Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ THỊ XÃ HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.03 MB, 131 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HỒ THỊ HỒNG CÚC

NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ
THỊ XÃ HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

TP Hồ Chí Minh, năm 2012


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_________
HỒ THỊ HỒNG CÚC

NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ
THỊ XÃ HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Chuyên ngành: LL&PPDH BỘ MÔN CHÍNH TRỊ


Mã số: 60. 14. 10
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN LƯƠNG BẰNG

TP Hồ Chí Minh, năm 2012


3
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn Thạc sĩ, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Phòng Sau Đại học, Khoa Giáo dục Chính trị Trường Đại học Vinh và Trường
Đại học Sài Gòn đã tạo điều kiện thuận lợi trong thời gian tôi học Cao học. Bên
cạnh đó, tôi cũng xin cảm ơn thầy, cô trường Đại học Vinh đã nhiệt tình giảng
dạy và cung cấp cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong suốt quá trình tôi học tập
Chuyên ngành Lý luận & Phương pháp dạy học Bộ môn Chính trị tại Trường
Đại học Sài Gòn.
Tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn Lương Bằng, Phó
Trưởng khoa Kinh tế Trường Đại học Vinh đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Đồng thời, tôi cũng xin chân trọng cảm ơn Thị ủy, Ủy ban nhân dân,
Trung tâm BDCT, Phòng Kinh tế Thị xã Hồng Ngự, Đảng ủy các xã, phường,
Chị Trần Thanh Nga (nguyên UVTV Trưởng BTG Huyện ủy Tân Hồng), bạn bè
trong và ngoài lớp đã nhiệt tình hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi trong việc khảo
sát, thu thập dữ liệu, hình ảnh, đóng góp nhiều ý kiến và những kinh nghiệm quý
báu để giúp tôi thực hiện công trình nghiên cứu đề tài của mình; cảm ơn sự quan
tâm của lãnh đạo Ban Dân vận Thị ủy và gia đình đã động viên, tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập.
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng, nhưng luận văn chắc còn nhiều thiếu sót,
với ý thức luôn tự học hỏi và nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học, tôi rất
mong được sự góp ý của quý thầy, cô và các bạn.
Thị xã Hồng Ngự, 2012


Hồ Thị Hồng Cúc


4
MỤC LỤC
Trang
A MỞ ĐẦU…………………………………………………...
B NỘI DUNG………………………………………………...
Chương 1 Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ

1
8

cấp cơ sở thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp trong giai
đoạn hiện nay là một tất yếu khách quan……………….
1.1. Khái niệm lý luận chính trị và giáo dục lý luận chính trị cho

8

cán bộ cấp cơ sở………………………………………..
1.2. Vai trò và yêu cầu của việc nâng cao trình độ lý luận chính

8

trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở trong giai đoạn hiện nay……..
1.3. Thực trạng công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ
cán bộ cấp cơ sở thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp………
Kết luận Chương 1………………………………………..
Chương 2 Quan điểm và giải pháp nâng cao trình độ lý luận chính

trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trong giai đoạn hiện nay
2.1. Quan điểm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ

26
38
63
64

cán bộ cấp cơ sở ở thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp trong
giai đoạn hiện nay……………………………………
2.2. Giải pháp nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán

64

bộ cấp cơ sở Thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp trong giai
đoạn hiện nay……………………………...
Kết luận Chương 2………………………………………..
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ…………………………….
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO……………
E. CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
F. PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
1

Chữ viết tắt
BDCT

Nội dung

Bồi dưỡng chính trị

77
108
110
114
118
119


5
2
3
4
5
6
7

LLCT
CNH, HĐH
GCCN
GCVS
CNXH
XHCN

Lý luận chính trị
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Giai cấp công nhân
Giai cấp vô sản
Chủ nghĩa xã hội

Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1.
Bảng 1.2.
Bảng 1.3.
Bảng 1.4.
Bảng 1.5.
Bảng 1.6.

Phân bổ dân cư theo từng xã, phường
Cơ cấu đội ngũ cán bộ lãnh đạo xã, phường
Cơ cấu độ tuổi cán bộ lãnh đạo xã, phường
Trình độ CMNV của cán bộ lãnh đạo xã, phường
Trình độ LLCT của cán bộ lãnh đạo xã, phường
Hình thức đào tạo LLCT cho cán bộ lãnh đạo xã, phường

Trang
40
46
47
48
49
53


6
Bảng 1.7. Phương pháp giảng dạy của giảng viên
Bảng 1.8. Giáo dục LLCT cho MTTQ và các đoàn thể xã, phường

Bảng 2.9. Hình thức đào tạo học viên chọn

54
60
94

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu 1.1. So sánh dân số giữa thành thị và nông thôn
Biểu 1.2. So sánh độ tuổi của cán bộ chủ chốt xã, phường
Biểu 1.3. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ chủ chốt xã,
phường
Biểu 1.4. So sánh trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ lý luận
chính trị của cán bộ chủ chốt xã, phường

Trang
40
47
48
51


7

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia độc lập đã và đang từng bước xây dựng cơ sở
vật chất của XHCN. Trước tình hình đó, đội ngũ cán bộ phải không ngừng rèn
luyện, phấn đấu vươn lên đảm nhận nhiệm vụ mới, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, nhằm xây dựng nước ta thành một nước công

nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật
chất và tinh thần được nâng cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước
mạnh xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Phấn đấu đến năm 2020, nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.


