Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ huyện thủ thừa, tỉnh long an trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.04 KB, 124 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
________________

ĐINH VĂN SÁU

NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ
HUYỆN THỦ THỪA, TỈNH LONG AN TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Long An, 6/2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
________________

ĐINH VĂN SÁU

NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ
HUYỆN THỦ THỪA, TỈNH LONG AN TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY

Chuyên ngành: CHÍNH TRỊ HỌC
Mã số: 60.31.02.01



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN LƯƠNG BẰNG

Long An, 6/ 2015
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn Thạc sĩ, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Phòng Sau Đại học, Khoa Chính trị học Trường Đại học Vinh và Trường Đại
học Kinh tế Công nghiệp Long An đã tạo điều kiện thuận lợi trong thời gian tôi
học Cao học. Xin cảm ơn quý thầy, cô Trường Đại học Vinh đã nhiệt tình giảng


3

dạy và cung cấp cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong suốt quá trình tôi học tập
Chuyên ngành Chính trị học tại Trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An.
Tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn Lương Bằng,
giảng viên Khoa Giáo dục chính trị, Trường Đại học Vinh đã tận tình hướng dẫn
và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Đồng thời, tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Huyện ủy, Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân, Trung tâm bồi dưỡng chính trị, Ban Tổ chức, Ban Tuyên giáo
Huyện ủy, các cơ quan chuyên môn trực thuộc Ủy ban nhân dân huyện, Đảng
ủy, Ủy ban nhân dân các xã, thị trấn trong huyện, bạn bè trong và ngoài lớp đã
nhiệt tình hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi trong việc khảo sát, thu thập dữ liệu,
đóng góp nhiều ý kiến và những kinh nghiệm quý báu để giúp tôi thực hiện công
trình nghiên cứu của mình.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng luận văn chắc còn có thiếu sót, với ý
thức luôn tự học hỏi và nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học, tôi rất mong
được sự góp ý của quý thầy, cô và các bạn.

Long An, tháng 6 năm 2015
Tác giả luận văn

Đinh Văn Sáu
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BDCT:

Bồi dưỡng chính trị

CNH, HĐH:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

ĐCSVN :

Đảng Cộng sản Việt Nam

GCCN:

Giai cấp công nhân

GCVS:

Giai cấp vô sản

GD- ĐT:


Giáo dục đào tạo


4

GV:

Giáo viên

LLCT:

Lý luận chính trị

NXB:

Nhà xuất bản

KT- XH:

Kinh tế - xã hội

TW:

Trung ương

UBND:

Ủy ban nhân dân


XHCN :

Xã hội chủ nghĩa

MỤCLỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU

1

B. NỘI DUNG
Chương 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘINGŨ CÁN BỘ CẤP HUYỆN

11

1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.2. Vai trò của việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán
bộtrong giai đoạn hiện nay31

11


5

Chương2:THỰC TRẠNG NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH
TRỊ CHO ĐỘI NGŨCÁN BỘ CHỦ CHỐT HUYỆN THỦ THỪA, TỈNH LONG
AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY41
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An


41

2.2. Trình độ lý luận chính trị và công tác giáo dục lý luận chính trị của đội ngũ
cán bộlãnh đạo, quản lý chủ chốt huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An

45

Chương 3:NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHỦ CHỐT HUYỆN
THỦ THỪA, TỈNH LONG AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY80

3.1. Nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt huyện
Thủ Thừa về vai trò của lý luận chính trị trong giai đoạn hiện nay

80

3.2. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý chủ chốt huyện huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An

82

3.3. Đổi mới công tác quy hoạch, đánh giá, tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ
lãnh đạo, quản lý chủ chốt huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An
C. KẾT LUẬN
112
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
117

104



6

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh thế giới, khu vực và trong nước có những thời cơ, thuận
lợi, và nhiều diễn biến rất phức tạp, đòi hỏi cán bộ phải nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu, giữ vững bản chất cách mạng, vững vàng về chính trị, tư
tưởng; thống nhất ý chí, hành động, thực sự trong sạch về đạo đức, lối sống, gắn
bó máu thịt với nhân dân. Nếu công tác cán bộ tốt, đủ tầm cỡ, bản lĩnh, kiến
thức, dám đổi mới, dám chịu trách nhiệm trước nhân dân và dám nói thẳng vào
sự thật, dám dựa vào dân thì đất nước sẽ vượt qua khó khăn, thử thách và tiến
kịp các nước láng giềng.
Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay” đã chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ
cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện
khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội,
thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng
phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”.
Nguy cơ "tụt hậu xa hơn về kinh tế" đang là thách thức lớn đối với đất
nước; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, sự xuống cấp về đạo đức, lối
sống của một bộ phận cán bộ, cùng với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ
nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái "lợi ích nhóm", đặc quyền,
đặc lợi, nói không đi đôi với làm đang gây bất bình và làm giảm sút niềm tin của
nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Các thế lực
thù địch tăng cường chống phá, đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hòa bình", thúc
đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ ta, hòng hạ thấp uy tín và phủ
định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Để khắc phục những nhược điểm đó trước hết việc nâng cao trình độ
chính trị cho cán bộ, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,


