Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Vai trò của bí thư đảng ủy phường, xã trong hệ thống chính trị cơ sở ở thị xã bỉm sơn, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.84 KB, 86 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN VINH QUANG

VAI TRÒ CỦA BÍ THƯ ĐẢNG ỦY PHƯỜNG,
XÃ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở
THỊ XÃ BỈM SƠN, TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An, 2014


2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN VINH QUANG

VAI TRÒ CỦA BÍ THƯ ĐẢNG ỦY PHƯỜNG,
XÃ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở
THỊ XÃ BỈM SƠN, TỈNH THANH HÓA

CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC
MÃ SỐ: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn: PGG. TS. Đoàn Minh Duệ



Nghệ An, 2014


3

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành tới PGS.TS.GVCC. Đoàn Minh Duệ, người đã định hướng đề tài và
tận tình giúp đỡ, động viên chúng tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận
văn.
Xin cảm ơn TS Đinh Thế Định - Trưởng Khoa GDCT và các thầy cô
giáo Khoa GDCT, các thầy cô giáo Trường Đại học Vinh vì sự giúp đỡ nhiệt
tình trong suốt quá trình học tập và có những đóng góp quý báu giúp chúng
tôi hoàn chỉnh đề cương luận văn.
Xin cảm ơn Thường trực Thị ủy, Ban Tổ chức Thị ủy Bỉm Sơn,
Thường trực các đảng ủy phường, xã thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hoá, gia
đình, bạn bè, đồng nghiệp đã nhiệt tình ủng hộ, khích lệ.
Chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô, ban ngành
và đồng nghiệp để kết quả nghiên cứu của luận văn được triển khai thực sự
hiệu quả trong thực tế.
Xin chân thành cám ơn!
Vinh, tháng 9 năm 2014
Học viên

Nguyễn Vinh Quang


4


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CC

Cao cấp

CN

Cử nhân

CNH

Công nghiệp hóa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CT-XH

Chính trị - xã hội

HĐH

Hiện đại hóa

HĐND

Hội đồng nhân dân

HTCT


Hệ thống chính trị

MTTQ

Mặt trận tổ quốc

NQ

Nghị quyết

TC

Trung cấp

TCCT

Trung cấp chính trị

TSVM

Trong sạch vững mạnh

THPT

Trung học phổ thông

UBND

Ủy ban nhân dân


XH

Xã hội

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


5
MỤC LỤC

Trang
A. MỞ ĐẦU
5
B. NỘI DUNG
13
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA BÍ THƯ ĐẢNG ỦY
13
PHƯỜNG, XÃ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ
1.1. Một số khái niệm
1.2. Vai trò của Bí thư đảng ủy phường, xã trong hệ thống chính trị cơ sở
Kết luận chương 1
Chương 2. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA BÍ THƯ ĐẢNG ỦY

13
18
34


PHƯỜNG, XÃ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở THỊ XÃ

35

BỈM SƠN, TỈNH THANH HÓA
2.1. Khái quát về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của thị xã Bỉm Sơn,
tỉnh Thanh Hóa
2.2. Thực trạng hoạt động, khẳng định vai trò của Bí thư đảng ủy phường,
xã ở thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
Kết luận chương 2
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA BÍ THƯ ĐẢNG ỦY PHƯỜNG, XÃ TRONG
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở THỊ XÃ BỈM SƠN, TỈNH THANH
HÓA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Phương hướng nâng cao vai trò của Bí thư đảng ủy phường, xã trong
hệ thống chính trị cơ sở ở thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa
3.2. Một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Bí thư đảng

35
38
46
47

47

ủy phường, xã trong hệ thống chính trị cơ sở thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh

59

Hóa trong giai đoạn hiện nay

Kết luận chương 3
C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

79
80
83

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng: Cán bộ giữ vị trí,
vai trò rấ quan trọng, là một nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Chủ


6
tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc;
công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [19; 269].
Trong cách mạng giải phóng dân tộc, do làm tốt công tác cán bộ, Đảng
ta đã có được đội ngũ cán bộ có đạo đức cách mạng và bản lĩnh chính trị vững
vàng, có năng lực tổ chức thực tiễn ngang tầm nhiệm vụ. Đội ngũ cán bộ các
cấp đã đưa chủ trương, đường lối của Đảng thâm nhập vào quần chúng, tổ
chức, lãnh đạo quần chúng vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chiến đấu anh
dũng, làm nên thắng lợi lịch sử của cách mạng tháng Tám và hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, giành độc lập, tự do cho
dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên CNXH.
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, việc đổi mới hệ thống
chính trị (HTCT) là nhiệm vụ rất quan trọng. Nhiệm vụ hệ trọng đó đã được
Đảng ta khẳng định hoàn thiện tổ chức bộ máy của HTCT trong điều kiện một
Đảng duy nhất cầm quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế là việc hết sức quan trọng,

phức tạp, chúng ta phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm để điều chỉnh, bổ sung,
hoàn thiện. Nhiều vấn đề về nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng cầm
quyền, về tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân, về quyền làm chủ của nhân dân còn chưa được làm
sáng tỏ. Nhận thấy việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đóng vai
trò hết sức quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Hội nghị
Trung ương lần thứ 5, khoá IX đã ra Nghị quyết "Về đổi mới và nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị ở cơ sở". Nghị quyết đã chỉ ra nhiệm vụ xây dựng
đội ngũ cán bộ ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay là: "Xây dựng đội ngũ cán bộ
ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tuỵ với dân, biết phát
huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân" [4; 167- 168]. Hội nghị
lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã ra kết luận số 64 ngày