8
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ, đến việc
lựa chọn, đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ. Người luôn cho rằng, vấn đề cán bộ
có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng cũng như công tác xây dựng
Đảng. Người dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [10; 25], “bất cứ chính
sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công” [10; 56]. Đảng ta cũng khẳng
định: Cán bộ là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, vấn đề cán bộ và công tác
cán bộ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng hệ thống
chính trị.
Đảng ta đang lãnh đạo đất nước từng bước xây dựng mô hình phát triển
kinh tế xã hội, cùng với việc đất nước hội nhập sâu vào thế giới, trong bối cảnh
quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp, thuận lợi và khó khăn, thời cơ
và thách thức đan xen, tác động lẫn nhau đang đặt ra những yêu cầu và đòi hỏi
rất cao cho đội ngũ cán bộ. Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới hết sức
nặng nề, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi mỗi cán bộ phải có bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức, năng lực,… phù hợp với yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn
hiện nay. Cho nên, nhiệm vụ của hệ thống chính trị là phải nâng cao trình độ về
mọi mặt cho cán bộ; nhất là trình độ LLCT cho cán bộ cấp cơ sở.
Nghị quyết Hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 5, khóa IX nêu rõ: “Một trong
những nguồn gốc thắng lợi của công cuộc đổi mới là sức mạnh dấy lên từ cơ sở.
Chăm lo xây dựng cơ sở là bảo đảm thắng lợi vững chắc” [14; 65]. Thật vậy, cán
bộ cơ sở là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, là nhân tố quyết định để đưa các
Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống để thúc

đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X khẳng định: “Đổi mới
công tác giáo dục LLCT, tư tưởng trong Đảng, trước hết cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo và quản lý chủ chốt các cấp; đổi mới nội dung, phương pháp học tập và
giảng dạy trong hệ thống chính trị, nâng cao tính thiết thực và hiệu quả của
chương trình” [15; 131].


9
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI cũng nhấn mạnh: “Cán bộ, đảng
viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và nhân dân,
hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, các tổ chức Đảng phải
tạo điều kiện để đảng viên công tác, lao động có năng suất, chất lượng và hiệu
quả, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước” [16; 258]; “Kiện toàn,
nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ làm công tác tham
mưu, nhất là ở cấp chiến lược” [16; 258, 259].
Hiện nay đội ngũ cán bộ chủ chốt trong tỉnh Đồng Tháp nói chung, thị xã
Hồng Ngự nói riêng đa số trưởng thành từ cơ sở, đây cũng là điều kiện thuận lợi
trong việc gắn bó mật thiết với nhân dân. Nhưng trong đó có một số cán bộ ít
được đào tạo LLCT một cách bài bản, năng về kinh nghiệm, ảnh hưởng không
nhỏ đến hoạt động của địa phương. Do vậy, để xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ
sở ngang tầm, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc XHCN thì một trong những yêu cầu đặt ra đối với cán bộ là phải
nâng cao trình độ LLCT. Với ý nghĩa đó, chúng tôi chọn vấn đề: “Nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng
Tháp trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua đã có nhiều tài liệu, bài viết và các công trình
nghiên cứu cũng như các luận văn cao học đề cập đến mảng vấn đề này được
công bố, tiêu biểu là các nhóm vấn đề sau:

- Nhóm thứ nhất: Các nội dung chung về LLCT và Giáo dục chính trị đã
có nhiều công trình tiếp cận với các góc độ khác nhau như: GS. NGND, nguyên
Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Hội đồng Lý luận TW Nguyễn Đức
Bình, với bài viết: Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Cộng
sản, Số 829 (tháng 11/2011); GS. Trần Nhâm: Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh - Nền tảng lý luận xuất phát của chủ thuyết phát triển của Việt
Nam trong giai đoạn Hồ Chí Minh, Tạp chí cộng sản, Số 797 (tháng 3/2009);


10
Nguyễn Thế Phấn: Quan hệ giữa lý luận và chính trị, Tạp chí Cộng sản, Số
8/1982; Hồ Tấn Sáng: Góp phần bàn thêm khái niệm chính trị, Tạp chí sinh hoạt
lý luận, số 5/2005; Phan Đình Đạt: Vai trò của lý luận đối với quán trình đổi
mới xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí sinh hoạt lý luận, 3/1993; TS. Nguyễn
Lương Bằng, thể hiện quan điểm của mình với bài: Giáo dục ý thức chính trị
cho sinh viên trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế, Tạp chí LLCT Quốc
gia Hồ Chí Minh, Số 12/2008; PGS. TS. Đoàn Minh Duệ với quyển sách Giáo
trình: Lịch sử các học thuyết chính trị, Nxb Từ điển Bách khoa, 2010. Nhóm vấn
đề này các tác giả đã làm sáng tỏ về LLCT, vai trò của LLCT trong đời sống xã
hội, trong sự nghiệp cách mạng nước ta giai đoạn CNH, HĐH đất nước.
- Nhóm thứ hai: Nâng cao trình độ LLCT cho cán bộ, cũng có nhiều
công trình nghiên cứu, tiếp cận. Tiêu biểu như: ThS. Phạm Đình Đạt: Góp phần
nâng cao hiệu quả giáo dục LLCT cho cán bộ đảng viên, Tạp chí Khoa học
Chính trị, Số 3/1999; Nguyễn Ngọc Long: Năng lực tư duy lý luận trong quán
trình đổi mới tư duy, Tạp chí Cộng sản, số 10/1987; Đoàn Thế Hanh: Tăng
cường nhận thức LLCT đối với cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết TW
5, khóa X, Tạp chí cộng sản, Số 781 (tháng 11/2007); Vũ Ngọc Am: Đổi mới
công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ cơ sở, Nxb Chính trị Quốc gia,
2003. TS. Vũ Ngọc Am: Hiệu quả và tiêu chí đánh giá hiệu quả giáo dục LLCT,
Tạp chí Ban Tuyên giáo TW, Số: 11/2011; Trần Kiểm: Khoa học giáo dục - Một