7

vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí
tuệ của mỗi cán bộ trước hết là cán bộ lãnh đạo quản lý chủ chốt các cấp. Hiệu
quả công việc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đánh giá hiệu quả công việc của một cán
bộ.
Bối cảnh đó, đòi hỏi Đảng phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu, giữ vững bản chất cách mạng, vững vàng về chính trị, tư tưởng; thống nhất
cao về ý chí, hành động, thực sự trong sạch về đạo đức, lối sống; gắn bó máu
thịt với nhân dân. Hơn bao giờ hết, nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ trở
thành một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn, quyết định vai trò
lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ.
Trước hết, cán bộ phải vững mạnh về chính trị, kiên định chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực
tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nâng cao
bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp. Kiên định đường lối đổi mới, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy
luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam. Tiếp tục đổi mới tư duy, hoàn thiện
các cơ chế, chính sách, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nhằm khơi dậy
tiềm năng và nguồn lực của đất nước, tạo động lực mới cho sự phát triển.
Hai là, tiếp tục đổi mới công tác tư tưởng, lý luận: Tiếp tục đổi mới nội
dung, phương thức, nâng cao tính chiến đấu và hiệu quả của công tác tư tưởng.
Đổi mới công tác tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiên quyết đấu
tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối

sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; ngăn chặn, đẩy lùi những
biểu hiện "tự diễn biến," "tự chuyển hóa" trong nội bộ; tích cực chống quan liêu,


8

tham nhũng, lãng phí. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt
động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, chủ động, kịp thời ngăn
chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch.
Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn làm sáng tỏ những vấn đề
xuất hiện trong quá trình đổi mới, làm tốt chức năng định hướng cho hoạt động
thực tiễn, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đổi mới công tác giáo
dục lý luận chính trị và học tập nghị quyết của Đảng đảm bảo thiết thực, hiệu
quả.
Ba là, tiếp tục đổi mới công tác tổ chức và công tác cán bộ, nâng cao chất
lượng đảng viên. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội,
thực dụng, bè phái, lợi ích nhóm, đặc quyền, đặc lợi, nói không đi đôi với làm…
nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với
Nhân dân "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát, hưởng thụ", công
tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Kiên quyết xử lý và kịp thời thay thế
những cán bộ lãnh đạo, quản lý tham nhũng, lãng phí, uy tín giảm sút; xử lý
nghiêm minh trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng, lãng
phí trong tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương mình trực tiếp quản lý. Phòng
ngừa, ngăn chặn quan hệ lợi ích nhóm, chống đặc quyền, đặc lợi. Phòng ngừa
các nguy cơ đối với đảng cầm quyền. Tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với hệ thống chính trị, đặc biệt là với Nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ, đến việc lựa
chọn, đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ. Người luôn cho rằng, vấn đề cán bộ có
ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp cách mạng cũng như công tác xây dựng

Đảng. Người dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “bất cứ chính sách,
công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công”. Đảng ta cũng khẳng định: Cán bộ


9

là nguyên nhân của mọi nguyên nhân, vấn đề cán bộ và công tác cán bộ có vị trí,
vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng hệ thống chính trị.
Đảng ta đang lãnh đạo đất nước từng bước xây dựng mô hình phát triển
kinh tế xã hội, cùng với việc đất nước hội nhập sâu vào thế giới, trong bối cảnh
quốc tế và khu vực có những diễn biến phức tạp, thuận lợi và khó khăn, thời cơ
và thách thức đan xen, tác động lẫn nhau đang đặt ra những yêu cầu và đòi hỏi
rất cao cho đội ngũ cán bộ. Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới hết sức
nặng nề, khó khăn, phức tạp, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải có bản lĩnh
chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức, năng lực,… phù hợp với yêu cầu của
cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Cho nên, nhiệm vụ của hệ thống chính trị là
phải nâng cao trình độ về mọi mặt cho đội ngũ cán bộ; nhất là trình độ lý luận
chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp huyện.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI nhấn mạnh: “Cán bộ, đảng viên
phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và nhân dân, hết
lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, các tổ chức Đảng phải tạo
điều kiện để đảng viên công tác, lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả,
đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước”; “Kiện toàn, nâng cao chất
lượng các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, nhất là ở
cấp chiến lược”.
Đổi mới việc học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân
nhằm tạo bước tiến mới, có kết quả, chất lượng cao hơn, góp phần làm cho chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng giữ
vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội; bảo đảm thế hệ trẻ Việt Nam luôn trung
thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng và với chế độ ta; Đổi mới mạnh mẽ việc

đào tạo, bồi dưỡng giáo viên lý luận chính trị, bảo đảm sát hợp với thực tiễn, đáp
ứng yêu cầu tiếp tục đổi mới việc học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo
dục quốc dân. Xây dựng cho được đội ngũ giáo viên lý luận chính trị tâm huyết,
yêu nghề, tuyệt đối trung thành, có niềm tin, có kiến thức mới gắn với thực tiễn.