7
28/5/2013 “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ
Trung ương đến cơ sở” với mục tiêu: “Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị
từ Trung ương đến cơ sở nhằm xây dựng tổ chức bộ máy đồng bộ, tinh gọn,
có tính ổn định, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ; xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức có số lượng hợp lý, có phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng
lực chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao, đáp ứng được yêu cầu thực hiện
nhiệm vụ chính trị và có tiền lương, thu nhập bảo đảm cuộc sống”.
Bí thư đảng ủy là cán bộ chuyên trách công tác Đảng ở Đảng bộ, có
trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
Đảng bộ, cùng tập thể đảng ủy lãnh đạo toàn diện đối với HTCT ở cơ sở trong
việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà
nước trên địa bàn xã, phường, thị trấn. Vì vậy, Bí thư đảng ủy phải nêu cao
vai trò, trách nhiệm của cá nhân trong việc triển khai thực hiện các công việc
của Đảng, gương mẫu chấp hành các chỉ thị, nghị quyết, các chủ trương của

Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, các quyết định của tổ chức.
Thị xã Bỉm Sơn là đô thị công nghiệp, hạt nhân vùng kinh tế động lực
phía Bắc của tỉnh Thanh Hoá. Với mục tiêu của Đại hội Đảng bộ thị xã khóa
IX nhiệm kỳ 2010- 2015 là: “Tích cực thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khai thác tiềm năng, thế mạnh; phát huy
mọi nguồn lực để phát triển công nghiệp, dịch vụ với tốc độ tăng trưởng cao
và bền vững, nông nghiệp và nông thôn phát triển vững chắc. Đẩy nhanh tốc
độ xây dựng, chỉnh trang phát triển đô thị theo hướng hiện đại. Không ngừng
nâng cao chất lượng lĩnh vực văn hoá - xã hội; giữ vững và tăng cường quốc
phòng- an ninh; xây dựng HTCT vững mạnh. Phát triển thị xã thành đô thị
công nghiệp hiện đại, là hạt nhân vùng kinh tế động lực phía Bắc của tỉnh.
Phấn đấu đến 2015 trở thành đô thị loại 3”. Sự ổn định và phát triển của thị xã
một phần phụ thuộc vào sự ổn định của hệ thống các phường, xã. Việc chăm
lo cho sự phát triển của thị xã phải đặc biệt chú ý tới sự ổn định và phát triển


8
của hệ thống các phường, xã, nhất là phải quan tâm tới tâm tư, nguyện vọng,
việc làm, thu nhập, đời sống của nhân dân. (Trích NQ số 01-NQ/ĐH ngày
15/10/2010 của Đại hội Đảng bộ Thị xã Bỉm Sơn khóa IX).
Như vậy, quyền lực của nhân dân lao động có được đảm bảo hay không
chính là tuỳ thuộc chủ yếu ở HTCT có được đổi mới và hoàn thiện hay không.
Khi công cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu, Đảng ta chủ trương hướng
mạnh về cơ sở, quan tâm củng cố cơ sở xã hội của chính trị, đề cao các sáng
kiến và tính chủ động từ cơ sở. Đây cũng là thể hiện nhận thức mới của Đảng
về đổi mới HTCT. Những nguyên tắc, yêu cầu, nội dung, phương thức đổi
mới HTCT chi phối quá trình đổi mới HTCT cấp cơ sở và sự đổi mới HTCT
cấp cơ sở có tác động tích cực trở lại HTCT nói chung. Cơ sở (xã, phường, thị
trấn), trong đó xã là chủ yếu, chiếm tới 85% trong tổng số các đơn vị hành
chính cấp cơ sở, do vậy HTCT ở cơ sở giữ vị trí rất quan trọng trong HTCT

nước ta. HTCT cấp cơ sở trên địa bàn thị xã Bỉm Sơn trong thời gian qua
đang tiếp tục được củng cố, hoàn thiện nhằm phát huy quyền làm chủ của
nhân dân và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở một cách thực sự. Tuy nhiên
trong những năm gần đây, vấn đề bức xúc đã và đang đặt ra bởi HTCT ở cơ
sở trên địa bàn còn bộc lộ nhiều yếu kém như: hệ thống tổ chức vẫn chưa ổn
định; mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành HTCT còn nhiều bất cập; các
tổ chức còn lúng túng trong hình thức tổ chức và phương thức hoạt động...
chưa ngang tầm với yêu cầu thực tiễn hiện nay.
Đứng trước yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, tình hình đó
phải được khắc phục, phải được giải quyết. Việc đổi mới, hoàn thiện HTCT
trị cấp cơ sở ở trên địa bàn thị xã Bỉm Sơn là vấn đề rất quan trọng và cấp
thiết để đảm bảo sự ổn định, phát triển bền vững hoà nhập chung với tiến
trình phát triển của đất nước. Vì vậy, chúng tôi chọn vấn đề “Vai trò của Bí
thư đảng ủy phường, xã trong hệ thống chính trị cơ sở ở thị xã Bỉm Sơn,
tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài luận văn cao học Thạc sỹ.