vấn đề về lý luận và thực tiễn, Nxb giáo dục, Hà Nội, 2004. Nhóm các tác giả
này đã bàn đến vai trò, tầm quan trọng của việc giáo dục LLCT, nâng cao trình
độ LLCT, nêu lên một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao trình độ
LLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
Trung ương, Tỉnh uỷ và Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã có ban hành
một số văn bản về giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng trình độ LLCT và chế độ đào
tạo đối với cán bộ cấp cơ sở, như: Chương trình bồi dưỡng chuyên đề: Phương
pháp giảng dạy LLCT dành cho giáo viên giảng dạy LLCT tại Trung tâm BDCT


11
cấp huyện, thị, thành, Nxb Lao động xã hội, 2008; Nghị quyết: Về công tác cán
bộ trong giai đoạn mới, 1973 của Bộ Chính trị TW Đảng Lao động Việt Nam;
Quyết định số 1853-QĐ/BTGTW, ngày 04/3/2010: Về việc ban hành quy chế
giảng dạy và học tập của Trung tâm BDCT huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
Tỉnh của Ban Tuyên giáo TW; Quy định Số 12 QĐ/TC-TTVH, ngày
09/01/2004: Về việc xác định trình độ LLCT của BCH. TW - Ban Tổ chức - Ban
Tư tưởng văn hóa TW; Thông báo Số 181-TB/TW, ngày 03/9/2008: Về đổi mới
và nâng cao chất lượng hoạt động của Trường Chính trị cấp Tỉnh và Trung tâm
BDCT cấp huyện của BCH TW; Quyết định số 185-QĐ/TW, ngày 03/9/2008, Về
chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Trung tâm BDCT huyện, thị xã, thành
phố trực thuộc Tỉnh của BCH TW; Thông tư Số 51/2008/TT-BTC ngày
16/6/2008: Về hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức Nhà nước của Bộ Tài chính; Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày
22/5/2006: Về nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể ở xã phường, thị trấn; Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Tháp:
Hướng dẫn nhiệm vụ công tác giáo dục LLCT năm 2008, 2009, 2010, 2011;
Chỉ thị số 04-CT/TU, ngày 09/9/2011: Về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước của Tỉnh ủy Đồng Tháp.
Ngoài ra, BCH Đảng bộ thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp cũng đã đề ra

Nghị quyết lần thứ nhất (nhiệm kỳ 2010 - 2015) mang tính chuyên đề về nâng
chất lượng cán bộ, đảng viên cấp cơ sở.
- Nhóm thứ ba: Liên quan trực tiếp đến đề tài gồm: Luận văn Thạc sĩ Triết
học: “Nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ cán bộ quản lý cấp huyện ở tỉnh Cao
Bằng trong giai đoạn hiện nay” của Nông Văn Tiềm, 2001; “Nâng cao trình độ
LLCT cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Hưng Yên trong giai
đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Hồng Lê, 2004. Các Luận văn Thạc sĩ Chính trị:
“Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã miền núi
hiện nay” của Đỗ Cao Quang, 1996; “Nâng cao chất lượng đào tạo LLCT cho


12
đội ngũ cán bộ chủ chốt các cơ quan có tổ chức Đảng trực thuộc Đảng ủy Khối
các cơ quan tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay” của Dương Phúc Sáu, 2011;
“Nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo xã, thị trấn ở huyện Tháp
Mười, tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay”của Ngô Văn Nâu, 2010; “Nâng
cao trình độ LLCT cho đội ngũ cán bộ công chức các ban ngành huyện Lấp Vò,
tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay” của Trần Anh Dũng, 2011; “Nâng cao
chất lượng bồi dưỡng LLCT cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo xã, thị trấn trên địa
bàn huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp” của Nguyễn Vũ Hoàng, 2011; “Nâng cao
trình độ LLCT cho đội ngũ cán bộ chủ chốt Hội LHPN cấp cơ sở ở tỉnh Đồng
Tháp trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Thanh Bình, 2011; “Nâng cao
chất lượng bồi dưỡng chính trị cho đội ngũ giáo viên các trường Trung học phổ
thông tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Minh Trí, 2012;
“Nâng cao chất lượng bồi dưỡng LLCT cho đảng viên mới ở Đảng bộ khối các cơ
quan tỉnh Hà Tỉnh trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Lệ Hà, 2011.
Nhìn chung, các công trình trên đã đi sâu phân tích nghiên cứu về giảng
dạy lý luận Mác- Lênin nói chung và LLCT nói riêng; đặc biệt có công trình còn
đi sâu nghiên cứu về phương pháp giảng dạy cho đối tượng là cán bộ cơ sở để
nâng cao hiệu quả.