10

Đây là nhân tố quyết định sự thành công của việc tiếp tục đổi mới học tập lý
luận chính trị trong nhà trường.
Nghị quyết số 32-NQ/TW của Bộ chính trị khẳng định: “ Đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị là nhiệm vụ quan trọng của Đảng. Mỗi cán bộ lãnh đạo,
quản lý phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về học tập suốt đời, học đi đôi
với hành, lý luận gắn với thực tiễn, gắn học tập với rèn luyện phẩm chất đạo
đức, tư cách người cách mạng; đổi mới nâng cao chất lượng công tác đào tạo,
bồi dưỡng lý luận chính trị phải luôn bám sát mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của
chiến lược cán bộ và gắn kết chặt chẽ với các khâu của công tác cán bộ”.
Hiện nay đội ngũ cán bộ trong tỉnh Long An nói chung, huyện Thủ Thừa
nói riêng đa số trưởng thành từ cơ sở, đây cũng là điều kiện thuận lợi trong việc
gắn bó mật thiết giữa chính quyền với nhân dân. Nhưng trong đó có một số cán
bộ ít được đào tạo lý luận chính trị một cách căn bản và toàn diện, ảnh hưởng
không nhỏ đến hoạt động của địa phương. Do vậy, để xây dựng đội ngũ cán bộ
của huyện Thủ Thừa ngang tầm với quá trình đổi mới của đất nước, góp phần
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa thì một trong những yêu cầu đặt ra đối với cán bộ là phải nâng
cao trình độ lý luận chính trị. Với ý nghĩa và tầm quan trọng đó, tác giả chọn
vấn đề:“Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộhuyện Thủ Thừa,
tỉnh Long An trong giai đoạn hiện nay” làm Luận văn Thạc sĩ chính trị học.
Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ đã được nhiều

Nghị quyết của Trung ương Đảng, nhiều nhà nghiên cứu và một số luận văn
thạc sỹ chuyên ngành Lý luận và Phương pháp dạy học Chính trị, Chính trị học
quan tâm nghiên cứu, trao đổi, các công trình đó có thể chia thành các nhóm:
Nhóm thứ nhất gồm những vấn đề lý luận chung về nâng cao trình độ lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ bao gồm các tác phẩm, sách và các bài viết:
Tạp chí Khoa học Chính trị, Số 3/1999; Đoàn Thế Hanh: Tăng cường nhận
thức lý luận chính trị đối với cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết TW 5,


11

khóa X, Tạp chí Cộng sản, Số 781 (tháng 11/2007); Vũ Ngọc Am: Đổi mới công
tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ cơ sở, Nxb Chính trị Quốc gia,
2003.Vũ Ngọc Am: Một số vấn đề về đổi mới phương pháp giáo dục lý luận
chính trị, Nxb thông tấn, 2009.
Các tác giả này đã bàn đến vai trò, tầm quan trọng của việc giáo dục lý
luận chính trị, nâng cao trình độ lý luận chính trị, nêu lên một số phương hướng,
giải pháp nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
Các cấp Trung ương, Tỉnh uỷ và Ủy ban nhân dân tỉnh Long An đã ban
hành một số văn bản về giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị
và chế độ đào tạo đối với cán bộ cấp cơ sở, như: Quyết định số 1853QĐ/BTGTW, ngày 04/3/2010: Về việc ban hành quy chế giảng dạy và học tập
của Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc Tỉnh
của Ban Tuyên giáo Trung ương; Quy định Số 12 QĐ/TC-TTVH, ngày
09/01/2004: Về việc xác định trình độ lý luận chính trị của BCH. TW - Ban Tổ
chức - Ban Tư tưởng văn hóa TW; Thông báo Số 181-TB/TW, ngày 03/9/2008:
Về đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Trường Chính trị cấp Tỉnh và
Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện của BCH TW; Quyết định số 185QĐ/TW, ngày 03/9/2008, Về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Trung
tâm BDCT huyện, thị xã, thành phố trực thuộc Tỉnh của BCH TW; Kết luận số
57-KL/TW, ngày 08/3/2013 của Ban Bí thư về tiếp tục đổi mới việc học tập lý
luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân; Kết luận số 57-KL/TW, ngày

08/3/2013 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng lý
luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Kết luận số 94-KL/TW,
ngày 28/3/2014 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; Chỉ thị số 34CT/TW, ngày 30/5/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về tăng cường công tác
chính trị tư tưởng; củng cố tổ chức đảng, đoàn thể quần chúng và công tác phát
triển đảng viên trong các trường học;


12

Nhóm thứ hai gồm những vấn đề lý luận liên quan gần với vấn đề về nâng
cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ bao gồm các: Nghị quyết số
32-NQ/TW, ngày 26/5/2014 của Bộ Chínhtrị về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất
lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản
lý; Nghị quyết số 02-NQ/HU, ngày 08/8/2011 của Huyện ủy Thủ Thừa“Về đào
tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trọng tâm
là đào tạo cán bộ cho hệ thống chính trị giai đoạn 2011-2015 và những năm
tiếp theo”; Quyết định số 279-QĐ/TU,ngày 27/9/2011của Tỉnh ủy Long
An“ban hành đề án công tác cán bộ của Tỉnh giai đoạn 2011-2020 và những
năm tiếp theo”Về những đặc điểm của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay,Kỷ yếu Hội thảo khoa học Đại học Quốc gia Hà
Nội, tháng 01/2009. 62-67. Nhận thức về quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam và những vấn đề đạo dức của Đảng viên trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội,
tháng 01/2008. 103 - 110. Một số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy môn
chính trị trong các trường cao đẳng nghề. Tạp chí Giáo dục, 231, 2010, tr.21-23
của Nguyễn Lương Bằng.
Ban tuyên giáo trung ương: Chương trình bồi dưỡng chuyên đề: Phương
pháp dạy lý luận chính trị dành cho giáo viên giảng dạy lý luận chính trị tại
Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, Nxb Lao động xã hội, năm 2008.