9
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam vấn đề HTCT nói chung và HTCT các cấp từ trung ương
đến cơ sở đã được nghiên cứu nhiều. Đặc biệt là vấn đề xây dựng đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở cũng như xây dựng đội ngũ Bí thư đảng uỷ cấp cơ sở đã
được nhiều nhà lý luận, nhà khoa học, nhà quản lý quan tâm nghiên cứu trong
những năm qua, theo thời gian có thể tóm tắt tình hình nghiên cứu đó như
sau:
- GS. Nguyễn Đức Bình, GS. PTS. Trần Ngọc Hiên, GS. Đoàn Trọng
Truyến, Nguyễn Văn Thảo, PGS. PTS Trần Xuân Sầm (đồng chủ nhiệm),
“Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới”
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
- TS. Vũ Hoàng Công, “Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng

và giải pháp”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban
chấp hành Trung ương khoá IX về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- GS.TS. Hoàng Chí Bảo (chủ biên), “Hệ thống chính trị ở cơ sở nông
thôn nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
- Đề tài: Khoa học cấp nhà nước “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán
bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị đổi mới”, thuộc chương trình
KX- O5 do PGS,TS Trần Xuân Sầm làm chủ nhiệm (1999).
- TS. Chu Văn Thành (chủ biên), “Hệ thống chính trị cơ sở- Thực
trạng và một số giải pháp đổi mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước KXO5-11: “Xác định cơ cấu và tiêu
chuẩn cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở xã, phường, thị trấn”. (1993) do TS. Phan
văn Tích làm chủ nhiệm.


10
- Quyết định số 04/2004/QĐ- BNV ngày 16/01/2004 của Bộ trưởng Bộ
Nội vụ về việc ban hành quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức
xã, phường, thị trấn.
- Sở Nội vụ - Trường Chính trị Tỉnh Thanh Hóa: Tài liệu bồi dưỡng cán
bộ công chức cấp xã theo Quyết định 1956/QĐ-TTG ngày 27/11/2009 của
Thủ tướng Chính phủ.
- Chuyên đề “Hệ thống chính trị và đổi mới Hệ thống chính trị ở nước
ta hiện nay” của PGS, TS Nguyễn Văn Vĩnh; Giảng viên tại Học viện chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- "Xử lý đúng các mối quan hệ trong công tác cán bộ" của Hà Đăng,
Tạp chí Cộng sản, số 3, 2002, tr.21-24. Đây là tham luận tại Hội thảo khoa
học "Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh, huyện" do Tạp chí
Cộng sản phối hợp với Tỉnh ủy Hải Dương tổ chức tháng 1-2002. Trong bài,

tác giả nêu lên một số mối quan hệ và sự cần thiết phải xử lý đúng các mối
quan hệ đó trong công tác cán bộ: giữa đức và tài, giữa tiêu chuẩn và cơ cấu,
giữa năng lực thực tế và bằng cấp. Sau cùng, tác giả đưa ra kết luận: xử lý
đúng các mối quan hệ ấy thì công tác cán bộ mới trôi chảy. Đó không chỉ là
chuyện của Trung ương, mà cũng là chuyện của tỉnh, huyện (thiết nghĩ, đó
cũng là chuyện của công tác cán bộ nói chung) và nhiều bài đăng trên tạp chí
xây dựng Đảng, tạp chí Cộng Sản, Báo Nhân dân và các công trình khoa học
khác nghiên cứu chủ đề có liên quan đến HTCT
Trong các đề tài và bài viết liên quan đến vấn đề nghiên cứu, đáng chú
ý là các công trình: "Mẫu hình và con đường hình thành người cán bộ lãnh
đạo chính trị chủ chốt cấp cơ sở" của Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội,
1992; Đề tài nhánh KX.05-11-2005: "Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở" năm 1993 do TS Phan Văn Tích làm chủ nhiệm;
" Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước", Nxb CTQG, HN, 2001 do


11
PGS,TS Nguyễn Phú Trọng và PGS,TS Trần Xuân Sầm đồng chủ biên. Các
công trình này đã đi sâu phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về mẫu hình
người cán bộ lãnh đạo, những yêu cầu mới và những giải pháp mang tính tổng
quát nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
Phần lớn các công trình khoa học trên đây đều nghiên cứu HTCT hoặc
các chủ đề có liên quan đến HTCT nói chung. Các công trình khoa học trên
tiếp cận HTCT từ nhiều cách, nhiều góc độ khác nhau, nhưng tựu trung lại, các
nhà khoa học với tư cách là những chủ thể sáng tạo, nghiên cứu, khảo sát, phân
tích, khái quát nêu trên đều cố gắng giải quyết những vấn đề căn cốt của HTCT
với những mức độ khác nhau. Nhìn chung, các công trình nêu trên đã có
những luận giải có giá trị về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở,

HTCT cơ sở, trong đó có vấn đề xây dựng đội ngũ Bí thư đảng uỷ cấp xã,
phường theo các góc độ khác nhau. Nhưng, đến nay chưa có công trình nào
đi sâu nghiên cứu về vai trò Bí thư đảng uỷ cấp xã, phường, trong xây dựng
HTCT trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu HTCT ở cơ sở trên địa bàn thị xã Bỉm Sơn
với những nét đặc thù riêng của đô thị phía Bắc tỉnh Thanh Hóa thì chưa có
công trình khoa học nào dành riêng cho nó.
Tất cả những công trình nghiên cứu trước đây thực sự là những tư
tưởng quý giá đối với tác giả để tiếp cận và kế thừa có chọn lọc các công trình
nghiên cứu khoa học, về vấn đề này cùng với thực tiễn và việc khảo sát ở thị
xã Bỉm Sơn nói riêng làm cơ sở để tác giả hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu
của mình.


