giải
quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng đất
qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Luận cương chính trị tháng 10/1930 và Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5/1941).
- Trình bày và nhận xét được những chủ trương của Đảng về tập hợp lực
lượng cách mạng qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Luận cương chính trị
tháng 10/1930 và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (5/1941).
- Giải thích được nguyên nhân dẫn đến cuộc đảo chính của Nhật lật đổ

Pháp ở Đông Dương (9/3/1945).
- Tóm tắt được quá trình chuẩn bị lực lượng cho Cách mạng tháng Tám,
Đánh giá được vai trò của Mặt trận Việt Minh.
- Tóm tắt được các cuộc khởi nghĩa trong năm 1945.
- Trình bày được nội dung cơ bản và ý nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc
lập (2/9/1945).
1()

Phương pháp dạy học lịch sử, tập II, Phan Ngọc Liên (chủ biên), NXBSP, tr 230
6


- Phân tích được ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh
nghiệm của cách mạng tháng Tám.
2.2. Nội dung chủ yếu
1. Phong trào cách mạng 1930 – 1935
- Phong trào cách mạng Việt Nam 1930 – 1931 với đỉnh cao là Xô viết
Nghệ - Tĩnh là phong trào đầu tiên do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đây
là phong trào có quy mô rộng lớn, triệt để đã thành lập được chính quyền cách
mạng đầu tiên ở Việt Nam theo kiểu Xô Viết.
- Phong trào để lại bài học kinh nghiệm quý báu và là cuộc tập dượt đầu
tiên chuẩn bị cho thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945.
2. Phong trào dân chủ 1936 – 1939
- Phong trào dân chủ 1936 – 1939 là một hiện tượng hiếm có trong phong
trào đấu tranh cách mạng của Đảng. Xuất phát từ tình hình trong nước và thế
giới có nhiều biến chuyển, Đảng Cộng sản Đông Dương đã định ra chủ trương
và phương pháp đấu tranh mới. Trong đấu tranh, Đảng phối hợp với các lực
lượng dân chủ tiến bộ, kinh nghiệm đấu tranh chính trị của phong trào được
Đảng vận dụng vào việc xây dựng lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị
trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.

3. Phong trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945
- Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, ở Đông Dương tình hình chính trị,
kinh tế, xã hội có nhiều chuyển biến to lớn. Thực dân Pháp thi hành chính sách
khủng bố cách mạng và nhân dân, vơ vét kinh tế.
- Khi phát xít Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp cấu kết với Nhật đàn
áp, bóc lột nhân dân Đông Dương. Yêu cầu số 1 lúc này là giải phóng dân tộc.
- Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6 (11/1939) và Hội nghị 8
(5/1941) đã quyết định thay đổi chủ trương đấu tranh xác định mục tiêu chiến
lược trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay sai, tạm gác khẩu hiệu cách mạng
ruộng đất, thành lập Mặt trận của riêng nhân dân Việt Nam (Việt Minh), xác
định hình thái khởi nghĩa và chuẩn bị mọi mặt cho cuộc Cách mạng tháng Tám
năm 1945.
- Đầu năm 1945, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai chuẩn bị kết thúc, thời
cơ thuận lợi cho cách mạng xuất hiện, Đảng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa vũ trang
từ tháng 3 đến giữa tháng 8/1945 và cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm
1945 giành thắng lợi.
- Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập là
mốc đánh dấu thắng lợi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Đông Dương
2.3 Các vấn đề chuyên sâu
3. PHƯƠNG PHÁP VÀ KỸ NĂNG ÔN TẬP
7


3. 1. Một số vấn đề chung
3. 1.1. Mức độ của đề thi học sinh giỏi môn lịch sử
Mục đích của các kỳ thi chọn học sinh giỏi địa phương và học sinh giỏi
quốc gia môn lịch sử là tuyển chọn những học sinh xuất sắc nhất để tiếp tục
đào tạo và phải phát triển năng khiếu về môn học cho các em sau khi vào đại
học, các em sẽ trở thành những tài năng thực sự trong một lĩnh vực khoa học

lịch sử, nên các đề thi chọn học sinh giỏi có tính phân loại rất cao.
Các đề thi học sinh giỏi ở cơ sở thường dành khoảng 30% đến 40% (có
nhiều địa phương dưới 30%) số điểm cho khả năng nhận biết, phần còn lại
dành cho đánh giá khả năng thông hiểu và vận dụng kiến thức. Như vậy, nếu
chỉ dừng ở mức độ học thuộc bài, học sinh không thể đáp ứng được yêu cầu
phân hóa. Đề thi chọn học sinh giỏi quốc gia môn lịch sử còn khó hơn rất
nhiều, nếu chỉ học thuộc bài thì chắc chắn không thể đáp ứng. Đề thi học sinh
giỏi cấp Tỉnh, Khu vực đều phải hướng tới đề thi cấp Quốc gia
Về kĩ năng, đề thi học sinh giỏi đòi hỏi nhiều kỹ năng cao hơn như so
sánh, khái quát, giải thích, đánh giá, phân tích tổng hợp.
3. 1.2. Cấu trúc đề thi chọn học sinh giỏi
Về đề thi, phân tích các đề thi trong nhiều năm cho thấy: Việc thi chọn
học sinh giỏi môn lịch sử hiện nay bài viết tự luận. Câu hỏi trong đề thi thường
dựa trên cơ sở câu hỏi hoặc bài tập đã nêu trong sách giáo khoa, hoặc sách
giáo viên, nhưng được làm mới bằng cách sửa chữa và bổ sung thêm, theo
hướng mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi nội dung cần hỏi. Với thang điểm 20,
các đề thi học sinh giỏi hiện nay thường có 7 câu. Nội dung đề thi hoàn toàn
nằm trong chương trình Trung học phổ thông, chương trình 12 thường chiếm
trên 70%, bao gồm Lịch sử thế giới và Lịch sử Việt Nam. Sự phân bố tỷ lệ
điểm giữa phần lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới là 70% và 30%.
Theo đề xuất của các nhà giáo dục Lịch sử, đối với câu hỏi của đề thi
học sinh giỏi có thể sử dụng đề thi mở - một biện pháp đổi mới phương thức
kiểm tra, đánh giá. Với dạng đề thi có những câu hỏi “mở”, tạo điều kiện cho
sự sáng tạo của học sinh. Học sinh có điều kiện phát biểu nhận thức của mình
về một nhận định, đánh giá, một sự kiện hoặc một quá trình lịch sử, khuyến
khích khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề.
Trong mỗi câu hỏi thường có hai vế: vế 1 thường là kiến thức cơ bản, vế
2 thường là câu hỏi thông hiểu hoặc vận dụng. Ví dụ, câu 1 trong đề thi học
sinh giỏi quốc gia năm 2011: Nêu các khuynh hướng chính trị và những biểu
hiện của nó trong phong trào yêu nước chống Pháp từ cuối thế kỉ XIX đến đầu

năm 1930. Từ kết cục của mỗi khuynh hướng, hãy rút ra kết luận về con
đường giải phóng dân tộc Việt Nam.
Vế 1 của câu này là Nêu các khuynh hướng chính trị và những biểu hiện
8


