Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

TÌM HIỂU tác GIA lão tử và một số CHƯƠNG TRONG tác PHẨM đạo đức KINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.75 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ
KHOA TIẾNG TRUNG

BÀI TIỂU LUẬN
(HÁN NGỮ CỔ ĐẠI)

TÌM HIỂU TÁC GIA LÃO TỬ VÀ MỘT SỐ CHƯƠNG TRONG
TÁC PHẨM ĐẠO ĐỨC KINH

Giảng viên giảng dạy: Ths. Liêu Vĩnh Dũng
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Nhàn
MSSV: 1275410088
Lớp: TRUNGTMK9

Huế, 12/2015


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Lão Tử là hiện tượng khá lạ trong lịch sử triết học của nhân loại. Ông là
một triết gia lớn, ảnh hưởng tới cả Đông Á ngang với Khổng Tử, thời nào cũng
được nhân dân Trung Hoa tôn trọng. Nhân loại biết đến Khổng Tử với tư tưởng
hữu vi thì biết đến Lão Tử với tư tưởng vô vi, đây đều là các tư tưởng lớn trong
triết học Trung Quốc.
Ông nổi tiếng là vậy, vậy mà rất ít người biết chắc chắn về cuộc đời của
ông, về cả tác phẩm bất hủ của ông nữa. Từ thời Tư Mã Thiên, bao nhiêu người
tra cứu đủ sách cổ để tìm hiểu Lão Tử tên thật là gì, sống ở thời nào, làm gì, tiếp
xúc với ai, nhưng chỉ đưa ra được những giả thiết, và càng bàn lại càng thêm rối
vì ý kiến mâu thuẫn nhau. Ngay cả đến tác phẩm của Lão Tử, cuốn Đạo Đức
Kinh, là một trong những cuốn chuyên luận đáng chú ý nhất trong lịch sử triết


học Trung Quốc. Nó là kiệt tác được cho là của ông, đụng chạm tới nhiều vấn
đề của triết học trong quan hệ giữa con người và thiên nhiên, "người thuận theo
đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên", rằng con
người cần sống hòa hợp với thiên nhiên và tạo hóa, tuân theo quy luật của thiên
nhiên, tu luyện để sống lâu và gần với Đạo. Một tác phẩm vô cùng suất sắc mà
nhân loại vẫn còn mập mờ về nguồn gốc và sự ra đời của nó.
Chính vì những lý do trên chúng tôi quyết định đi sâu vào tìm hiểu về tiểu
sử, cuộc đời tác gia Lão Tử và một số tác phẩm trong Đạo Đức Kinh để giúp
mọi người có thể hiểu rõ hơn về tác gia Lão Tử và tác phẩm Đạo Đức Kinh.
2. Lịch sử nghiên cứu
Lão tử là nhân vật có ảnh hưởng rộng lớn không chỉ ở dân tộc Trung Hoa
mà còn một số nước trong khu vực thậm chí trên cả thế giới, là người đầu tiên
khai sáng ra Đạo giáo với những quan niệm triết lý còn ảnh hưởng đến thế giới
hiện đại. Chính vì vậy mà có rất nhiề công trình nghiên cứu về cuộc đời cũng
như tác phẩm của Lão Tử, có thể kể ra như sau:


-

Luận văn Thạc sĩ của Thi Lý Phục của Trường Đại học Đà Nẵng năm
2014 đã nghiên cứu về đề tài “Tư tưởng triết học của Lão Tử trong tác
phẩm Đạo đức kinh”. Đề tài này đã làm rõ được tư tưởng triết học của

-

Lão Tử được thể hiện qua tác phẩm nổi tiếng nhất của Lão Tử.
Luận văn Thạc sĩ cuả Ngô Thị Thùy Trường Đại học Quốc gia Hà nội
năm 2013 đã nghiên cứu đề tài “Tư tưởng chính trị -xã hội thể hiện qua

-


Đạo đức kinh” đã làm rõ được tư tưởng chính trị-xã hội của Lão Tử .
Thích Pháp Như đã nghiên cứu về đề tài “Quan điểm vô vi của Lão Tử và
vô vi của Đạo giáo” đã tìm ra những điểm giống và khác biệt giữa triết lí

-

Vô vi của Lão Tử với Vô vi của Đạo giáo.
Nguyễn Hiến Lê đã có quyển sách viết về “Lão Tử- Đạo đức kinh” tác
phẩm đã đi đi sâu nghiên cứu về cuộc sống của Lão Tử và phân tích 81

-

chương trong Đạo đức kinh.
Nguyễn Duy cũng đã nghiên cứu về đề tài “Lão Tử -Đạo đức kinh” cũng
đã làm rõ hơn về cuộc đời Lão Tử cũng như tác phẩm của ông.
Tuy nhiên các đề tài trên chỉ đi chuyên sâu nghiên cứu về cuộc đời của
Lão Tử mà chưa phân tích cụ thể, rõ ràng từng chương cụ thể trong Đạo
đức kinh. Đó cũng là lý do mà chúng tôi chọn đề tài này để nghiên cứu.

3. Mục đích nghiên cứu
-

Mục đích chủ yếu của việc nghiên cứu đề tài này chính là:
Làm hiểu rõ thêm về tiểu sử, cuộc đời, tên gọi của tác gia Lão Tử, hiểu
thêm về tác phẩm nguồn gốc, cấu trúc, ý nghĩa của tác phẩm Đạo Đức

-

Kinh,.