Một số Luận văn của các anh, chị cao học các khóa trước, những luận văn
mà nội dung liên quan đến giáo LLCT cho cán bộ, đảng viên, về cơ bản những
công trình, bài viết, luận văn đó là vô cùng bổ ích và quý giá, là tài liệu, luận cứ
để chúng tôi thực hiện đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nhằm nâng cao trình độ LLCT cho cán bộ cấp cơ sở thị xã Hồng Ngự,
tỉnh Đồng Tháp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ


13
Nghiên cứu làm rõ hơn khái niệm, tầm quan trọng và yêu cầu của việc
nâng cao trình độ LLCT đối với công tác và hoạt động của cán bộ cấp cơ sở
trong giai đoạn hiện nay.
Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng trình độ LLCT của đội ngũ cán
bộ cấp cơ sở thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp .
Đề xuất quan điểm và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao trình độ
LLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp trong giai
đoạn cách mạng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Tập trung nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn của việc nâng cao trình độ
LLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về thực trạng, nguyên nhân, giải pháp để nâng cao trình độ
LLCT cho cán bộ cấp cơ sở hiện nay trong thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chuyên ngành khoa học xã hội - nhân văn,

để nâng cao trình độ LLCT cho cán bộ cấp cơ sở hiện nay trong thị xã Hồng
Ngự, tỉnh Đồng Tháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa
học mang tính đặc thù như:
- Phương pháp logic kết hợp lịch sử
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp điều tra xã hội học
- Phương pháp thống kê…


14
6. Giả thuyết khoa học
Nếu đề ra các giải pháp khả thi thì sẽ nâng cao được trình độ LLCT cho
cán bộ cấp cơ sở thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần làm rõ tính tất yếu khách quan của việc nâng cao trình
độ LLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở; qua đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở thị xã Hồng Ngự.
Kết quả nghiên cứu đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho cấp ủy Đảng,
hệ thống các Trường Chính trị, Trung tâm BDCT trong việc xây dựng nội dung,
chương trình, tiêu chuẩn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận - kiến nghị, mục lục và tài liệu tham khảo,
đề tài có cấu trúc gồm 2 chương:
- Chương 1. Nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở thị xã
Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay là một tất yếu khách quan.
- Chương 2. Quan điểm và giải pháp nâng cao trình độ LLCT cho đội ngũ
cán bộ cấp cơ sở thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay.
B. NỘI DUNG

Chương 1
NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ THỊ XÃ HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY LÀ MỘT TẤT YẾU KHÁCH QUAN
1.1. Khái niệm lý luận chính trị và giáo dục lý luận chính trị cho cán
bộ cấp cơ sở
1.1.1. Lý luận chính trị
1.1.1.1. Khái niệm
- Khái niệm “Lý luận”:


15
Khái niệm lý luận có rất nhiều cách tiếp cận, cách diễn đạt khác nhau - Do
lý luận là một phạm trù rộng lớn, tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của
xã hội loài người. Vì thế, khái niệm lý luận ngày càng được hiểu một cách đầy
đủ hơn.
Từ điển triết học, định nghĩa: “Lý luận là sự tổng hợp các tri thức về tự
nhiên và xã hội tích lũy được trong quá trình lịch sử”; là “hệ thống tư tưởng chủ
đạo trong một lĩnh vực tri thức” [35; 526].
Từ điển Tiếng Việt viết: “Lý luận là hệ thống những tư tưởng được khái quát
từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn. Lý luận là những kiến thức
được khái quát và hệ thống trong một lĩnh vực nào đó” [51; 544- 545].
Trong cuốn Phương pháp giảng dạy LLCT do Ban Tuyên giáo TW xuất
bản năm 2008 viết: “Lý luận, hiểu theo nghĩa chung nhất là các khái niệm, phạm
trù, quy luật được khái quát hóa từ hoạt động thực tiễn của con người. Lý luận là
kết quả nhận thức chủ quan của con người đối với những hiện tượng khách quan
của tự nhiên, xã hội và tư duy” [7; 7].
Tác giả Đoàn Thế Hanh viết: “Lý luận là hệ thống những tri thức đã được
khái quát, tạo ra một quan niệm hoàn chỉnh về các quy luật và về mối liên hệ cơ
bản của hiện thực; là sự phản ánh và tái hiện hiện thực khách quan. Mọi lý luận

đều quy định bởi hoàn cảnh lịch sử trong đó nó hình thành từ điều kiện cụ thể
của lịch sử sản xuất, kỹ thuật và thực nghiệm” [18; 1].
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Lý luận là sự tổng kết những
kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích
trữ lại trong quá trình lịch sử” [31; 497].
Mặc dù, các khái niệm lý luận đã trình bày ở trên tuy có khác nhau về
hình thức hoặc cách dùng từ trong diễn đạt, nhưng đều có những điểm tương
đồng, đó là: Lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh
nghiệm thực tiễn của con người, phản ánh những mối quan hệ bản chất, tất
nhiên, mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan và


16
được biểu đạt bằng hệ thống những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật…;
lý luận có cơ sở là thực tiễn, lý luận có tính khái quát cao, thể hiện bản chất của
sự vật, hiện tượng; lý luận có tính hệ thống.
- Khái niệm “Chính trị”:
Thuật ngữ “Chính trị” là một thuật ngữ khó định nghĩa nhất trong khoa
học xã hội, vì cho đến hiện nay chưa một định nghĩa chính xác và được nhiều
người thừa nhận. Chính trị có nguồn gốc từ tiếng Hylạp cổ Politis có nghĩa là
những công việc của nhà nước. Thời Cổ đại Platon cho rằng: Chính trị là công
việc chăn dắt các động vật hai chân không có sừng và không có lông. Theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác, khi kinh tế phát triển đến một trình độ nhất định, xã
hội phân chia thành giai cấp và mâu thuẫn giữa các giai cấp trở nên gay gắt
không thể điều hoà được thì Nhà nước, chính trị ra đời.
Có quan điểm cho rằng: “Chính trị là những vấn đề về tổ chức và điều
khiển bộ máy Nhà nước trong nội bộ một nước và về quan hệ chính thức giữa
các nước với nhau”; “ Những hoạt động của một giai cấp, một chính đảng. một
tập đoàn xã hội nhằm giành lấy hoặc duy trì quyền điều khiển bộ máy Nhà
nước”; “Những hiểu biết về mục đích, đường lối, nhiệm vụ đấu tranh của một