của nó trong phong trào yêu nước chống Pháp từ cuối thế kỉ XIX đến đầu năm
1930. Phần kiến thức cơ bản này phải tổng hợp các sự kiện từ nhiều bài học lịch
sử được trình bày trong sách giáo khoa lớp 11 (chương trình chuẩn và chương
trình nâng cao) và một số bài trong sách giáo khoa lớp 12 (chương trình chuẩn và
chương trình nâng cao).
Vế 2 của câu này: Từ kết cục của mỗi khuynh hướng, hãy rút ra kết luận
về con đường giải phóng dân tộc Việt Nam. Đây là yêu cầu vận dụng nâng cao,
đòi hỏi học sinh sau khi nêu được những biểu hiện của các khuynh hướng chính
trị trong phong trào yêu nước chống Pháp từ cuối thế kỉ XIX đến đầu năm
1930, học sinh phải khẳng định được trong thời gian này, ở nước ta có hai
khuynh hướng chính trị xuất hiện và cùng tác động đến phong trào cách mạng,
song kết cục là sự thất bại của khuynh hướng dân chủ tư sản và khuynh hướng
vô sản ngày càng thắng thế, đánh dấu bằng sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam (1 – 1930). Từ kết cục của các khuynh hướng nói trên, nên con đường
cứu nước tất yếu để giành thắng lợi cho dân tộc ta là con đường cách mạng vô
sản.
Một số điểm đáng lưu ý:
1. Đặc điểm của đề thi là không tập trung vào một bài, một chương, một
phần hay một khóa trình lịch sử mà rải ra trong toàn bộ chương trình. Vì thế,
thí sinh không thể học tủ, học lệch.
2. Yêu cầu về kỹ năng của mỗi câu hỏi trong đề thi cũng khác nhau,
biểu hiện ở những từ dùng để hỏi khác nhau: nêu, trình bày, tóm tắt, khái quát,
so sánh, nhận xét, phân tích, đánh giá, phát biểu ý kiến, lập bảng, vẽ sơ đồ,
biểu đồ... Phải chú ý đáp ứng mỗi yêu cầu cụ thể đó.

3. Thí sinh có cách làm khác, nhưng đúng thì bài làm vẫn được cho đủ
điểm. Cách làm ở đây chủ yếu là ở kết cấu và cách thể hiện, trình tự sắp xếp
các ý trong một câu, có thể chia tách một ý lớn, hoặc gộp nhiều ý nhỏ...
4. Khi làm bài, trong mọi câu hỏi, thí sinh hoàn toàn có thể theo chương
trình nâng cao, hoặc chương trình chuyên (gồm kiến thức của các chuyên đề
dành cho lớp chuyên), có thể sử dụng cả những kiến thức ngoài chương trình
phổ thông, không có trong đáp án, được khai thác từ các tài liệu tham khảo,
nhưng đúng. Trong trường hợp này bài làm có thể được thưởng thêm điểm,
nhưng không vượt quá tổng số điểm của toàn bài. Đây là một hình thức
khuyến khích học sinh đọc thêm tài liệu tham khảo, khai thác những kênh
thông tin khác nhau, làm cho bài viết phong phú và sinh động hơn.
Trên đây là cấu trúc đề thi học sinh giỏi trong khoảng thời gian từ năm
2006 đến năm 2014. Cấu trúc này có thể được điều chỉnh qua các kỳ thi về
sau. Các địa phương có thể căn cứ vào cấu trúc đề thi quốc gia để điều chỉnh
cấu trúc cho phù hợp với đặc điểm của học sinh địa phương mình.
9


3.1.3 Phương pháp và kỹ năng ôn tập
3.1.3.1. Nội dung chương trình ôn tập
Nội dung ôn tập trước hết là kiến thức cơ bản có trong sách giáo khoa
trung học phổ thông. Đây là nền tảng để xây dựng chương trình ôn tập. Tuy
nhiên, căn cứ vào mục tiêu đối với học sinh giỏi, cần xác định kiến thức và kỹ
năng mà học sinh đã biết để bồi dưỡng những kiến thức và kỹ năng cần có
thêm. Người thầy phải bồi dưỡng những những kiến thức và kỹ năng theo
chiều sâu hoặc kiến thức mới, tránh lặp lại máy móc những nội dung kiến thức
và kỹ năng mà học sinh đã có. Do đó, mỗi giáo viên ôn luyện đội tuyển cần
phải tự xây dựng chương trình giảng dạy cụ thể, thực hiện chương trình bằng
những phương pháp thích hợp, biết tự đánh giá và điều chỉnh chương trình để
đạt kết quả ngày càng cao hơn.

Việc điều chỉnh chương trình giảng dạy đơn thuần là sự thêm, bớt nội
dung. Trong quá trình ôn luyện cho học sinh, không gò ép học sinh theo những
khuôn mẫu có sẵn, mà người thầy phải gợi mở, hướng dẫn, khuyến khích tư
duy sáng tạo, giúp học sinh vận dụng những kiến thức đã tích luỹ được để
ngày càng tự hoàn thiện, có khả năng tự đánh giá, tự điều chỉnh để không
ngừng vươn lên học tốt, thích ứng với mọi hoàn cảnh, chủ động ứng phó với
mọi tình huống.
3.1.3.2. Phương pháp và kĩ năng ôn tập cơ bản
Nội dung của đề thi học sinh giỏi lịch sử rất phong phú, đa dạng, chủ
yếu là câu hỏi lý thuyết, một số đề có câu hỏi thực hành. Do đó, việc xác định
phương pháp và kĩ năng ôn tập phải phù hợp với mục tiêu đặt ra là bồi dưỡng
học sinh giỏi, nên cũng cần phải tuân thủ những cơ sở lý luận về phương pháp
dạy học để không rơi vào kinh nghiệm chủ nghĩa; đồng thời cần sáng tạo
những biện pháp, thao tác sư phạm để khắc phục tình trạng lý thuyết suông.
- Phải xác định động cơ, hứng thú học tập lịch sử cho học sinh.
Đây là khâu đầu tiên có tác dụng đột phá trong việc giúp học sinh có sự
lựa chọn môn học ngay từ đầu năm học. Chính vì vậy, nên trong bài mở đầu
của của chương trình năm học, người thầy nêu ra một số vấn đề trong nội dung
học tập, những quyền lợi được hưởng của học sinh tạo ra hứng thú học tập,
khao khát muốn được biết, kích thích tính tích cực của học sinh, làm cho học
sinh tham gia tích cực vào môn học.
- Sớm hình thành ở học sinh năng lực tự học và làm bài thi môn lịch sử.
Việc rèn kĩ năng tự học cho học sinh ở các lớp chuyên sử là điều rất cần
thiết để thực hiện mục tiêu bộ môn. Đó là con đường mà người giáo viên đưa
học sinh của mình đến với chân lý khoa học bằng chính hoạt động của họ. Nó
giúp học sinh đào sâu, củng cố kiến thức và phát triển toàn diện cho các em. Kĩ
năng tự học là công cụ để các em học suốt đời. Đó là: kĩ năng tự làm việc với
10