12
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn ở Đảng bộ Thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh
Hóa, luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của
đội ngũ Bí thư đảng ủy phường, xã trong HTCT.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc nâng cao vai trò Bí thư đảng ủy
phường, xã trong HTCT cơ sở hiện nay.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng HTCT, đội ngũ Bí thư đảng ủy phường, xã
của thị xã Bỉm Sơn và thực trạng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ này của thị xã,
chỉ ra những ưu khuyết điểm, nguyên nhân và những kinh nghiệm.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Bí thư
đảng ủy phường, xã ở thị xã Bỉm Sơn trong HTCT trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu vai trò của đội ngũ Bí thư đảng ủy phường, xã

trong HTCT cơ sở.
- Tập trung nghiên cứu vai trò của đội ngũ Bí thư đảng ủy phường, xã
trong HTCT cơ sở trên địa bàn thị xã Bỉm Sơn, từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Xây dựng Đảng và các quan điểm đường lối, chỉ
thị, của Đảng Cộng sản Việt Nam về HTCT, công tác đào tạo bồi dưỡng cán
bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt.
5.2. Cơ sở thực tiễn:
Kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học, kết hợp điều
tra, khảo sát, phân tích, tổng hợp về đội ngũ Bí thư đảng ủy phường, xã trong
HTCT và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ này của thị xã hiện nay.


13
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận mác - xít (duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử) kết hợp chặt chẽ phương pháp lôgíc và lịch
sử, điều tra, khảo sát, phân tích, tổng hợp và thống kê so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận: Góp phần làm rõ thêm một số nhận thức chung về HTCT
và vai trò của đội ngũ Bí thư đảng ủy ở cơ sở.
- Về thực tiễn: Trên cơ sở các luận cứ khoa học và khảo sát thực tiễn để
xác định rõ những vấn đề bức xúc đang đặt ra đối với HTCT ở cơ sở thị xã
Bỉm Sơn hiện nay. Đồng thời, luận văn góp tiếng nói khẳng định vai trò của
Bí thư đảng ủy vào việc hoàn thiện HTCT ở cơ sở trên địa bàn thị xã Bỉm Sơn
hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phục lục,
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết

Chương 1. Cơ sở lý luận về vai trò của Bí thư đảng ủy phường, xã
trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Chương 2. Thực trạng của vai trò Bí thư đảng ủy phường, xã trong hệ
thống chính trị cơ sở ở thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò
của Bí thư đảng ủy phường, xã trong hệ thống chính trị cơ sở ở thị xã Bỉm
Sơn, tỉnh Thanh Hóa hiện nay.


14
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA BÍ THƯ ĐẢNG ỦY PHƯỜNG,
XÃ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Bí thư đảng ủy xã, phường
Đảng ta khẳng định tại Chiến lược cán bộ đến năm 2020: “Cán bộ là
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác Xây dựng
Đảng”. V.I. Lênin đã khẳng định: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào
giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của
mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ
chức và lãnh đạo phong trào”. Là một chính đảng tiên phong cách mạng do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, hơn 80 năm qua, thấm nhuần lời
dạy của Người trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”: “Cán bộ là cái gốc của
công việc”. “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
“Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”, Đảng ta đã luôn coi trọng
vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ có chất lượng, nhất là đội ngũ cán bộ chủ
chốt của HTCT ở các cấp đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đang diễn ra

sâu sắc và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm thực
hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hóa đất nước, tiến đến mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh”, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ chủ chốt của
HTCT các cấp có chất lượng tốt. Trong đó, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
của HTCT cấp phường, xã là vấn đề rất quan trọng. Trong đội ngũ cán bộ đó
thì Bí thư đảng ủy phường, xã có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định mọi
hoạt động của HTCT cấp phường, xã và các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì


15
thế, xây dựng đội ngũ Bí thư đảng ủy phường, xã có chất lượng tốt đáp ứng
yêu cầu công cuộc đổi mới trong những năm tới là vấn đề rất cấp thiết.
- “Bí thư đảng ủy là cán bộ chuyên trách công tác Đảng ở Đảng bộ, chi
bộ (nơi chưa thành lập Đảng bộ) xã, phường, thị trấn, có trách nhiệm lãnh
đạo, chỉ đạo hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ,
cùng tập thể đảng uỷ, chi uỷ lãnh đạo toàn diện đối với hệ thống chính trị ở
cơ sở trong việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước trên địa bàn xã, phường, thị trấn [26; 3].
1.1.2. Hệ thống chính trị
HTCT là khái niệm của khoa học chính trị đương đại - là một trong
những khái niệm phản ánh đặc trưng của những quan hệ quyền lực chính trị;
cũng như các bộ phận, các nhân tố tham gia vào các quá trình, quy trình chính
trị trong thể chế chính trị dân chủ hiện đại (dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ
tư bản chủ nghĩa). Liên quan đến vấn đề này có nhiều quan niệm khác nhau:
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được
thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là
HTCT. HTCT là tổng thể các cơ quan, tổ chức nhà nước, đảng phái, đoàn thể
xã hội, nói chung là các lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa các lực
lượng đó, chi phối sự tồn tại và phát triển đời sống chính trị của một quốc gia,

thể hiện bản chất của chế độ chính trị quốc gia, con đường phát triển của xã
hội.
Cấu trúc của HTCT không chỉ là hệ thống các tổ chức và các quan hệ
về tổ chức mà còn là hệ thống các cấp độ và các quan hệ về cấp độ nhìn theo
hai chiều vận động từ dưới lên và từ trên xuống
Có các cấp độ của từng tổ chức (Đảng, Nhà nước, Mặt trật và các đoàn
thể) quy định vị trí, vai trò, chức trách, thẩm quyền của các cấp, của cấp trên
với cấp dưới trong phạm vi một tổ chức của sự tác động của bộ máy tương
ứng với từng cấp. HTCT được cấu tạo thành bởi các tổ chức nêu trên cũng có