Ngoài ra có một số bài viết trên các tạp chí Xây dựng Đảng, tạp chí cộng
sản, báo mạng Vietnamnet. Cụ thể: Phạm Thị Niết: Phát triển những nguyên tắc
đạo đức Hồ Chí Minh trong giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên. Tạp chí
Cộng sản số 6 năm 2007.
Nhóm thứ ba gồm những luận văn liên quan trực tiếp đến vấn đề mà tác
giả lựa chọn về nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ bao gồm:
Những công trình khoa học, luận văn và các bài viết trên đã làm sáng tỏ nhiều
vấn đề về lý luận và thực tiễn trong vấn đề bồi dưỡng lý luận chính trị với nhiều
khía cạnh, góc độ khác nhau; đã đi sâu phân tích nghiên cứu về giảng dạy lý


13

luận Mác - Lênin nói chung và lý luận chính trị nói riêng; đặc biệt có công trình
còn đi sâu nghiên cứu về phương pháp giảng dạy cho đối tượng là cán bộ cơ sở
để nâng cao hiệu quả công tác.
Luận văn Thạc sĩ Triết học: “Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội
ngũ cán bộ quản lý cấp huyện ở tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay” của
Nông Văn Tiềm, 2001; “Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay” của
Nguyễn Thị Hồng Lê, 2004. Luận văn của ThS. Phạm Đình Đạt: Góp phần
nâng cao hiệu quả giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ đảng viên.“Nâng cao
chất lượng bồi dưỡng lý luận chính trị cho đảng viên mới ở Đảng bộ khối các cơ
quan tỉnh Hà Tỉnh trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Lệ Hà, 2011.
Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Lý luận và Phương pháp dạy học bộ
môn giáo dục chính trị của Từ Bá Thảo: “Nâng cao chất lượng bồi dưỡng lý
luận chính trị cho Đảng viên mới ở đảng bộ huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh
trong giai đoạn hiện nay”. Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Lý luận và
Phương pháp dạy học bộ môn giáo dục chính trị. Lê Quỳnh Mai: “Nâng cao
chất lượng giáo dục lý luận chính trị ở trường Chính trị tỉnh Bắc Giang dưới

ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn; Khoa Khoa học Chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
Đây là những tài liệu bổ ích và quý giá, là tài liệu tham khảo quan trọng
để chúng tôi thực hiện đề tài này. Bên cạnh đó hàng năm tại huyện Thủ Thừa
cũng đã có những báo cáo tổng hợp các hoạt động nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ nhưng chưa có một công trình nào đi sâu nghiên
cứu một cách có hệ thống và đánh giá đầy đủ, khách quan về thực chất của việc
nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ
chốt cấp huyện. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề này làm luận văn thạc sỹ chuyên
ngành chính trị học, với mong muốn góp phần thúc đẩy việc nâng cao trình độ lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An.
2. Mục đíchnghiên cứu


14

Nghiên cứu cơ sở lý luận, khảo sát trình độ lý luận chính trị của đội ngũ
cán bộ cấp huyện, xây dựng, đề xuất, giải pháp nâng cao trình độ lý luận chính
trị cho cán bộ chủ chốt huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ mới trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụnghiên cứu
Làm rõ khái niệm, tầm quan trọng và yêu cầu của việc nâng cao trình độ
lý luận chính trị đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp huyện trong giai
đoạn hiện nay.
Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng trình độ lý luận chính trị của
cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An.
Nghiên cứu quan điểm, đề xuất giải pháp nâng cao trình độ lý luận chính
trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An
trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt huyện Thủ Thừa, tỉnh
Long An.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thực trạng, nguyên nhân, giải pháp nâng cao trình độ lý luận chính trị cho
cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An trong giai
đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam để
nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ nó chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu


15

Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời có sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu lý thuyết, phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp quan sát,
phương pháp chọn mẫu, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp kết hợp
lịch sử và logic, phương pháp kết hợp phân tích định lượng và định tính, phương
pháp phân tích, tổng hợp và so sánh đánh giá số liệu, phương pháp thống kê,
phương pháp chuyên gia, phương pháp xử lý thông tin…
6. Ý nghĩa và những đóng góp mới về khoa học của đề tài
Luận văn góp phần làm rõ tính tất yếu khách quan của việc nâng cao trình
độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt huyện Thủ
Thừa, tỉnh Long An. Qua đó, đề xuất nhiệm vụ, giải pháp nâng cao trình độ lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộlãnh đạo, quản lý chủ chốt huyện Thủ Thừa,

tỉnh Long An.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo giúp cho
cấp ủy Đảng, các Trung tâm bồi dưỡng chính trị trong việc nghiên cứu, xây
dựng nội dung, chương trình, bồi dưỡng cán bộ các cấp nói chung, cán bộ huyện
Thủ Thừa, tỉnh Long An nói riêng.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận - kiến nghị và tài liệu tham khảo, đề tài có
cấu trúc gồm 3 chương, 7 tiết.