giai cấp, một chính đảng nhằm giành lấy hoặc duy trì quyền điều khiển bộ máy
Nhà nước” [21; 163].
Aristotle, trong tác phẩm Chính trị luận, ông khẳng định: “Tư cách công
dân của một con người không được tạo nên chỉ vì người đó sinh ra và cư trú trên
một đất nước nào đó, mà tư cách công dân chỉ cần có một tiêu chuẩn xác định:
công dân là người có quyền tham gia vào chính sự và giữ những chức vụ trong
chính quyền; còn nhà lãnh đạo đòi hỏi phải có thêm một đức tính đó là sự khôn
ngoan chính trị” [12; 217].
Kế thừa những tinh hoa nhân loại, đồng thời là một lãnh tụ của GCCN,
V.I. Lênin rất chú trọng đến vấn đề chính trị. Theo ông, cái căn bản nhất của
chính trị là tổ chức chính quyền nhà nước. Chính trị là sự tham gia vào các công


17
việc nhà nước, định hướng nhà nước, xác định hình thức, nhiệm vụ, nội dung
hoạt động của nhà nước. Bất kỳ hoạt động xã hội nào cũng có tính chất chính trị,
nếu như việc giải quyết nó trực tiếp hay gián tiếp gắn với lợi ích giai cấp, gắn
với vấn đề chính quyền.
Hồ Chí Minh cho rằng, đời sống xã hội có bốn lĩnh vực cơ bản là kinh tế,
chính trị, văn hóa và xã hội, phải coi các lĩnh vực đó đều quan trọng như nhau.
Trong tác phẩm Thường thức chính trị, Người đã chỉ rõ nội hàm của khái niệm
chính trị rất cơ bản và dễ hiểu. Theo Người: “Mấu chốt của vấn đề chính trị ở Việt
Nam trong những năm đầu thế kỷ XX là giành và giữ chính quyền, là thực hiện dân
chủ kiểu mới, là làm cho nhân dân thực sự là người làm chủ, làm cho dân giàu,
nước mạnh và sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên tinh thần hòa hiếu, tôn
trọng chủ quyền và hợp tác cùng có lợi” [32; 252].
Với vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội, các vấn đề chính trị
đã thu hút nhiều nhà tư tưởng lớn của nhân loại. Đã có khá nhiều nhà tư tưởng
lỗi lạc nghiên cứu những khía cạnh khác nhau của lĩnh vực chính trị trong lịch
sử. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn có những quan niệm khác nhau về phạm trù

"chính trị"; nhiều định nghĩa hoặc khái niệm khác nhau về chính trị, nhưng theo
chúng tôi, chính trị có đặc trưng chính đó là “hành động”, những hành động này
do nhiều người cùng thực hiện để giành lấy hoặc duy trì quyền lãnh đạo, quyền
quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. Chính trị chỉ có trong xã hội có phân chia giai
cấp và thuộc về kiến trúc thượng tầng; chính trị là sự biểu hiện tập trung nhất
của kinh tế nhưng có vai trò độc lập và có tác dụng to lớn đến nền kinh tế.
- Khái niệm “Lý luận chính trị”:
Trong cuốn: Phương pháp giảng dạy LLCT do Ban Tuyên giáo TW xuất
bản năm 2008 có viết: “LLCT là từ ghép giữa lý luận và chính trị. Ở đây lý luận
được giới hạn ở lĩnh vực chính trị khái niệm chỉ mối quan hệ giữa các giai cấp
trong xã hội có giai cấp, xung quanh vấn đề giành hoặc giữ chính quyền của giai
cấp mình. Do vậy, LLCT được hiểu là những vấn đề lý luận gắn liền với cuộc


18
đấu tranh giữa các giai cấp trong xã hội có giai cấp, xung quanh vấn đề giành và
giữ chính quyền” [7; 7].
LLCT là lý luận trong lĩnh vực chính trị. LLCT ra đời khi xã hội có giai cấp
và đấu tranh giai cấp để đại diện cho lợi ích của một Đảng, một giai cấp nhất định
trong xã hội. LLCT là hệ thống các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách
của một Đảng, một giai cấp để giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
LLCT Mác - Lênin được hình thành và phát triển trên cơ sở nền tảng của
học thuyết mác - xít, đó là một hệ thống hoàn chỉnh và khoa học với những luận
cứ, quan điểm triết học, kinh tế học và chính trị xã hội.
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc thành tựu của nhiều ngành khoa học, tổng
kết lịch sử nhân loại, LLCT Mác - Lênin chỉ ra những quy luật cơ bản về sự vận
động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Những dự báo tiên đoán khoa
học này được các Đảng Cộng sản thể hiện ở việc xác định mục tiêu, chiến lược,
sách lược, đề ra từng chặng đường nhiệm vụ cụ thể thông qua cương lĩnh, nghị
quyết, chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn cuộc sống có hiệu quả.