16
cấp độ này, biểu hiện thành quan hệ tác động qua lại giữa Trung ương với địa
phương và cơ sở
Giữa các tổ chức lại hình thành quan hệ tác động lẫn nhau trong hệ
thống và trong từng cấp độ. Cụ thể, ở cấp Trung ương là quan hệ giữa Đảng
với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể. Ở cấp cơ sở là
quan hệ giữa Đảng bộ và chính quyền và Mặt trận cùng các đoàn thể trong
từng địa phương
Ở đây ta đang xem xét khái niệm cơ sở và HTCT ở cơ sở trên quan
điểm xã hội học chính trị và quản lý xã hội. Đây là những khái niệm xuất
phát, những khái niệm công cụ để nghiên cứu và đề xuất những giải pháp cải
cách HTCT, đặc biệt là HTCT ở cơ sở nước ta hiện nay. Cơ sở được lấy làm
đối tượng nghiên cứu ở đây không phải là một cơ sở đơn vị bất kỳ (gia đình,
cơ quan, công sở, trường học, bệnh viện, doanh nghiệp hay viện nghiên
cứu…) mà là cơ sở với tư cách là một cấp quản lý nhà nước trong hệ thống
quản lý hành chính nhà nước bốn cấp hiện hành. Cơ sở đó chính là xã phường - thị trấn, là cấp cơ sở của quản lý nhà nước. Phường, thị trấn là cấp
cơ sở đô thị, được đặc trưng bởi quản lý đô thị. Xã là cấp cơ sở ở khu vực
nông thôn, đây là cả một địa bàn rộng lớn, chiếm đa số trong tổng số đơn vị
cơ sở ở nước ta. Vì thế, nếu nói tới HTCT ở phường, xã chính là nói tới

HTCT ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay
Như vậy, HTCT ở xã, phường (cơ sở ở nông thôn) cũng bao gồm 3 bộ
phận cấu thành: Đảng. chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở
phường, xã. Mỗi bộ phận tồn tại với vai trò, chức năng riêng và có quan hệ
mật thiết với nhau, tạo thành hệ thống, quản lý và điều hành mọi hoạt động ở
phường, xã về các lĩnh vực của đời sống.
- “HTCT là tổng thể các tổ chức chính trị của xã hội được chính thức thừa
nhận về mặt pháp lý nhằm thực hiện quyền lực chính trị của xã hội đó. Hệ thống
này bao gồm Nhà nước, các Chính đảng, các Nghiệp đoàn và các tổ chức chính


17
trị khác - trong đó Nhà nước là yếu tố cơ bản, trung tâm” [25; 1].
- “HTCT là một cơ cấu, tổ chức bao gồm đảng phái chính trị, nhà nước,
các tổ chức chính trị - xã hội tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật
hiện hành (hệ thống pháp luật đó được chế định theo tư tưởng và lợi ích giai
cấp cầm quyền) nhằm duy trì, bảo vệ, và phát triển xã hội đó”[25; 1].
- “HTCT là hệ thống các tổ chức mà thông qua đó giai cấp thống trị
thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội. HTCT là một cơ cấu, tổ chức bao
gồm đảng phái chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội tồn tại và
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật hiện hành (hệ thống pháp luật đó được
chế định theo tư tưởng và lợi ích giai cấp cầm quyền) nhằm duy trì, bảo vệ, và
phát triển xã hội đó”[25; 1].
- “HTCT là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm
nhà nước, các đảng chính trị, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức chính trị xã hội hợp pháp, liên kết với nhau nhằm tác động vào mọi mặt của đời sống
xã hội để củng cố, duy trì và phát triển chế độ xã hội đương thời phù hợp với
lợi ích của chủ thể cầm quyền”[25; 1].
Trên quan điểm hệ thống trên HTCT là khái niệm dùng để chỉ một
chỉnh thể bao gồm các tổ chức như đảng chính trị, nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội (hợp pháp); với những quan hệ tác động qua lại giữa các

nhân tố đó trong việc tham gia vào các quá trình hoạch định và thực thi các
quyết sách chính trị nhằm bảo đảm quyền thống trị của giai cấp, lực lượng
cầm quyền, đồng thời đáp ứng nhu cầu ổn định và phát triển xã hội
Chính trị là một hiện tượng lịch sử, nó có quá trình ra đời, tồn tại và
mất đi. chính trị chỉ tồn tại khi xã hội có giai cấp và nhà nước. Nhưng không
phải khi chính trị xuất hiện thì khái niệm HTCT cũng xuất hiện. Khái niệm
HTCT ra đời sau khái niệm chính trị. Lịch sử tư tưởng chính trị phương Đông
và phương Tây trước Mác chưa có khái niệm HTCT. Các nhà kinh điển Chủ
nghĩa Mác vẫn chưa dùng khái niệm HTCT. Tuy nhiên nội dung sự hiểu biết


18
về HTCT đã được Mác, Ăngghen, Lênin diễn đạt bằng những phạm trù liên
quan như: hình thức chính trị, thiết chế chính trị, thể chế chính trị, cơ cấu
chính trị, kết cấu chính trị của xã hội hay tư tưởng chính trị và các thiết chế
tương ứng… Khái niệm HTCT ra đời ở thời kỳ hiện đại, nó là sự phản ánh
chính trị hiện đại. Mặc dù đến thời hiện đại, khái niệm HTCT mới ra đời,
nhưng sự hiểu biết về nó không kém phần đa dạng, phong phú đến mức mà
khó có thể thống kê hết được những sự hiểu biết đó. Chẳng hạn, ở các nước
xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, quan niệm phổ biến xem HTCT chỉ bao
gồm những tổ chức chính trị - xã hội mang bản chất của giai cấp cầm quyền
nhằm phục vụ cho quyền lực chính trị của giai cấp đó. Quan điểm này đã
đồng nhất phạm trù “hệ thống chính trị” với phạm trù “hệ thống chuyên chính
của giai cấp cầm quyền”. Từ đó, cho rằng HTCT trong chủ nghĩa tư bản chính
là hệ thống chuyên chính tư sản, còn HTCT chủ nghĩa xã hội là hệ thống
chuyên chính vô sản. ở Việt Nam trước và một số năm đầu đổi mới, chúng ta
chưa dùng khái niệm HTCT mà vẫn dùng một cách phổ biến khái niệm
chuyên chính vô sản để chỉ hệ thống và cơ cấu các cơ quan quyền lực lãnh
đạo và quản lý xã hội.
Căn cứ việc đáp ứng hai yêu cầu: Một là, phục vụ cho mục đích nhận thức