Đi sâu vào nghiên cứu một số tác phẩm nhỏ trong cuốn Đạo Đức Kinh.
Giúp người học tiếng Hán không chỉ có hứng thú với hán ngữ hiện đại mà
còn hiểu rõ hơn về hán ngữ cổ đại.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tác gia Lão Tử và tác phẩm Đạo Đức Kinh
Phạm vi nghiên cứu: tiểu sử, cuộc đời, tên gọi của tác gia Lão Tử và các
chương 14, 15, 16, 17, 20 trong tác phẩm Đạo Đức Kinh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đối với đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp như:


Thống kê: dùng phương pháp này nhằm thống kê ra các thông tin liên
quan đến tác gia Lão Tử và tác phẩm Đạo Đức Kinh.
Phân tích: phân tích nội dung của một số chương tiêu biểu trong tác phẩm
Đạo Đức Kinh.


II. NỘI DUNG
1. TÁC GIA LÃO TỬ
1.1. Tiểu sử
Lão Tử (老子) là một nhân vật chính trong Triết học Trung Quốc, sự tồn tại
của ông trong lịch sử hiện vẫn đang còn được tranh cãi. Theo sử ký của Tư Mã
Thiên, Lão Tử họ Lý tên Nhĩ, hiệu là Bá Dương, thụy là Đam. Có người nói đó
là Thái sử Đam, Lão Lai Tử. Theo truyền thuyết Trung Quốc, ông sống ở thế kỷ
thứ 6 TCN. Nhiều học giả hiện đại cho rằng ông sống ở thế kỷ thứ 4 TCN, Có
người còn đưa thời điểm cụ thể về cuộc đời của Lão Tử, cho rằng ông chào đời
rồi tạ thế trong khoảng 580-500 TCN, cuối thời Xuân Thu. Ông sinh ra ở huyện
Khổ (苦縣) nước Sở (楚), hiện nay là Lộc Ấp (鹿邑) thuộc tỉnh Hà Nam.Lão
Tử được coi là người viết Đạo Đức Kinh (道德經) - cuốn sách Đạo giáo có ảnh

hưởng lớn, và ông được công nhận là Khai tổ của Đạo giáo (Đạotổ 道祖).
1.2. Cuộc đời
Lão Tử đã trở thành một anh hùng văn hoá quan trọng đối với các thế hệ
người Trung Quốc tiếp sau. Một số truyền thuyết nói rằng khi sinh ra tóc ông đã
bạc trắng, vì ông đã nằm trong bụng mẹ tám hay tám mươi năm, điều này giải
thích cho cái tên của ông, có thể được dịch thành “bậc thầy già cả” và “đứa trẻ
già”.
Theo truyền thống, và một tiểu sử gồm cả trong cuốn sử của Tư Mã Thiên, Lão
Tử sống cùng thời với Khổng Tử và sinh trước hay sau vài chục năm. Nếu đúng
thế tức là khoảng thời gian thế kỷ thứ sáu TCN, cùng thời với các triết gia Hy
Lạp tiền Socrates như Heraclitus và Pythagoras. Lão Tử là người làm chân giữ
sách trong thư viện triều đình nhà Chu. Khổng Tử đã có ý định hay đã tình cờ
gặp ông ở nước Chu, gần nơi hiện nay là Lạc Dương, nơi Khổng Tử định đọc
các cuốn sách trong thư viện. Theo những câu chuyện đó, trong nhiều tháng sau
đó, Khổng Tử và Lão Tử đã tranh luận về lễ nghi và phép tắc, vốn là những nền
tảng của Khổng giáo. Lão Tử phản đối mạnh mẽ những nghi thức mà ông cho là


rỗng tuếch. Truyền thuyết Đạo giáo kể rằng những cuộc tranh luận đó có ích
cho Khổng Tử nhiều hơn so với những gì có trong thư viện.
Sau này, Lão Tử nhận thấy rằng chính sự của vương quốc đang tan rã và quyết
định ra đi. Ông đi về phía Tây trên lưng một con trâu nước qua nước Tần và từ
đó biến mất vào sa mạc rộng lớn. Truyền thuyết kể rằng có một người gác cửa
tên Doãn Hỷ ở cửa phía tây của ải Hàm Cốc thuyết phục Lão Tử viết lại những
hiểu biết của mình trước khi đi vào sa mạc. Cho tới lúc ấy, Lão Tử mới chỉ nói
ra các triết thuyết của ông mà thôi, và giống như trường hợp của Jesus, Phật, và
Khổng Tử (những cuốn văn tuyển của họ hầu như được hoàn thành bởi các đệ
tử). Theo yêu cầu của người lính đó, Lão Tử đã viết để lại cuốn “Đạo Đức
Kinh”. Nhiều cuốn ghi chép và bức tranh về Lão Tử còn lại đến ngày nay,
thường thể hiện ông là một người già hói đầu với một chòm râu trắng hay đen