sách giáo khoa lịch sử; kĩ năng tự làm việc với tài liệu tham khảo dưới sự
hướng dẫn của giáo viên; kĩ năng nghe giảng kết hợp với tự ghi chép; kĩ năng
phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề; kĩ năng tự kiểm tra đánh giá... Vì vậy,
khi ôn tập cho học sinh giỏi, chúng tôi rất coi trọng việc hướng dẫn học sinh tự
học.
Hiệu quả của việc học tập Lịch sử không chỉ là sự hiểu biết kiến thức
lịch sử mà còn phải có kĩ năng làm bài thi môn Lịch sử. Trong khuôn khổ của
bài viết, chúng tôi chỉ xin đề cập đến việc rèn cho học sinh kĩ năng tự học với
SGK dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Đây là phương pháp và kĩ thuật có vai
trò tối ưu để đạt hiệu quả. SGK vừa là tài liệu cơ bản, bắt buộc trong học tập,
cấu trúc của SGK đáp ứng yêu cầu về kiến thức (phần bài viết), về kĩ năng
(phần cơ chế sư phạm). Những câu hỏi, bài tập trong SGK thường được điều
chỉnh và sử dụng làm đề kiểm tra hoặc đề thi. Quy trình như sau:
Bước 1: Trên cơ sở xác định mục tiêu của bài học và mục tiêu ôn tập về
kiến thức cơ bản, kĩ năng thực hành, kĩ năng viết bài, GV xây dựng hệ thống
câu hỏi, bài tập định hướng cho HS tự học và phương án trả lời (không nên tự
đưa ra câu hỏi, bài tập khi chưa chuẩn bị).
Bước 2: Hướng dẫn HS đọc lại nội dung bài viết trong SGK, nhớ lại nội
dung bài giảng của GV, tái hiện những kiến thức cơ bản, những hình ảnh trong
bài. GV giành thời gian hướng dẫn HS tìm hiểu những nội dung bản chất, tính
chất, đặc điểm, ý nghĩa của các sự kiện quan trọng của bài học, chương, phần
có liên quan.
Bước 3: GV hướng dẫn HS tập trung vào nghiên cứu và trả lời những
câu hỏi, bài tập trong SGK yêu cầu ở các cấp độ nhận thức khác nhau và định
hướng trả lời:
- Câu hỏi sau mục nhỏ yêu cầu HS tái hiện kiến thức để ôn tập theo
mục tiêu bậc 1 của bài (mốc thời gian, diễn biến, tên nhân vật….) phù hợp với
ghi nhớ kiến thức cơ bản. Khi trả lời các câu hỏi này, GV nên hướng dẫn HS
so sánh với các sự kiện tương đồng để ghi nhớ lâu hơn. Ví dụ: câu hỏi SGK
Lịch sử 12 (chuẩn), trang 6 có câu hỏi: Hãy nêu những quyết định quan trọng

của Hội nghị Ianta (2/1945). GV hướng dẫn HS so với những quyết định của
Hội nghị Vécxai – Oasinhtơn…
- Câu hỏi, bài tập cuối mỗi bài mang tính chất tổng quát, yêu cầu HS tư
duy ở mức cao hơn: HS phải giải thích, phân tích, đánh giá sự kiện lịch sử
hoặc làm bài thực hành. GV hướng dẫn HS đọc kĩ câu hỏi, hiểu rõ bản chất,
liên hệ, vận dụng để đánh giá tính chất, tác động, ý nghĩa của sự kiện. Ví dụ:
câu hỏi cuối bài 1 trong SGK Lịch sử 12 (chuẩn), trang 9 có câu hỏi: Hãy chỉ
trên bản đồ thế giới những khu vực thuộc chia phạm vi ảnh hưởng do ba
cường quốc thỏa thuận ở Hội nghị Ianta. Giáo viên có thể thiết kế thành câu
11


hỏi mang tính thực hành như sau: Hãy chỉ trên bản đồ thế giới những khu vực
thuộc chia phạm vi ảnh hưởng do ba cường quốc thỏa thuận ở Hội nghị Ianta.
Lập bảng thống kê và nêu nhận xét về nội dung đó theo mẫu sau:
Khu vực
Mĩ và Tây Âu
Liên Xô
Châu Âu
Châu Á
Sau khi xác định xong những khu vực ảnh hưởng của các nước Mĩ và
Liên Xô, GV hướng dẫn HS đánh giá bản chất của Hội nghị Ianta và tác động
của việc phân chia đó.
- Câu hỏi, bài tập biên soạn trên cơ sở bài viết trong SGK kết hợp kiến
thức, kĩ năng của HS ở mức độ cao giúp HS ôn tập kiến thức, viết bài thi nhằm
củng cố kiến thức, rèn luyện kĩ năng và năng lực thực hành bộ môn. Ví dụ:
Dựa vào mục I trong SGK Lịch sử 12 (chuẩn), GV biên soạn câu hỏi như sau:
Trình bày những quyết định quan trọng của các cường quốc tại Hội Nghị
Ianta (2/1945). Phát biểu ý kiến về tác động của sự phân chia khu vực đóng
quân và phạm vi ảnh hưởng của ba cường quốc.

Như vậy, việc xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập khi hướng dẫn học
sinh tự học sách giáo khoa không chỉ là định hướng nội dung mà còn tạo động
lực học tập mà còn rèn luyện kĩ năng, kiểm tra mức độ kiến thức của họ. Học
sinh hoàn thành câu hỏi, bài tập sẽ giúp cho việc tự học có hiệu quả cao. Khi
biên soạn hệ thống câu hỏi, giáo viên cần chú ý đến nội dung và cách trình bày
câu hỏi. Thông thường câu hỏi lý thuyết được kết thúc bằng những từ để hỏi
(... như thế nào?”, “... ra sao? ... là gì?); hoặc bắt đầu bằng những từ yêu cầu,
sai khiến (Nêu..., Trình bày..., Tóm tắt..., Khái quát..., So sánh..., Tại sao...? Vì
sao...? Giải thích..., Phân tích..., Nhận xét...), đôi khi có thêm chữ “Hãy” trước
những từ đó. Câu hỏi thực hành thường bắt đầu bằng những từ (Hãy) kẻ
bảng..., điền vào bảng..., lập biểu đồ..., vẽ sơ đồ/đồ thị...
Những từ dùng để hỏi quy định mức độ kiến thức, kỹ năng, tức là quy
định độ khó của câu hỏi. Có thể phân chia thành ba mức, tương ứng ba bậc
mục tiêu nhận thức, ba cấp độ khó khác nhau:
Nhận biết, thể hiện khả năng nhớ, thuộc kiến thức, thường được hỏi
bằng các từ: Nêu..., Trình bày..., Hãy kể...
Thông hiểu, thể hiện khả năng phân biệt, so sánh, giải thích, chứng
minh, thường được hỏi bằng các từ: Hãy chứng minh rằng..., Vì sao...? Tại
sao...? (có khi thay bằng: Hãy trình bày/giải thích nguyên nhân/ lý do...), Hãy
so sánh... (có khi thay bằng: Hãy nêu những điểm giống nhau, khác nhau...).
Vận dụng, thể hiện khả năng tư duy cao hơn, khả năng đánh giá, phán
xét, phân tích tổng hợp có thể vận dụng kiến thức để giải quyết một vấn đề.
Loại câu hỏi này thường dùng các từ Phân tích... Nhận xét..., Đánh giá...
12