về hệ thống các tổ chức, thiết chế có vai trò thực tế và được thừa nhận trong việc
thực hiện quyền lực chính trị hoặc tham gia quyền lực chính trị một cách thường
xuyên. Hai là, phải đủ tính khái quát để không chỉ phản ánh hiện thực chính trị ở
một hay một nhóm nước mà còn phản ánh được hiện thực chính trị ở nhiều quốc
gia có chế độ chính trị- xã hội khác nhau. TS. Vũ Hoàng Công xác định: “HTCT
là một bộ phận của cấu trúc thượng tầng xã hội, bao gồm các tổ chức, các thiết
chế hợp pháp, có quan hệ về mục đích, chức năng thực hiện hoặc tham gia thực
hiện quyền lực chính trị” [3; 9]
Xem xét việc nghiên cứu HTCT mà thực chất là nghiên cứu hệ thống
các tổ chức, các thiết chế có quyền lực chính trị, hoặc tham gia vào quyền lực


19
chính trị, thì có khái niệm của tập thể tác giả của Viện Khoa học Chính trị Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đưa ra định nghĩa: “HTCT là một bộ
phận kiến trúc thượng tầng xã hội, bao gồm các tổ chức, các thiết chế có quan
hệ với nhau về mặt mục đích, chức năng trong việc thực hiện hoặc tham gia
thực hiện quyền lực chính trị, trong việc đưa ra các quyết định chính trị” [12;
289]
Kế thừa nhiều giá trị ở các quan niệm trên, dưới góc nhìn của chính trị
học theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, có thể hiểu HTCT là một phạm trù
thuộc kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ một chỉnh thể hệ thống các tổ chức,
các thiết chế chính trị - xã hội và các mối quan hệ giữa chúng với nhau trong
và giữa các cấp độ tổ chức và hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ hợp thành
cơ chế chính trị của một chế độ xã hội nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền
lực chính trị của giai cấp thống trị
1.2. Vai trò của Bí thư đảng ủy phường, xã trong hệ thống chính trị
cơ sở
1.2.1. Vai trò, đặc điểm của hệ thống chính trị ở cơ sở
* Vai trò HTCT ở cơ sở bao gồm xã, phường, thị trấn. Tính đến ngày
31 tháng 12 năm 2013, Việt Nam có 11.148 đơn vị hành chính cấp xã, bao

gồm 1.545 phường, 612 thị trấn và 8991 xã. Tỉnh Thanh Hóa là tỉnh có số
lượng xã, phường, thị trấn đông nhất cả nước với 637 xã, phường, thị trấn. Cả
nước có trên 1.270.000 cán bộ, công chức và những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã, phường, thị trấn và dưới xã, phường, thị trấn ; bình
quân một xã, phường, thị trấn có 114 người; trong đó số cán bộ công chức có
222.735 người, tăng 28.377 người so với năm 2002; bình quân một xã có 20
người.. Từ con số tuyệt đối đó, cấp cơ sở được gọi chung là cấp xã. Cơ sở là
cấp trực tiếp nhất trong hệ thống 4 cấp của quản lý hành chính ở nước ta hiện
nay
Cho đến thời điểm hiện nay, nước ta vẫn là một nước nông nghiệp với


20
địa bàn nông thôn rộng lớn. Việc đô thị hóa đang dần phát triển. Kinh tế nông
thôn chủ yếu vẫn là kinh tế nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp sản xuất nhỏ
và thuần nông ở từng hộ gia đình của nông thôn, lực lượng sản xuất còn chậm
phát triển. Quá trình phân công và phân công lại lao động xã hội còn đang
diễn ra, hơn 70% sức lao động và hơn 80% dân cư đang ở nông thôn. Nông
dân vẫn còn là diện mạo đặc trưng trong bức tranh cơ cấu xã hội - dân cư ở
nước ta. Tính đến ngày 01/11/2013 dân số nước ta đã tròn 90 triệu người và
khoảng 25 triệu hộ gia đình. Họ sinh sống và làm ăn ở trên 11.000 đơn vị cơ
sở (tính cả xã, phường và thị trấn)
Do đó, HTCT ở cơ sở, đặc biệt ở khu dân cư có một vị trí và vai trò rất
quan trọng đối với sự phát triển xã hội, đối với việc đảm bảo và giữ vững ổn
định chính trị - xã hội để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh
Nếu giữ vững ổn định chính trị - xã hội là tiền đề, là điều kiện tiên
quyết để thực hiện đổi mới và phát triển thì phải đặc biệt chú trọng và chăm lo
sự ổn định và phát triển ở cơ sở. Rõ ràng, nếu để sự yếu kém của HTCT ở cơ
sở địa phương xảy ra thì hệ quả tất yếu dẫn đến gây mất ổn định chính trị - xã