và rất dài; ông thường cưỡi trên lưng một con trâu nước.
Khi ông đã khuất bên kia cửa ải, người đời không còn biết tung tích ông.
Khảo chứng của người đời sau cho rằng bài viết về Lão Tử trong Sử ký hẳn do
hậu thế thêm vào, còn lời cảm khái của Khổng Tử là do một đạo gia nào đó bịa
ra để tôn vinh sư tổ của mình. Như thế, hình ảnh ông thầy già cưỡi trên lưng
một con trâu nước đi ra quan ải và con rồng bay liệng trên không cũng chỉ ở
trong cõi huyền thoại. Chúng tạo thêm vẻ thần bí mông lung, như hàng trăm câu
chuyện khác về hành trạng và hoàn cảnh sáng tác của văn thi sĩ Trung Hoa thời
cổ. Nhưng dù gì đi nữa, ngụ ngôn ấy cũng làm nổi bật thêm giá trị tư tưởng,
cuộc sống lãng đãng và phong thái phiêu hốt của tác giả và làm hình ảnh của
Lão Tử càng thêm huyền thoại.
Tác phẩm của Lão Tử, cuốn Đạo Đức Kinh, là một trong những cuốn chuyên
luận đáng chú ý nhất trong lịch sử triết học Trung Quốc. Nó là kiệt tác được cho
là của ông, đụng chạm tới nhiều vấn đề của triết học trong quan hệ giữa con
người và thiên nhiên, "người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo
Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên", rằng con người cần sống hòa hợp với thiên
nhiên và tạo hóa, tuân theo quy luật của thiên nhiên, tu luyện để sống lâu và gần
với Đạo.


1.3. Tên gọi
Cái tên "Lão Tử" là danh xưng kính trọng. Lão ( 老 ) có nghĩa “đáng tôn
kính” hay “già”. Tử (老) nghĩa là thầy. Vì thế, “Lão Tử” có thể được dịch tạm
thành “bậc thầy cao tuổi”.
Tên riêng của Lão Tử có thể là Lý Nhĩ ( 老 老), tên tự của ông có thể là Bá
Dương (老老), và tên thụy của ông là Đam, (老) có nghĩa là “Bí ẩn”.
Lão Tử cũng được gọi là:
Lão Đam (老老)
Lão Quân (老老)
Lý Lão Quân (老老老)

Thái Thượng Lão Quân (老老老老)
Thái Thượng Đạo Tổ
Lão Tử Đạo Quân (老老老老)
Huyền Đô đại lão gia
Dưới thời nhà Đường họ Lý, để tạo mối liên hệ với Lão Tử, coi ông là tổ
tiên của Hoàng gia, truy phong làm hoàng đế. Đời Đường Cao Tông tôn là Thái
Thượng Huyền Nguyên hoàng đế, đến đời Đường Huyền Tông lại gia phong
là Đại Thánh tổ Cao thượng Đại đạo Kim khuyết Huyền nguyên Thiên hoàng
Đại Đế.
2. Đạo Đức Kinh
Đạo Đức Kinh (tiếng Trung: 道道道)) là quyển sách do triết gia Lão Tử viết ra
vào khoảng năm 600 TCN. Theo truyền thuyết thì Lão Tử vì chán chường thế
sự nên cưỡi trâu xanh đi ở ẩn. Ông Doãn Hỷ đang làm quan giữ ải Hàm Cốc níu
lại "nếu ngài quyết đi ẩn cư xin vì tôi để lại một bộ sách!", Lão Tử bèn ở lại cửa
ải Hàm Cốc viết bộ "Đạo Đức Kinh" dặn Doãn Hỷ cứ tu theo đó thì đắc đạo. Do
đó, Đạo Đức Kinh còn được gọi là sách Lão Tử.
2.1 Nguyên lai và cấu trúc
Đạo Đức Kinh gồm có 81 chương với khoảng 5000 chữ Hán, chia làm 2
phần: Thượng Kinh và Hạ Kinh.




Thượng Kinh gồm 37 chương, bắt đầu bằng câu: “Đạo khả Đạo phi
thường Đạo”. Thượng Kinh luận về chữ Đạo nên được gọi là Đạo Kinh.



Hạ Kinh gồm 44 chương, bắt đầu bằng câu: “Thượng Đức bất Đức thị dĩ
hữu Đức”. Hạ Kinh luận về chữ Đức nên được gọi là Đức Kinh.

2.2 Luân lí trong Đạo Đức kinh
Câu mở đầu của Đạo đức kinh là Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh
phi thường danh, do vậy theo ông, Đạo là không thể nào định nghĩa được.
2.2.1 Vô vi
Khái niệm vô vi trong Đạo Đức kinh thường được hiểu lầm là không nên làm
gì cả, nhưng thật ra Lão Tử khuyên rằng Làm mà như không làm, như thế có
đặng không. Ông cũng viết rằng nước tuy mềm mại uyển chuyển nhưng có thể
chảy đến bất cứ nơi nào, và với một khối lượng lớn thì có thể làm lở cả đất đá.
Như vậy vô vi có thể ví von với cách hành xử của nước. Vô vi nhi vô bất
vi(chương 48), vô vi là hành động theo tự nhiên, là làm mà không có tâm riêng,
cũng như đói thì phải ăn, khát thì phải uống.
2.2.2 Nhân ái
Ông khuyên tri nhân giả trí, tự tri giả minh, nghĩa là biết người khác chỉ mới
là trí, nhưng tự biết mình thì mới là sáng. Như vậy ông chú trọng đến việc tự
chinh phục bản thân hơn là chinh phục kẻ khác. Nên bằng lòng với cái mình
có, tri túc chi túc hà thời túc, tri nhàn chi nhàn hà thời nhàn, nghĩa là biết đủ thì
đủ và lúc nào cũng đầy đủ cả, biết nhàn thì nhàn và lúc nào cũng nhàn cả.
2.3 Đạo Đức kinh và Đạo giáo
Đạo đức kinh ngày nay đã trở thành quyển sách chính đạo của các Tôn
giáo theo Tiên giáo như kiểu Kinh Thánh. Ở Việt Nam nổi bật lên là đạo Cao
Đài lấy Đạo đức kinh làm giáo trình chính để đi theo, họ coi đây là một quyển
sách về Dịch (như Kinh Dịch) nhưng không có quẻ.