Ngoài ra, khi ôn tập cho học sinh giỏi thì việc đọc tài liệu tham khảo là
yêu cầu bắt buộc vì nội dung ôn tập thường là những vấn đề mang tính chất
tổng hợp xuyên suốt nhiều bài, thậm chí nhiều chương với lượng kiến thức vừa
rộng vừa sâu hơn so với sách giáo khoa. Để có thể giải quyết được các nhiệm

vụ học tập ở trên lớp đòi hỏi học sinh phải nghiên cứu tìm hiểu trước tài liệu
tham khảo. Đó là khâu chuẩn bị để học sinh có thể tiến hành trao đổi, thảo luận
hay trình bày báo cáo trước lớp. Để cho việc đọc sách của học sinh không tản
mạn, chệch hướng, giáo viên cần hướng dẫn các em chọn sách và phương pháp
đọc.
Đọc sách không đơn thuần là một công việc giải trí đơn giản mà là một
hoạt động học tập, nghiên cứu phức tạp. Tùy theo mục đích, yêu cầu cụ thể của
từng người mà kế hoạch và phương pháp đọc sách khác nhau. Một nhà giáo
dục học đã đưa ra một quy trình đọc sách khái quát với các giai đoạn, các khâu
như sau: Hãy chỉ trên bản đồ thế giới những khu vực thuộc chia phạm vi ảnh
hưởng do ba cường quốc thỏa thuận ở Hội nghị Ianta.
Đối với học sinh, việc nghiên cứu các chương, mục trong sách tham
khảo là để hiểu sâu sắc, mở rộng, nâng cao kiến thức đã được học trong sách
giáo khoa nhằm giải quyết những bài tập mà thầy, cô giao cho.
Ví dụ khi dạy chuyên đề “Vai trò của Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của
cách mạng tháng Tám năm 1945”, có thể hướng dẫn các em đọc những tài liệu
sau:
1. Lịch sử Việt Nam từ 1885 đến nay, Trần Bá Đệ, NXB Đại học Quốc
gia, Hà Nội, 2001.
2. Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử trung học phổ thông, Trịnh Đình
Tùng (Chủ biên), NXB Giáo dục Việt Nam, 2012.
3. Hồ Chí Minh với tiến trình lịch sử dân tộc,GS.TS Phan Ngọc Liên,
NXB Chính trị Quốc gia, H, 2008.
Để việc đọc sách có hiệu quả, giáo viên cần nêu rõ yêu cầu và hướng
dẫn học sinh cách đọc cũng như cách ghi chép khi đọc sách: tên tác giả, tên
sách, thời gian đọc, nội dung chủ yếu của sách, những vấn đề rút ra sau khi
đọc sách (những vấn đề liên quan đến bài học, vấn đề thích nhất, những thắc
mắc cần giải quyết...).
Một số điểm đáng lưu ý:
Phân tích đề, phát hiện và giải quyết vấn đề, xác định đúng yêu cầu của

từng câu hỏi là việc làm tối quan trọng, quyết định phương hướng làm bài
đúng, tránh tình trạng lạc đề.
3.1.3.3. Kỹ năng làm bài
* Lập dàn ý

13


Sau khi phân tích đề bài, cần lập dàn ý. Hãy coi mỗi câu hỏi như một bài
viết ngắn, xác định những ý chính và trình tự của các ý, không nên chỉ hình
dung đại khái và viết ngay trong giấy thi. Khi lập dàn ý cần thực hiện các
bước:
- Bước 1: Kiểm tra lại yêu cầu của câu hỏi về kiến thức và kĩ năng.
- Bước 2: Khoanh vùng kiến thức (các sự kiện, quá trình lịch sử gắn với
thời gian và không gian cụ thể). Điều này rất quan trọng vì có khoanh đúng
vùng kiến thức mới tránh được tình trạng bị thừa hoặc thiếu trong bài làm. Chú
ý mối liên hệ đồng đại (trong cùng một thời gian), hoặc lịch đại (theo trình tự
thời gian trước, sau) giữa các sự kiện.
- Bước 3: Viết dàn ý. Trước hết viết dàn ý sơ lược, ghi các ý chính, đồng
thời tư duy chi tiết hoá mỗi ý đó. Căn cứ vào mục tiêu kỹ năng để lập dàn ý
cho sát, không bỏ sót những ý lớn.
* Làm bài
- Lập xong dàn ý sẽ tự biết cần phải mở bài như thế nào, vì khi đó
phương hướng và nội dung trả lời đã được xác định rõ. Tốt nhất là mở bài một
cách trực tiếp, ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề cần trình bày.
- Nội dung trả lời là sự trình bày và phát triển từng ý đã chuẩn bị trong
dàn bài theo mỗi câu hỏi, được thể hiện bằng những câu, từ đầy đủ, chính xác,
đúng ngữ pháp, đúng chính tả. Chú ý cách thể hiện (lập luận) sát yêu cầu của
đề bài, chủ động dùng từ ngữ thích hợp với yêu cầu của câu hỏi (trình bày, giải
thích, so sánh, chứng minh, phân tích, nhận xét...). Với cùng một nội dung,

nhưng yêu cầu của câu hỏi khác nhau thì cách thể hiện và nội dung kiến thức
hoàn toàn khác nhau. Sau khi đã viết xong nội dung trả lời câu hỏi, khắc sẽ
biết kết luận như thế nào. Đừng nghĩ trước kết luận, và cũng chỉ nên kết luận
thật ngắn gọn.
3.1.3.4. Một số điểm cần quan tâm khi làm bài
- Không được chủ quan, cần đọc kĩ câu hỏi, phân tích và hiểu chính xác
yêu cầu của câu hỏi (xác định đúng yêu cầu về kiến thức, kỹ năng của từng câu
hỏi). Một câu hỏi chặt chẽ sẽ không có từ nào là “thừa”. Vì thế, phải đọc hết và
hiểu chính xác từng chữ trong câu hỏi. Đọc kĩ câu hỏi để xác định thời gian,
không gian, nội dung lịch sử và yêu cầu của câu hỏi (trình bày, so sánh, giải
thích, phân tích, đánh giá…)
- Phân bố thời gian cho hợp lí. Hãy căn cứ vào điểm số của từng câu mà
tính thời gian. Trong thời gian 180 phút với 7 câu hỏi, thang điểm là 20, trung
bình mỗi điểm trong câu hỏi tương ứng với 18 phút, nhưng trừ thời gian phân
tích đề và lập dàn ý, thời gian viết chỉ còn khoảng 15 phút/1 điểm.
- Hết sức tập trung tư tưởng vào việc làm bài, không nên mất thời gian
vào những việc không liên quan (ví dụ như: việc đi lại của các cán bộ coi thi,
14


thanh tra, kiểm tra ở trong và ngoài phòng thi, việc làm biên bản đối với người
phạm quy…). Đừng quan tâm tới những thí sinh xung quanh mình đang làm
bài như thế nào.
- Có thể làm câu dễ trước, câu khó sau, nhưng hết sức tránh tình trạng
làm một số câu quá dài, quá kỹ, nhưng bỏ trống những câu còn lại.
- Trong trường hợp lãng quên một số chi tiết nhỏ nào đó, ví dụ như ngày
tháng, địa điểm, tên nhân vật, số liệu cụ thể… thì có thể bỏ qua, hoặc để trống
một số ký tự để khi nhớ ra sẽ điền vào sau. Tuyệt đối không suy nghĩ quá lâu,
gây mất thời gian không cần thiết.
- Nếu không thể “mở bài” và “kết luận” một cách nhanh chóng cho mỗi