Đảng Cộng Sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng. Đồng
thời, căn cứ vào những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước trong từng giai
đoạn cách mạng, Đảng xác định cho mình những quan điểm cơ bản chỉ đạo hành
động và lãnh đạo quần chúng, xây dựng nên một hệ thống quan điểm tư tưởng,
lý luận là những chủ trương, đường lối, chính sách...
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, lần đầu tiên Đảng ta đã
xác định: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng
của Đảng. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục xác
định: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vận dụng sáng
tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và CNXH. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của
mỗi cán bộ đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; không dao


19
động trong bất cứ tình huống nào. Kiên định đường lối đổi mới, chống giáo
điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ quan, nóng vội, đổi mới vô nguyên tắc” [16; 255].
Vậy, LLCT là một hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm
hoạt động chính trị thực tiễn của một giai cấp hoặc một chính đảng. LLCT phản
ánh những mối quan hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của hoạt động
chính trị của một giai cấp hoặc một chính Đảng và được biểu đạt bằng hệ thống
những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật… có liên quan; LLCT có cơ sở
là thực tiễn hoạt động chính trị; LLCT có tính khái quát cao, thể hiện bản chất
của hoạt động chính trị và có tính hệ thống.
1.1.1.2. Bản chất của lý luận chính trị
- Lý luận chính trị xuất phát từ thực tiễn:
Thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có mục đích và mang tính
lịch sử - xã hội; lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người trước hết
phải là lịch sử của quá trình cải tạo thực tiễn tự nhiên và xã hội. Để thực hiện

được công việc này thì điều kiện cơ bản là con người phải có tri thức. Tri thức là
cái không phải có sẳn trong đầu óc con người mà được hình thành và bổ sung
trong quá trình con người tác động vào tự nhiên và xã hội để cải tạo thế giới. Từ
những kinh nghiệm thu thập được trong hoạt động thực tiễn, con người trừu
tượng hoá, khái quát hóa để hình thành nên lý luận về một lĩnh vực hiện thực
nhất định của đời sống xã hội, định hướng cho thực tiễn.
C.Mác nêu rõ: “Thực tiễn của cuộc sống hiện đại, sự áp bức chính trị của
chính phủ hiện tồn tại với công nhân nhằm mục đích chính trị cũng như xã hội
đều buộc giáo dục công nhân dù muốn hay không cũng phải làm chính trị. Cổ vũ
họ từ bỏ chính trị có nghĩa là đẩy họ vào vòng tay của chính trị tư sản. Từ bỏ
chính trị là hoàn toàn không thể được, đặc biệt sau Công xã Pari đã đưa hoạt động
chính trị của GCVS vào chương trình nghị sự” [26; 552].
LLCT là hệ thống lý luận về một lĩnh vực lĩnh vực chính trị, phản ảnh
trực tiếp tập trung lợi ích của một giai cấp, một chính đảng nhất định trong xã


20
hội; là cơ sở lý luận cho hệ thống các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính
sách của một Đảng hay một giai cấp để giành, giữ và thực thi quyền lực Nhà
nước. Để thực hiện được chức năng này, LLCT buộc phải xuất phát từ thực tiễn
hoạt động chính trị. Từ thực tiễn hoạt động chính trị mới có những bài học kinh
nghiệm, mới có cơ sở để LLCT bổ sung, hoàn thiện các quan điểm, chủ trương,
đường lối, chính sách nhằm định hướng trở lại cho hoạt động chính trị.
- Lý luận chính trị mang tính giai cấp:
Xã hội có chính trị là xã hội còn giai cấp, còn nhà nước. Trong xã hội đó,
vấn đề chính trị luôn tồn tại, chỉ khác nhau về tính chất, quy mô, mục tiêu,
phương pháp… mà thôi. Chính trị là một trong những lĩnh vực cơ bản của đời
sống xã hội, nó có mối quan hệ và tác động qua lại với các lĩnh vực khác như
kinh tế, văn hoá, tư tưởng... tính giai cấp của chính trị đã được khẳng định.
Khi bàn về tính giai cấp của LLCT Khổng Tử cho rằng: Chỉ những người

quân tử có đức sáng mới có thể cai trị thiên hạ tốt bằng chính tấm gương đạo
đức và tình thương yêu dân chúng của mình. Khổng Tử cũng cho rằng, một triều
đại tốt là “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”, nghĩa là vua phải làm tròn bổn
phận của vua, tôi phải làm tròn bổn phận của tôi, cha phải làm tròn bổn phận của
cha và con phải làm tròn bổn phận của con.
Như vậy, chính trị là một lĩnh vực của đời sống xã hội, thể hiện mối quan
hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia trong vấn đề giành, giữ, sử dụng
hoặc chi phối quyền lực nhà nước.
- Lý luận chính trị phản ánh mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong
hoạt động chính trị:
Một số quan điểm lại cho rằng, chính trị là khả năng con người đóng
những vai trò khác nhau, hoàn thành những chức năng khác nhau trong khuôn
khổ của một thể chế chính trị. Theo quan điểm đó, bản chất chính trị là sự phân
chia trách nhiệm và các thẩm quyền cũng như bảo đảm hiệu quả chính trị và sự
bền vững của chính thể. Ở đây, chính trị được họ hiểu như là sự khôn khéo, khả