16

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ CHO ĐỘINGŨ CÁN BỘ CẤP HUYỆN
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm lý luận
Nhận thức là quá trình phản ánh thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn
xã hội. Quá trình nhận thức không diễn ra thụ động, giản đơn, máy móc, mà là
quá trình phản ánh năng động, sáng tạo, biện chứng. Đó là quá trình đi từ chưa
biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ không đầy đủ và không chính xác đến
đầy đủ và chính xác hơn. Quá trình nhận thức của con người và loài người nói
chung trải qua hai giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Sự nhận
thức của loài người tất yếu dẫn đến sự ra đời của lý luận.
Tri thức kinh nghiệm chủ yếu thu nhận được từ quan sát và thí nghiệm và
bao gồm hai loại, một là tri thức kinh nghiệm thông thường thu nhận được từ
những quan sát hàng ngày trong cuộc sống và lao động sản xuất, hai là tri thức
kinh nghiệm khoa học thu nhận được từ những thí nghiệm khoa học.Tri thức
kinh nghiệm có vai trò không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày của con

người, những kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn sẽ đem lại cho chúng ta
những bài học hết sức quan trọng. Kinh nghiệm còn là cơ sở để chúng ta kiểm
tra lý luận, sửa đổi, bổ sung lý luận đã có, đồng thời tổng kết khái quát thành lý
luận mới.
Tri thức kinh nghiệm có những hạn chế nhất định bởi nó giới hạn ở lĩnh
vực các sự kiện, miêu tả, phân loại các dữ kiện thu được từ quan sát và thí


17

nghiệm; mới chỉ đem lại những hiểu biết về các mặt riêng rẽ, về các mối liên hệ
bên ngoài, chưa nắm bắt được mối quan hệ bản chất, tất yếu của các sự vật, hiện
tượng. Trong hoạt động thực tiễn cần coi trọng tri thức kinh nghiệm, nhưng
không nên cường điệu nó, mà cần phát triển kinh nghiệm lên trình độ lý luận.
Định nghĩa khái niệm lý luận theo khoa học triết học: “Lý luận là sự tổng
hợp các tri thức về tự nhiên và xã hội tích lũy được trong quá trình lịch sử”
[30,tr.526]. là “hệ thống tư tưởng chủ đạo trong một lĩnh vực tri thức”
Định nghĩa khái niệm lý luận theo Từ điển Tiếng Việt: “Lý luận là hệ thống
những tư tưởng được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực
tiễn. Lý luận là những kiến thức được khái quát và hệ thống trong một lĩnh vực nào
đó” [42,tr.544-545]. Theo quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh “Lý luận là sự tổng
kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và
xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” [30,tr.497] .
Như vậy, xét về bản chất, lý luận là hệ thống tri thức được khái quát từ
thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế giới
khách quan. Lý luận được khái quát từ những kinh nghiệm thực tiễn, nhưng lý
luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận thể hiện
trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật. Khác với kinh nghiệm, lý luận
mang tính trừu tượng và khái quát cao, nhờ đó, nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc
về bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của các sự vật, hiện tượng khách quan.

Lý luận thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn, nghĩa là
có tính bản chất sâu sắc hơn và do đó, phạm vi ứng dụng của nó cũng phổ biến
hơn, rộng hơn nhiều so với tri thức kinh nghiệm. C. Mác, Ph. Ăngghen chỉ rõ:
“Sự quan sát theo kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy
đủ tính tất yếu và nhiệm vụ của nhận thức lý luận là đem quy sự vận động bề
ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự”
[8,tr.343].
1.1.2. Khái niệm chính trị


18

Chính trị là những vấn đề về tổ chức và điều hành bộ máy nhà nước trong
nội bộ một nước và về mặt quan hệ nhà nước giữa các nước với nhau. Ngoại
diên khái niệm chính trị là những hoạt động của một giai cấp, một chính đảng,
một tập đoàn xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền điều hành bộ máy nhà nước,
những hiểu biết về mục đích, đường lối, nhiệm vụ đấu tranh của một giai cấp,
một chính đảng, một tập đoàn xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền điều hành
bộ máy nhà nước. Chính trị là biểu hiện của xung đột giai cấp, nếu không còn
giai cấp thì không còn nhà nước và chính trị cũng biến mất. Khái niệm chính trị
xuất hiện sớm và được mở rộng nội hàm qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau.
Chính trị là tất cả những hoạt động, những vấn đề gắn với quan hệ giai
cấp, dân tộc, quốc gia và các nhóm xã hội xoay quanh một vấn đề trung tâm đó
là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước.
Trong tác phẩm Chính trị, Aristotle đã khẳng định, con người theo bản
năng tự nhiên đã có tính chính trị. Khổng Tử (551-471 TCN) là một trong
những nhà tư tưởng đầu tiên có cách tiếp cận riêng đến Học thuyết chính trị.
Căn bản trong học thuyết của ông là "quân tử (người cầm quyền) nên học tự kỷ
luật, nên cai trị người dân của mình bằng chính gương của mình, và nên đối xử
với họ bằng tình thương và sự quan tâm.". Niềm tin chính trị của ông gắn chặt

với luân thường đạo lý và đạo đức cá nhân. Ông cho rằng chỉ những người quân
tử liêm khiết và tuân theo đạo của người quân tử thì mới được cầm quyền, và
những tư cách của những nhân vật đó phải kiên định với địa vị trong xã hội. Ông
nói rằng "Triều đại tốt cốt ở vua làm tròn bổn phận của vua, bề tôi làm tròn bổn
phận của bề tôi, cha làm tròn bổn phận của cha, và con làm tròn bổn phận của
con." Platon (428-328 TCN) nói trong sách Nền Cộng hòa rằng tất cả những
chế độ chính trị theo truyền thống như (dân chủ, quân chủ, chính thể đầu
sỏ, chính thể hào hiệp vốn đã đồi bại, tham nhũng và nhà nước nên được điều
hành bởi tầng lớp những người cầm quyền cũng là triết gia được giáo dục tốt.
Họ được đào tạo từ lúc chào đời và được chọn dựa trên năng lực: "những người
có kỹ năng đặc biệt về quan sát tổng quan xã hội.