Đạo đức kinh trong đạo giáo được coi như là cách thức để tu luyện nhằm tiến
tới trạng thái trường sinh bất lão là mục đích chính, chứ không nhằm mục dích
dùng đạo để phát huy đức.
2.4 Nhận xét
Lời lẽ trong Đạo Đức Kinh rất khúc chiết, ý nghĩa rất uyên thâm, luận về hai
chữ “Đạo Đức”, nói về cơ tạo hóa, định vị trời đất, hóa sinh vạn vật, và những

phương pháp huyền bí dạy về tu luyện để đắc thành bậc Thiên Tiên.
Đây là quyển kinh căn bản của Tiên giáo do Lão Tử (còn được gọi là Thái
Thượng Lão Quân) viết ra và người đời sau suy tôn ông là giáo chủ Tiên giáo.
Quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của Lão Tử căn cứ trên hai chữ Đạo và Đức,
nên ông theo đó mà lập thành giáo lý. Nhiều người cho rằng giáo huấn của Lão
Tử thật kỳ lạ, vì ông khuyên người ta rèn luyện trí tuệ đạt tới mức tưởng như
ngu độn, đời sống không nên tranh giành, xử thế nên đơn giản, tính tình nên
giản phác.

3. MỘT SỐ TÁC PHẨM TRONG ĐẠO ĐỨC KINH
3.1 Chương 14: Tán Huyền

道道道

道 道
(道道)


視視視視視視視 ; 視視視視視視視 ; 視視視視視視視 視視視視視視視視 , 視
視視視視 視視視視視, 視視視視 , 視視視視視 , 視視視視視 視視視視視視視 , 視視
視視 , 視視視視 視 視視視視視視 , 視視視視視 視 視視視視視 , 視視視視視 ; 視視
視視 , 視視視視 視
TÁN HUYỀN
Thị chi bất kiến danh viết di; thính chi bất văn danh viết hi; bác chi bất đắc
danh viết vi. Thử tam giả bất khả trí cật, cố hỗn nhi vi nhất. Kì thượng bất kiểu,
kì hạ bất muội, thằng thằng bất khả danh, phục qui ư vô vật. Thị vị vô trạng chi
trạng, vô vật chi tượng, thị vị hốt hoảng. Nghinh chi bất kiến kì thủ, tuỳ chi bất
kiến kì hậu.Chấp cổ chi đạo, dĩ ngự kim chi hữu; năng tri cổ thuỷ, thị vị đạo kỉ.
視視視
視視(Trí cật ) 視gạn hỏi đến cùng

視(Kiểu) 視 sáng
視視(Thằng thằng ) 視miên man
視 視( Đạo kỷ) : giềng mối Đạo( quy luật của Đạo)

Dịch nghĩa:
Nhìn không thấy, gọi là Di. Nghe không thấy, gọi là Hi. Nắm không được, gọi
là Vi. Ba điều ấy (di, hi, vi, tức vô sắc, vô thanh, vô hình) không thể truy cứu
đến cùng. Cho nên hợp lại làm một, trên nó không sáng, dưới nó không mờ.
Miên man dằng dặc mà không thể đặt tên, rồi lại trở về chỗ không có gì. Đó là
trạng thái của cái không trạng thái, hình tượng của cái không có vật chất. Cái có
hoảng hốt, đón trước không thấy đầu, theo sau không thấy đuôi. Giữ cái Đạo
xưa để trị chuyện nay; biết cái đầu mối của thời xưa, ấy là nắm được giềng mối
đạo.
Ý nghĩa :


Chương này Lão tử lại luận về Đạo thể. Đại khái Lão tử cho rằng Đạo thể
huyền vi, mung lung, ảo diệu, thoát tầm kích quan năng của con người. Đại đạo
vô hình tướng, nên không có đầu đuôi, dù đón trước theo sau cũng không truy
lùng ra dáng dấp.
Tuy nhiên, ta vẫn có cách biết được Đạo, nếu ta biết cách khảo sát đời sống
các vị thánh nhân đời trước. Hiểu được thời cổ, tức là biết được chuyện nay,
hiểu được Đạo thể.
«Tuyệt đối mà mọi người tìm cầu không có ở cao xa diệu vợi tách rời khỏi
vũ trụ hình tướng bất toàn này, nhưng đã ở ngay trong lòng biến dịch; đã đứng
chờ ngay ở cửa lòng con người và gõ và chờ cho phàm tâm con người dần dà
tìm ra được kho tàng của nó.»
mục đích của khoa luyện đan cũng chính là tìm ra được, Thái cực, được Trời,
được Đạo trong lòng mình.
Tóm lại chương này nói về bản thể của đạo, vô sắc, vô thanh, vô hình, nên

không thể giảng được, gọi tên được. Nhưng nó đầy khắp vũ trụ, là căn nguyên
của vạn vật, hễ giữ được nó là nắm được chân lí mà xử lí được mọi sự vật.