hội. Thực tế vừa qua ở nước ta càng cho thấy sự cần thiết, bức xúc của việc
củng cố, xây dựng và phát triển cơ sở đã đến lúc đặt ra phải có giải pháp kiện
toàn để tạo sự chuyển biến tích cực của HTCT ở cơ sở. Kinh nghiệm lịch sử
và bài học của ông cha ta về việc an dân, trị quốc, cũng như kinh nghiệm đấu
tranh cách mạng qua các thời kỳ do Đảng lãnh đạo đã cho thấy: việc yên dân,
lấy dân làm gốc có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự bền vững của chế độ.
Chính quyền trong lòng dân, cơ sở xã hội của chế độ là lòng dân, là sức mạnh
đồng thuận xã hội của dân chúng từ cơ sở. Do vậy để ổn định chính trị và phát
triển xã hội, nhất thiết phải sớm khắc phục những yếu kém của HTCT ở cơ
sở, phải xây dựng HTCT ở cơ sở trở thành HTCT thực sự của dân, do dân và
vì dân. Có một HTCT được lòng dân, được dân tin, dân yêu mến, dân giúp


21
đỡ, dân ủng hộ và dân bảo vệ từ cơ sở thì ổn định chính trị sẽ được đảm bảo,
mục tiêu của đổi mới sẽ được thực hiện thắng lợi
Như vậy, vai trò của HTCT ở cơ sở đối với sự ổn định chính trị và phát
triển kinh tế - xã hội là thực hiện tập trung nhất ở việc bảo đảm vai trò lãnh đạo
chính trị của Đảng, tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước theo đường lối
chính trị của Đảng đối với kinh tế, phát huy quyền làm chủ của nhân dân mọi
mặt trong đời sống thực tế
Dân chủ hoá đời sống xã hội từng địa phương, thực hiện có hiệu quả
quy chế dân chủ đối với trong dân và đưa Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5
- khoá IX về đổi mới và nâng cao chất lượng HTCT ở cơ sở xã, phường, thị
trấn vào cuộc sống - đó là giải pháp cơ bản, lâu dài để tạo ra ở một địa
phương, một cộng đồng xã hội đồng thuận, đoàn kết, dân chủ và ngày càng ổn
định, phát triển. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh về phong cách dân chủ của
Người: “Dân chủ và quyền làm chủ của dân phải trở thành một giá trị thực tế
chứ không phải một lời nói suông. Dân chỉ biết đến dân chủ, công bằng, bình
đẳng khi dân được ăn no, mặc ấm. Độc lập tự do phải tranh đấu mà có được

thì phải làm sao cho dân được ấm no, tự do, hạnh phúc. Đã tranh được tự do
độc lập rồi mà dân vẫn đói rét, cực khổ, lạc hậu thì độc lập tự do cũng chẳng
để làm gì. Thiết thực đến như vậy cho nên chúng ta phải làm ngay, làm cho
dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, được học hành tiến bộ,
được tự do đi lại, được chăm sóc sức khỏe, được hưởng quyền tự do, hạnh
phúc mà họ xứng đáng được hưởng. Đó là dân chủ thực chất để làm chủ thực
chất, không hình thức giả dối, cũng không phù phiếm giả tạo”
* Đặc điểm của hệ thống chính cơ sở
- Tính nhất nguyên chính trị: Chế độ chính trị Việt Nam là thể chế
chính trị một Đảng duy nhất cầm quyền. Trong những giai đoạn lịch sử nhất
định, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội.
Tuy nhiên, hai đảng này được tổ chức và hoạt động như những đồng minh


22
chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí
cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. HTCT ở Việt Nam là thế
chế nhất nguyên chính trị, không tồn tại các đảng chính trị đối lập
- Hệ thống chính trị Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt nam. Mỗi tổ chức thành viên của HTCT đều do
Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập, vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức
quyền lực của nhân dân (Nhà nước), tổ chức tập hợp, đoàn kết quần chúng,
đại diện cho ý chí và nguyện vọng của quần chúng (Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội), vừa là tổ chức mà qua đó Đảng Cộng sản thực hiện
sự lãnh đạo chính trị đối với xã hội
- Tính nhất nguyên chính của HTCT được thể hiện ở tính nhất nguyên
tư tưởng. Toàn bộ HTCT đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư
tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
- Tính thống nhất: HTCT Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính
chất, vị trí, vai trò, chức năng khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó

với nhau, tạo thành một thể thống nhất. Sự thống nhất của các thành viên đa
dạng, phong phú về tổ chức, phương thức hoạt động trong HTCT đã tạo điều
kiện để phát hiện sức mạnh tổng hợp và tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong
toàn bộ hệ thống
- Tính thống nhất của HTCT nước ta được xác định bởi các yếu tố:
+ Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng
Cộng sản Việt Nam
+ Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng
CNXH Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh
+ Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập
trung dân chủ
+ Sự thống nhất của hệ thống tổ chức từ Trung ương đến địa phương


23

- Gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân
dân: Đây là đặc điểm có tính nguyên tắc của HTCT Việt Nam. Đặc điểm này
khẳng định HTCT Việt Nam không chỉ gắn với chính trị, quyền lực chính trị,
mà còn gắn với xã hội. HTCT không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội. Cầu
nối quan trọng giữa HTCT với xã hội chính là Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội. Điều đó được thể hiện bởi các yếu tố sau:
+ Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của Đảng cầm quyền
+ Nhà nước là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
+ Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội là hình thức tập hợp,
tổ chức của chính các tầng lớp nhân dân.
+ HTCT là trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức trong HTCT
là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