câu hỏi, thì có thể bỏ qua. Tuyệt đối không đầu tư nhiều thời gian suy nghĩ, cố
tình làm cho bằng được.
Bài thi là kết tụ nỗ lực phấn đấu của cả một quá trình học tập, rèn luyện
lâu dài, với khát vọng thành công, thành đạt. Để làm bài tốt, không chỉ cần
kiến thức, “thuộc lòng như sách giáo khoa”, mà còn cần có phương pháp và kỹ
năng tốt. Ôn tập kiến thức kết hợp với rèn luyện phương pháp, kỹ năng làm bài
là công việc tối cần thiết để giúp thí sinh toại nguyện.
Một số điểm đáng lưu ý: Một bài bài thi tốt là bài luôn phải đảm bảo hai
mặt nội dung và hình thức. Về nội dung, phải đảm bảo đúng và đủ: Đúng là sự
chính xác về kiến thức, không nhầm lẫn các sự kiện, thời gian, không gian. Về
kỹ năng, đúng là làm theo yêu cầu của đề bài (trình bày, nhận xét, so sánh...);
Đủ (không thừa, không sót kiến thức cơ bản). Đây là vấn đề có liên quan đến
việc lựa chọn kiến thức, tránh qua loa, đại khái, nhưng cũng tránh đi vào chi
tiết, vụn vặt. Chỉ khi xác định chính xác yêu cầu của đề bài, thì mới có thể lựa
chọn đúng và đủ nội dung và kỹ năng cần sử dụng để làm bài. Về hình thức
(cách thể hiện), thể hiện trước hết ở các ý được trình bày sao cho có trình tự
hợp lý, có trước, có sau, sử dụng câu, từ dễ hiểu, đúng ngữ pháp, chữ phải đủ
nét, không viết hoa, viết tắt bừa bãi.
4. BIÊN SOẠN MỘT SỐ CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
Sau khi giảng dạy một giai đoạn lịch sử, một vấn đề chuyên sâu, giáo
viên cần biên soạn các câu hỏi ôn tập giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức cơ
bản, rèn luyện kĩ năng phân tích đề và kĩ năng làm bài. Đồng thời kết hợp với
tổ chức kiểm tra đánh giá học sinh dưới hình thức kiểm tra miệng và kiểm tra
viết. Đối với ôn luyện học sinh giỏi, kiểm tra viết 180 phút theo cấu trúc dạng
đề thi học sinh giỏi quốc gia là việc quan trọng và thường xuyên, qua đó sẽ
giúp học sinh hình thành được kĩ năng làm bài thi.
Chúng tôi đưa ra một số câu hỏi, bài tập tự luận và hướng dẫn trả lời để
ôn tập chuyên sâu cho học sinh giỏi khi giảng dạy giai đoạn lịch sử Việt Nam
1930 – 1945.
15



4.1. Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1931
Câu 1. Vì sao đến đầu năm 1930, cách mạng giải phóng dân tộc Việt
Nam được đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam?
Bởi vì
- Những năm 1929 - 1933, thế giới tư bản lâm vào cuộc khủng hoảng kinh
tế trầm trọng trên quy mô lớn, để lại hậu quả hết sức nặng nề.
- Trong khi đó, Liên Xô đang xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Sự
kiện đó đã cổ vũ sự bùng nổ của phong trào cách mạng ở Đông Dương.
- Xã hội Việt Nam, cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 làm trầm trọng
thêm tình trạng đói khổ của các tầng lớp nhân dân lao động. Mâu thuẫn xã hội
ngày càng sâu sắc, trong đó có hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa dân tộc
Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong
kiến.
- Đầu năm 1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân đảng
lãnh đạo đã bị thất bại. Vai trò lịch sử của Việt Nam Quốc dân đảng với tư
cách là một chính đảng cách mạng trong phong trào dân tộc đã chấm dứt.
- Tháng 2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với tổ chức chặt chẽ và
có cương lĩnh cách mạng đúng đắn, nắm quyền lãnh đạo duy nhất đối với cách
mạng Việt Nam, quy tụ lực lượng toàn dân tộc Việt Nam, kịp thời lãnh đạo
nhân dân ta bước vào một thời kì cách mạng mới. Từ đây, cách mạng giải
phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam được đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Câu 2. Tóm tắt phong trào cách mạng 1930 – 1931. Nêu những điểm
mới của phong trào này so với những phong trào yêu nước trước đó.
1. Tóm tắt phong trào cách mạng 1930 – 1931
- Về quy mô: diễn ra liên tục trên quy mô rộng lớn, từ Bắc đến Nam, ở cả
nông thôn và thành thị, từ các nhà máy, xí nghiệp đến các hầm mỏ và đồn
điền. Mặc dù rộng lớn trong toàn quốc nhưng phong trào vẫn mang tính thống

nhất cao, đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo và đều nhằm mục tiêu chống đế
quốc và phong kiến.
- Lực lượng tham gia chủ yếu là công nhân và nông dân. Lần đầu tiên công
– nông đã đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản chống đế quốc, phong
kiến tay sai.
- Hình thức đấu tranh phong phú và quyết liệt. Có nhiều hình thức đấu
tranh như bãi công của công nhân, biểu tình của nông dân, bãi khóa của học
sinh, sinh viên và nhiều hình thức khác như treo cờ đỏ búa liềm, rải truyền
đơn, căng khẩu hiệu cách mạng… Có những hình thức đấu tranh quyết liệt:
phá đồn điền, nhà lao, giải thoát tù chính trị, phá nhà ga, bao vây phủ đường,
buộc bọn thống trị phải chấp nhân yêu sách, làm tan rã bộ máy chính quyền
16


địch ở nhiều vùng nông thôn, thiết lập chính quyền cách mạng, quần chúng đã
thẳng tay trừng trị những phần tử phản động, ngoan cố. Hệ thống chính quyền
thực dân, phong kiến bị tê liệt, tan rã ở nhiều nơi.
2. Điểm mới của phong trào 1930 – 1931
- Phong trào cách mạng 1930 – 1931 là một phong trào cách mạng đầu
tiên do Đảng Cộng sản tổ chức và lãnh đạo.
- Đó là một phong trào cách mạng triệt để đánh đế quốc và tay sai, diễn ra
trên qui mô rộng lớn, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình
thức đấu tranh phong phú và quyết liệt.
- Đây là một bước phát triển nhảy vọt về chất so với những phong trào
yêu nước trước kia.
Câu 3. So sánh những điểm khác nhau của Luận cương chính trị
(10/1930) với Cương lĩnh chính trị (1/1930) của Đảng Cộng sản Việt nam?
Vì sao có sự khác nhau đó?
1. Sự khác nhau
- Về nội dung của cuộc cách mạng tư sản dân quyền:

+ Trong cương lĩnh đầu tiên: Xác định đường lối chiến lược cách mạng
của đảng là tiến hành cuộc “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản”.
+ Luận cương tháng 10/1930 nêu rõ: Cách mạng Đông Dương lúc đầu là
cuộc cách mạng tư sản dân quyền, sau đó sẽ tiếp tục phát triển bỏ qua thời kì tư
bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, trong Cương lĩnh chính trị, tư sản dân quyền cách mạng không
bao gồm nhiệm vụ ruộng đất mà chỉ thực hiện nhiệm vụ chống đế quốc, giành
độc lập dân tộc. Tức là làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Còn trong bản
Luận cương chính trị, tư sản dân quyền sẽ bao gồm cả nhiệm vụ giải phóng
dân tộc và nhiệm vụ cách mạng ruộng đất.
- Về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến:
+ Cương lĩnh đầu tiên: Nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ đế quốc Pháp,
bọn phong kiến và phản cách mạng làm cho nước Việt Nam được độc lập tự
do; lập chính phủ công nông binh; tổ chức quân đội công nông, tịch thu hết sản
nghiệp lớn của đế quốc; tịch thu ruộng đất của đế quốc và phản cách mạng
chia cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất...
+ Luận cương tháng 10-1930 : Hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là
đánh đổ đế quốc và phong kiến có quan hệ khăng khít với nhau.
Như vậy, bản Cương lĩnh đầu tiên xác định nhiệm vụ cách mạng bao gồm
cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và phong kiến nhưng nổi
lên hàng đầu là chống đế quốc và giành độc lập dân tộc, quyền lợi ruộng đất
của nông dân chỉ đặt ra ở mức độ thích hợp. Còn Luận cương chính trị không
17


đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
- Về tập hợp lực lượng cách mạng:
+ Cương lĩnh chính trị đầu tiên: Lực lượng cách mạng là công nhân, nông
dân, tiểu tư sản, trí thức. Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản phải

lợi dụng hoặc trung lập.
+ Luận cương tháng 10-1930: Động lực cách mạng là công nhân, nông
dân.
Như vậy, bản Cương lĩnh đầu tiên chủ trương tập hợp lực lượng toàn dân
tộc, thể hiện tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh. Còn Luận cương
không thấy được khả năng cách mạng của tiểu tư sản, khả năng chống đế quốc
của tư sản dân tộc, khả năng phân hóa và lôi kéo một bộ phận địa chủ vừa và
nhỏ đi theo cách mạng.
2. Nguyên nhân
- Do nhận thức thực tiễn: Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Hội nghị
tháng 10-1930 chưa nhận thức được mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội thuộc địa
là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc bị áp bức với đế quốc xâm lược, nên không
nhận thức được nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng dân tộc. Từ
đó, Trung ương Đảng không thấy được mặt tích cực của các giai cấp và tầng
lớp trên, nên không coi họ là lực lượng cách mạng.
- Do ảnh hưởng của những tư tưởng tả khuynh: nhấn mạnh đấu tranh giai
cấp đang tồn tại trong quốc tế cộng sản và một số Đảng Cộng sản anh em lúc
đó. Về sau này, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã từng bước khắc
phục những hạn chế của Luận cương và đưa cách mạng tiến đến thành công.
4.2. Việt Nam từ năm 1936 đến năm 1939
Câu 1. Tóm tắt nội dung của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng tháng 7/1936. Theo em, chủ trương Hội nghị đã khắc phục những
hạn chế nào trong Luận cương tháng 10/1930 của Đảng cộng sản Đông
Dương?
1. Tóm tắt nội dung
- Xác định kẻ thù cụ thể trước mắt của nhân dân Đông Dương lúc đó là
bọn động Pháp ở thuộc địa và bọn tay sai không chịu thi hành những chính
sách tiến bộ của Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp.
- Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam là
chống đế quốc và phong kiến không thay đổi. Nhưng mục tiêu trước mắt là

đấu chống chế độ phản động ở thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh,
đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình.
- Chủ trương tập hợp lực lượng: Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận
Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương. Nhằm đoàn kết các giai cấp, đảng
18


phái, đoàn thể chính trị, xã hội, dân tộc và tôn giáo khác nhau.
- Phương pháp đấu tranh: Kết hợp hình thức đấu tranh công khai và bí
mật, hợp pháp và bất hợp pháp, đấu tranh chính trị và đấu tranh hòa bình.
2. Chủ trương Hội nghị tháng 7/1936 đã khắc phục những hạn chế trong
Luận cương tháng 10/1930
- Về nhiệm vụ cách mạng:
+ Luận cương chính trị của Đảng (10/1930) là đánh đổ đế quốc và đánh đổ
phong kiến. Như vậy, Luận cương chưa nêu được mâu thuẫn chủ yếu của xã
hội Đông Dương, không đưa được ngọn cờ dân tộc lên hàng đầu mà nặng về
đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất.
+ Hội nghị tháng 7/1936 xác định nhiệm vụ là chống chế độ phản động
thuộc địa, chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hòa
bình. Như vậy, Hội nghị đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu
trước mắt và mục tiêu chiến lược của cách mạng, giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc, mối quan hệ giữa phong trào
cách mạng ở Đông Dương và phong trào cách mạng thế giới.
- Về lực lượng cách mạng:
+ Luận cương chính trị (10/1930) là công nhân và nông dân. Như vậy,
Luận cương đánh giá không đúng khả năng cách mạng của giai cấp tiểu tư sản,
khả năng chống đế quốc ở mức độ nhất định của giai cấp tư sản dân tộc, khả
năng lôi kéo một bộ phận trung, tiểu địa chủ tham gia mặt trận dân tộc thống
nhất chống đế quốc và tay sai.
+ Hội nghị tháng 7/1936 chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất nhân

dân phản đế Đông Dương. Như vậy, Hội nghị đã giải quyết đúng đắn mối quan
hệ giữa liên minh công nông và việc thành lập mặt trận để tập hợp lực lượng
rộng rãi.
Câu 2. Phân tích tính chất và ý nghĩa, bài học kinh nghiệm của phong
trào dân chủ 1936 – 1939. Theo em, bài học nào là quý báu nhất?
1. Tính chất và ý nghĩa
* Tính chất:
- Phong trào dân chủ 1936 – 1939 đề ra mục tiêu đòi tự do, dân sinh, dân
chủ, cơm áo, hòa bình. Mục tiêu này, tuy chứa đựng nội dung cải cách dân chủ
trong khuôn khổ chính quyền thực dân Pháp cho phép, nhưng nó là mục tiêu
cuối cùng của dân tộc, nó không phải là đấu tranh cải lương. Đây là phong trào
thực hiện chiến lược của cách mạng dân tộc, dân chủ ở Việt Nam.
- Phong trào dân chủ 1936 – 1939 là một phong trào cách mạng do Đảng
Cộng sản Đông Dương lãnh đạo, quán triệt chủ trương của Quốc tế Cộng sản,
diễn ra trên qui mô rộng lớn, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia, với
những hình thức tổ chức và đấu tranh phong phú; buộc chính quyền thực dân
19


phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ. Phong trào này là một
bộ phận của phong trào vô sản thế giới đấu tranh cho hòa bình, chống phát xít,
chống chiến tranh.
* Ý nghĩa:
- Quần chúng được giác ngộ về chính trị, được rèn luyện qua thực tiễn
đấu tranh, tham gia vào mặt trận dân tộc thống nhất và trở thành lực lượng
chính trị hùng hậu của cách mạng.
- Trình độ chính trị và công tác của cán bộ, đảng viên được nâng cao một
bước, đội ngũ đảng viên có sự phát triển về số lượng và trưởng thành.
- Qua lãnh đạo đấu tranh, uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng.
Đường lối đấu tranh của Đảng, chủ nghĩa Mác – Lênin được phổ biến, tuyên

truyền trong nhân dân. Đảng trưởng thành một bước về chỉ đạo chiến lược và
tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm quý báu.
- Các tổ chức của Đảng và mặt trận được củng cố và phát triển.
- Phong trào dân chủ 1936 – 1939 như một cuộc tập dượt, một bước
chuẩn bị lực lượng cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.
* Bài học kinh nghiệm:
- Phong trào dân chủ 1936 – 1939 để lại nhiều bài học về xây dựng Mặt
trận dân tộc thống nhất; về kết hợp các hình thức đấu tranh công khai, hợp
pháp, lợi dụng nhiều hình thức hợp pháp để đấu tranh công khai…
- Đồng thời, Đảng thấy được những hạn chế trong công tác mặt trận, vấn
đề dân tộc.
2. Kinh nghiệm quý báu nhất
- Đề ra đường lối cách mạng tiến công, triệt để lợi dụng khả năng hợp
pháp để động viên, giáo dục và tổ chức quân đội chính trị của quần chúng đấu
tranh trong một mặt trận dân chủ rộng rãi. Bởi vì, chỉ qua đấu tranh công khai,
qua báo chí, sách, những cuộc mít tinh, biểu tình, chủ nghĩa Mác – Lê-nin và
đường lối của Đảng mới được phổ biến sâu rộng trong nhân dân, qua đó thúc
đẩy phong trào phát triển.
4.3. Việt Nam từ năm 1939 đến năm 1945
Câu 1. Khái quát quá trình chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính
quyền tháng Tám năm 1945 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương và nhân dân Việt Nam.
1. Việc chuẩn bị lực lượng chính trị của Đảng
- Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (5/1941) đã quyết
định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) bao gồm các
tổ chức quần chúng lấy tên là Hội Cứu quốc, nhằm tập hợp mọi người Việt
Nam yêu nước không phân chia tôn giáo, đảng phái, nhằm chống đế quốc phát
xít Pháp – Nhật và tay sai, đấu tranh giải phóng dân tộc.