19

Aristote (384–322 TCN) cho rằng về bản chất, con người là một động vật
chính trị. Theo Ông luân thường và chính trị có liên kết chặt chẽ với nhau, và
một đời sống thật sự đạo đức chỉ có thể có ở những người tham gia vào chính trị.
Giống như Platon, Aristotle thấy rằng có nhiều hình thức nhà nước khác nhau,
và ông cho rằng hình thức "đúng" của nhà nước có thể biến thành một hình thức
nhà nước "lệch lạc", nơi mà thể chế bị mục nát. Theo ông, chế độ quân chủ, có
một người cai trị, sẽ biến thành chuyên chế; chế độ quý tộc, với một nhóm nhỏ
người cai trị, sẽ biến thành chính thể đầu sỏ; và xã hội có tổ chức (polity) do
nhiều người dân cùng cai trị thì sẽ biến thành chế độ dân chủ.Hiện nay, trên thế
giới đã hình thành 4 cách hiểu khác nhau về chính trị:
1) Nghệ thuật của phép cai trị
2) Những công việc của chung
3) Sự thỏa hiệp và đồng thuận
4) Quyền lực và cách phân phối tài nguyên hay lợi ích
Một số quan niệm về chính trị

Theo Đavit Easton(1917, (canađa): chính trị là sự phân phối có thẩm
quyền các giá trị. Bernard Crick 2008, người Anh thì chính trị là dung hòa các
đòi hỏi chính đáng về phân phối hàng hóa và dịch vụ là đạo đức được thực hiện
công khai.. Haroll Lasswell 1902-1978, người Mỹ: Chính trị là ai được gì, bao
giờ và bằng cách nào. Ở phương Tây theo quan điểm của Bernard Crick.
Theo định nghĩa của từ điển Bách khoa Việt nam"Chính trị là toàn bộ
những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các
dân tộc, các tầng lớp xã hội, mà cốt lõi của nó là vấn đề giành chính quyền, duy
trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công việc của nhà nước, sự
xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước". Theo
V.I. Lênin, cái căn bản nhất của chính trị là tổ chức chính quyền nhà nước.
Chính trị là sự tham gia vào các công việc nhà nước, định hướng nhà nước, xác
định hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước. Bất kỳ hoạt động
xã hội nào cũng có tính chất chính trị, nếu như việc giải quyết nó trực tiếp hay


20

gián tiếp gắn với lợi ích giai cấp, gắn với vấn đề chính quyền. Căn cứ vào việc
xác định nội dung của khái niệm chính trị của các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác- Lênin mà các nhà khoa học soạn thảo chương trình giảng dạy, nghiên cứu,
thường đề cập đến những vấn đề về chính trị là: Sự hình thành và phát triển
chính trị Việt Nam từ thời dựng nước đến 1945; Quá trình hình thành và các giai
đoạn phát triển thể chế chính trị Việt Nam hiện đại; Đặc điểm thể chế chính trị
Việt Nam hiện nay; Quyền lực của nhân dân lao động trong thể chế cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đổi mới và hoàn thiện thể chế chính trị Việt Nam thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; Kiên định đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Những vấn đề về chính trị của đời sống của xã hội Việt Nam trong lịch

sử cũng như đương đại thường đi vào trọng tâm các vấn đề như: quan điểm, tư
tưởng, đường lối chính trị; các thể chế chính trị, con người chính trị; các dạng
hoạt động của các chủ thể chính trị, các quan hệ chính trị- xã hội …
Để đạt được mục đích chính trị, mỗi giai cấp đều có những phương pháp,
cách thức, tổ chức v.v.. để củng cố, duy trì sự tồn tại quyền lực của mình. Theo
PGS.TS. Lê Văn Cương thủ đoạn chính trị của Trung Quốc là khi nào xã hội
căng thẳng cận kề có thể bùng nổ không kiểm soát được thì lãnh đạo Trung
Quốc sẽ đẩy mâu thuẫn ra bên ngoài bằng cách vu cáo Việt Nam hay Philipines,
Nhật Bản, Ấn Độ đang xâm phạm chủ quyền thiêng liêng của Trung quốc trên
khu vực biển đảo.Từ đó kêu gọi người dân hãy kìm nén hoặc gạt bất bình sang
một bên để tập trung lực lượng chống ngoại xâm. Đây là món sở trường của
lãnh đạo Trung Quốc.
1.1.3. Khái niệm lý luận chính trị và bản chất của lý luận chính trị
1.1.3.1. Khái niệm lý luận chính trị
Chính trị là hình thái ý thức xã hội chỉ xuất hiện và tồn tại trong các xã hội
có giai cấp và nhà nước, nó phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các