- Đặc điểm nổi bật của HTCT Việt Nam là HTCT đại diện cho nhiều
giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân được đại diện bởi
các tổ chức thành viên trong HTCT, đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của giai
cấp công nhân. Do vậy, HTCT nước ta mang bản chất giai cấp công nhân và
tính dân tộc sâu sắc.
- Lịch sử nền chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp
gắn liền và bắt đầu từ mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân
tộc. Các giai cấp, dân tộc đoàn kết trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc
lập dân tộc, hợp tác để cùng phát triển. Sự tồn tại của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam với tư cách là thành viên quan trọng của HTCT là yếu tố quan trọng tăng
cường sự kết hợp giữa giai cấp và dân tộc.
- Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được khẳng định trong
bản chất của từng tổ chức thuộc HTCT. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao


24
động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Mục đích của Đảng là xây dựng
nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công CNXH và cuối
cùng là chủ nghĩa cộng sản. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH đã gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên sức mạnh
tổng hợp của toàn bộ HTCT.
- Từ thực tế đặc điểm HTCT nước ta hiện nay ta thấy. Trước đổi mới,
trong nền kinh tế hiện vật và kinh tế kế hoạch hóa với phương thức quản lý
hành chính mệnh lệnh theo cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chúng ta chỉ
nhìn nhận cơ sở như một cấp quản lý hành chính thấp nhất, cuối cùng trong
hệ thống 4 cấp. Theo cách nhìn này, cơ sở không chỉ thấp nhất mà còn là nhỏ

nhất, nên nói tới cơ sở thường chỉ thấy đó là một vi mô, trong khi cấp Trung
ương, toàn quốc mới là cái vĩ mô.
- Nếu xét theo cấp độ quản lý và nhìn về lượng (quy mô diện tích, quy
mô dân số và dân cư, mức độ làm ra của cải vật chất, tính chất và lĩnh vực
hoạt động) thì cách hiểu về cơ sở như đã nêu trên là không có gì sai. Song đó
mới chỉ là một phương diện của vấn đề cần bàn nhưng chưa đầy đủ.
- Hơn nữa, cách nhìn từ trên xuống, lâu dần theo thói quen, tiền lệ khó
thay đổi hình thành trong tư duy quản lý là tính chất hành chính quan liêu,
như: quen dùng chỉ thị, mệnh lệnh từ trên đã áp đặt xuống cơ sở, biến cơ sở
trở thành thụ động, trì trệ làm mất đi tính năng động, sinh động và đa dạng
phong phú ở cơ sở, Vì cơ sở vốn là nơi diễn ra mọi hoạt động đời sống của
dân, việc làm của dân, là thái độ và hành vi ứng xử của dân chúng đối với cấp
chính quyền, mọi quan hệ xã hội. Cách nhìn từ trên xuống một cách quan liêu
- hành chính như vậy, đã tạo ra khoảng cách biệt rất lớn giữa Trung ương với
cơ sở, nếu có đi cơ sở cũng chỉ mang hình thức và chiếu lệ, tuỳ thuộc vào


25
trách nhiệm công việc hay phong cách dân chủ, thái độ và tình cảm đạo đức
với dân của cán bộ cấp trên chứ không mang tính pháp lý bắt buộc được bảo
đảm bởi chế tài, bởi kiểm tra và giám sát.
- Khi hệ thống thể chế hành chính quan liêu bị xơ cứng bởi các tầng
nấc, giấy tờ, công văn, chỉ thị của các cấp trên; bởi cả những khó khăn, trở
ngại về giao thông đi lại do hạ tầng cơ sở kém phát triển, bởi thiếu thông tin,
không có thói quen cập nhật thông tin từ cơ sở của đội ngũ công chức, viên
chức quan liêu. Cơ sở nông thôn miền núi, với những làng bản xa xôi gần như
cách biệt, thậm chí không ít nơi bị bỏ quên, bị lãng quên, không được đầu tư,
chăm sóc, không được quan tâm để nó diễn ra một cách tự phát. Những cơ sở
loại đó vốn đã lạc hậu, khó khăn, chậm phát triển lại càng trở nên khu vực đặc
biệt khó khăn hơn.

- Cái thấp nhất, nhỏ nhất trong quản lý không bao giờ được đồng nhất
với tính chất kém quan trọng hơn, ít quan trọng hơn so với những cái cao hơn,
lớn hơn. Tư duy so sánh hình thức ở đây đem áp dụng cho vị trí, vị thế của cơ
sở là một sai lầm đã từng xảy ra khi nhận thức về cơ sở và ứng xử với cơ sở.
Do đó, nhận thức trước đây về cơ sở còn nhiều điểm chưa đúng và chưa chính
xác về đặc điểm, vai trò của cơ sở trong đời sống xã hội cũng như trong hoạt
động lãnh đạo và quản lý ở cơ sở. Tồn tại này cần sớm được khắc phục để vị
trí và tầm quan trọng của cơ sở được khẳng định trong thực tế đúng như bản
thân nó vốn có. Chính thực tiễn đổi mới, nhất là khi đi vào kinh tế thị trường
và đặc biệt khi Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế
giới WTO thì việc vận động dân chủ hoá ngày nay đã mở ra nhiều vấn đề về
cơ sở, đòi hỏi phải đổi mới nhận thức về nó.
- Về phương diện nhận thức quản lý, không phải vì cơ sở là cấp thấp
nhất nên đội ngũ cán bộ cơ sở bố trí thế nào cũng được. Hiện trạng đội ngũ
cán bộ cơ sở phường, xã hiện nay, đang yếu kém, bất cập, phần lớn không
được đào tạo, không có chính sách, chế độ ổn định, hợp lý là hậu quả của


×