21
năng đạt được sự phân chia chức năng, mà vẫn đảm bảo duy trì tác động qua lại
của chúng.
Những quan niệm nêu trên, tuy có chứa đựng một số nhân tố hợp lý nhất
định, nhưng chúng vẫn chưa nêu ra được nội dung cơ bản nhất của phạm trù
chính trị - đó là mối quan hệ giữa con người vì địa vị khác nhau, lấy quyền lực
làm đích. LLCT là kim chỉ nam cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo hoạt
động chính trị. LLCT xuất phát từ thực tiễn hoạt động chính trị, dựa trên cơ sở
thực tiễn, đi sâu, đi sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận phải liên hệ với thực tiễn bởi vì chỉ có thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý để
kiểm nghiệm lại LLCT đúng hay sai. Nếu LLCT xa rời thực tiễn chính trị sẽ dẫn
tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu.
Tuy nhiên, tự bản thân LLCT cũng phải luôn luôn đổi mới để theo kịp sự

phát triển của thực tiễn hoạt động chính trị để khỏi phải lạc hậu, lỗi thời và phải
làm vai trò hướng dẫn chỉ đạo và thúc đẩy hoạt động thực tiễn chính trị Bởi vì,
chỉ có một LLCT khoa học, cách mạng thì hoạt động thực tiễn chính trị mới đạt
hiệu quả cao được. LLCT có vai trò rất lớn đối với thực tiễn chính trị, tác động
trở lại thực tiễn chính trị, góp phần làm biến đổi thực tiễn chính trị thông qua
hoạt động của con người.
Thực tiễn hoạt động chính trị phải được chỉ đạo, hướng dẫn bởi LLCT
khoa học, cách mạng. Nếu thực tiễn chính trị không có LLCT dẫn đường thì
thực tiễn chính trị sẽ trở nên mù quáng. Còn nếu thực tiễn chính trị được chỉ đạo
bởi LLCT sai lầm và phản cách mạng thì hậu quả sẽ khó lường. Do vậy, lý luận
và thực tiễn phản ánh mối quan hệ trong hoạt động chính trị.
1.1.2. Đặc trưng của lý luận chính trị
1.1.2.1. Lý luận chính trị mang tính trừu tượng và khái quát cao
Tư duy là vấn đề cốt lỗi của quá trình nhận thức, nếu không có tư duy thì
nhận thức con người sẽ dừng lại ở nhận thức cảm tính, mặt bề ngoài của đối
tượng, không thể hiểu được bản chất, tính quy luật của sự vận động và phát triển


22
của sự vật, hiện tượng nói chung trong thế giới hiện thực. Các hình thức thể hiện
của lý luận như khái niệm, phạm trù, các nguyên lý… đều là sản phẩm của quá
trình khái quát hóa, trừu tượng hóa cao của tư duy. Với trừu tượng hóa, lý luận
có thể hướng con người trong việc đòi hỏi chân lý, nắm bắt những mối qua hệ
khách quan, bản chất, phát hiện ra quy luận chi phối sự vận động và phát triển
của các sự vật, hiện tượng. Còn khái quát hóa có vai trò quan trọng trong việc
hình thành các khái niệm, phạm trù, từ đó góp phần quan trọng trong việc xây
dựng các lý thuyết khoa học.
Trừu tượng hóa, khái quái hóa là hai quá trình không thể tách rời mà
chúng luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau, thâm nhập và bổ sung lẫn nhau. Nhờ
đó mà con người có được những tri thức về các mối liên hệ bản chất, tính qui

luật trong sự vận động và phát triển của sự vật. Với đặc tính phản ánh cái chung,
cái bản chất có tính qui luật của các sự vật, hiện tượng, nên qui luật có tính
chính xác, chặt chẽ, lôgíc và độ tin cậy cao, là hệ thống chỉnh thể thống nhất.
Mặc dù các khái niệm, phạm trù, nguyên lý… biểu đạt những khía cạnh, những
yếu tố khác nhau nhưng chúng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung, hỗ trợ,
thúc đẩy cùng nhau phát triển. Lý luận Mác-Lênin chính là một điển hình về tính
thống nhất, chặt chẽ và tính lôgíc. Do đó, nó là khoa học về những qui luật
chung, phồ biến đang vận động trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Nhờ có tính trừu tượng hóa, khái quát hóa của lý luận mà tư duy con
người không ngừng tìm tòi, sáng tạo ra những cái mới khoa học đáp ứng những
nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn.
LLCT chính là sản phẩm trực tiếp, là kết quả khái quát hoá những tri thức
về chính trị xã hội, trên cơ sở hoạt động chính trị thực tiễn của quần chúng nhân
dân. Thuộc tính này giúp cho nhận thức đi sâu vào bản chất sự vật, hiện tượng
xã hội và phát hiện ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội. Trong LLCT,
quá trình trừu tượng hoá và khái quát hóa không tách rời mà liên hệ, bổ sung
cho nhau và xâm nhập lẫn nhau. LLCT không thể là sự hùng biện mang tính áp


23
đặt, chắp vá và cắt xén những tri thức rời rạc. Ngược lại, LLCT phải phản ánh
đúng bản chất của sự vật, hiện tượng xã hội cũng như tự nhiên và dự báo, định
hướng có cơ sở khoa học sự vận động và phát triển của lịch sử, xã hội nên nó
mang tính trừu tượng và khái quát hóa cao.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học điển hình, tiêu
biểu cho sự phản ánh hiện thực và định hướng phát triển xã hội. VI.Lênin đã
khẳng định: “Trong cái triết học ấy của chủ nghĩa Mác, đúng bằng một khối thép
duy nhất, người ta không thể vứt bỏ một tiền đề cơ bản, một phần chủ yếu nào,
mà không xa rời chân lý khách quan, không rơi vào dối trá của GCVS phản
động” [22; 404].