20



- Cao Bằng là nơi thí điểm cuộc vận động xây dựng các hội “Cứu
quốc” trong mặt trận Việt Minh. Đến năm 1942 khắp các châu ở Cao Bằng đều
có Hội cứu quốc trong đó có 3 châu “hoàn toàn” (Hoà An, Hà Quảng và
Nguyên Bình). Trên cơ sở đó, Uỷ ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và Uỷ ban
Việt Minh lâm thời Liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng được thành lập.
- Ở nhiều tỉnh thành Bắc Kỳ và Trung Kỳ, hầu hết các hội Phản đế
chuyển thành hội Cứu quốc, đồng thời nhiều hội Cứu quốc mới ra đời.
- Ở thành thị, Đảng tranh thủ tập hợp rộng rãi các tầng lớp học sinh, sinh
viên, trí thức, tư sản dân tộc và mặt trận cứu quốc. Năm 1943 bản Đề cương
văn hoá Việt Nam ra đời. Năm 1944, Đảng dân chủ Việt Nam và Hội văn
hoá cứu quốc Việt Nam được thành lập, đứng trong hàng ngũ Việt Minh.
- Ngoài ra, Đảng cũng chú trọng công tác vận động binh lính người Việt
trong quân đội Pháp, những ngoại kiều ở Đông Dương chống phát xít.
- Báo chí của Đảng và của mặt trận Việt Minh như báo Giải Phóng, Cờ
giải phóng, Cứu quốc…đã góp phần vào việc tuyên truyền đường lối chính
sách của Đảng, hướng dẫn quần chúng đấu tranh chống thủ đoạn chính trị, văn
hóa của chúng.
2. Việc chuẩn bị về lực lượng vũ trang
- Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần
thứ 8 (5/1941) đã xác định hình thái của khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam là đi
từ khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa, coi chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm
vụ trung tâm của toàn Đảng toàn dân.
- Sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (11/1940), lực lượng vũ trang Bắc Sơn
được duy trì để làm vốn quân sự cho cách mạng. Bước sang năm 1941 những
đội du kích ở khu căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai lớn mạnh lên và thống nhất thành
Trung đội cứu quốc quân I (14/2/1941). Cứu quốc quân phát động chiến tranh
du kích trong 8 tháng (từ tháng 7/1941 đến tháng 2/1942). Ngày 15/9/1941,
Trung đội cứu quốc quân II ra đời.

- Ở Cao Bằng, trên cơ sở lực lượng chính trị phát triển mạnh, các đội tự
vệ cứu quốc ra đời. Cuối năm 1941, Nguyễn Ái Quốc chỉ thị thành lập đội tự
vệ gồm 12 chiến sĩ, làm các nhiệm vụ: bảo vệ cơ quan đầu não, giao thông liên
lạc và huấn luyện tự vệ cứu quốc. Người biên soạn nhiều tài liệu để huấn luyện
cán bộ quân sự như Cách đánh du kích, Kinh nghiệm du kích Nga, Kinh
nghiệm du kích Tàu…
- Ngày 22/12/1944, thực hiện chỉ thị của Nguyễn Ái Quốc, Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, lúc đầu có 34 chiến sĩ, do Võ
Nguyên Giáp chỉ huy. Sau khi ra đời, đội đánh thắng hai trận liên tiếp ở Phai
Khắt và Nà Ngần.

21


- Tháng 4/1945, Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ quyết định thống
nhất lực lượng vũ trang, phát triển lực lượng bán vũ trang, mở trường đào tạo
cấp tốc cán bộ quân sự và chính trị, tích cực phát triển chiến tranh du kích.
- Ngày 15/5/1945, Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền giải phóng
quân được thống nhất thành Việt Nam Giải phóng quân.
- Lực lượng nửa vũ trang cũng được xây dựng rộng khắp, ở cả nông thôn
và thành thị, gồm các đội du kích, tự vệ và tự vệ chiến đấu.
3. Chuẩn bị căn cứ địa
- Rút kinh nghiệm từ trong phong trào 1930 – 1931 và 1936 – 1939, cách
mạng cần thiết có những địa bàn thuận lợi đảm bảo sự an toàn cho các tổ chức
cách mạng, các cơ quan lãnh đạo hoạt động, lãnh đạo phong trào cách mạng.
- Năm 1940, sau cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Vùng Bắc Sơn – Võ Nhai
được xây dựng thành một trung tâm căn cứ địa, gắn liền với sự ra đời và hoạt
động của lực lượng vũ trang Bắc Sơn. Năm 1941 Nguyển Ái Quốc về nước,
trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa.
Cao Bằng cùng căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai là hai căn cứ địa đầu tiên của cách

mạng Việt Nam.
- Năm 1943, Uỷ ban Việt Minh Liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng lập ra 19
ban “xung phong Nam tiến” để phát triển lực lượng xuống các tỉnh miền xuôi.
- Trong những vùng căn cứ cách mạng diễn ra các hoạt động sản xuất,
xây dựng, chiến đấu, hoạt động của các đoàn thể cứu quốc và lực lượng
vũ trang.
- Ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị thành lập Uỷ ban Dân tộc
giải phóng Việt Nam và Ủy ban dân tộc giải phóng các cấp. Nhiều chiến khu
của Trung ương và khu căn cứ của địa phương được xây dựng.
- Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh rời Pác Bó (Cao Bằng) về Tân Trào (Tuyên
Quang). Người chọn Tân Trào làm trung tâm chỉ đạo cách mạng của cả nước.
- Tháng 6/1945, Khu giải phóng Việt Bắc chính thức được thành lập,
thực hiện 10 chính sách lớn của Việt Minh. Đó là căn cứ địa chung của cách
mạng cả nước, là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới trong tương lai.
Tân Trào là thủ đô Khu giải phóng. Uỷ ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng
được thành lập.
- Công cuộc chuẩn bị được tiến hành chu đáo. Toàn Đảng, toàn dân sẵn
sàng đón chờ thời cơ vùng dậy Tổng khởi nghĩa.
Câu 2. Vì sao Nguyễn Ái Quốc và Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương lại quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập
đồng minh? Phân tích vai trò của Mặt trận đó đối với Tổng khởi nghĩa
tháng Tám năm 1945.
1. Việc thành lập mặt trận Việt Minh, bởi vì:
22