3.2 Chương 15: Hiển Đức

十十十

顯顯
(視視)


視視視視視視, 視視視視, 視視視視視 視視視視視, 視視視視視視視視, 視視
視視; 視視, 視視視視; 視視, 視視視; 視視, 視視視視視; 視視, 視視視; 視視, 視視
視;視視; 視視視視視視視視視視視視? 視視視視視視視視? 視視視視, 視視視視 視
視視視, 視視視視視視視
HIỂN ĐỨC
Cổ chi thiện vi đạo giả, vi diệu huyền thông, thâm bất khả thức. Phù duy bất
khả thức, cố cưỡng vị chi dung. Dự hề, nhược đông thiệp xuyên; do hề, nhược
úy tứ lân; nghiễm hề, kì nhược khách; hoán hề, nhược băng chi tương thích; đôn
hề, kì nhược phác; khoáng hề, kì nhược cốc; hỗn hề, kì nhược trọc. Thục năng
trọc dĩ tĩnh chi từ thanh? Thục năng an dĩ động chi từ sinh? Bảo thử đạo giả, bất
dục doanh. Phù duy bất doanh, cố năng tế nhi tân thành.
視視視
視(dự) 視rụt rè
視(do) 視e ngại, do dự
視(nghiễm) : nghiêm trang
視(phác) : chất phác
視(khoáng) : rộng
Dịch nghĩa:
Người đắc đạo thời xưa tinh tế, mầu nhiệm, thông đạt, sâu xa không thể biết

được. Vì không thể biết được, nên phải miễn cưỡng tả họ như sau:

Họ rụt rè

như mùa đông lội qua sông, nghi ngại như sợ láng giềng bốn bên, nghiêm chỉnh
như một người khách, chảy ra, lưu động như băng tan, dày dặn mộc mạc như gỗ
chưa đẽo, không hư như cái hang, hỗn độn (lờ đờ) như nước đục. Ai có thể
đương đục mà lắng xuống để lần lần trong ra? Ai có thể đương hư tĩnh mà phát
động để lần lần sinh động lên? Người nào giữ được đạo ấy thì không tự mãn. Vì
không tự mãn nên mới bỏ cái cũ mà canh tân được.
Ý nghĩa:


Chương này chứng tỏ các bậc chân nhân đắc đạo đã có từ thượng cổ. Lão
tử cho rằng các ngài là những người siêu việt huyền vi, nan trắc, nên rất khó
hình dung. Tuy nhiên, Lão tử cũng đã phác họa ra chân dung một vị chân nhân
đắc đạo.
Trong chương này đoạn thứ nhì, có người giải thích chữ hoán là giải tán,
chữ thích là tiêu vong; và “hoán hề nhược băng chi tương thích” là diệt tình dục,
lòng thành ra hư không. Chữ hồn (hồn hề kỳ nhược trọc), có người giải thích là
hồn nhiên, bề ngoài tựa như ngu muội. Đoạn cuối: “đương đục mà lắng xuống
để lần lần trong ra” là từ đời sống hỗn trọc ngày nay trở về đạo, “đương hư tĩnh
mà phát động để lần lần sinh động lên”, là ngược lại, từ đạo trở xuống đời sống
hiện tại.
Giọng văn ở chương này khác hẳn các chương trên, giống thể từ phú ở
cuối đời Chiến Quốc nhằm phác họa ra chân dụng của một vị chân nhân đắc
đạo.

3.3 chương 16: Qui Căn


十十十

歸歸
(道道)


道道道,道道道,道道道道,道道道道道道道道道,道道道道道道道道道道,道道道道道道
道道道道道道道道,道道道,道道道道道道道,道道道,道道道,道道道,道道道,道道道,道
道道道道
QUI CĂN
(Lão Tử)
Trí hư cực, thủ tĩnh đốc, vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan phục. Phù vật vân vân, các
phục qui kì căn. Qui căn viết tĩnh, thị vị phục mệnh. Phục mệnh viết thường. Tri
thường viết minh, bất tri thường vọng tác hung. Tri thường dung, dung nãi công,
công nãi toàn, toàn nãi thiên, thiên nãi đạo, đạo nãi cửu, một thân bất đãi.
道道:
道 道(vọng tác): làm càn
道(đãi) : nguy
Dịch nghĩa:
Hết sức giữ được cực hư, cực tĩnh xem vạn vật sinh trưởng ta thấy được qui
luật phản phục (vạn vật từ vô mà sinh ra rồi trở về vô). Vạn vật phồn thịnh đều
trở về căn nguyên của chúng(tức đạo). Trở về căn nguyên thì tĩnh, (tĩnh là bản
tính của mọi vật, cho nên) trở về căn nguyên gọi là “trở về mệnh”. Trở về mệnh
là luật bất biến (thường) của vật. Biết luật bất biến thì sáng suốt, không biết luật
bất biến thì vọng động mà gây hoạ. Biết luật bất biến thì bao dung, bao dung thì
công bình (vô tư), công bình thì bao khắp, bao khắp thì phù hợp với tự nhiên,
phù hợp với tự nhiên thì phù hợp với đạo, hợp với đạo thì vĩnh cửu, suốt đời
không nguy.
Ý nghĩa:
Tách rời khỏi vòng biến dịch, để nhìn xem dòng biến dịch sẽ chuyển hướng về