1.1.2.2. Lý luận chính trị có tính chính xác và lôgíc chặt chẽ
Lý luận mang tính chính xác và lôgic chặt chẽ sẽ có tác dụng tích cực đối
với hoạt động thực tiễn của con người, sẽ được con người, cộng đồng, nhất là
các lực lượng cách mạng nhanh chóng tiếp thu, ủng hộ.
Tính thống nhất và chặt chẽ về lôgíc với tính chính xác và độ tin cậy cao
của lý luận khoa học nói chung, LLCT nói riêng thể hiện ở chổ các khái niệm,
nguyên lý, phạm trù, quy luật… phản ánh các mặt, các yếu tố, các quá trình…
khác nhau của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan nhưng chúng có mối
liên hệ, quan hệ biện chứng, hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Do đó, một lý luận trong
đó có LLCT muốn trở thành lý luận khoa học phải là một hệ thống mang tính
chỉnh thể, toàn vẹn, thống nhất, không thể là sự tùy tiện, chắp vá, cắt xén với khả
năng phản ánh chính xác sự vật hiện tượng như nó đã hình thành, tồn tại, vận
động, phát triển; dự báo được xu hướng vận động và phát triển của sự vật.
Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận điển hình về tính
chính xác và lôgic chặt chẽ. Vì thế, nó trở thành khoa học về những quy luật
chung, phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.1.2.3. Lý luận chính trị có tính liên hệ, thống nhất với thực tiễn


24
LLCT được hình thành, tồn tại và phát triển song hành cùng với sự phát
triển của cuộc sống hiện thực; thực tiễn luôn có sự vận động và biến đổi không
ngừng. LLCT là phương tiện và có mục tiêu phản ánh đời sống chính trị - xã hội
cũng phải không ngừng bổ sung và phát triển để theo kịp quy luật phát triển. Do
đó, để LLCT ngày càng phản ánh một cách chính xác, sâu sắc và phong phú hơn
thực tiễn đời sống chính trị - xã hội cần phải thường xuyên thực hiện việc tổng
kết, đánh giá thực tiễn.
Quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản
của lý luận khoa học nói chung và chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng. Lý luận
thuộc về lĩnh vực hoạt động tinh thần, còn thực tiễn thuộc về hoạt động vật chất,

là sản xuất là cuộc đấu tranh để bảo vệ sự tồn tại của con người trước thiên nhiên
và xã hội. V.I Lênin khẳng định: “Thực tiễn cao hơn nhận thức vì nó có ưu điểm
không những của tính phổ biến mà cả của tính hiện thực trực tiếp” [21; 230].
Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, lý luận có tồn tại, có sức sống hay không
phụ thuộc ở mức độ phù hợp ở vai trò định hướng, gợi mở, chỉ dẫn, giải quyết
những vấn đề của đời sống thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển
buộc lý luận phản ánh đời sống thực tiễn cũng phải không ngừng được bổ sung,
phát triển; đồng thời, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn để làm cho tri thức lý
luận ngày càng phản ánh chính xác hơn, sâu sắc hơn, phong phú hơn đời sống
thực tiễn. Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác dộng, bổ sung làm
phong phú lẫn nhau, là điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của nhau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng
dẫn thì thành thực tiễn mù quáng; Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý
luận suông” [32; 496] (diễn văn khai mạc lớp học lý luận khoá I trường Nguyễn
Ái Quốc ngày 7/9/1957).
Đối với Hồ Chí Minh lý luận cách mạng có vai trò to lớn đói với cán bộ
đảng viên và toàn thể nhân dân thúc đẩy cách mạng tiến lên. Người cũng thường


25
xuyên nhắc nhở Đảng và Nhà nước khi xây dựng đường lối, chủ trương, chính
sách, biện pháp phải xuất phát từ thực tiễn, từ những đòi hỏi bức thiết của thực
tiễn cách mạng. Theo Người: “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải
nhằm theo lý luận” [29; 235].
Nhờ có lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường, Đảng Cộng sản Việt
Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện
hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, lãnh đạo cách mạng ta giành nhiều thắng lợi to lớn.
Vì thế, Đảng và Bác Hồ luôn coi trọng việc bồi dưỡng, giáo dục lý luận cho cán
bộ, đảng viên, nhất là bồi dưỡng, giáo dục LLCT, coi đó là yêu cầu cơ bản

không thể thiếu trong công tác xây dựng Đảng. Hồ Chí Minh viết: “Học lý luận
là nhằm mục đích học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc
vì tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng. Không
phải học để thuộc lòng từng câu từng chữ, đem kinh nghiệm các nước anh em áp
dụng máy móc, nhưng chúng ta phải học chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích và
giải quyết những vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta; cho phù hợp với điều
kiện đặc biệt của nước ta” [33; 497].
Qua 26 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới (1986 - 2012), thực tiễn nước ta
đã và đang tạo ra những tiền đề thuận lợi cho LLCT của Đảng ta tiến hành tổng
kết, khái quát. Trong quá trình này, lý luận có chức năng luận giải, chứng minh
tính đúng đắn của đường lối đổi mới của Đảng. Đồng thời, định hướng cho các
công việc tiếp theo trong thời gian tới của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Con
đường cho lý luận nói chung, LLCT nói riêng phát triển chỉ có thể là con đường
thông qua nghiên cứu, đánh giá tổng kết thực tiễn để nâng cao một bước quan
trọng tầm tư duy lý luận của Đảng đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cách mạng Việt
Nam trong tình hình mới.
1.1.2.4. Lý luận chính trị có sự thống nhất cao giữa tính Đảng và tính
khoa học


×