- Căn cứ vào yêu cầu giải phóng dân tộc:
+ Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và ngày càng lan rộng,
ảnh hưởng đến tình hình các nước thuộc địa. Tháng 9/1940 Nhật vào Đông
Dương, nhân dân Đông Dương chịu hai tầng áp bức Pháp – Nhật. Mâu thuẫn giữa

dân tộc Việt Nam với đế quốc - phát xít Pháp - Nhật và tay sai phát triển gay gắt.
+ Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt ra cấp thiết, cần phải tập hợp lực
lượng toàn dân tộc, huy động sức mạnh toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giành độc
lập tự do.
- Căn cứ vào đặc điểm xứ Đông Dương thuộc địa và hoàn cảnh thế giới:
+ Đông Dương có ba quốc gia dân tộc Việt Nam, Campuchia và Lào, chung
kẻ thù là đế quốc phát xít và tay sai. Hội nghị tháng 11/1939, Đảng đã thành lập
Mặt trận phản đế Đông Dương, bao gồm các tổ chức cách mạng là hội Phản đế.
+ Mỗi quốc gia dân tộc ở Đông Dương có những đặc điểm riêng về lịch
sử, văn hóa, tập quán... vì vậy cần quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng
nước Đông Dương chống kẻ thù chung là Pháp – Nhật và tay sai, giành độc lập
cho mỗi dân tộc. Trên cơ sở đó thực hiện đoàn kết các dân tộc ở Đông Dương.
+ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (5/1941) quyết định
thành lập ở mỗi nước một mặt trận riêng. Ở Việt Nam thành lập Việt Nam độc
lập đồng minh với các đoàn thể quần chúng mang tên hội Cứu quốc.
2. Vai trò
- Chương trình Việt Minh đáp ứng nguyện vọng cứu nước của mọi giới đồng
bào, vì thế Việt Minh là nơi tập hợp, giác ngộ và rèn luyện lực lượng chính trị
lực lượng cơ bản và giữ vai trò quyết định trong Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền tháng Tám năm 1945, đồng thời cô lập cao độ kẻ thù đế quốc xâm lược và
tay sai để chĩa mũi nhọn đấu tranh vào chúng.
- Việt Minh tạo cơ sở chính trị vững chắc để từng bước xây dựng lực lượng vũ
trang cách mạng. Lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đều là cơ sở của bạo
lực cách mạng, là điều kiện để phát động một cuộc tổng khởi nghĩa toàn dân, với
sự kết hợp hai hình thức đấu tranh: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
- Việt minh cũng tích cực tham gia xây dựng căn cứ địa cách mạng. Tháng
6/1945, khu giải phóng Việt Bắc ra đời, 10 chính sách của Việt Minh được ban
bố góp phần vào xây dựng Việt Bắc thành hình ảnh thu nhỏ của nước Việt
Nam mới.
- Tổng bộ Việt Minh cùng với Trung ương Đảng đã huy động toàn bộ dân

tộc, ra sức chuẩn bị lực lượng về mọi mặt, lãnh đạo nhân dân đánh Pháp đuổi
Nhật, đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trong cả nước lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (2/9/1945).
- Tổ chức của Mặt trận Việt Minh còn là cơ sở để thực hiện đoàn kết lực lượng
toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chế độ dân chủ cộng hoà (từ
23


tháng 9/1945 đến trước ngày 19/12/1946), cũng như trong sự nghiệp kháng chiến,
kiến quốc 1946 - 1951
Câu 3. Phân tích nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cách mạng
tháng Tám năm 1945. Có đúng hay không khi nói rằng cuộc Cách mạng tháng
Tám năm 1945 là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc? Vì sao?
1. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử
* Nguyên nhân thắng lợi
Cách mạng tháng Tám thắng lợi là kết quả tổng hợp của những nhân tố khách
quan và chủ quan.
- Nguyên nhân khách quan:
+ Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai đã làm cho chủ nghĩa đế quốc suy yếu.
Cuộc chiến đấu của nhân dân Liên Xô và lực lượng dân chủ đã từng bước làm thất
bại lực lượng phát xít, thúc đẩy các dân tộc thuộc địa đứng lên giải phóng.
+ Khi quân Đồng minh chiến thắng phát xít Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc,
Nhật Bản đầu hàng không điều kiện, phát xít Nhật ở Đông Dương và Chính phủ
tay sai của chúng hoang mang tê liệt. Đó là thời cơ “ngàn năm có một” cho nhân
dân Việt Nam đứng lên Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi nhanh chóng, ít đổ máu.
- Nguyên nhân chủ quan:
+ Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước nồng nàn, từng trải qua
những cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất cho độc lập, tự do. Vì vậy, khi Đảng
Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh giương cao ngọn cờ cứu nước thì
toàn dân nhất tề đứng lên cứu nước, cứu nhà.

+ Có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Hồ Chí
Minh, đã đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo. Đảng đã có quá trình chuẩn bị lâu dài,
chu đáo, rút kinh nghiệm qua thực tiễn đấu tranh, đặc biệt là lãnh đạo chuẩn bị lực
lượng chính trị, lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng trong giai đoạn vận
động giải phóng dân tộc 1939 – 1945. Các cấp bộ Đảng và Việt Minh từ Trung
ương đến địa phương linh hoạt, sáng tạo chỉ đạo khởi nghĩa, chớp thời cơ phát
động quần chúng nổi dậy giành chính quyền.
* Ý nghĩa lịch sử
- Đối với trong nước:
+ Mở ra bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam, là cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc điển hình giành thắng lợi, phá tan xiềng xích nô lệ của Pháp hơn
80 năm và phát xít Nhật gần 5 năm, chấm dứt chế độ phong kiến, lập nên Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một
nước độc lập, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất
nước.
+ Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của
cách mạng Việt Nam, mở đầu kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc: Kỷ nguyên độc
24


lập, tự do, kỷ nguyên nhân dân nắm chính quyền, làm chủ đất nước, kỷ nguyên giải
phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội, giải phóng nhân dân lao động.
+ Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật, trở thành một
Đảng cầm quyền và hoạt động công khai, từ hoạt động bất hợp pháp, trở thành
đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước.
- Đối với thế giới:
+ Thắng lợi Cách mạng tháng Tám là thắng lợi đầu tiên trong thời đại mới
một dân tộc nhỏ yếu tự giải phóng khỏi ách thực dân đế quốc và là thắng lợi đầu
tiên của Đảng vô sản ở nước thuộc địa, giành được chính quyền cách mạng trong
cả nước. Do đó, Cách mạng tháng Tám góp phần cổ vũ các dân tộc thuộc địa trong

cuộc đấu tranh tự giải phóng; có ảnh hưởng trực tiếp đến cách mạng Lào và
Campuchia.
+ Góp phần vào thắng lợi của cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít;
chọc thủng hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, góp phần làm suy yếu
chúng, tạo điều kiện để.
2. Tính chất
- Tính chất của cuộc cách mạng được quy định bởi nhiệm vụ mà nó giải
quyết, lực lượng tham gia và kết quả mà nó mang lại. Cách mạng tháng Tám năm
1945 là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, bởi vì:
- Về nhiệm vụ cách mạng:
+ Tại các Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11/1939) và Hội nghị Trung ương
lần thứ 8 (5/1941), Đảng đã nhấn mạnh mâu thuẫn dân tộc Việt Nam với đế quốc –
phát xít xâm lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
+ Lực lượng cách mạng: Đảng chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân tộc
chống đế quốc – phát xít trong các tổ chức mặt trận như Mặt trận phản đế Đông
Dương, Mặt trận Việt Minh.
- Chính quyền giành được là chính quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa – nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, giải quyết thành công
vấn đề cơ bản của cuộc khởi nghĩa là vấn đề chính quyền.
Câu 4. Nêu những bài học của Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho
Đảng và cách mạng Việt Nam. Từ đó em hãy nêu suy nghĩ về việc bảo vệ chủ
quyền Tổ quốc hiện nay.
1. Bài học kinh nghiệm
- Về chỉ đạo chiến lược:
+ Đảng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam,
nắm bắt diễn biến tình hình thế giới và trong nước để thay đổi chủ trương cho phù
hợp.
+ Trên cơ sở nắm vững nguyên lý về mối quan hệ giai cấp và dân tộc, luôn đề
cao vấn đề dân tộc, tập trung mọi lực lượng của toàn dân tộc chống đế quốc và tay
25



×