đâu? Lão tử đã cho thấy vạn sự biến dịch chung qui sẽ trở về cội gốc, mà cội


gốc ấy chính là Trời, là Đạo. Biết được lẽ phản phục, tuần hoàn của Vũ trụ, tức
là bao quát được lẽ Dịch.
Radhakhrishman nói: “Đầu và cuối sẽ ăn khớp với nhau.”
“Lịch trình của lịch sử đã từ thần minh đi xuống, và rồi ra sẽ trở về lại Thần
minh.”
Các môn phái triết học Á đông Ấn Độ hay Trung hoa, cũng đều nhận định rằng:
“Vũ trụ này có trở về tâm, trở về nguồn mới thoát được sự phá tán, suy vong”
Ý nghĩa chương ngày rất rõ: chúng ta phải cực hư tĩnh, bỏ hết thành kiến, tư
dục đi mà nhận xét vũ trụ, sẽ thấy luật “qui căn” của vạn vật: từ vô sinh hữu, rồi
từ hữu trở về vô; hiểu luật thiên nhiên bất biến đó và hành động theo nó thì suốt
đời không bị họa.

3.4 Chương 17: Thuần Phong

道道道

顯顯
(道道)
道道 , 道道道道 ; 道道 , 道道道道 ; 道道 , 道道 ; 道道 , 道道 道道道道道 ,
道道道道 道 道道 , 道道道 道 道道道道 , 道道道道 : 道道道 道

THUẦN PHONG
Thái thượng, bất tri hữu chi; kì thứ, thân nhi dự chi; kì thứ, uý chi; kì thứ, vũ
chi. Tín bất túc yên, hữu bất tín yên. Du hề, kì quí ngôn. Công thành sự toại,
bách tính giai vị: ngã tự nhiên.
視視視
視 視(thái thượng) : bậc chí nhân, thánh đức



視(hạ) : người dân
Dịch nghĩa:
Bậc trị dân giỏi nhất thì dân không biết là có vua, thấp hơn một bực thì dân yêu
quí và khen; thấp hơn nữa thì dân sợ; thấp nhất thì bị dân khinh lờn. Vua không
đủ thành tín thì dân không tin. Nhàn nhã, ung dung (vì vô vi) mà quí lời nói.
Vua công thành, việc xong rồi mà trăm họ đều bảo: “Tự nhiên mình được vậy”.
Ý nghĩa:
Lão tử cho thấy nền chính trị Trung Hoa đã trải qua nhiều thời kỳ, và càng
ngày càng sa đọa, từ thời đại hoàng kim “vô vi nhi trị” 道 道 道 道 xuống dần mãi
cho tới thời kỳ hữu vi 道 道 dùng bá đạo trị dân.
Để dễ bề khảo sát, ta có thể chia nền chính trị Trung Hoa thành nhiều thời kỳ
như sau:
1. Trước thời Tam Hoàng 道 道 và thời Tam Hoàng (khoảng 2800 trở về trước)
(Phục Hi 道 道, Thần Nông 道 道, Chúc Dung 道 道). Đó là thời của Vô vi nhi
trị 道 道 道 道.
2. Thời Ngũ Đế 老 老 (2700 - 2200) (Hoàng đế 道 道, Chuyên Húc 道 道, Đế Cốc
[Khốc] 道 道, Nghiêu 道, Thuấn 道). Đó là thời của Đức trị 道 道. Thời này phát
minh ra lễ nhạc, tôn ti trật tự, cung thất, áo xống, thư tịch, xe cộ, cầu đò.
3. Thời Tam Vương 道 道 (2200 - 1000): [Đại Vũ 道 道 (2505-2197); Thành
Thang 道 道 (1766-1753); Vũ Vương 道 道 (1122-1115)]. Đó là thời của Nghĩa
trị 道 道 và Hình phạt 道 道.
4. Thời Ngũ Bá 老 老 (老) (từ 1000 về sau): [Tề Hoàn Công 道 道 道 (683-641);
Tấn Văn Công 道 道 道 (634-626); Tần Mục Công 道 道 (道)道 (673-644); Tống


Tương Công 道 道 道 (649-653); Sở Trang Vương 道 道 道(612-589)]. Đó là thời
của Trí trị 道 道 và Mưu lược 道 道.
- Thời thái thượng tức là thời Tam Hoàng về trước. Thời ấy các bậc chân quân