21

giai cấp, các dân tộc và các quốc gia, cũng như thái độ của các giai cấp đối với
quyền lực nhà nước.
Ý thức chính trị thông thường hình thành trực tiếp từ hoạt động thực tiễn
trong môi trường chính trị của xã hội. Ở trạng thái tâm lý xã hội, những cảm xúc và
tâm trạng về chính trị của quần chúng thường thiếu bền vững và không ổn định.
Song, những trạng thái tâm lý xã hội như vậy lại có vai trò to lớn và trực tiếp đối
với hành vi chính trị của quần chúng đông đảo; thông qua đó hệ tư tưởng chính trị
tác động vào đời sống chính trị của xã hội.
Lý luận chính trị của một giai cấp nhất định phản ánh trực tiếp tập trung lợi
ích giai cấp của giai cấp ấy. Hệ tư tưởng chính trị được thể hiện trong đường lối,

cương lĩnh chính trị của các chính đảng của các giai cấp khác nhau cũng như trong
luật pháp, chính sách nhà nước, công cụ của giai cấp thống trị. Hệ tư tưởng chính
trị được hình thành một cách tự giác. Nó được các nhà tư tưởng của giai cấp xây
dựng và truyền bá.
Hệ tư tưởng chính trị gắn với các tổ chức chính trị. Thông qua các tổ chức
chính trị mà một giai cấp nào đó tiến hành cuộc đấu tranh về ý thức hệ vì lợi ích
của giai cấp của mình. Lý luận chính trị có vai trò rất quan trọng đối với sự phát
triển xã hội. Thông qua tổ chức nhà nước nó tác động trở lại cơ sở kinh tế và "có
thể, trong những giới hạn nhất định thay đổi cơ sở kinh tế". Hệ tư tưởng chính trị
cũng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Nó thâm nhập vào các
hình thái ý thức xã hội khác. Tác động tích cực hoặc tiêu cực của hệ tư tưởng chính
trị (cũng như ý thức chính trị nói chung) phụ thuộc vào tính chất tiến bộ, cách mạng
hoặc phản tiến bộ, phản cách mạng của giai cấp mang hệ tư tưởng đó. Khi giai cấp
còn tiến bộ, cách mạng - tiêu biểu cho xu thế phát triển đi lên của lịch sử thì hệ tư
tưởng chính trị của nó có tác dụng tích cực đến sự phát triển xã hội. Khi giai cấp đó
trở thành lạc hậu, phản động, thì hệ tư tưởng chính trị của nó tác động tiêu cực, kìm
hãm phát triển xã hội.
Khái niệm nâng cao trình độ lý luận chính trị. Lý luận chính trị thuộc
phạm trù kiến trúc thượng tầng, nâng cao trình độ lý luận chính trị là làm cho


22

cán bộ hiểu các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu
thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng; cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay
muộn, kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. C.Mác viết: "Cơ sở kinh tế
thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều
nhanh chóng" [7,tr.15].
Nâng cao trình độ lý luận chính trị là làm cho cán bộ hiểu những quan
điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạođức, tôngiáo, nghệthuật, v.v. cùng với

những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn
thể xã hội, v.v. được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định. Hiểu được quy luật
vận động phát triển,liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau giữa các yếutố
chínhtrị, pháp luật xã hội nhất định. Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị mới
thực hiện được sự thống trị của mình về tất cả các mặt của đời sống xã hội. Cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng thống
nhất biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với
kiến trúc thượng tầng.
Quá trình đó diễn ra không chỉ trong giai đoạn thay đổi từ hình thái
kinhtế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong
bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng
diễn ra rất phức tạp.Trong đó có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay
đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi cơ sở hạ tầng như chínhtrị, pháp luật,
v.v.. Trong kiến trúc thượng tầng, có những yếu tố thay đổi chậm như tôn giáo,
nghệ thuật, v.v. hoặc có những yếu tố vẫn được kế thừa trong xã hội mới. Một
giai cấp chỉ có thể giữ vững được sự thống trị về kinh tế chừng nào xác lập và
củng cố được sự thống trị về chính trị, tư tưởng. Nếu kiến trúc thượng tầng tác
động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ
thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu tác động ngược lại, nó sẽ kìm hãm phát triển
kinh tế, kìm hãm phát triển xã hội.


23

Hồ Chí Minh luôn coi con người, con người vừa là mục tiêu vừa là động
lực của cách mạng. Hồ Chí Minh nói: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có
con người xã hội chủ nghĩa chủ nghĩa". Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII đã khẳng định mục tiêu của Đảng và nhà nước ta hiện nay là
"xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện

đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc pḥòng an
ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh". Vì vậy, có
thể nói sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là "một cuộc cách mạng toàn
diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội". Đó trước hết là
cuộc cách mạng con người, vì con người và do con người. Xã hội phát triển
chính là kết quả của những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân ta, với những
con người phát triển cả về trí lực, cả về khả năng lao động, và tính tích cực
chính trị xã hội, và đạo đức, tình cảm trong sáng" (Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành trung ương khoá VII) . Nhận định
trên một lần nữa thể hiện rõ quan điểm của Đảng ta coi tư tưởng Hồ Chí Minh là
một trong những nền tảng tư tưởng quan trọng, thực hiện lời dạy của Bác trong
thời gian miền Bắc nước ta bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, mùa Xuân
năm 1961 Bác nói "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những
con người xã hội chủ nghĩa". Lời Người chỉ ra rằng: Con người luôn luôn là chủ
thể sáng tạo trong bất cứ sự nghiệp cách mạng nào, do đó xã hội mới chỉ có thể
là sản phẩm của hoạt động tự giác của con người. Tuy cách mạng nước ta được
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng từ năm 1930, tuy con người Việt Nam từ đó đến
nay đã qua mấy cuộc đổi đời căn bản, đã lập nên những kỳ tích trong cuộc đấu
tranh xoá bỏ ách áp bức dân tộc và ách áp bức giai cấp, nhưng cách mạng xã hội
chủ nghĩa đánh dấu một giai đoạn mới trong sự phát triển của con người Việt
Nam: tự cải tạo xây dựng mình thành con người xã hội chủ nghĩa.
1.1.3.2. Bản chất của lý luận chính trị
- Lý luận chính trị xuất phát từ thực tiễn


24

C.Mác chỉ rõ: “Khuyết điểm chủ yếu từ trước cho đến nay, của mọi chủ
nghĩa duy vật (kể cả duy vật của Phoiơbắc) là sự vật, hiện thực, cái có thể cảm
giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan,

chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực
tiễn”[6,tr.252]. "Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của
chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
quáng. Lý luận mà không liên hệ với thứ thực tiễn là lý luận suông"[30, tr.496] Lý
luận chính trị từng giai đoạn lịch sử có những nội dung khác nhau, theo Người:
“Mấu chốt của vấn đề chính trị ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX là
giành và giữ chính quyền, là thực hiện dân chủ kiểu mới, là làm cho nhân dân thực
sự là người làm chủ, làm cho dân giàu, nước mạnh và sẵn sàng làm bạn với tất cả
các nước trên tinh thần hòa hiếu, tôn trọng chủ quyền và hợp tác cùng có lợi”.
Nhiệm vụ của chi bộ các cơ quan là phải " Tăng cường giáo dục lý luận chính trị và
học tập nghề nghiệp của nhân viên. Chăm sóc giúp đỡ cho mỗi một người tiến
bộ"[29,tr.252]
- Lý luận chính trị mang tính giai cấp
Quan điểm của V. I. Lênin
V.I.Lênin viết "Trong điều kiện chuyên chính vôsản, những hình thức đấu
tranh giai cấp của giai cấp vô sản không thể giống như trướcđược"[41,tr.298].
- Lý luận chính trị phản ánh mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong
hoạt động chính trị
1.1.4. Đặc trưng của lý luận chính trịMác - Lênin
1.1.4.1. Lý luận chính trị Mác - Lênin mang tính trừu tượng và khái quát
cao
Nhờ có lý luận khoa học mà hoạt động của con người nên chủ động, tự giác,
hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát. Sức mạnh của chủ nghĩa Mác - Lênin là ở
chỗ, trong khi khái quát thực tiễn cách mạng, lịch sử xã hội, nó vạch rõ quy luật
khách quan của sự phát triển, dự kiến những khuynh hướng cơ bản của sự tiến
hóa xã hội. Điều đó làm cho các Đảng của giai cấp công nhân có thể vạch ra


25


đường lối, phương hướng, nhiệm vụ, biện pháp hành động cho phù hợp với đặc
điểm, hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của mỗi nước một cách sáng tạo. Chủ tịch Hồ
Chí Minh ví "không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi" [28,tr.234]
Trong hoạt động của cán bộ không thể dừng lại ở những kinh nghiệm thu
nhận lại trực tiếp từ thực tiễn mà phải nâng lên thành lý luận bởi lý luận là một
trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Coi trọng thực tiễn không có nghĩa
là xem thường lý luận, hạ thấp vai trò của lý luận. Không nên đề cao cái này, hạ
thấp cái kia và ngược lại. Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động
trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con
người. Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo
thực tiễn. Đánh giá vai trò và ý nghĩa lớn lao của lý luận, Lênin viết: “Không có
lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng” [40, tr.30]. Lý
luận một khi thâm nhập vào quần chúng thì biến thành "lực lượng vật chất". Lý
luận có thể dự kiến được sự vận động trong tương lai, từ đó vạch ra phương
hướng cho thực tiễn, chỉ rõ những phương pháp hành động có hiệu quả nhất để
đạt mục đích của thực tiễn.
1.1.4.2. Lý luận chính trị Mác - Lênin có tính chính xác và lôgíc chặt chẽ
Thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu
cực tạo niềm tin trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Khắc phục
những sơ hở thiếu sót trong quá trình thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội.
Khi chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước được thực hiện đúng
đắn, phù hợp với lợi ích của quốc gia, dân tộc, phù hợp với lợi ích của đại đa số
quần chúng nhân dân thì các đối tượng chống đối sẽ không còn lý do để xuyên
tạc, chống phá. Khi đã tạo được niềm tin vào Đảng, vào chế độ và con đường
phát triển đất nước thì các hoạt động chống đối sẽ tự triệt tiêu. Và đó chính là
cách thức bảo vệ Đảng hiệu quả nhất trước những luận điệu tuyên truyền, vu
cáo, xuyên tạc, kích động gây mâu thuẫn nội bộ.



×