trị dân bằng phương pháp vô vi, tự nhiên đến nỗi dân như không hay không
biết.
Trang tử viết: “Thời chí đức, không chuộng hiền, không dùng tài; người trên
như cành cây (rủ bóng mà không hay); người dưới như hươu rừng (đến nương
bóng mà không ơn). Các bậc lãnh đạo cư xử đoan chính mà không cho thế là
nghĩa; thương yêu mà không biết đó là nhân; thành thực mà không biết thế là
trung; xử phải mà không biết thế là tín; hoạt động lao tác một cách tự nhiên mà
không mong báo đền. Vì thế nên không có chuyện gì nổi bật, và cũng chẳng có
sử ký.”
Thời buổi vô vi, ở nơi đường cái, dân chúng thường gõ mõ đất mà ca rằng:
“Sáng làm, tối nghỉ, đào giếng để uống, trồng tỉa để ăn, có thấy đâu đức vua reo
rắc đến ta?”
- Kịp đến thời Ngũ Đế, dân chúng ngày càng cảm thấy ảnh hưởng của vua chúa,
và thân vua, khen vua.
- Đến thời Tam Vương, vua chúa đã bắt đầu xa dân, hình phạt đã được bày đặt,
pháp luật đã trở nên chặt chẽ, nên dân chúng đâm ra sợ sệt các nhà lãnh đạo.
- Đến thời Ngũ Bá, vì vua chúa dùng xảo thuật, mưu kế để chiếm nước, đoạt
dân, nên dân bắt đầu khinh khi, không còn mến phục nhà cầm quyền nữa.
Chung qui cũng là vì vua chúa không biết thủ tín đối với dân. Lão tử kết luận
rằng nhà vua cần phải thận trọng trong lời ăn tiếng nói, và phải biết cai trị cho
hết sức khéo léo, tế nhị, đến nỗi khi một công trình gì hoàn tất, dân vẫn tưởng là
do dân làm, chứ không phải do vua chủ xưởng và điều động.
Tóm lại trị dân mà “vô vi” mới tốt, còn đi vào “hữu vi” thì dù ít, dù nhiều cũng
vẫn chẳng hay. Thậm chí Trang tử cho rằng con người bắt đầu sa đọa từ thời


Toại Nhân 道 道 (Toại Nhân đã phát minh ra lửa) và Phục Hi 道 道 (Phục Hi đã
lập ra qui chế hôn phối gia đình).

3.5 Chương 20: Dị Tục


道道道

歸歸
(道道)
道道道道 道 道道道道 , 道道道道 ? 道道道道 , 道道道道 ? 道道道道 , 道道道
道 道 道道道道道道 ! 道道道道 , 道道道道 , 道道道道 ; 道道道道道道道 , 道道道道
道道 , 道道 道道道道道 道 道道道道道 , 道道道道道 ; 道道道道道道道 , 道道道 !
道道道道 , 道道道道 ; 道道道道 , 道道道道 , 道 道道道道 , 道道道道道 道 道道道
道道 , 道道道道道道 道 道道道道道 , 道道道道 道
DỊ TỤC
Tuyệt học vô ưu. Duy chi dữ a, tương khứ kỉ hà? Thiện chi dữ ác, tương khứ
nhược hà? Nhân chi sở úy, bất khả bất úy. Hoang hề kì vị ương tai! Chúng nhân
hi hi, như hưởng thái lao, như xuân đăng đài; ngã độc bạc hề kì vị triệu; như anh
nhi chi vị hài; luy luy hề nhược vô sở qui. Chúng nhân giai hữu dư, nhi ngã độc
nhược di; ngã ngu nhân chi tâm dã tai, độn độn hề! Tục nhân chiêu chiêu, ngã
độc hôn hôn; tục nhân sát sát, ngã độc muộn muộn, đạm hề kì nhược hải, liêu hề
nhược vô chỉ. Chúng nhân giai hữu dĩ, nhi ngã độc ngoan thả bỉ. Ngã độc dị ư
nhân, nhi quí thực mẫu.
道道道


道(duy) : dạ (với ý cung kính)
道(A) : ơi (với ý khinh thường)
道 道(nhược hà) : là bao.
道(hoang) : rộng lớn, hoang vu
道 道(vi ưng) : không bờ bến
道 道(hi hi) : vui vẻ
道 道(luy luy) : nhớn nhác, phờ phạc
道 道(sát sát ): trong trẻo, tinh tường

道(đạm) : lặng lẽ

Dịch nghĩa:
Dứt học thì không lo. Dạ (giọng kính trọng) với ơi (giọng coi thường) khác
nhau bao nhiêu? Thiện với ác khác nhau thế nào? Cái người ta sợ, ta không thể
không sợ. Rộng lớn thay, không sao hết được! Mọi người hớn hở như hưởng
bữa tiệc lớn, như mùa xuân lên đài; riêng ta điềm tĩnh, không lộ chút tình ý gì
như đứa trẻ mới sinh, chưa biết cười; rũ rượi mà đi như không có nhà để về.
Mọi người đều có thừa, riêng ta như thiếu thốn; lòng ta ngu muội, đần độn thay!
Người đời sáng rõ, riêng ta tối tăm; người đời trong trẻo, riêng ta hỗn độn, như
sóng biển nhấp nhô, như gió vèo vèo không ngừng. Mọi người đều có chỗ dùng,
riêng ta ngoan cố mà bỉ lậu. Riêng ta khác người, mà quí mẹ nuôi muôn loài
(tức đạo).
Ý nghĩa:
Chương này Lão tử có ý mô tả sự khác biệt giữa hai lối sống: Lối sống của
thánh nhân; Lối sống của phàm nhân.


Thánh nhân không mấy bận tâm về nền “tục học” vì thấy hiểu rằng trong thế
giới tương đối này, dở hay, giỏi dốt cũng chỉ là như tuồng ảo hóa. Có biết nhẽ
ấy, sẽ thấy lòng được thung dung, khinh khoát.
Tục nhân lo cái gì, thánh nhân lo cái ấy; nhưng tục nhân thì lo đến hốt hoảng
mất tinh thần, còn thánh nhân thì không bao giờ để ngoại cảnh làm xao xuyến
tâm thần.
Phàm nhân chạy theo phù du, ảo ảnh bên ngoài, lao đầu vào những thú ăn chơi,
đài các. Thánh nhân thời sống thanh đạm, bạn bè cùng những thú vui cao khiết
tinh thần, nên thường bị người đời coi là quê kệch, lạc hậu, thoái hóa.
Phàm nhân chạy theo tài lợi, cố súc tích tài lợi; còn thánh nhân thì lại không am
tường những cung cách kiếm tiền.
Phàm nhân tỏ ra sắc sảo, tính toán rạch ròi mọi chuyện thế gian; thánh nhân

không mấy lưu tâm đến thế sự, nên khi lâm sự, thường vụng về, ngây thơ,
không thể có những thủ đoạn gian ngoan, xảo nguyệt.
Xét theo tiêu chuẩn thế tục, thì phàm nhân có vẻ văn minh tân tiến, còn thánh
nhân thời lại có vẻ quê mùa, chất phác, vì một đằng theo rõi thời trang, thời thế;
một đằng sống nội tâm, mà không mấy chú trong đến những hình thức bên
ngoài.
Cái khác biệt của thánh nhân là:
Thánh nhân sống phối kết với Đạo, với Trời, không lìa xa Thiên chân, Thiên
thể, còn phàm nhân thì sống xa Đạo, xa Trời, bị cuốn lôi trong vòng hồng trần
tục lụy.
Câu “quí thực mẫu” của Lão tử toát lại đời sống huyền đồng của các bậc thánh
nhân mọi nơi mọi đời.
Câu này làm ta liên tưởng đến một đoạn sau đây trong quyển Mysticism của
Everlyn Underhill:
Nhà huyền học trực giác được một thế giới siêu nhiên nằm gọn trong biên
cương của lòng sốt mến, và một tâm hồn siêu thoát tục lụy, nhưng hằng khao


khát muốn vươn lên cho tới Tuyệt đối; chỉ vừa lòng khi được sống phối hợp với
Thượng đế. Lúc ấy, theo sự mô tả của Patmore, thánh nhân sẽ như “trẻ thơ còn
ngậm vú mẹ Tạo Hóa” hay như "người tình đã tìm lại được người tình”.


III. KẾT LUẬN
Hơn hai ngàn năm trước, khi thế giới còn rộng bao la, khi con người
còn chất phác, Lão Tử đã kêu gọi con người trở về với lối sống đơn giản mộc
mạc và hài hòa với thiên nhiên. Trước thực tế cuộc sống ngày nay những lời kêu
gọi này càng có ý nghĩa hơn và khẩn thiết hơn. Chính vì thế mà Đạo Đức Kinh
càng ngày càng có nhiều độc giả trên khắp thế giới Âu- Mỹ. Và Đạo Đức Kinh
từ lâu không phải là một tác phẩm xa lạ và độc giả thế giới. Đối với tác phẩm

này, trong những năm qua đã có rất nhiều tác giả không chỉ là tác giả Việt Nam
và các tác giả trên thế giới cũng đều bắt tay vào nghiên cứu, dịch thuật. Ở Việt
Nam, trong thời gian vừa qua chúng ta cũng đã có 4, 5 bản dịch Việt ngữ. Tuy
nhiên phần lớn độc giả không đọc thẳng vào chính văn mà chỉ đọc lời bàn mênh
mông huyền bí của các dịch giả. Có lẽ vì thế nhiều người thường có thái độ sai
lầm về Đạo Đức Kinh. Nhưng mục đích Lão Tử viết Đạo Đức Kinh là nhắm vào
giới ưu tú (vương hầu, quân tử, thánh nhân). Đạo Đức Kinh là tác phẩm dạy lối
sống cao thượng và thuật lãnh đạo chỉ huy cho tầng lớp lãnh đạo ngày xưa gọi
là quân tử, vương hầu. Đạo Đức Kinh muốn giúp người lãnh đạo trở thành một
kiến trúc sư tài năng. Về hình thức, Đạo Đức Kinh là một thi phẩm với câu thơ
ngắn gọn, thường có vần và có nhịp điệu làm người đọc thú vị.
Đạo Đức Kinh của Lão Tử là một trong các tác phẩm nổi tiếng của
nhân dân Trung Hoa, nó đã để lại những bài học triết lý sâu sắc cho người đọc.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Tập thể giáo viên khoa tiếng Trung trường Đại học ngoại ngữ Huế (2011),
Giáo trình hán ngữ cổ đại.
[2] Nguyễn Hiếu Lê,Lão Tử và Đạo Đức Kinh,NXB Tổng Hợp Thành phố Hồ
Chí Minh.
[3] />[4] />[5] />[6] />%C4%90%E1%BA%A1o_%C4%91%E1%BB%A9c_kinh


MỤC LỤC


ĐẠI HỌC HUẾ
ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ
KHOA TIẾNG TRUNG


TIỂU LUẬN
(HÁN NGỮ CỔ ĐẠI)
Đề tài:
TÌM HIỂU VỀ TÁC GIA LÃO TỬ VÀ MỘT SỐ CHƯƠNG TRONG
ĐẠO ĐỨC KINH

Giảng viên giảng dạy: Ths. Liêu Vĩnh Dũng
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Nhàn
MSSV: 1275410088
Lớp: Trung TMK9
Môn: Hán ngữ cổ đại
Nhóm: 2

Huế, tháng 12/2015


×